intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp

Chia sẻ: Nhi Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

104
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp (1821–1829), cũng được biến đến với tên gọi Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση Elliniki Epanastasi; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان ئسياني Yunan İsyanı), là cuộc cách mạng của nhân dân Hy Lạp nằm dưới sự cai trị của đế quốc Ottoman, nhằm mục đích giành độc lập khỏi Thổ. Sau một cuộc đấu tranh lâu dài và đẫm máu, với sự giúp đỡ của các cường quốc Âu châu, cuối cùng Hy Lạp cũng giành được độc lập sau bản Hiệp ước Constantinopolis vào tháng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp

  1. Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp Một phần của Các cuộc chiến tranh giành độc lập Đức Cha Germanos ban phước lành cho lá cờ Hy Lạp tại Agia Lavra. Tranh sơn dầu của Theodoros Vryzakis, năm 1865.
  2. . 1821 – 1829 Thời gian Bán đảo Balkan (chủ yếu là Hy Lạp) và biển Aegea Địa điểm Thắng lợi của cách mạng Hy Lạp, thành lập Vương quốc Hy Kết quả Lạp. Đế quốc Ottoman mất lãnh thổ Hy Lạp. Tham chiến Quân khởi nghĩa Hy Đế quốc Ottoman Lạp Ai Cập Anh Quốc Pháp Đế quốc Nga
  3. Chỉ huy Alexander Ypsilanti Mahmud II Theodoros Omer Vryonis Kolokotronis Mahmud Dramali Pasha † Reşid Mehmed Pasha Constantine Kanaris Georgios Ibrahim Pasha Karaiskakis † Lực lượng 100.000 quân Hy Lạp 400.000 quân Ottoman [cần d ẫn nguồn] [cần d ẫn nguồn] 12.000 quân Ai Cập 5.500 quân liên minh [cần d ẫn nguồn] Anh, Pháp, Nga Tổn thất 50.000 quân Hy Lạp, 181 115.000 quân Ottoman; 5.000 quân Ai Cập[cần dẫn nguồn] quân Anh, Pháp và Nga [cần d ẫn nguồn] .
  4. Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp (1821–1829), cũng được biến đến với tên gọi Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ελληνική ‫ ﺋﺴ‬Yunan İsyanı), Επανάσταση Elliniki Epanastasi; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: ‫ﯿﺎﻧﻲ ﯾﺆﻧ ﺎن‬ là cuộc cách mạng của nhân dân Hy Lạp nằm dưới sự cai trị của đế quốc Ottoman, nhằm mục đích giành độc lập khỏi Thổ. Sau một cuộc đấu tranh lâu dài và đẫm máu, với sự giúp đỡ của các cường quốc Âu châu, cuối cùng Hy Lạp cũng giành được độc lập sau bản Hiệp ước Constantinopolis vào tháng 7 năm 1832. Như vậy người Hy Lạp là dân tộc đầu tiên dưới quyền cai trị của đế quốc Ottoman giành được tự do với tư cách là một vương quốc độc lập có chủ quyền. Lễ kỷ niệm ngày độc lập (25 tháng 3 năm 1821) là ngày quốc khánh ở Hy Lạp, trùng với ngày lễ truyền tin của Đức mẹ Mary. Mục lục 1 Bối cảnh  1.1 Người Hy Lạp dưới Đế quốc Ottoman o 1.2 Chiến binh Klepht và Armatoloi o 1.3 Chuẩn bị cho cuộc nổi dậy o 2 Tư tưởng ái mộ Hy Lạp  3 Cách mạng bùng nổ  3.1 Cách mạng tại các Công quốc Danube o 3.2 Cách mạng tại bán đảo Peloponnese o
  5. 3.3 Cách mạng tại miền Trung Hy Lạp o 3.4 Cách mạng tại đảo Crete o 4 Chiến tranh trên biển  5 Cách mạng lâm nguy  5.1 Xung đột nội bộ Hy Lạp o 5.2 Quân Ai Cập can thiệp o 6 Sự can thiệp của các cường quốc Châu Âu  7 Các cuộc tàn sát xảy ra trong thời kỳ cách mạng  8 Hoạt động ngoại giao hậu chiến  9 K ế t c ục  10 Chân dung một số thủ lĩnh trong chiến tranh giành độc lập Hy Lạp  11 Tranh ca ngợi cuộc nổi dậy  12 Xem thêm  13 Chú thích  14 Tham khảo  15 Liên kết ngoài 
  6. [ ] Bối cảnh Sự kiện thành Constantinopolis thất thủ vào năm 1453 rồi tiếp đó thành Trebizond (tiếng Hy Lạp: Trapezous hoặc Trapezounda) và Mystras thất thủ năm 1461 đánh dấu sự kết thúc quyền tự chủ của Hy Lạp trong gần suốt bốn thế kỷ, với Đế quốc Ottoman đặt nền thống trị lên toàn Hy Lạp, ngoại trừ các đảo Ionia và bán đảo Mani, sau khi đã chinh phục toàn bộ tàn dư của Đế quốc Byzantine trong thế kỷ 14 và 15. Mặc dù người Hy Lạp tiếp tục bảo tồn được nền văn hóa và truyền thống của mình thông qua tổ chức nhà thờ Chính thống giáo Hy Lạp, họ là một dân tộc bị nô dịch và không được hưởng ngay cả những quyền chính trị cơ bản. Tuy nhiên, tới thế kỷ 18 và 19, khi tư tưởng cách mạng quốc gia trỗi dậy trên toàn châu Âu, bao gồm cả Hy Lạp (một phần lớn là nhờ vào ảnh hưởng cuộc Cách mạng Pháp), thì quyền lực của Đế quốc Ottoman cũng bắt đầu suy tàn, và tư tưởng ái quốc Hy Lạp bén rễ, chính nghĩa của người Hy Lạp bắt đầu nhận được sự ủng hộ không chỉ từ những người Tây Âu theo chủ thuyết ái mộ Hy Lạp, mà từ cả cộng đồng thương mại Hy Lạp hải ngoại ở cả Tây Âu và Đế quốc Nga với thế lực ngày càng mạnh từ sau cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768–1774) và Hiệp ước Kuchuk- Kajnardji, cho phép thương thuyền Hy Lạp giương buồm dưới lá cờ Nga. [ ] Người Hy Lạp dưới Đế quốc Ottoman Cuộc cách mạng Hy Lạp không phải là một sự kiện đơn lẻ: có vô vàn cuộc khởi nghĩa nhằm giành lại độc lập nhưng bị thất bại trong suốt thời gian Đế quốc Ottoman chiếm đóng Hy Lạp. Năm 1603, một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Morea (tức bán đảo Peloponnese) để tái lập Đế quốc Byzantine. Trong suốt thế kỷ 17 diễn ra cuộc kháng chiến lớn chống quân Thổ trên bán đảo Peloponnese và những vùng khác, như cuộc khởi nghĩa do triết gia Dionysius lãnh đạo năm 1600 và 1611 tại Epirus[1]. Ách thống trị của Đế quốc Ottoman trên Morea bị gián đoạn, và vùng bán đảo này nằm dưới sự cai quản của Cộng hòa Venezia trong vòng 30 năm trong khoảng giữa những năm 1680 cho tới khi bị Đế quốc Ottoman tái chinh phục năm
  7. 1714-1715; vùng đất này tiếp tục bị bất ổn từ khi đó, vì trong suốt thế kỷ 17 những toán lục lâm - chiến binh tự do klepht mọc ra khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Orlov (Orlov là tên viên sỹ quan Nga) do người Nga khuyến khích trong những năm 1770, nhưng bị quân Thổ đàn áp nặng nề. Bán đảo Mani ở phía nam Peloponnese kháng cự lại ách thống trị Thổ không ngừng nghỉ, trên thực tế giành được tự trị, và đánh bại liên tiếp mấy cuộc xâm lược của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, nổi tiếng nhất là cuộc xâm lược năm 1770. Cùng lúc, một bộ phận nhỏ người Hy Lạp được hưởng những ưu đãi đặc biệt trong Đế quốc Ottoman như những quan chức cao cấp của bộ máy chính quyền. Người Hy Lạp kiểm soát Nhà thờ Chính thống và Giáo hội toàn tòng Ki-tô, với trụ sở đặt tại Constantinopolis. Toàn bộ các giáo sỹ cao cấp của nhà thờ Chính thống giáo đều là người Hy Lạp và như vậy, trên thực tế giáo hội Hy Lạp cai quản toàn bộ con chiên Ki-tô giáo trong Đế quốc Ottoman. Từ thế kỷ 18 trở đi, những gia tộc Phanariot Hy Lạp (những người từ quận Phanar ở Constantinopolis được người Thổ bổ nhiệm vào những vị trí chủ chốt) đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong bộ máy chính quyền của Đế quốc Ottoman. Tông đồ Rigas Feraios, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng
  8. Vốn có truyền thống đi biển lâu đời, các hòn đảo ở biển Aegean, cùng với sự phát triển của tấng lớp thương mại tích lũy được số của cải cần thiết để mở trường học và thư viện, cung cấp chi phí cho các sinh viên Hy Lạp đi học ở các trường đại học lớn ở Tây Âu. Tại đây họ được tiếp xúc với các tư tưởng mới mẻ đầy táo bạo của Kỷ nguyên Ánh sáng châu Âu và cuộc Cách mạng Pháp. Những người Hy Lạp có học vấn và có ảnh hưởng của cộng đồng Hy Lạp hải ngoại, như Adamantios Korais nỗ lực truyền bá những tư tưởng đó cho người Hy Lạp, với mục đích nâng cao trình độ học vấn, đồng thời củng cố bản sắc Hy Lạp. Nhiệm vụ đó được thực hiện bằng cách phân phát sách vở, tài liệu và những giấy tờ khác được viết bằng chữ Hy Lạp, trong một quá trình được gọi là "Kỷ nguyên Ánh sáng Hy Lạp". Tác giả và cũng là nhà trí thức có ảnh hưởng lớn Rigas Feraios là một người có công lớn trong việc định hình tư tưởng cho người Hy Lạp ở cả trong và ngoài Đế quốc Ottoman. Sinh ra ở Thessaly và đi học ở Constantinopolis, Feraios xuất bản tờ báo bằng tiếng Hy Lạp Ephimeris tại Viên trong thập niên 1790. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc Cách mạng tư sản Pháp, ông xuất bản một loạt những ấn phẩm mang tính cách mạng và đề ra hiến pháp cộng hòa cho Hy Lạp, và sau này là các quốc gia Đại-Balkan trong vùng. Bị nhà chức trách Áo bắt giữ ở Trieste (nay thuộc Ý) năm 1797, ông bị trao cho nhà chức trách Ottoman và bị giải đến Beograd cùng với các đồng sự. Tất cả bọn họ đều bị thắt cổ chết và xác bị quẳng xuống sông Danube vào tháng 6 năm 1798. Cái chết của Feraios càng làm thổi bùng lên ngọn lửa ái quốc của người Hy Lạp. Bài thơ ái quốc của ông: thourios (bản chiến ca), được dịch ra một số ngôn ngữ ở tây Âu, và về sau, một số ngôn ngữ ở Balkan, là lời kêu gọi người Hy Lạp tranh đấu chống lại ách thống trị của Đế quốc Ottoman: Tiếng Hy Lạp ς πότε παλικάρια, ν ζο με στ στενά,
  9. μονάχοι σ λεοντάρια, στα ς ράχαις στ βουνά; Σπηλια ς ν κατοικο με, ν βλέπωμεν κλαδιά, ν φεύγωμ π τ ν κόσμον, γι τ ν πικρ σκλαβιά; Ν χάνωμεν δέλφια, πατρίδα κα γονε ς, το ς φίλους, τ παιδιά μας, κι λους το ς συγγενε ς; [...] Καλλι ναι μίας ρας λεύθερη ζωή, παρ σαράντα χρόνοι, σκλαβι κα φυλακή. với những vần thơ đầy cảm xúc: "kìa những chiến sỹ can trường, chúng ta còn chịu kìm kẹp đến bao giờ nữa, như những con sư tử cô độc, trong hang đá bên rìa núi, cam chịu cảnh đọa đầy, hững hờ nhìn thế giới qua những hàng cây, mất đi cha mẹ, anh em, nước nhà... dù chỉ có một giờ tự do, còn hơn bốn mươi năm sống trong gông cùm và nô lệ". [ ] Chiến binh Klepht và Armatoloi Xem thêm: Klepht và Armatoloi
  10. Chiến binh Armatoloi Hạt nhân của Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp là các chiến binh Klepht (Κλέφτες) và Armatoloi (Αρματολοί). Sau cuộc chinh phục Hy Lạp của quân Ottoman vào thế kỷ thứ 15, rất nhiều binh lính Hy Lạp sống sót, dù là quân chính qui Đông La Mã, quân địa phương, hay quân đánh thuê, buộc phải gia nhập đạo quân Janissary của người Thổ, hay phục vụ trong các đội quân của lãnh chúa Thổ địa phương, hay là phải tự xoay xở lấy. Trong hoàn cảnh ấy, rất nhiều người Hy Lạp nếu muốn bảo tồn bản sắc Hy Lạp, Chính thống giáo và sự độc lập, phải chọn cuộc sống khó khăn nhưng tự do của người lục lâm. Những toán quân lục lâm này nhanh chóng lớn mạnh do sự gia nhập của những người nông dân cùng khổ, hay những người phiêu lưu mạo hiểm, hay những người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những phạm nhân đào thoát. Những người chọn cuộc sống lục lâm được gọi là Klepht (chiến binh tự do), trong khi những người phục vụ Đế quốc Ottoman được gọi là chiến sỹ Armatoloi, nhưng rất nhiều người luân phiên hoạt động trong cả hai nhóm này. Người Thổ Nhĩ Kỳ càng ngày càng gặp nhiều khó khăn để phân biệt giữa các chiến binh armatoloi hay klepht; cả hai nhóm này đều có liên hệ với nhau và có
  11. chung bản sắc Hy Lạp để kết nối. Sự hợp tác này còn dựa trên lòng căm hận ách thống trị ngoại bang, và rất nhiều chiến sỹ armatoloi sẽ cầm vũ khí chống lại quân Ottoman khi cách mạng bùng nổ, trong số đó phải kể đến các thủ lĩnh Odysseas Androutsos, Georgios Karaiskakis, Athanasios Diakos và Markos Botsaris. Những chiến sỹ armatoloi coi sự tận tụy và hy sinh là những điều cốt yếu và cao quí nhất trong chiến trận. Sự hy sinh của những thủ lĩnh như Athanasios Diakos chỉ là sự tiếp nối truyền thống hy sinh vì đại nghĩa của các chiến sỹ armatoloi như Vlachavas (Βλαχάβας) và Antonis Katsantonis (Κατσαντώνης). Trong tiệc tùng, chiến sỹ armatoloi chuẩn bị tư tưởng cho chiến trận bằng những lời chúc như kalo boli (καλό βόλι, "xạ tiễn") hoặc kalo molivi (καλό μολύβι, "xung trận giỏi"). Trong chiến cuộc, những lời chúc mang nghĩa "nếu phải chết thì nên chết vì một phát đạn xạ tiễn", và trong rất nhiều trường hợp, khi chiến sỹ armatoloi bị trọng thương nơi chiến địa, họ đòi đồng đội kết liễu mình, vì họ thà rằng chết trong tay đồng đội còn hơn là rơi vào tay quân địch. [ ] Chuẩn bị cho cuộc nổi dậy Năm 1814, ba thương nhân Hy Lạp Nikolaos Skoufas, Manolis Xanthos và Athanasios Tsakalov, được khích lệ bởi tư tưởng của Feraios và dưới ảnh hưởng hội cách mạng Ý Carbonari, thành lập tổ chức bí mật Filiki Eteria (Hội hữu nghị), tại Odessa (nay thuộc Ukraina), một trung tâm quan trọng của cộng đồng thương mại Hy Lạp hải ngoại. Được sự trợ giúp của các cộng đồng Hy Lạp hải ngoại giàu có tại Anh và Mỹ và sự hỗ trợ từ những cảm tình viên ở Tây Âu, họ lên kế hoạch khởi nghĩa. Mục tiêu cơ bản của hội là hồi sinh Đế quốc Byzantine, đóng đô tại Constantinopolis, chứ không phải chỉ thiết lập một quốc gia Hy Lạp[2]. Đầu năm 1820, John Capodistria, Bộ trưởng bộ ngoại giao Nga, vốn là người từ quần đảo Ionian được mời làm chủ tịch hội, nhưng ông từ chối, những thành viên trong hội sau đó quay sang mời Alexander Ypsilanti, một người Hy Lạp Phanariot (tầng lớp
  12. người Hy Lạp có danh vọng và địa vị) đang phục vụ trong quân đội Nga với cấp bậc tướng và là sỹ quan phụ tá cho Sa hoàng làm thủ lĩnh. Hội phát triển nhanh chóng, thu nhập thêm thành viên từ khắp các vùng đất có người Hy Lạp sinh sống, trong đó phải kể đến những người sau này sẽ đóng vai trò trọng yếu trong cuộc chiến, như Theodoros Kolokotronis, Odysseas Androutsos và Papaflessas. Năm 1821, Đế quốc Ottoman vướng vào cuộc chiến tranh với Ba Tư, và đặc biệt là cuộc nổi dậy của thủ lĩnh Ali Pasha người gốc Albania tại Ipiros (vùng đất phía tây bắc Hy Lạp), buộc Tổng trấn Morea là Hursid Pasha và các chỉ huy Thổ khác phải rời nhiệm sở của mình để ra quân đánh dẹp. Cùng thời gian, Liên minh các cường quốc châu Âu, thành lập sau cuộc chiến tranh chống Napoléon Bonaparte, cũng mắc vào cuộc khởi nghĩa ở Ý và Tây Ban Nha. Hoàn cảnh đó được coi là hết sức thuận lợi để người Hy Lạp phất cờ khởi nghĩa[3]. Kế hoạch ban đầu dự định tiến hành nổi dậy tại ba vùng đất: bán đảo Peloponnese (miền nam Hy Lạp, các Công quốc Danube (lãnh thổ giờ là Romania) và Constantinopolis[3]. Cuộc nổi dậy có thể được xem là bắt đầu ngày 22 tháng 2 năm 1821, khi Alexander Ypsilanti và một số sỹ quan Hy Lạp khác phục vụ trong quân đội Nga vượt sông Prut tiến vào Moldavia. [ ] Tư tưởng ái mộ Hy Lạp Vì được kế thừa những di sản của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, mà người Hy Lạp nhận được sự cảm thông sâu sắc trên toàn châu Âu. Rất nhiều thanh niên Mỹ giàu có và giới quí tộc Tây Âu, nổi bật là nhà thơ nổi tiếng, Huân tước George Byron cũng cầm vũ khí lên đường sang Hy Lạp chiến đấu. Rất nhiều người khác bỏ tiền của ra giúp đỡ cuộc cách mạng. Nhà sử học Scotland, và là người ái mộ Hy Lạp, Thomas Gordon cũng tham chiến trong cuộc cách mạng, ông sau này là người đầu tiên viết về lịch sử cuộc cách mạng Hy Lạp[4].
  13. Huân tước Byron là một người ái mộ Hy Lạp, chết trong khi tham gia cuộc cách mạng Hy Lạp Khi cách mạng bùng nổ, những cuộc đàn áp dã man của chính quyền Ottoman bị tố cáo rộng khắp, khiến quần chúng Tâu Âu càng thương cảm cho chính nghĩa của người Hy Lạp, mặc dù trong một thời gian, chính phủ Anh Quốc và Pháp nghi hoặc có bàn tay người Nga đứng sau cuộc nổi loạn nhằm giành lấy Hy Lạp (thậm chí Constantinopolis) từ tay người Thổ. Người Hy Lạp không thể dựng nên một chính phủ ổn định trong các khu vực họ kiểm soát được, rồi còn nhanh chóng xung đột với nhau. Chiến tranh bất phân thắng bại giữa người Hy Lạp và người Thổ tiếp diễn cho tới năm 1825, thì sultan Mahmud II gọi viện quân từ Ai Cập, cuộc khởi nghĩa của người Hy Lạp đứng trước nguy cơ bị dập tắt.
  14. Quân Hy Lạp đánh phá vòng vây Messolonghi, tranh của Theodoros Vryzakis Tại châu Âu, dù cuộc khởi nghĩa của người Hy Lạp được dư luận ủng hộ, nhưng các chính phủ châu Âu chỉ miễn cưỡng hưởng ứng. Anh bắt đầu nghiêng về phe khởi nghĩa kể từ năm 1823 trở đi, khi những yếu kém của Đế quốc Ottoman bộc lộ rõ ràng, mặc dù bản thân người Hy Lạp cũng đang xáo trộn nội bộ vì nội chiến, và sự ủng hộ của Nga chỉ giới hạn ở việc hạn chế ảnh hưởng của Anh lên Hy Lạp[5]. Hy Lạp được coi là cái nôi của nền văn minh phương Tây, và được đặc biệt ca ngợi bởi chủ nghĩa lãng mạn thời gian đó. Hình ảnh một dân tộc Ki-tô giáo vùng
  15. lên để lật đổ ách thống trị của một đế quốc Hồi giáo tàn tạ được dư luận châu Âu khi đó đặc biệt hâm mộ. Trong thời gian Huân tước Byron ở Albania và Hy Lạp, ông tổ chức tài chính và hậu cần (bao gồm cả việc trang bị cho vài chiếc thuyền), nhưng phát sốt rồi qua đời tại Messolonghi năm 1824. Cái chết của ông làm châu Âu, đặc biệt là dư luận Anh rất xúc động, và càng làm tăng sự ủng hộ của châu Âu cho Hy Lạp, dẫn đến việc các cường quốc châu Âu cuối cùng cũng phải trực tiếp can thiệp. Những bài thơ của ông, cùng với những tác phẩm nghệ thuật của Eugène Delacroix, góp phần to lớn khuấy động tình cảm của người châu Âu ủng hộ cho cuộc đấu tranh Hy Lạp. [ ] Cách mạng bùng nổ [ ] Cách mạng tại các Công quốc Danube Alexander Ypsilantis được bầu làm lãnh đạo hội Filiki Eteria tháng 4 năm 1820, rồi tự đặt mục tiêu lên kế hoạch khởi nghĩa. Mục tiêu của ông là phát động toàn bộ người Ki-tô giáo tại Balkan khởi nghĩa, và có lẽ sau đó dựa vào Nga can thiệp. Ngày 22 tháng 2 năm 1821, ông vượt sông Prut cùng với đoàn tùy tùng, tiến vào lãnh thổ các Công quốc Danube (Romania và Moldova ngày nay), rồi để vận động người Romania gia nhập, ông tuyên bố là ông được "hậu thuẫn từ một cường quốc", ám chỉ đế quốc Nga. Hai ngày sau khi vượt sông, ông ra tuyên cáo kêu gọi toàn thể nhân dân Hy Lạp và Ki-tô giáo nổi dậy chống lại Đế quốc Ottoman: Hãy chiến đấu vì Đức tin Thiên Chúa và Đất mẹ! Giờ chiến đấu đã điểm, hỡi những con dân Hy Lạp. Biết bao lâu nay, nhân dân châu Âu, những người đã chiến đấu vì tự do và quyền làm người, kêu gọi chúng ta tiếp bước họ... Nhân dân
  16. tiến bộ châu Âu, vốn bận bịu đấu tranh giành lại quyền được sống, hàm ơn ông cha ta, mong mỏi được thấy ngày Hy Lạp được tự do... Biết bao người châu Âu yêu tự do đã sẵn sàng gia nhập hàng ngũ chúng ta để cùng tranh đấu... Ai có thể ngăn được bàn tay mạnh mẽ của ta? Quân thù hèn hạ đang suy yếu, tướng sỹ của ta đầy kinh nghiệm, đồng bào ta đầy nhiệt huyết. Hãy sát cánh lại, hỡi những người con Hy Lạp anh dũng và cao thượng! Hãy xiết chặt đội hình phalanx, hãy trỗi dậy những binh đoàn ái quốc, ta sẽ thấy những tên khổng lồ bạo chúa sụp đổ tan tành, trước lá cờ chiến thắng của chúng ta[6] . Đội thần binh trong trận Dragatsani tranh của Peter von Hess, Viện bảo tàng Benaki, Athena-Hy Lạp
  17. Thay vì tiến quân về Brăila, nơi ông có lẽ đã có thể chặn đường tiến của quân Thổ vào các Công quốc Danube, và buộc Nga phải chấp nhận sự đã rồi, ông dừng lại ở Iaşi và cho xử tử một số người Moldova với tội danh "tay sai giặc Thổ". Ông đến Bucharest ngày 27 tháng 3, rồi sau vài tuần chần chừ, ông nhận định rằng ông không thể dựa vào các đội du kích Pandur của người Wallachia có căn cứ ở Oltenia để hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của Hy Lạp. Thủ lĩnh Pandur là Tudor Vladimirescu lại không tin tưởng Ypsilantis, và với cương vị là đồng minh trên danh nghĩa với Eteria, lại bắt đầu một cuộc nổi loạn như một phương thức để ngăn Scarlat Callimachi, vốn trị vì Moldavia, không giành được ngai vàng của Bucharest, trong khi vẫn tìm cách giữ quan hệ với cả Đế quốc Nga và Đế quốc Ottoman. Chính tại thời điểm đó, cựu ngoại trưởng Nga là John Capodistria, là một người Hy Lạp sinh trưởng tại đảo Corfu, gửi một lá thư đến cho Ypsilantis quở trách ông lạm dụng sự ủy thác của Sa hoàng, tuyên bố là tên ông đã bị xóa bỏ khỏi danh sách sỹ quan Nga, và lệnh cho ông hạ vũ khí. Ypsilantis tìm cách lờ bức thư đi, nhưng Vladimirescu coi đó như dấu hiệu chấm dứt mọi ràng buộc với Eteria. Một cuộc xung đột nội bộ nổ ra, và ông bị Eteria kết án tử hình ngày 27 tháng 5. Mất đi sự ủng hộ của các đồng minh người Romania và lại phải chống lại đạo quân Thổ xâm nhập lãnh thổ Wallachia, số phận những người Hy Lạp đã được định đoạt, họ bị đánh bại trong trận Drăgăşani, Đội thần binh bị tiêu diệt hoàn toàn. Alexander Ypsilantis, được em trai là Nicholas hộ vệ, cùng một dúm những người tùy tùng, rút về Râmnic, nơi ông trong vài ngày tìm cách thuyết phục nhà chức trách Áo địa phương cho phép ông vượt qua biên giới. E ngại là những người theo mình có thể bắt ông đem nộp cho quân Thổ, ông tuyên bố là Áo đã tuyên chiến với Đế quốc Ottoman, cho cử hành lễ Tạ ơn tại nhà thờ Cozia, rồi viện cớ thu xếp cuộc gặp mặt với tổng chỉ huy Áo, ông vượt biên giới. Tuy nhiên Áo từ chối cho ông tỵ nạn chính trị, ông bị giam cấm cố trong bảy năm liền[7]. Tại Moldavia, cuộc
  18. đấu tranh còn tiếp diễn trong một thời gian dưới sự lãnh đạo của Giorgakis Olympios và Yiannis Pharmakis, nhưng tới cuối năm thì quân Thổ cũng bình định được vùng này. [ ] Cách mạng tại bán đảo Peloponnese Bán đảo Peloponnese, với truyền thống kháng chiến chống lại Đế quốc Ottoman là trái tim cuộc khởi nghĩa. Trong những tháng đầu năm 1821, vì Tổng trấn người Thổ Mora valesi Hursid Pasha và phần lớn quân đồn trú vắng mặt nên tình hình hết sức thuận lợi cho người Hy Lạp vùng dậy chống lại ách chiếm đóng. Theodoros Kolokotronis, một chiến sỹ tự do klepht Hy Lạp lừng danh, người từng phục vụ trong quân đội Anh tại quần đảo Ionian trong cuộc chiến tranh Napoléon, trở về ngày 6 tháng 1 năm 1821, và đến bán đảo Mani. Quân Thổ nhận được tin báo nên đòi vị thủ lĩnh địa phương Petros Mavromichalis, cũng được biết đến với tên gọi PetroBey - Bey nghĩa là thủ lĩnh, giao nộp ông, nhưng Mavromichalis từ chối, viện cớ già cả[8], sau này trong cuộc kháng chiến, hai trong số các con trai của Mavromichalis sẽ tử trận trong các trận đánh chống lại quân Thổ. Bức tượng kỵ sỹ Theodoros Kolokotronis tại Nafplion, Hy Lạp Cuộc họp mang tính quyết định diễn ra tại Vostitsa (nay là Aigion), với tất cả các thủ lĩnh và tổng giám mục trên toàn bán đảo Peloponnese tề tựu trong ngày 26
  19. tháng 1. Trong cuộc họp, tất cả các chỉ huy chiến binh tự do klepht tuyên bố họ đã sẵn sàng hành động, trong khi phần lớn giới lãnh đạo dân sự vẫn còn nghi hoặc, và đòi được bảo đảm rằng quân Nga sẽ can thiệp. Dù thế nào đi chăng nữa, khi tin tức về việc Ypsilantis tiến quân vào các Công quốc Danube truyền tới, thì tình hình trên bán đảo Peloponnese đã trở nên hết sức căng thẳng, và rồi cho tới giữa tháng 3, các hoạt động rải rác chống lại người Hồi giáo nổ ra, báo hiệu cuộc khởi nghĩa. Sau này người ta biết rằng tuyên bố Khởi nghĩa bởi tổng giám mục Paras, cha Germanos ngày 25 tháng 3 tại tu viện Agia Lavra chỉ là chuyện thêu dệt. Tuy nhiện, ngày đó đã được chính thức chấp nhận là ngày kỷ niệm Cách mạng bùng nổ, và được chọn là ngày quốc khánh Hy Lạp. Ngọn cờ cách mạng được ưa chuộng là lá cờ của dòng họ Kolokotronis Ngày 17 tháng 3 năm 1821, thủ lĩnh của người Mani Petros Mavromichalis cho dựng lá chiến kỳ của mình tại Areopoli, đánh đi tín hiệu khởi nghĩa chống quân Thổ bùng nổ. Hai ngàn chiến sỹ Mani dưới quyền Petros Mavromichalis, trong đó có cả Kolokotronis cùng hai người cháu Nikitaras và Papaflessas hành quân về thị trấn Kalamata thuộc hạt Messenia. Người Mani đến Kalamata ngày 21 tháng 3, rồi sau hai ngày vây hãm thị trấn rơi vào tay người Hy Lạp[9]. Cùng ngày, Tổng giám mục Andreas Londos khởi nghĩa tại Vostitsa[10]. Tới ngày 28 tháng 3, Nghị viện Messenia, hội đồng chính quyền địa phương đầu tiên tại Hy Lạp khai mạc tại Kalamata.
  20. Tại Achaia, thị trấn Kalavryta bị vây hãm ngày 21 tháng 3. Tại Patras, trong không khí vốn đã căng thẳng, người Thổ bắt đầu chuyển tài sản vào trong pháo đài từ ngày 28 tháng 2, rồi đến ngày 18 tháng 3 chuyển cả gia quyến vào. Tới ngày 22 tháng 3, lực lượng cách mạng ra tuyên cáo Cách mạng ở quảng trường Agios Georgios tại Patras, trước sự hiện diện của Đức Tổng giám mục Germanos. Ngày hôm sau, các lãnh tụ khởi nghĩa ở Achaia gửi thông báo đến các lãnh sự quán ngoại quốc tuyên bố nguyên nhân Cách mạng[11]. Tới ngày 23 tháng 3, quân Thổ mở vài cuộc tấn công lẻ tẻ vào thị trấn, trong khi quân cách mạng, lãnh đạo bởi Panagiotis Karatzas đẩy lùi quân Thổ vào trong pháo đài[12]. Makryiannis, lánh nạn trong thị trấn, miêu tả lại trong hồi ký: Σε δυο ημέρες χτύπησε ντουφέκι στην Πάτρα. Οι Tούρκοι κάμαν κατά το κάστρο και οι Ρωμαίγοι την θάλασσα.[13] Người ta bắn nhau từ hai ngày trước đây ở Patras. Quân Thổ chiếm cứ pháo đài, trong khi quân Hy Lạp chiếm vùng bờ biển[14] . Tới cuối tháng 3, người Hy Lạp trên thực tế kiểm soát vùng nông thôn, còn quân Thổ Nhĩ Kỳ bị giam hãm trong các pháo đài, đáng kể nhất là Patras, Rion, Acrocorinth, Monemvasia, Nafplion và thủ phủ Tripolitsa, cùng với rất nhiều người Hồi giáo chạy tỵ nạn cùng gia đình từ khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu. Tất cả những vị trí đó đều bị các lực lượng quân địa phương bao vây một cách lỏng lẻo, vì quân Hy Lạp không có pháo binh để công thành. Ngoại trừ Tripolitsa, tất cả các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2