CHIẾN LƯỢC MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN <br />
QUỐC TẾ<br />
<br />
Các dạng chiến lược mở rộng thị trường theo các nước và các đoạn thị trường<br />
<br />
Đây là chiến lược mở rộng thị trường quốc tế của công ty dựa vào 2 “trục” phát triển là thị <br />
trường nước và đoạn thị trường trong mối quan hệ với số lượng sản phẩm. Chính từ đó, sự <br />
kết hợp giữa hai khả năng này đã đưa ra 4 sự lựa chọn chiến lược cho các công ty.<br />
Bốn chiến lược đó có thể được tập trung mô tả như sau:<br />
<br />
Chiến lược (1) tập trung vào một số ít sản phẩm trên một số ít thị trường. Đây là tình <br />
trạng điển hình cho việc khởi đầu hoạt động xuất khẩu của các công ty. Nó cho phép <br />
làm thích ứng các nguồn lực của công ty với nhu cầu đầu tư của thị trường. Trừ khi là <br />
các công ty lớn có nguồn tài lực mạnh mẽ, chiến lược này là phương tiện khả thi nhất <br />
để khởi đầu tham gia vào thị trường quốc tế.<br />
<br />
Chiến lược (2) tập trung vào một số nước và đa dạng hoá các đoạn, tức là tấn công <br />
vào nhiều đoạn thị trường của một số ít các nước. Đó là trường hợp của nhiều công ty <br />
châu Âu vẫn hoạt động ở châu Âu và tìm cách tăng trưởng thông qua việc phát triển <br />
trên các đoạn thị trường mới. Đó cũng là tiếp cận của một số công ty Mỹ quyết định <br />
đa dạng hoá ngay tại Mỹ hơn là trở thành công ty quốc tế với những sản phẩm hiện <br />
tại.<br />
<br />
Chiến lược (3), đa dạng hoá theo nước và tập trung trên một số đoạn thị trường, là <br />
chiến lược toàn cầu cổ điển của các công ty tìm kiếm sản phẩm cho toàn thế giới và <br />
hướng tới người tiêu dùng cuối cùng. Bằng cách bán cho khách hàng toàn cầu, công ty <br />
có thể đạt được một khối lượng bán cộng dồn nhiều hơn và mức chi phí thấp hơn so <br />
với các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược này cũng có thể cho phép công ty đáp ứng <br />
được nhu cầu rất riêng biệt của một nhóm người tiêu dùng.<br />
Chiến lược (4), đa dạng hoá các nước các đoạn thị trường và các sản phẩm, là chiến <br />
lược của các công ty đa quốc gia lớn. Các công ty này có mặt trên toàn thế giới và tập <br />
hợp nhiều đơn vị độc lập. Tuy nhiên, cần ghi nhận là về mặt nghiệp vụ, việc quản trị <br />
được tập trung theo nhu cầu của người tiêu dùng thế giới trên một thị trường toàn cầu. <br />
Nó tương ứng với chiến lược 3.<br />
Theo cách tiếp cận trên, cần phải nhận thấy rằng ở mỗi cấp độ hoạt động, các nhà quản lý <br />
nên tập trung vào nhu cầu của từng đối tượng khách hàng trong mỗi thị trường cụ thể.<br />
Mở rộng thị trường theo hướng phát triển vị thế thị trường<br />
<br />
Số lượng ngày càng tăng các công ty trên thế giới khiến cho mỗi công ty ngày càng nhận ra <br />
tầm quan trọng của thị phần không chỉ ở trong nước mà còn ở trên thị trường thế giới. Nếu <br />
như trước đây hiệu quả hoạt động của các công ty khá độc lập với nơi sản phẩm được bán <br />
ra, thì ngày nay các thị trường trong và ngoài nước có tầm quan trọng như nhau trong việc xác <br />
định sản lượng hàng bán và các chi phí bỏ ra.<br />
Giá trị của học thuyết kinh nghiệm trong việc định giá trên thực tế là rất sâu sắc. Theo đó, <br />
giá xuất khẩu càng thấp thì sự xâm nhập của công ty vào thị trường ngoại quốc càng nhanh <br />
hơn và làm cho các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn không còn chỗ đứng trên thị trường. Cùng lúc <br />
đó nếu một nhà sản xuất chiếm ưu thế sẽ thu được lợi nhuận từ một thị phần lớn tại thị <br />
trường trong nước bằng cách duy trì một tỷ suất lợi nhuận tại mức có thể ổn định các thị <br />
phần ở các thị trường khác.<br />
Chiến lược tạo vị thế thị trường được thực hiện qua việc làm thất bại các đối thủ cạnh <br />
tranh tiềm ẩn cả trong và ngoài nước, song có cơ sở xuất phát từ thị trường trong nước. Điều <br />
này cho phép các công ty tài trợ vốn cho các hoạt động phát triển của mình ở nước ngoài từ <br />
các nguồn thu tại thị trường trong nước.<br />
Nếu như một công ty nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước của một hãng, thì hãng <br />
này nên hạ thấp giá sản phẩm của mình ở trong nước. Tại nhiều nước, điều này lại gây ra <br />
một vài vấn đề khá rắc rối cho các nhà sản xuất lớn, bởi chính sách giảm giá hàng hoá trong <br />
nước sẽ trực tiếp gây ra tác động đối với các nhà xuất khẩu vừa và nhỏ và do vậy sẽ vi <br />
phạm luật chống độc quyền của chính phủ đó, vấn đề trên đã đưa lại một chính sách định <br />
giá cao cho các nhà sản xuất trong nước và làm cho các chiến lược của các đối thủ cạnh <br />
tranh đối với các công ty Mỹ mang tính khả thi hơn.<br />
Song đối với các nhà sản xuất nhỏ, chuyên sản xuất một mặt hàng, thì các chương trình <br />
mang tính chiến lược được đề xướng là nên tiến hành đầu tư trong cả quá trình sản xuất <br />
cũng như phát triển và bảo dưỡng sản phẩm. Để từ đó đi tới việc chiếm ưu thế đối với thị <br />
trường nước ngoài bằng cách mở rộng và nắm giữ các phân đoạn thị trường mới, với chi phí <br />
mang tính cạnh tranh cao từ các phân đoạn thị trường đã được thiết lập ban đầu. Đối với <br />
những mặt hàng này, hoạt động xuất khẩu thường bị phản đối một cách tuyệt đối với mục <br />
đích duy trì sức mạnh cạnh tranh.<br />
Do đó, những hãng sản xuất loại này luôn cần một chiến lược và một hệ thống marketing <br />
đối với thị trường nước ngoài. Những chiến lược và hệ thống này phải hướng tới việc làm <br />
giảm chi phí của các hoạt động marketing tại các thị trường đó, thông qua việc thiết lập các <br />
hệ thống cung ứng liên kết và đồng thời nó cũng phải vạch ra các chương trình marketing <br />
trong nước, nhằm thiết lập nên một chương trình marketingmix tổng thể.<br />
Chiến lược mở rộng thị trường gắn liền với quá trình quốc tế hóa của hãng<br />
<br />
Qúa trình phát triển của một tập đoàn xuyên quốc gia bao gồm năm giai đoạn: phát triển từ <br />
trong nước ra quốc tế, đa quốc gia, toàn cầu và xuyên quốc gia. Mặc dù sự khác biệt trong <br />
mỗi thời kỳ là quá rõ nét, song việc sử dụng các thuật ngữ để miêu tả mỗi thời kỳ phát triển <br />
vẫn chưa đi đến sự thống nhất chung.<br />
Bản thân sự khác biệt giữa một công ty trong nước và một công ty quốc tế là: Các công ty <br />
quốc tế có phạm vi hoạt động trên rất nhiều nước. Tuy nhiên, cũng giống như các công ty <br />
trong nước, các công ty quốc tế vẫn có xu hướng hướng về thị trường ở trong nước, song nó <br />
vẫn tìm kiếm các cơ hội thị trường và thực hiện các công việc kinh doanh ở nước ngoài. Sự <br />
thay đổi đầu tiên trong xu hướng phát triển này cũng diễn ra khi một công ty mở rộng phạm <br />
vi hoạt động của mình để trở thành một công ty đa quốc gia, khi nó chuyển từ định hướng <br />
nội địa sang định hướng đa biên. Sự khác biệt là khá rõ ràng.<br />
Đối với các công ty đang ở trong giai đoạn một với định tâm nội địa thường cố gắng mở <br />
rộng các sản phẩm và hoạt động của mình ra nước ngoài. Sự khiếm khuyết của các công ty <br />
này là ở chỗ nó thường nhìn nhận những điểm tương đồng giữa các quốc gia ngoài nước và <br />
trong nước dễ dàng hơn là những điểm khác biệt. Đối với các công ty đa quốc gia thì lại <br />
ngược lại, có thể nhận ra được sự khác biệt, song các điểm tương đồng lại chỉ là tương đối. <br />
Điểm mấu chốt trong giai đoạn phát triển đa quốc gia của một công ty là việc nó phải thích <br />
ứng với sự khác biệt ở các quốc giai khác.<br />
Các công ty toàn cầu có thể coi là một hình thức giới hạn của các công ty xuyên quốc gia. Xu <br />
hướng phát triển của các công ty này là khá phức tạp và mang tính tổng thể. Trong đó, công <br />
ty quản lý được tập trung vào việc phát triển các thị trường toàn cầu hay việc khai thác các <br />
nguồn lực toàn cầu, hoặc cả hai vấn đề đó.<br />
Xu hướng phát triển vẫn tiếp diễn khi một công ty chuyển sang giai đoạn xuyên quốc gia. <br />
Đối với các công ty trong giai đoạn này, công tác quản lý không còn bị giới hạn theo một <br />
điểm khác biệt hay sự tương đồng, mà nó được tập trung theo một chỉnh thể. Điều đó có <br />
nghĩa rằng các công ty sẽ nỗ lực tiêu thụ các sản phẩm của mình cũng như khai thác các <br />
nguồn lực trên phạm vi toàn cầu trong đó bao gồm cả nhân lực, tài nguyên, nguyên vật liệu…<br />
Trong giai đoạn thứ hai, kế hoạch cung ứng sản phẩm điển hình là thông qua hoạt động xuất <br />
khẩu. Giai đoạn ba, kế hoạch được sử dụng thường xuyên và thích hợp nhất chính là sản <br />
xuất ngay tại nội địa. Còn ở giai đoạn cuối, kế hoạch này được dựa trên sự cân nhắc tính <br />
toán về chi phí chuyển giao, cũng như tất cả các yếu tố khác có ảnh hưởng tới sự tối đa hóa <br />
sức cạnh tranh và khả năng lợi nhuận của công ty. Trong giai đoạn hai, các công việc sản <br />
xuất cốt yếu trong quá trình sản xuất được tiến hành tại các chi nhánh và trụ sở tại chính <br />
quốc. Ở giai đoạn ba, các công việc này được thực hiện ở chính quốc và sau đó lại được <br />
chuyển giao sang các quốc gia khác, với trụ sở chính của công ty đóng tại một số nước. <br />
Trong giai đoạn cuối cùng, các công ty thường tuyển dụng các cá nhân kiệt xuất để thực <br />
hiện công việc quản lý mà không cần quan tâm tới quốc tịch của họ. Các tiêu chuẩn về quản <br />
lý cũng như đo lường ở giai đoạn hai thông thường được dựa trên các tiêu chuẩn của công ty <br />
ở chính quốc, trái lại ở giai đoạn ba các tiêu chuẩn này được phi tập trung hóa ở cấp độ cao. <br />
Còn trong giai đoạn năm, các tiêu chuẩn này được xác định một cách linh hoạt nhằm phù hợp <br />
với các điều kiện cụ thể ở từng khu vực.<br />