CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ MỐC SON TRONG LÃNH ĐẠO <br />
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA<br />
<br />
<br />
THS VŨ THÁI DŨNG <br />
<br />
<br />
Cho đến trước khi chiến cuộc Đông Xuân 19531954 và chiến dịch Điện <br />
Biên Phủ diễn ra, cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ của nhân dân Việt <br />
Nam đã sang năm thứ tám. Bước vào giai đoạn cuối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng <br />
Trung ương Đảng đa xác đ<br />
̃ ịnh đúng đắn phương hướng chiến lược nhằm đánh <br />
bại nỗ lực quân sự cao nhất và cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, <br />
làm nên một “thiên niên sử vàng” của dân tộc ta trong thế kỷ XX, đưa cuộc <br />
kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng. Chiến thắng lịch <br />
sử Điện Biên Phủ trở thành mốc son trong lãnh đạo cách mạng giải phóng dân <br />
tộc của Đảng ta.<br />
<br />
Sau Cách mạng tháng Tám không lâu, ngày 2391945, thực dân Pháp đã nổ <br />
súng gây hấn, trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, hòng đưa dân tộc ta trở lại <br />
kiếp sống nô lệ. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp <br />
là cuộc đấu tranh để bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám, để hoàn <br />
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trên cơ sở thực tế chiến trường và tương <br />
quan lực lượng giữa hai bên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí <br />
Minh đã lãnh đạo nhân dân ta “hóa giải” thành công lần lượt những âm mưu và <br />
chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp.<br />
Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh với quy mô lớn và tham vọng “chỉ trong <br />
ba tuần lễ” “sử dụng quả đấm mà đập tan được cơ quan đầu não của lực lượng <br />
Việt Minh”1 ở Việt Bắc của thực dân Pháp đã nhanh chóng bị thất bại bởi chiến <br />
thắng của quân và dân ta vào Thu Đông 1947. Thất bại này là báo hiệu cho sự <br />
sa lầy của quân đội Pháp ở Việt Nam. “Đó là sự sa lầy ở hai mặt. Quân sự thì ở <br />
*<br />
Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh<br />
1<br />
Daniel Hémery: Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam, Nxb Phụ nữ, 2004, tr.75<br />
<br />
<br />
1<br />
trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược nan giải của ban tham mưu, bị <br />
kẹt giữa việc lựa chọn một chiến lược bàn cờ, một cuộc chiến tranh đồn bốt <br />
làm phân tán lực lượng của đối phương và ngăn chặn mọi cuộc tiến công có <br />
tính quyết định, và phương án lựa chọn nghiêng về một cuộc chiến tranh vận <br />
động bế tắc với chiếm đóng đất đai thực sự. Chính trị thì ở trong sự lựa chọn <br />
không thể thực hiện được giữa theo đuổi ý đồ thuộc địa kiểu mới đối với Liên <br />
bang Đông Dương, ý đồ ngăn chặn mọi sự thỏa hiệp với chủ nghĩa dân tộc Việt <br />
Nam, với thừa nhận nền độc lập, thừa nhận quá trình phi thực dân hóa có hiệu <br />
quả đi ngược với dự án lớn về thuộc địa kiểu mới của khối Liên hiệp Pháp”1.<br />
Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới năm 1950 đã khiến xu thế trên ngày càng <br />
trở nên rõ ràng. Những con mắt quan sát khách quan cho rằng, đây thực sự là “sự <br />
bại trận kinh khủng của quân đội viễn chinh Pháp ở Viễn Đông”, thực dân Pháp <br />
“từ nay không thể chiến thắng được nữa”. Đối với Việt Nam, thắng lợi này đã <br />
tạo ra một chuyển biến cơ bản cho cuộc kháng chiến, đưa kháng chiến bước <br />
vào giai đoạn mới, giai đoạn ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến <br />
trường chính Bắc Bộ, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch.<br />
Trước khi bước vào chiến cuộc Đông Xuân 19531954 và diễn ra chiến dịch <br />
Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã nỗ lực để tìm lại thế chủ động trên chiến <br />
trường chính Bắc Bộ. Thế nhưng, kể từ sau Chiến dịch Biên giới 1950, đặc biệt <br />
là từ sau Chiến dịch Hòa Bình (19511952), Chiến dịch Tây Bắc (1952), Chiến <br />
dịch Thượng Lào (1953), cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương ngày <br />
càng chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân <br />
ta, bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mỹ2. Về cơ bản, chúng ta đã nắm <br />
được quyền chủ động, đẩy địch lâm vào thế bị động và ngày càng lún sâu vào <br />
tình trạng bị động không thoát ra được. <br />
<br />
<br />
1<br />
Daniel Hémery: Sđd, tr. 76<br />
2<br />
Bắt đầu từ chiến dịch Hòa Bình, quân đội ta đã bắt đầu tấn công vào những căn cứ quân sự mang có <br />
tính chất của tập đoàn cứ điểm đầu tiên ở chiến trường Bắc Bộ. Qua những trận đánh đầu tiên ở Hoà <br />
BÌnh, Nà Sản, chúng ta hoàn toàn có thể đánh những tập đoàn cứ điểm như Điện Biên Phủ về sau này, <br />
nếu như chúng ta có phương hướng chiến lược phù hợp và sự chuẩn bị kỹ càng.<br />
<br />
<br />
2<br />
Càng cố gắng, chúng càng rơi vào tình thế khó khăn, nguy khốn. Quân đội <br />
viễn chinh Pháp đang mắc kẹt vào mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực <br />
lượng, giữa tiến công ra vùng tự do và phòng ngự ở vùng chúng đang kiểm soát, <br />
giữa tập trung ra miền Bắc và phân tán chiếm đóng ở miền Nam, giữa bảo vệ <br />
đồng bằng Bắc Bộ và bảo vệ Thượng Lào. Quân địch thiếu hẳn một đội quân <br />
cơ động đủ mạnh để đối phó với lực lượng vũ trang của ta trên khắp các chiến <br />
trường. Cùng với đó, chi phí chiến tranh “đổ vào” Đông Dương ngày một tăng <br />
quá sức chịu đựng của ngân sách nước Pháp.<br />
Nguy khốn về quân sự, chính trị và khó khăn về kinh tế đặt thực dân Pháp <br />
trước tình thế “lửa cháy hai đầu”: hoặc bị nhân dân Đông Dương đánh bại, hoặc <br />
bị Mỹ thay thế. Thế nhưng, với chính sách phản động và bảo thủ, thực dân Pháp <br />
chủ trương tranh thủ thêm viện trợ của Mỹ1, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh <br />
và mở rộng chiến tranh bằng cách tăng cường lực lượng để giành lại thế chủ <br />
động chiến lược trên chiến trường Đông Dương, hòng tìm ra lối thoát “ danh <br />
dự”.<br />
Đây là lý do Pháp cử Hăngry Nava sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn <br />
chinh ở Đông Dương và sự ra đời của kế hoạch Nava vào mùa Hè năm 1953. <br />
H.Nava đã vạch ra một kế hoạch toàn diện, có hệ thống, với nhiệm vụ trung <br />
tâm là tới năm 1954 tổ chức được một khối chủ lực tác chiến gấp ba lần số <br />
binh đoàn hiện có. Kế hoạch này thể hiện tham vọng: trong 18 tháng “chuyển <br />
bại thành thắng” của thực dân Pháp. Kế hoạch Nava được thực hiện qua hai <br />
bước: Bước thứ nhất, trong Thu Đông 1953 và Xuân 1954, giữ vững thế phòng <br />
ngự ở miền Bắc; thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam, miền Trung; xoá <br />
bỏ vùng tự do Liên khu V. Bước thứ hai, từ Thu Đông 1954, sau khi đã hoàn <br />
1<br />
Chính sách phản động và bảo thủ của thực dân Pháp phù hợp với mục tiêu chiến lược của Mỹ đối <br />
với Đông Dương là thay hẳn Pháp. Vì thế, viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp ngày càng tăng. Năm <br />
1952, viện trợ của Mỹ cho cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương là 200 /565 tỷ phrăng (chiếm <br />
35,4% chi phí chiến tranh của thực dân Pháp), thì sang năm 1953, con số tương ứng là 285/650 tỷ <br />
phrăng (chiếm 43,8%) và năm 1954, năm cuối cùng của cuộc chiến là 555/751 tỷ phrăng (chiếm <br />
73,9%). <br />
Xem Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam <br />
(1945 1975) Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2000, tr. 498 và tr. 500.<br />
<br />
<br />
3<br />
thành những mục tiêu nêu trên, sẽ chuyển sang tiến công chiến lược miền Bắc, <br />
giành thắng lợi quân sự to lớn, buộc Việt Minh phải đàm phán theo những điều <br />
kiện có lợi cho chúng. <br />
Tháng 11953, thời điểm H.Nava chưa sang Đông Dương và kế hoạch Nava <br />
chưa được hình thành, Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng <br />
khóa II đã xác định “Phương hướng chiến lược của ta là tạm thời “tránh chỗ <br />
mạnh, đánh chỗ yếu” để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở <br />
rộng vùng tự do... quân đội ta phải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ <br />
điểm ngày càng mạnh của địch”1.<br />
Hội nghị đã nhận định, do tình hình phát triển không đều của lực lượng ta <br />
trên các chiến trường Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ cho nên đại bộ phận chủ <br />
lực của địch đã dần dần tập trung ra Bắc Bộ (2/3 số quân ở Đông Dương), trong <br />
lúc đó thì các chiến trường khác địch còn nhiều sơ hở. Ở Bắc Bộ thì lực lượng <br />
của chúng ở đồng bằng, còn ở chiến trường miền núi thì chúng tương đối yếu <br />
hơn, điều kiện địa hình ở đó lại có lợi cho ta, không có lợi cho địch.<br />
Vì thế, Hội nghị chỉ đạo: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào <br />
những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt <br />
một bộ phận sinh lực của địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị <br />
động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng <br />
không thể bỏ; tạo điều kiện thuận lợi để ta tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh <br />
lực địch, từ đó đạt được mục đích đánh chắc, ăn chắc, mở rộng vùng tự do.<br />
Đây là cơ sở để đến đầu tháng 101953, Bộ Chính trị họp bàn về nhiệm vụ <br />
quân sự Đông Xuân 19531954 tại Tỉn Keo (Việt Bắc) đã xác định: “Sử dụng <br />
một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào hướng địch sơ hở, đồng <br />
thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào <br />
vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến <br />
trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân <br />
<br />
1<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 14 (1953), Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, <br />
2001, tr.130<br />
<br />
<br />
4<br />
dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh <br />
tay làm nhiệm vụ”1. <br />
Cùng với các hướng tiến công khác trên khắp chiến trường Đông Dương, <br />
Tây Bắc, một trong những nơi xung yếu, quan trọng không thể không giữ nhưng <br />
địch lại có nhiều sơ hở, được Bộ Chính trị xác định là hướng tiến công chính <br />
của ta trong chiến cuộc Đông Xuân 19531954. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng <br />
định: “Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là <br />
hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động <br />
có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa”2. <br />
Theo phương huớng chiến lược và chủ trương tác chiến đó, Bộ Chính trị đã <br />
ra nghị quyết thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 19531954, giữ vững <br />
quyền chủ động, đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, <br />
phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông Dương. Những <br />
quyết định của Bộ Chính trị vào đầu tháng 101953 đã mở đường đi tới thắng <br />
lợi lịch sử trong Đông Xuân 19531954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.<br />
Theo kế hoạch tác chiến đã định, giữa tháng 111953, bộ đội chủ lực của ta <br />
bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc, một bộ phận tiến công sang Trung Lào phối hợp <br />
chiến đấu với Quân giải phóng Lào. Trước động thái của ta, lực lượng của địch <br />
ở Tây Bắc và Điện Biên Phủ bắt đầu có sự thay đổi. Ngày 3121953, H.Nava <br />
cho tăng cường lực lượng phòng giữ Điện Biên Phủ từ 6 tiểu đoàn bộ binh lên <br />
thành 9 tiểu đoàn và tăng cường thêm 3 tiểu đoàn pháo binh, về sau còn tiếp tục <br />
tăng thêm để xây dựng điểm này trở thành “pháo đài bất khả xâm phạm”3; “chấp <br />
nhận chiến đấu với Việt Minh trên chiến trường Tây Bắc” 4 (ý nói Điện Biên <br />
1<br />
Dẫn theo Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranhtrực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến <br />
chống thực dân PhápThắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, tr.192193 <br />
2<br />
Võ Nguyên Giáp: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi , Ban KHXH Thành <br />
ủy Tp. Hồ Chí Minh, 1991, tr.77<br />
3<br />
Lúc đầu, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với ý đồ ngăn chặn quân ta tấn công sang Thượng Lào, <br />
xây dựng một căn cứ quân sự để sau khi ta mệt mỏi thì từ Điện Biên Phủ tấn công chiếm lại Tây Bắc. <br />
Nhưng sau đó, do nhận định Điện Biên Phủ đối với ta quá xa hậu phương, tiếp tế khó khăn, sử dụng <br />
lực lượng có hạn và không thể dùng pháo cơ giới, nên H.Nava chấp nhận giao chiến với ta ở Điện <br />
Biên Phủ. <br />
4<br />
Bản chỉ thị của H.Nava vào ngày 3121953<br />
<br />
<br />
5<br />
Phủ) với mong muốn “Điện Biên Phủ sẽ chống lại được cuộc tiến công của <br />
Việt Minh” nhằm tránh giao chiến ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời bảo vệ <br />
được Thượng Lào1. <br />
Địch chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược với ta thì ta <br />
cũng lựa chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược với địch. <br />
Ngày 6121953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và <br />
nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân uỷ. Đại tướng Võ <br />
Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tổng Tư lệnh quân đội, được chỉ <br />
định trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí <br />
Minh chỉ thị cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch này là một chiến dịch <br />
rất quan trọng không những về quân sự mà cả về quốc tế. Vì vậy, toàn quân, <br />
toàn đân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”2. Và trước khi ra <br />
trận, Người lại căn dặn: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc <br />
thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”3.<br />
Điện Biên Phủ trở thành “nút thắt” quyết định thắng lợi của ta trong chiến <br />
cuộc Đông Xuân 19531954 và trong cả cuộc kháng chiến. Theo Đại tướng Võ <br />
Nguyên Giáp: “Tập đoàn cứ điểm trở thành một biện pháp phòng ngự cao nhất <br />
của địch, có ý nghĩa chiến lược, mà ta không thể không đánh nếu muốn đưa <br />
cuộc kháng chiến tiến lên”4.<br />
<br />
<br />
1<br />
Thừa nhận của H.Nava trong một bức thư gửi Thống chế Juin ngày 14 tháng 12 năm 1953: “Đây là <br />
điều nhẹ nhõm đối với tôi vì nếu xảy ra chiến trận tại vùng châu thổ sông Hòng thì tôi không biết sẽ <br />
phải làm gì để có thể chống lại 5 sư đoàn chủ lực Việt Minh, được yểm trợ bởi súng cối loại nặng <br />
120mm, Bazooka 90, pháo 75 và 105 mm, phối hợp tác chiến với khoảng từ 75 đến 80.000 bộ đội địa <br />
phương và dân quân du kích các loại đã thâm nhập vào bên trong các tuyến phòng ngự của Pháp”. <br />
Bản thân Thống chế Juin cho rằng: “Nếu để mất Thượng Lào sẽ dẫn đến những hậu quả không sao <br />
kể hết về mặt chính trị… Từ đó, cộng sản sẽ có thể thâm nhập vào Thái Lan mà không gặp khó khăn <br />
trở ngại nào. Chính phủ Bang Kok sẽ có thể sụp đổ như một toà lâu đài làm bằng những quân bài, <br />
trước sức ép của cộng sản. Chính phủ Campuchia cũng bị ảnh hưởng, dẫn đến hậu quả là công cuộc <br />
bình định ở Việt nam sẽ lại bị đảo lộn” (Theo Jean Pougettác giả cuốn NAVARRE với Điện Biên Phủ. <br />
Nguyên bản tiếng Pháp “Nous étions à Dien Bien Phu”, Nhà xuất bản Presses de la Cité)<br />
2<br />
Dẫn theo Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranhtrực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến <br />
chống thực dân PhápThắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, tr. 202<br />
3<br />
Võ Nguyên Giáp: Sđd, tr. 79<br />
4<br />
Võ Nguyên Giáp: Sđd, tr. 82<br />
<br />
<br />
6<br />
Điện Biên Phủ không phải là sự lựa chọn cụ thể vào ban đầu, “chưa được <br />
đề cập” trong suy tính của các chiến lược gia quân sự Pháp và Mỹ. Song, chính <br />
sự bị động đối phó trong việc cố gắng giành lại thế chủ động và kéo dài chiến <br />
tranh mà địa điểm này được lựa chọn đưa vào kế hoạch Nava. Tuy nhiên, sự lựa <br />
chọn này của địch lại khẳng định tính chủ động, linh hoạt trong quá trình xây <br />
dựng phương hướng chiến lược chiến cuộc Đông Xuân 19531954 của Trung <br />
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là: chuẩn bị đánh vào những nơi địch <br />
tập trung lực lượng mạnh nhằm tiêu diệt sinh lực địch, quyết tâm quyết chiến <br />
với địch tại Điện Biên Phủ “một tập đoàn cứ điểm mạnh”. Theo Đại tướng <br />
Võ Nguyên Giáp: “Trong kế hoạch Nava cũng như đề án hoạt động Đông Xuân <br />
của ta chưa hề xuất hiện ba chữ: “Điện Biên Phủ”. Tuy nhiên, số phận của <br />
Nava đã được định đoạt từ cuộc họp ở Tỉn Keo”1.<br />
Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 1331954 và kết thúc thắng lợi <br />
vào ngày 751954. Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu kiên cường, trên nền tảng <br />
nắm vững tính chất của toàn bộ cuộc kháng chiến và phương hướng chiến lược <br />
được đề ra trong chiến cuộc Đông Xuân 19531954, cùng với sự lãnh đạo của <br />
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên <br />
Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, góp phần quyết định vào thành <br />
công của Hội nghị Giơnevơ, đưa cách mạng giải phóng dân tộc của nước ta <br />
bước vào giai đoạn mới./.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Võ Nguyên Giáp: Sđd, tr. 77<br />
<br />
<br />
7<br />