VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THÀNH LONG

CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THÀNH LONG

CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 9.31.01.06

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn

2. PGS.TS. Đặng Thị Phƣơng Hoa

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu thu

thập, trích dẫn, xử lý từ các nguồn chính thức và riêng của tác giả. Các kết

quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan. Nội

dung luận án không trùng lặp và chưa được công bố trong bất cứ công trình

của ai trước đó.

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2020

Tác giả luận án

Đỗ Thành Long

i

LỜI CẢM ƠN

Luận án được hoàn thành tại Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm

Khoa học Xã hội Việt Nam, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Nguyễn

Quang Thuấn và PGS.TS. Đặng Thị Phương Hoa. Ngoài những chỉ dẫn về mặt

khoa học, các thầy cô còn là động lực lớn giúp tác giả tự tin và say mê nghiên

cứu. Tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và sự kính trọng đối với các thầy cô.

Tác giả cảm ơn lãnh đạo Khoa Kinh tế Quốc tế, Học viện Khoa học Xã

hội cùng các thầy cô giáo tham gia giảng dạy đã cung cấp những kiến thức cơ

bản, sâu sắc và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu thực hiện

luận án này.

Tác giả bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng chí lãnh đạo, các đồng nghiệp

nơi tác giả công tác đã tạo mọi điều kiện cho tác giả trong quá trình công tác,

học tập, nghiên cứu khoa học để hoàn thành luận án này.

Tác giả chân thành cảm ơn các doanh nghiệp đã cung cấp tài liệu, trả

lời phỏng vấn; Cảm ơn các bạn đồng nghiệp, bạn bè, người thân đã động viên,

giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình công tác, học tập, nghiên

cứu và hoàn thành luận án này.

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2020

Nghiên cứu sinh

Đỗ Thành Long

ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH

SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ ......................................................................................... 11

1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho khoa học và

công nghệ .................................................................................................. 11

1.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và

công nghệ .................................................................................................. 14

1.3. Khoảng trống nghiên cứu cho luận án ............................................... 20

Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY

DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ...... 23

2.1. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với tăng trƣởng kinh tế ....... 23

2.2. Vai trò của đầu tƣ từ khu vực doanh nghiệp cho khoa học và

công nghệ ........................................................................................................ 26

2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến đầu tƣ cho hoạt động khoa học và

công nghệ của doanh nghiệp ........................................................................ 27

2.3.1. Đặc tính của mỗi doanh nghiệp và ngành công nghiệp .................. 27

2.3.2. Tính cạnh tranh ............................................................................... 28

2.3.3. Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ ................................................. 28

2.3.4. Vị trí và cơ hội tiếp cận nguồn tri thức ........................................... 31

2.3.5. Lan toả tri thức từ hoạt động nghiên cứu và phát triển nước

ngoài .......................................................................................................... 32

2.4. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và

công nghệ ........................................................................................................ 35

2.4.1. Chính sách trọng cung .................................................................... 35

2.4.2. Chính sách trọng cầu ....................................................................... 37

2.4.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ .................................................... 38

iii

2.4.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo

quốc gia ..................................................................................................... 43

Chƣơng 3: CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ

CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC, HÀN

QUỐC VÀ ISRAEL ...................................................................................... 45

3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc ..................................................................... 47

3.1.1. Bối cảnh quốc gia ............................................................................ 47

3.1.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ ....................................................................... 50

3.1.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu

tư cho khoa học công nghệ ....................................................................... 55

3.2. Kinh nghiệm Hàn Quốc ......................................................................... 66

3.2.1. Bối cảnh quốc gia ............................................................................ 66

3.2.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ ....................................................................... 69

3.2.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu

tư cho khoa học công nghệ ....................................................................... 72

3.3. Kinh nghiệm Israel ................................................................................. 84

3.3.1. Bối cảnh quốc gia ............................................................................ 84

3.3.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ ....................................................................... 86

3.3.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu

tư cho khoa học công nghệ ....................................................................... 89

3.4. Một số bài học chung rút ra từ kinh nghiệm của ba quốc gia ........... 99

Chƣơng 4: CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ

CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT

SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ................................................................. 106

4.1. Quan điểm và mục tiêu của Nhà nƣớc về thúc đẩy doanh nghiệp

đầu tƣ cho khoa học và công nghệ ............................................................. 106

iv

4.1.1. Hiện trạng hạ tầng và chính sách khoa học và công nghệ ............ 106

4.1.2. Quan điểm và mục tiêu ................................................................. 111

4.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và

công nghệ tại Việt Nam ............................................................................... 113

4.2.1. Chính sách trọng cung .................................................................. 113

4.2.2. Chính sách trọng cầu ..................................................................... 118

4.2.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ .................................................. 119

4.2.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo

quốc gia ................................................................................................... 122

4.3. Đánh giá chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học

và công nghệ tại Việt Nam .......................................................................... 123

4.3.1. So sánh Việt Nam và các quốc gia tham khảo .............................. 123

4.3.2. Một số đánh giá từ khảo sát thực tế doanh nghiệp ....................... 125

4.3.3. Một số kết quả đã đạt được ........................................................... 132

4.3.4. Một số hạn chế và nguyên nhân .................................................... 133

4.4. Một số bài học kinh nghiệm ................................................................ 135

4.4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................... 135

4.4.2. Một số bài học kinh nghiệm để xây dựng chính sách thúc đẩy

doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ ................................... 137

KẾT LUẬN .................................................................................................. 147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 172

v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

CNC

Công nghệ cao

CNH

Công nghiệp hóa

CNTT

Công nghệ thông tin

DN

Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DNVVN

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

ĐMCN

Đổi mới công nghệ

ĐMST

Đổi mới sáng tạo

ETRI

Viện Nghiên cứu điện tử và viễn thông

Electronics and Telecommunications Research Institute

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

GNP

Gross National Product

Tổng sản lượng quốc gia

GRI

Government Research Institute

Viện nghiên cứu công lập

HĐH

Hiện đại hóa

HIDZ

hoặc

Công nghệ thông tin và truyền thông

ICT CNTT&TT

Information Technology and Communication

IIA

Israel Innovation Authority

Cơ quan đổi mới Israel

IMF

International Moneytary Fund

Tổ chức tiền tệ thế giới

IPR

Intellectual Property Rights

Quyền sở hữu trí tuệ

KAIST

Korean Advanced Institute of Science and Technology

Viện Nghiên cứu cao cấp về khoa học và công nghệ Hàn Quốc

KIET

Korea Institute of Electronics Technology

Viện Nghiên cứu Công nghệ Điện tử Hàn Quốc

KIST

Korea Industrial Technology

Viện Khoa học và Công nghệ Hàn

High-tech Industrial Development Zone Khu phát triển công nghiệp công nghệ cao

vi

Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

Association

Quốc

KHCN

Science and Technology

Khoa học và công nghệ

Science, Technology and Innovation Policy

Chính sách khoa học và công nghệ sáng tạo

KT-XH

Kinh tế-xã hội

M&A

Merger & Acquisition

Sát nhập và Mua lại

NAFOSTED National Foundation for Science

and Technology Development

Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia

NATIF

Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia

National Technology Innovation Fund

Research and Development

R&D hoặc NC&PT

Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ/hoặc Nghiên cứu và phát triển

Nghiên cứu sinh

NCS

NIS

National Innovation System

Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

NSNN

Ngân sách nhà nước

OCS

Office of Chief Scientist

Văn phòng nhà khoa học trưởng

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

Organization for Economic Co- operation and Development

QP-AN

Quốc phòng-An ninh

SEZ

Đặc khu kinh tế

Special Economic Zone

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TFP

Total Factor Productivity

Năng suất các yếu tố tổng hợp

USD

US Dollar

Đồng Đô la Mỹ

WEF

World Economic Forum

Diễn đàn kinh tế thế giới

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

KHCNST

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho khoa học và công nghệ

theo hướng tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm khoa học và

công nghệ. ..................................................................................... 31

Bảng 2.3. Khung phân tích cho luận án. ......................................................... 35

Bảng 3.1. So sánh một số đặc điểm của Việt Nam với Hàn Quốc, Trung

Quốc và Israel ............................................................................... 45

Bảng 3.2. Một số chính sách ưu đãi thuế để thúc đẩy các hoạt động liên

quan đến R&D của Hàn Quốc ...................................................... 75

Bảng 4.1. Nhân lực NC&PT qua các năm (người) ....................................... 108

Bảng 4.2. Nhân lực NC&PT theo khu vực thực hiện và chức năng năm 2017 . 108

Bảng 4.3. Tổ chức NC&PT chia theo quy mô nhân lực năm 2017 .............. 109

Bảng 4.4. Tổ chức NC&PT theo vùng địa lý năm 2017 ............................... 109

Bảng 4.5. Khảo sát DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN. .... 128

Bảng 4.6. Đề xuất của DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN . 129

viii

DANH MỤC HÌNH, HỘP

Hình 2.1. Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ............................ 30

Hình 2.2. Mức cân bằng của đầu tư NC&PT .................................................. 34

Hình 3.1. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Trung Quốc ............................... 49

Hình 3.2. Nguồn chính cho quỹ R&D Trung Quốc so với Nhật Bản và Mỹ ...... 50

Hình 3.3. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Hàn Quốc .................................. 67

Hình 3.4. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Iseral ......................................... 86

Hình 4.1. Thống kê các doanh nghiệp khảo sát ............................................ 127

Hộp 1: Doanh nghiệp lớn .............................................................................. 130

Hộp 2: Doanh nghiệp start-up ....................................................................... 131

ix

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã sớm xác

định khoa học và công nghệ (KHCN) là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và

động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất

nước. Hơn 30 năm đổi mới, KHCN nước ta đã có bước tiến dài trong xây

dựng và phát triển tiềm lực, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp

thiết thực vào sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), bảo đảm quốc phòng-an

ninh (QP-AN), cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống, đưa nước ta

từ một nước kém phát triển gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình.

Tuy nhiên, so với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, KHCN nước ta phát triển chưa

tương xứng với tiềm năng và vị trí, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ

thúc đẩy KT-XH và khắc phục được tình trạng tụt hậu so với khu vực và trên

thế giới. Một trong những nguyên nhân chính của thực trạng này là đầu tư cho

KHCN còn thấp so với mặt bằng của các quốc gia có nền khoa học tương đối

phát triển, trong đó phần nhiều vẫn dựa vào nguồn lực hạn chế của Ngân sách

nhà nước (NSNN).

Hoạt động KHCN có vai trò gián tiếp tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế thông qua việc kích thích sự đổi mới và sáng tạo trong nội tại của một quốc

gia [116]. Các đổi mới công nghệ (ĐMCN) trong công nghiệp được hình thành

từ đầu tư cho hoạt động KHCN là động lực chính của tăng trưởng kinh tế,

trong khi các doanh nghiệp (DN) chỉ đầu tư cho hoạt động KHCN nếu ở đó có

cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận [102]. Do vậy, nếu lợi ích của việc đầu tư cho

hoạt động KHCN được đảm bảo thông qua các chính sách thúc đẩy đầu tư, DN

sẽ đầu tư nhiều hơn, quá trình ĐMCN được thúc đẩy, và kết quả cuối cùng là

tạo ra sự tăng trưởng về năng suất.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quốc gia nào có nền KHCN càng phát

triển thì tỉ trọng đầu tư cho KHCN của khu vực ngoài nhà nước so với NSNN

càng cao. NSNN chỉ tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phục vụ

lợi ích chung của quốc gia [187]. Ở các nước phát triển như Châu Âu, Hàn

1

Quốc, Nhật Bản, tỉ trọng này thường dao động từ 3:1 đến 5:1. Trung Quốc có

tỉ trọng 3:1 và có xu hướng tăng dần theo thời gian.

Tại Việt Nam cho đến nay NSNN vẫn là nguồn lực chính, chiếm 52% tổng

đầu tư xã hội cho KHCN [3]. Cần nhìn nhận rằng, dù được Nhà nước quan tâm

đến đâu thì nguồn lực của Nhà nước cũng rất hạn chế trong bối cảnh đất nước còn

gặp nhiều khó khăn như hiện nay, không thể so sánh với tiềm lực dồi dào của khu

vực ngoài Nhà nước, đặc biệt là của khối doanh nghiệp (DN). Song, thực tế các

DN Việt Nam chưa chú trọng đầu tư đúng mức cho hoạt động KHCN, nguyên

nhân là do chúng ta còn thiếu những chính sách khuyến khích phù hợp và thiếu

kinh nghiệm trong xây dựng mô hình phát triển của hệ thống KHCN.

Một số quốc gia có những đặc điểm tương đồng với Việt Nam, mặc dù

có xuất phát điểm không cao nhưng đã thành công nhờ các chính sách đầu tư

cho KHCN một cách đúng đắn như Hàn Quốc, Trung Quốc và Israel. Khi

nghiên cứu những nguyên nhân chính dẫn đến sự thành công của Trung Quốc,

Hàn Quốc và Israel, ta thấy một đặc điểm chung là họ đều đầu tư vào đội ngũ

nhân lực chất lượng cao cho KHCN; lựa chọn những lĩnh vực công nghệ phù

hợp để CNH và phát triển KHCN sâu vào lĩnh vực đó. Cụ thể: Hàn Quốc thì

phát triển các thành phố khoa học theo mô hình thung lũng silicon và đầu tư

cho những tập đoàn lớn để làm đầu tàu KHCN, từ đó gắn lợi ích tài chính với

phát triển KHCN để kích thích sự tăng trưởng. Trung Quốc thì hướng KHCN

tới đổi mới sáng tạo (ĐMST), tài trợ đa cấp độ, đa phương thức. Còn Israel thì

nâng cao tinh thần khởi nghiệp và lựa chọn phương thức sáp nhập và mua bán

(M&A) cùng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển. Đây là những

kinh nghiệm quý báu Việt Nam có thể nghiên cứu tham khảo để xây dựng

chính sách đầu tư phù hợp cho KHCN để thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH.

Nhằm đạt được kết quả thiết thực trong tăng trưởng kinh tế, vươn lên

thành quốc gia phát triển trong tương lai, việc xây dựng các chính sách hiệu

quả để khuyến khích các DN đầu tư cho KHCN là hết sức cần thiết và cấp

bách. Để làm được điều này, chúng ta cần tổng hợp đầy đủ những chính sách

khuyến khích DN đầu tư cho KHCN hiện có, rà soát những chính sách gì

2

đang phù hợp, chưa phù hợp hay còn thiếu; và rút ra những bài học kinh

nghiệm từ các quốc gia trên thế giới phù hợp với điều kiện và thực tiễn của

Việt Nam trong việc xây dựng và triển khai các chính sách khuyến khích DN

đầu tư cho KHCN.

Từ các phân tích trên, tác giả lựa chọn nội dung “Chính sách thúc đẩy

doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ của một số quốc gia và bài

học cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về ảnh hưởng của chính sách

thúc đẩy của Chính phủ đối với hoạt động KHCN và thực tiễn hiệu quả chính

sách của một số quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam, Luận án rút ra bài học

kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp phát triển chính sách thúc đẩy DN đầu

tư cho KHCN của Việt Nam.

- Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:

(i) Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách thúc đẩy DN đầu tư

cho KHCN;

(ii) Luận giải vai trò của KHCN, DN đầu tư cho KHCN, chính sách

thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN. Từ đó, xây dựng được khung phân tích cho

luận án về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN;

(iii) Nghiên cứu điển hình các quốc gia Trung Quốc, Hàn Quốc và

Israel về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN;

(iv) Tìm hiểu thực trạng các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN

của Việt Nam. So sánh Việt Nam và các quốc gia đã lựa chọn nghiên cứu,

trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm phù hợp với điều kiện và xu

hướng phát triển, tình hình thực tiễn của Việt Nam trong các chính sách thúc

đẩy DN đầu tư cho KHCN.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các chính sách thúc đẩy DN đầu tư

cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel và Việt Nam.

3

 Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung:

Luận án nghiên cứu các chính sách của Chính phủ Trung Quốc, Hàn

Quốc, Israel và Việt Nam trong việc thúc đẩy các DN đầu tư cho KHCN. Chính

sách có thể nằm trong các văn bản luật và dưới luật của các quốc gia. Đồng thời,

các nghiên cứu kinh điển từ các quốc gia trên thế giới về hiệu quả đầu tư của

KHCN trong tăng trưởng kinh tế cũng phù hợp với nghiên cứu của luận án.

Trong khuôn khổ của Luận án, khái niệm "hoạt động KHCN" được xác

định phạm vi đồng nhất với khái niệm "hoạt động nghiên cứu và phát triển"

(R&D).

Các văn bản luật và dưới luật về các chính sách thúc đẩy khác

(luật/chính sách về đất đai, an ninh quốc phòng,…) không nằm trong phạm vi

nghiên cứu của luận án;

Chính sách thúc đẩy các hoạt động khác của DN (nâng cao năng lực

cạnh tranh, năng lực quản trị DN, năng lực tài chính, …) không nằm trong

phạm vi nghiên cứu của luận án.

- Phạm vi về không gian:

Luận án tập trung nghiên cứu kinh nghiệm về chính sách thúc đẩy DN

đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel vì đây là ba quốc gia

tiêu biểu trong việc đạt được sự phát triển đột phá về KH-XH thông qua thúc

đẩy đầu tư cho KHCN.

Trong một số phân tích, luận án có sử dụng các dữ liệu thứ cấp của một

số quốc gia khác để có được cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu.

- Phạm vi thời gian:

Đối với các quốc gia tham khảo, phạm vi thời gian nghiên cứu trải dài

trong giai đoạn phát triển nhanh về KHCN của từng quốc gia.

Đối với Việt Nam, dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn

2018-2019.

- Phạm vi mẫu nghiên cứu:

Mẫu khảo sát là những DN có đầu tư cho KHCN (DN KHCN, DN

start-up về công nghệ, ...). Đây là những DN có sự quan tâm và nhu cầu đổi

4

mới công nghệ, đã từng đầu tư cho hoạt động KHCN và hiểu rõ nhất khó

khăn, vướng mắc khi thực hiện để cần Nhà nước hỗ trợ thông qua chính sách.

Tổng số lượng DN có số liệu sử dụng trong phân tích thực trạng là 103.

Hai trong số này sẽ được thực hiện hình thức điển cứu (case study), trong đó

01 DN là DNNN có quy mô lớn, tỷ lệ đầu tư cho KHCN cao - đại diện cho

đối tượng thành công về đầu tư cho KHCN, có thể gợi mở các ý tưởng mới

cho chính sách; 01 DN là start-up mới thành công trong năm 2019, đại diện

cho đối tượng nhỏ, khả năng tài chính eo hẹp, để tìm hiểu về các khó khăn và

mong muốn hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách.

4. Quy trình nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án,

nghiên cứu sinh tiến hành theo quy trình nghiên cứu sau.

HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN

Trung Quốc

M Ệ I

C Ọ H

Hàn Quốc

I À B

H G N H N I

Một số bài học rút ra cho Việt Nam để thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN

K

Israel

Ợ R T Ụ H P H C Á S H N Í H C

T É K N Ê I L H C Á S H N Í H C

Việt Nam

U Ầ C G N Ọ R T H C Á S H N Í H C

G N U C G N Ọ R T H C Á S H N Í H C

Đánh giá thực trạng hệ thống chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN

Khảo sát bằng phiếu hỏi tới 120 doanh nghiệp có đầu tư cho KHCN

Phỏng vấn: các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, cán bộ/giám đốc DN có hoạt động liên quan tới KHCN

5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

(1) Phương pháp thu thập dữ liệu

* Thu thập dữ liệu thứ cấp

Nghiên cứu sinh (NCS) nghiên cứu đề tài luận án với việc nghiên cứu

các nguồn dữ liệu thứ cấp từ các công trình công bố có uy tín trong và ngoài

nước như các bài báo có chỉ số ISI, Scopus; Các bài hội thảo, các luận án tiến

sĩ; Các báo cáo, số liệu của Chính phủ và bộ ban ngành liên quan, ... Cũng

như website của các trang báo, tạp chí và tổ chức có uy tín.

Mục tiêu của việc nghiên cứu tài liệu là giúp NCS xây dựng được khung

phân tích cho luận án về những nhóm chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

KHCN gồm: Nhóm chính sách trọng cung, nhóm chính sách trọng cầu, nhóm

chính sách về các yếu tố phụ trợ, và nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ

thống ĐMST quốc gia.

 Thu thập dữ liệu sơ cấp

Dữ liệu sơ cấp sẽ được NCS thu thập bằng một số phương pháp sau:

a. Phương pháp phỏng vấn sâu

Phỏng vấn sâu là phương pháp điều tra qua đánh giá của các chuyên gia

trong trong lĩnh vực đang quan tâm về vấn đề, sự kiện khoa học nào đó. Thực

chất đây là phương pháp sử dụng trí tuệ, khai thác ý kiến đánh giá của các

chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định một vấn đề, một sự kiện

khoa học để tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề, sự kiện đó.

Phương pháp phỏng vấn sâu được NCS sử dụng để thực hiện nội dung sau:

- Đánh giá, đưa ra ý kiến xây dựng khung phân tích của luận án về các

chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.

- Đánh giá, tư vấn hoàn thiện phiếu khảo sát.

NCS đã có những buổi làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp với các chuyên

gia để thu thập những thông tin cần thiết cho nghiên cứu.

Các chuyên gia mà NCS tham vấn gồm giáo viên hướng dẫn; Các nhà

hoạch định chính sách; Các nhà nghiên cứu; Những cán bộ/giám đốc DN có

hoạt động chuyên môn liên quan tới KHCN. Số lượng chuyên gia theo

Connelly (2008) phải đảm bảo ít nhất là 10% mẫu nghiên cứu chính; Còn theo

6

Hill (1998) thì cần từ 10 đến 30 người. Do vậy, tác giả lựa chọn phỏng vấn 20

người. Danh sách chuyên gia được thống kê trong phụ lục số 02 của luận án.

b. Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu hỏi

Phương pháp “phỏng vấn” bằng phiếu hỏi (questionnare survey) là

phương pháp phỏng vấn viết, được thực hiện cùng lúc với nhiều người theo một

bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào

các ô tương ứng theo một quy ước nào đó. Đây là phương pháp nghiên cứu được

sử dụng rộng rãi và phổ biến trong các lĩnh vực nghiên cứu kinh tế xã hội.

Để kiểm định các giả thuyết nêu ra từ khung phân tích của luận án,

NCS đã thiết kế và phát một phiếu hỏi định lượng tới các DN khảo sát.

Khảo sát thử (pilot survey)

Trước khi phiếu được phát rộng rãi tới mẫu khảo sát, NCS đã phát cho

ba DN để đánh giá sơ bộ xem các câu hỏi đặt ra có dễ hiểu không, cần bổ sung

hoặc loại bỏ những câu hỏi nào. Đồng thời NCS cũng đã gửi phiếu hỏi tới các

chuyên gia, giảng viên về quản trị để tham vấn và hoàn thiện phiếu khảo sát.

- Mẫu khảo sát:

Các DN, phần lớn là DN có đầu tư cho KHCN. Số lượng phiếu ban đầu

gửi đi là khoảng 120 DN. Các DN cũng được đề nghị tiếp tục gửi phiếu khảo sát

đến các DN khác.

Kênh thu thập dữ liệu chính là thông qua danh sách các DN từ nguồn

Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các kênh Hiệp hội DN hoặc các

mối quan hệ của cá nhân NCS.

Nhằm đảm bảo tính bí mật của thông tin, việc thu thập dữ liệu qua tất

cả các kênh đều ưu tiên sử dụng bảng hỏi trực tuyến, giúp cho thông tin thu

thập được minh bạch, khách quan, nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc thiếu

dữ liệu trả lời. Tham khảo link bảng hỏi trực tuyến tại:

http://bit.ly/KhaoSatChinhSachKHCN.

- Người điền phiếu: Giám đốc DN hoặc Giám đốc/Trưởng phòng

KHCN. Mỗi DN được khuyến nghị chỉ trả lời 01 lần phiếu khảo sát nhằm

tránh sự trùng lặp.

7

- Thang đo: ngoài một số câu hỏi lựa chọn thì phiếu hỏi sử dụng thang

đo chính là thang Likert 5 bậc (từ 1 đến 5) cho đa số các câu hỏi. Trong đó, 1

tương ứng với “hoàn toàn không đồng ý” và 5 tương ứng “hoàn toàn đồng ý”.

Thang đo được kế thừa từ các nghiên cứu trước đây.

- Nội dung: (i) Giới thiệu chung về Phiếu khảo sát; Một số thông tin

cung cấp cho khảo sát; (ii) Thu thập thông tin chung về DN: Loại hình, quy

mô, tỷ lệ trích lập quỹ KHCN; (iii) Thu thập thông tin về chính sách thúc đẩy

DN đầu tư cho KHCN: Có biết về chính sách hay không; DN có áp dụng/được

áp dụng chính sách hay không; Chính sách áp dụng có hiệu quả ở mức độ nào;

(iv) Thu thập thông tin về các đề xuất theo từng nhóm chính sách.

Nội dung chi tiết của Phiếu khảo sát được trình bày trong Phụ lục 01.

c. Phương pháp điển cứu (case study)

Nghiên cứu điển cứu hay nghiên cứu điển hình là việc nghiên cứu dựa

trên những trường hợp (case study) đặc trưng cho nhóm các khách thể nghiên

cứu. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong ngành xã hội học với

mục tiêu cơ bản là tìm hiểu rõ về trường hợp nghiên cứu bằng cách theo dõi

sát sao và toàn diện trường hợp đã chọn trong một thời gian nhất định, tại môi

trường tự nhiên của nó. Kết quả nghiên cứu điển hình cho phép người nghiên

cứu đưa ra lời giải thích tại sao mọi việc xảy ra như đã xảy ra, thông qua đó

xác định các vấn đề quan trọng cần được tiếp tục nghiên cứu rộng rãi hơn

trong tương lai.

NCS lựa chọn hai DN và hai chuyên gia về chính sách thúc đẩy DN đầu

tư cho KHCN để tiến hành nghiên cứu sâu về các nội dung liên quan tới bốn

nhóm chính sách trong khung phân tích của luận án. Các DN và chuyên gia sẽ

đưa ra đánh giá về những vấn đề mà NCS nghiên cứu. Kết hợp với những dữ

liệu sơ cấp thu thập được qua phiếu khảo sát và các dữ liệu thứ cấp, NCS sẽ

đưa ra những đánh giá và kết luận về những vấn đề nghiên cứu của luận án.

8

(2) Phương pháp phân tích dữ liệu

Luận án sử dụng phương pháp phân tích qui luật, thống kê, tổng hợp, so

sánh và một số công cụ toán như Excel, trị trung bình để đánh giá một số nội

dung của khung phân tích.

NCS nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN ở

Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel và Việt Nam theo bốn nhóm: Chính sách trọng

cung, chính sách trọng cầu, chính sách về các yếu tố phụ trợ, chính sách liên kết.

Trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

6. Những đóng góp mới của luận án

Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về chính sách thúc đẩy

DN đầu tư cho KHCN với khung phân tích gồm bốn nhóm: Nhóm chính sách

trọng cung, nhóm chính sách trọng cầu, nhóm chính sách về các yếu tố phụ

trợ, nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia.

Xác định được mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN theo hướng

tiếp cận dự án khởi nghiệp KHCN của DN. Chuỗi cung ứng sẽ bắt đầu từ ý

tưởng ĐMST, trải qua các giai đoạn khác nhau cho tới đầu ra cuối cùng là sản

phẩm được thương mại hóa trên thị trường. Các loại hình DN với các cấp độ

đầu tư cho KHCN khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau.

So sánh Việt Nam và ba quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Đánh giá

thành công và hạn chế trong chính sách của mỗi quốc gia. Nghiên cứu và khảo

sát thực trạng chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư KHCN của Việt Nam,

từ đó rút ra một số bài học trong xây dựng chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

KHCN trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục; Nội dung

chính của luận án được chia thành bốn chương:

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách thúc đẩy

doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ.

Nội dung: Tổng hợp một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa

học trong và ngoài nước về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của

9

các quốc gia trên thế giới và Việt Nam, xác định dư địa cho luận án phù hợp

với định hướng về đối tượng, phạm vi nghiên cứu.

- Chương 2: Cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ.

Nội dung: Đưa ra vai trò của KHCN đối với tăng trưởng kinh tế của

quốc gia và đối với DN; Phân tích, luận giải các yếu tố tác động đến đầu tư

cho KHCN của DN; Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.

- Chương 3: Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và

công nghệ của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel.

Nội dung: Nghiên cứu bối cảnh quốc gia, quan điểm nhà nước và các

chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel.

- Chương 4: Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và

công nghệ của Việt Nam và những bài học rút ra từ các quốc gia trên thế giới.

Nội dung: Nghiên cứu thực trạng chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

KHCN của Việt Nam, từ đó đề xuất một số bài học về chính sách thúc đẩy

DN đầu tư cho KHCN dựa trên kinh nghiệm các quốc gia nêu trên.

10

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY

DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước về

các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN. Xét về mặt phương pháp,

những nghiên cứu này chia thành hai nhóm chính:

Nhóm thứ nhất là những nghiên cứu tổng hợp, phân tích về tất cả

những chính sách hiện có của một quốc gia, một địa phương cụ thể. Từ đó,

đưa ra những đánh giá và đề xuất những cải tiến;

Nhóm thứ hai là những nghiên cứu chuyên sâu về từng nhóm chính

sách như nhóm chính sách về tài chính, nhóm chính sách về nhân lực, v.v…

Để có cái nhìn toàn diện, tác giả đã nghiên cứu các công trình theo 02

lát cắt nội dung bao gồm: về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho

KHCN, trong đó nổi bật lên vai trò của chính sách Nhà nước và về các chính

sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.

1.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyết định đầu tƣ cho khoa học và công

nghệ

Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho hoạt động KHCN

của DN và ảnh hưởng của nó đã được xác định trong nhiều nghiên cứu, cả lý

thuyết và thực nghiệm. Trong một nghiên cứu gần đây, tác giả Becker (2013)

đã tổng hợp, phân tích các nghiên cứu này để vẽ nên bức tranh về sự hiểu biết

của chúng ta đối với vấn đề và thách thức cho các nghiên cứu trong tương lai.

Theo Becker, có 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức đầu tư cho KHCN của

DN, bao gồm:

(i) Đặc tính của mỗi DN và ngành công nghiệp: Tình hình tài chính nội bộ

ảnh hưởng đến đầu tư cho KHCN, mặc dù mức độ ảnh hưởng còn phụ thuộc vào

quy mô, tuổi của DN và từng quốc gia. Ở đâu nhà đầu tư cảm thấy an toàn hơn

sẽ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn cho các hoạt động rủi ro như KHCN [56];

11

(ii) Tính cạnh tranh: Sự cạnh tranh về thị phần có thể có các ảnh hưởng

khác biệt lên hoạt động KHCN của DN [56];

(iii) Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ: Các nghiên cứu kinh điển,

được hỗ trợ bởi các bằng chứng thực nghiệm đều cho rằng chính sách tài khóa

của chính phủ, cụ thể là tài trợ và các ưu đãi thuế, có tác động tích cực đến

mức đầu tư của DN cho KHCN [56];

(iv) Vị trí và cơ hội tiếp cận nguồn tri thức: Khoảng cách địa lý của DN

với nguồn tri thức là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động KHCN.

Sự tác động này được thực hiện thông qua ba yếu tố chính: khả năng tiếp

nhận tri thức lan toả từ các cơ sở nghiên cứu, hoạt động hợp tác nghiên cứu

chung và sự dồi dào của nguồn nhân lực chất lượng cao [56];

(v) Sự lan tỏa tri thức từ hoạt động KHCN nước ngoài: Các DN FDI

thường có trình độ công nghệ tiên tiến hơn các DN trong nước và có thể

chuyển giao công nghệ cho các DN ở nước sở tại. Ví dụ chi nhánh ở nước

ngoài của các tập đoàn đa quốc gia có thể nhận chuyển giao công nghệ, tri

thức từ công ty mẹ, sau đó chuyển giao cho các DN bản địa thông qua các

hoạt động trực tiếp như các hợp đồng nghiên cứu, hợp đồng cấp quyền hoặc

một cách gián tiếp qua hiệu ứng lan tỏa tri thức [56].

Tác giả Quan Minh Nhựt có các bài viết phân tích thực trạng và nhân tố

ảnh hưởng đến mức độ đầu tư KHCN vào sản xuất kinh doanh của các DN tại

Thành phố Cần Thơ trong lĩnh vực thương mại-dịch vụ (2014) và nông

nghiệp (2015). Kết quả khảo sát các DN cho thấy tỷ trọng đầu tư cho KHCN

trong tổng nguồn vốn của DN còn tương đối thấp và không hiệu quả. Theo tác

giả, có bốn yếu tố có ý nghĩa thống kê tác động đến quyết định đầu tư cho

KHCN của DN nông nghiệp là: Vốn chủ sở hữu, hiệu suất máy móc thiết bị,

lao động và số năm hoạt động của DN [36]; còn đối với DN thương mại-dịch

vụ có ba yếu tố tác động là: lợi nhuận, vốn chủ sở hữu và số năm hoạt động

của DN [37]. Tác giả Trần Ngọc Ca (2000) nhấn mạnh đến tầm quan trọng

của nhân lực và bổ sung yếu tố thuận lợi của thị trường đối với sản phẩm là sự

khích lệ DN đầu tư cho hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu và phát

12

triển [13]. Theo Nguyễn Sỹ Lộc và cộng sự (2006), các yếu tố tác động trực

tiếp và gián tiếp đến đầu tư cho hoạt động KHCN của DN bao gồm nhóm yếu

tố về nhu cầu công nghệ và nhóm yếu tố về nguồn cung công nghệ [33], tuy

vậy các tác giả chưa nêu được tầm quan trọng của các yếu tố này đối với hoạt

động đổi mới công nghệ của DN.

Một số các công trình nghiên cứu khác trong nước cũng có các nội

dung đánh giá thực trạng công nghệ của các DN Việt Nam bao gồm trình độ

công nghệ, khả năng xuất khẩu và cạnh tranh của các DN công nghiệp, lực

lượng cán bộ KHCN của các DN công nghiệp với các nội dung qui mô cơ cấu

theo trình độ và sự phân bố theo lĩnh vực hoạt động KHCN của lực lượng

này, tình hình nghiên cứu khoa học và đổi mới KHCN của các DN công

nghiệp, mối quan hệ gia nghiên cứu KHCN với các yếu tố sản xuất kinh

doanh ([15], [23]).

Các nghiên cứu trên thế giới nhận định sâu sắc hơn về các trở ngại của

DN, đặc biệt là trở ngại tài chính đối với DN nhỏ. Lý do được Berger đưa ra

là cả ngân hàng và các nhà đầu tư mạo hiểm-những nhà đầu tư tư nhân truyền

thống vào các DN nhỏ-thường rất kén chọn khi tiến hành đầu tư, trong khi

bản thân DN lại rất khó được tiếp cận thường xuyên vào thị trường vốn. Tính

bất đối xứng thông tin và mức độ rủi ro cao là nguyên nhân khiến các DN nhỏ

gặp bất lợi trong việc thu hút vốn đầu tư [54]. Việc sử dụng vốn dựa trên

nguồn vốn nghiên cứu và phát triển càng làm mối quan ngại về tình trạng bất

đối xứng thông tin và gia tăng rủi ro trở nên trầm trọng. Nguồn lợi nhuận mơ

hồ, không ổn định, bất lợi trong nắm bắt thông tin và các nhà đầu tư không đủ

năng lực định giá các dự án ĐMST đã khiến cho các DN vừa và nhỏ

(DNVVN) khó tiếp cận nguồn vốn cho đổi mới [66]. Hơn nữa, tài sản ĐMST

không có chức năng như tài sản thế chấp, càng khiến ngân hàng thêm lo ngại

về những rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, khả năng các DNVVN sẽ bị hạn chế tín

dụng khi tiến hành các hoạt động R&D [69]. Thực tế, nghiên cứu thực

nghiệm cho thấy một phần đáng kể các DN nhỏ xem vấn đề tài chính/vốn đầu

tư như một trở ngại cho việc thực hiện đổi mới [113]. Định mức tín dụng

13

thường được tiến hành cho các DN thâm dụng kỹ thuật nói riêng ([131],

[171]) và các DN đổi mới nói chung [151]. Đối mặt với trở ngại về tài chính

cho các dự án ĐMST, các DN có khả năng phải từ bỏ hoặc thu nhỏ quy mô

của những dự án này [94], từ đó cản trở phát triển việc làm, doanh thu, xuất

khẩu và phúc lợi kinh tế.

1.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ

Nhiều nghiên cứu ([175], [131], [135]) đã chỉ ra rằng do các thất bại

của thị trường, đầu tư từ khu vực tư nhân cho KHCN thường thấp hơn

ngưỡng tối ưu của xã hội. Bên cạnh đó, năng lực ĐMST của các DN phụ

thuộc vào hệ thống thể chế mà tại đó DN hoạt động. Do đó, vai trò của nhà

nước và công cụ chính sách là đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư

từ khu vực DN cho hoạt động KHCN.

Từ năm 1995, Buisseret đã đưa ra nhận định sự hỗ trợ của Chính phủ

có thể gây ra hiệu ứng bổ sung hành vi; Nó có thể thay đổi hành vi của một

DN nhỏ, hay tác động vào hành vi của các DN khác lên các DNVVN trong

vấn đề đầu tư cho KHCN [64]. Narayanan (2000) cũng đồng ý rằng những

động thái liên quan đến các cơ quan Chính phủ như cấp bằng sáng chế hay

trao trợ cấp, có thể đóng vai trò như là một tín hiệu thông tin tích cực về DN

gửi đến các nhà đầu tư [192]. Takalo và Tanayama (2010) đề xuất một mô

hình lý thuyết trong đó cho thấy trợ cấp công vào R&D có thể tạo ra những

dấu hiệu tích cực cho các nhà đầu tư trên thị trường và giảm thiểu các trở ngại

tài chính. Việc nhận được trợ cấp còn chứa thông tin giả định rằng quyết định

của nhà nước không hoàn toàn là ngẫu nhiên, các cơ quan cấp kinh phí có thể

được định hướng để sàng lọc và lựa chọn các dự án tốt hơn các nhà đầu tư

trên thị trường. Thêm vào đó, Chính phủ là cơ quan tập trung nhận được

nhiều nguồn thông tin, từ đó có cái nhìn tổng quan chính xác hơn về tất cả các

lĩnh vực, có thể có lợi thế về mặt thông tin hơn các nhà đầu tư tư nhân [190].

Lerner (2002) cho rằng cũng là chính đáng khi các chuyên gia của Chính phủ

có thể vượt qua những trở ngại về mặt thông tin trong khi các nhà đầu tư nhân

thì không thể [129].

14

Về tác động của chính sách trong việc thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN,

Nguyễn Việt Hòa và các cộng sự đã xác định những chính sách được DN

quan tâm, những chính sách DN ít quan tâm, từ đó đưa ra phương thức tác

động của cơ chế, chính sách công và các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy

DN đầu tư cho KHCN.

Tác giả Hoàng Xuân Long (2011) đã nghiên cứu về chính sách của địa

phương nhằm thúc đẩy DN hoạt động KHCN trên địa bàn. Qua đó khái quát

hóa những xu hướng ảnh hưởng tới chính sách thúc đẩy, hỗ trợ DN do địa

phương ban hành; Đồng thời đề xuất các giải pháp xây dựng chính sách thúc

đẩy, hỗ trợ DN hoạt động KHCN của địa phương.

Nghiên cứu sâu hơn vào chính sách thúc đẩy DN đầu tư vào R&D có

thể thấy hiện diện các nhóm chính sách: hỗ trợ tài chính trực tiếp, ưu đãi thuế,

phát triển nhân lực KHCN, đầu tư phát triển hạ tầng KHCN, chính sách liên

kết các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia.

 Hỗ trợ tài chính trực tiếp

Để giải quyết vấn đề trở ngại tài chính cho các dự án ĐMST của DN,

nhiều nước đã chi ra một lượng lớn công quỹ đề giảm thiểu nợ và chênh lệch

vốn cho dự án đổi mới của các DN nhỏ. Một loạt những chính sách như các

khoản vay, bảo lãnh vốn vay và tài trợ nghiên cứu đã được thực thi ([177],

[93]). Ngân sách chính phủ cần phải tạo ra các hiệu ứng lan tỏa, nhằm tăng

cường cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài và công bằng ngân sách. Feldman và

Kelley (2006) cũng xác nhận rằng trợ cấp nhận được vào hoạt động R&D sẽ

thúc đẩy ngân sách từ các nguồn lực khác.

Tác giả Lê Xuân Bá và các cộng sự (2008) đã nghiên cứu chính sách

huy động các nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ (ĐMCN) của DN,

theo đó có thể chia làm ba loại chính sách: Hỗ trợ trực tiếp cho DN đầu tư

ĐMCN; Gián tiếp thúc đẩy DN bỏ vốn đầu tư ĐMCN và huy động các nguồn

vốn xã hội hóa khác. Từ đó, đề xuất thực hiện chương trình quốc gia hỗ trợ

các DNVVN nâng cao năng lực đầu tư ĐMCN, bởi các DNVVN thường khó

khăn trong tiếp cận nguồn vốn đầu tư.

15

Ngoài ra còn một số nghiên cứu về chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp

như: “Chính sách KHCN trong bối cảnh 4.0” [14], “Nghiên cứu các hình thức

đầu tư tài chính cho DN KHCN” (của Hoàng Văn Tuyên, “Nghiên cứu cơ sở

lý luận và thực tiễn việc khuyến khích DN trích Quỹ phát triển KHCN” (của

Trần Xuân Đích).

 Ƣu đãi thuế

Theo Hall và Van Reenen (2000), Chính sách ưu đãi thuế cho hoạt

động R&D là phần thuế mà DN có thể yêu cầu giảm đi nếu như họ tham gia

vào các hoạt động R&D, nhờ đó thúc đẩy DN đầu tư vào lĩnh vực này. Chính

sách ưu đãi thuế thường có ảnh hưởng đối với tất cả các DN trong nền kinh tế,

vì thế các DN tư nhân cần phải đánh giá để lựa chọn và xác định loại dự án

mà họ muốn đăng ký. Khác với việc lựa chọn các dự án có lợi ích xã hội cao

làm tăng tỷ lệ lợi nhuận như các chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp, các

chính sách ưu đãi về thuế này sẽ làm giảm chi phí biên của các hoạt động

R&D [62]. Hiện nay, chính sách ưu đãi thuế là một trong những công cụ

chính sách hỗ trợ cho hoạt động R&D phổ biến nhất. Hơn 20 quốc gia thuộc

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đang thúc đẩy đầu tư tư nhân

cho R&D thông qua hình thức này, bao gồm cả các quốc gia đang phát triển

như Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi [162].

Mặc dù các quốc gia phát triển đã thi hành các chính sách ưu đãi thuế

cho hoạt động R&D kể từ những năm 1960, nhưng có rất ít nghiên cứu được

công bố về việc đánh giá hiệu quả của những chính sách đó trong việc thúc

đẩy hoạt động sáng tạo tại các DN. Tuy nhiên, từ những năm 1990 trở đi, các

nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng ưu đãi thuế của Chính phủ Hoa Kỳ cho

các hoạt động R&D trên thực tế có hiệu quả đối với việc thúc đẩy đầu tư cho

hoạt động nghiên cứu sáng tạo [60]. Các kết quả thu được không giống nhau,

do tại một số quốc gia, các chính sách ưu đãi thuế không có hiệu quả đối với

hoạt động R&D [70], trong khi một số quốc gia khác lại cho thấy hiệu quả

tích cực [60]. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu gần đây hơn lại cho thấy

16

rằng chính sách ưu đãi thuế có hiệu quả trong việc thúc đẩy lĩnh vực kinh tế

tư nhân đầu tư cho R&D như ở Italy [168], Pháp [146] và Canada [77].

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách ưu đãi

thuế đầu tư cho R&D của DN, nhưng các nghiên cứu này đều tập trung vào

các quốc gia phát triển, với hệ thống nghiên cứu sáng tạo đã đạt trình độ cao.

Các nghiên cứu này đều cho thấy hiệu quả tích cực của chính sách ưu đãi thuế

cho đầu tư R&D của DN ([146], [55], [195], [142]). Nghiên cứu đầu tiên

trong lĩnh vực này cho các quốc gia kém phát triển hơn là của Harris (2009),

khi tác giả này tập trung nghiên cứu hiệu quả của chính sách ưu đãi thuế đối

với hoạt động R&D tại Bắc Ai len. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động

R&D có tương quan với sự thay đổi của chi phí vốn của DN, nhưng ảnh

hưởng này thay đổi tương đối chậm theo thời gian [109]. Một nghiên cứu

khác của Lee (2011) đã so sánh ảnh hưởng của các chính sách này tại một số

các quốc gia như Canada, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Ấn Độ.

Một điểm quan trọng nhưng chưa được chú ý nhiều trong các nghiên

cứu là ảnh hưởng của chính sách ưu đãi thuế đến đầu tư R&D của các DN sẽ

khác nhau tùy thuộc vào từng nền kinh tế của mỗi quốc gia [188]. Ngoài ra,

các DN hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau cũng sẽ thể hiện sự khác biệt

về chiến lược phát triển và đầu tư cho R&D ([172], [147]). Các DN dựa chủ

yếu vào các hoạt động R&D thường sẽ tập trung vào các ngành công nghiệp

có trình độ kỹ thuật cao, trong khi các DN khác sẽ không lựa chọn sử dụng

các hoạt động R&D làm chiến lược ưu tiên để tạo ra hoặc áp dụng các công

nghệ mới.

Bên cạnh đó, dù lý do cơ bản của việc thi hành những chính sách ưu đãi

thuế cho hoạt động R&D đã khá rõ ràng, nhưng hiệu quả của những chính

sách này không hoàn toàn coi là hiển nhiên. Các DN tư nhân thường sử dụng

ưu đãi thuế để thực hiện những dự án có lợi nhuận cá nhân cao, khiến cho

việc đầu tư của các DN này tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn, như vậy

hiệu quả của chính sách không đạt như mong muốn ([81], [77]). Một vấn đề

khác đối với chính sách ưu đãi thuế cho hoạt động R&D, đặc biệt là khi được

17

thực hiện dựa trên khối lượng của các hoạt động R&D, là chính sách này sẽ

áp dụng cho cả các dự án R&D cận biên (marginal) và dưới biên

(inframagirnal); Nhưng do các chính sách dưới biên luôn được thực hiện ở bất

kỳ hoàn cảnh nào, nên hiệu quả thường không được thể hiện rõ [74]. Cuối

cùng, cần phải lưu ý rằng nếu có những yếu tố giới hạn như thiếu hụt nguồn

nhân lực, hoặc khó tiếp cận cơ sở hạ tầng công nghệ, thì việc đầu tư cho một

thiết bị đơn lẻ là không đủ để đạt được mục đích tăng đầu tư cho R&D [58].

Tuy nhiên, chính sách ưu đãi thuế lại có khía cạnh khá tích cực, tức là để có

thể nhận được ưu đãi thuế, trước tiên DN phải thực hiện các đầu tư được miễn

thuế, sau đó phải chứng minh được việc đầu tư này có lợi nhuận.

 Phát triển nhân lực KHCN

Romer (1990) đã đưa ra một mô hình, trong đó tăng trưởng dựa trên kết

quả R&D, thể hiện trong những thay đổi công nghệ mà các công ty sử dụng

để tối đa hóa lợi nhuận. Trong mô hình của Romer, có bốn nhân tố cơ bản của

sản xuất: vốn vật chất, lao động, nguồn nhân lực và công nghệ. Mô hình này,

hay theo cách mô tả của Valdes (1999) sau này thì tăng trưởng rõ rệt hơn với tỷ lệ

lớn nguồn nhân lực nằm trong lĩnh vực R&D. Mặc dù vậy, theo mô hình của

Romer thì R&D là một sản phẩm có đặc thù riêng và chỉ thúc đẩy nền kinh tế có

đặc điểm độc quyền và không đả động gì đến mô hình kinh tế thương mại tự do

mà thế giới gần đây vẫn theo đuổi. Tuy nhiên, rõ ràng, trong điều kiện cạnh tranh

hoàn hảo, các công ty có thể sử dụng các kết quả R&D miễn phí, dẫn đến việc

giảm thiểu sự hào hứng của các nhà khoa học trong việc tham gia vào việc nghiên

cứu. Mặc dù vậy, quan điểm về việc R&D là một trong những nhân tố chính thúc

đẩy nền kinh tế theo mô hình của Romer vẫn được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa

học khác sau đó.

Phạm Xuân Đà (2017) trong một nghiên cứu về chính sách phát triển

nguồn nhân lực KHCN đã giới thiệu kinh nghiệm của một số quốc gia phát

triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Tấn Kiệt (2013) cũng nhận ra

tầm quan trọng của phát triển nhân lựa KHCN trong các hoạt động R&D

thông qua nghiên cứu về kinh nghiệm quản lý KHCN thông qua các quỹ tại

18

Hoa Kỳ. Cùng với nhận định tính hiệu quả của một số chính sách phát triển

nhân lực KHCN của Tấn Kiệt, nghiên cứu của Thanh Nhàn (2014) cho thấy

chính sách này cũng được áp dụng ở một số nước Nam mỹ như Brazil,

Argentina, Venezuela. Nhìn chung, các quốc gia đều hướng tới phát triển

nhân lực KHCN thông qua sử dụng các chính sách đào tạo nguồn nhân lực

chất lượng cao; hạn chế chảy máu chất xám; cho phép các nhà khoa học phát

huy tính chủ động, sáng tạo; tăng tính tự chủ về tài chính và tăng cường hợp

tác của các tổ chức KHCN với DN.

Về chính sách phát triển nhân lực KHCN của Việt Nam, theo Trần Đắc

Hiến (2016), nhân lực nói chung, nhân lực KHCN nói riêng luôn được Đảng,

Nhà nước quan tâm cả về chất và lượng. Nhìn tổng thể, số lượng nhân lực

KHCN của nước ta không phải ít so với quy mô dân số cũng như so với các

nước trong khu vực, thậm chí số người có trình độ sau đại học khá lớn, nhưng

chất lượng còn nhiều bất cập. Thực trạng nêu trên có cả nguyên nhân khách

quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân là thiếu chính sách cần thiết để

đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và khai thác hiệu quả năng lực của đội ngũ nhân

lực KHCN. Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN, đáp

ứng sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện hiện nay, cần

thiết phải có chính sách phù hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực

KHCN một cách bài bản.

Đỗ Phú Hải (2014) đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa

học ở Việt Nam hiện còn bất cập từ khâu tuyển dụng, đào tạo, cho tới sử

dụng, đãi ngộ. Điều đó cản trở phát triển những nhà khoa học đầu ngành,

những tập thể khoa học mạnh, ngăn cản việc đạt được mục tiêu đưa Việt Nam

thành nước có nền KHCN đạt trình độ phát triển của nhóm nước dẫn đầu

ASEAN. Nhân lực KHCN ngày nay đã trở thành nhân tố quyết định tới việc

thực hiện thành công các mục tiêu KT-XH cả trung và dài hạn. Trên bình diện

quốc gia, việc thiếu đội ngũ cán bộ KHCN giỏi còn trở thành lực cản đối với

tiến trình đi tới những mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.

19

 Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đối mới sáng tạo

Kamien (1992) cho rằng bên cạnh khả năng tiếp cận với nguồn tri thức,

các DN cũng được hưởng lợi thông qua các hoạt động nghiên cứu chung với

các trường đại học. Sự bù đắp lẫn nhau về năng lực nghiên cứu giúp DN vượt

qua rào cản về chi phí và thời gian trong việc phát triển công nghệ và sản

phẩm mới, trong khi các trường đại học có thể được hưởng lợi từ hoạt động

thương mại hoá công nghệ [130].

Do đó các quốc gia muốn phát triển R&D đều hướng tới việc cải thiện

năng lực nghiên cứu của hệ thống các trường đại học, viện nghiên cứu và thúc

đẩy sự liên kết giữa các trung tâm nghiên cứu này với hoạt động R&D của

khu vực DN.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu cho luận án

Những nghiên cứu trong và ngoài nước về chính sách thúc đẩy DN đầu

tư cho KHCN trong Chương này mang lại giá trị tham khảo tốt cho luận án,

đặc biệt trong việc định hình nhóm chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

KHCN mà Việt Nam có thể áp dụng vào công tác xây dựng và triển khai.

Những nghiên cứu lý luận về các vấn đề cơ bản trong KHCN, R&D, ĐMST

cũng là nguồn căn cứ tốt khi luận án định hướng tiếp cận theo chuỗi cung ứng

các sản phẩm KHCN.

Tuy nhiên, thực trạng đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công

nghệ của các quốc gia trên thế giới cho thấy không có mô hình chung cho tất cả

các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia chưa có nền tảng phát triển KHCN. Các

nghiên cứu chính sách của Việt Nam chỉ phân tích trên một số phương diện,

chưa tìm được các quốc gia tương đồng và chưa đánh giá được sự phù hợp của

chính sách nếu áp dụng vào thực tế nước ta. Đây là vấn đề mà các nhà kinh tế

của Việt Nam đã và đang bàn luận khá sâu và chưa có giải pháp tối ưu, đặc biệt

là chính sách thúc đẩy đầu tư từ khu vực DN.

Quan điểm tiếp cận nghiên cứu của luận án là phân tích, tổng hợp về các

chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN từ các quốc gia, đặc biệt là của

Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel. Nghiên cứu và khảo sát thực nghiệm về các

20

chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN hiện có của Việt Nam. Từ đó, đề

xuất một số bài học kinh nghiệm phù hợp theo từng nhóm chính sách.

21

Tiểu kết chƣơng 1

Tổng quan một số nghiên cứu về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở một số nước trên

thế giới như: Mỹ, Nam Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel,... cũng

như của Việt Nam. Các nghiên cứu cho thấy những góc nhìn khác nhau về

các chính sách có ảnh hưởng tới việc đầu tư vào KHCN của khu vực DN. Dư

địa của nghiên cứu được xác định là quan điểm tổng hợp về các chính sách

thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN chứ không chỉ tập trung vào một hay một vài

chính sách cụ thể. Luận án nghiên cứu các chính sách theo mô hình chuỗi

cung ứng sản phẩm KHCN bắt đầu từ ý tưởng ĐMST, trải qua các giai đoạn

khác nhau cho tới đầu ra cuối cùng là sản phẩm được thương mại hóa trên thị

trường; Các chính sách này được chia thành các nhóm. Việc đánh giá hiệu

quả công tác xây dựng và triển khai các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

KHCN dựa trên hai góc độ là từ phía người làm chính sách và từ phía DN. Từ

đó, luận án sẽ tập trung vào những chính sách còn thiếu hoặc yếu ở từng giai

đoạn, kết hợp với những học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia được nghiên

cứu để đưa ra những đề xuất chính sách phù hợp với điều kiện và thực tiễn

của Việt Nam.

22

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY

DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

2.1. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với tăng trƣởng kinh tế

Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành để tính toán tác động

của hoạt động KHCN đối với tăng trưởng ở cả 3 cấp độ: doanh nghiệp, ngành

công nghiệp và quốc gia/vùng.

Ở cấp độ DN, tỉ suất hoàn vốn có thể được đo lường thông qua tác động

của khoản đầu tư cho hoạt động R&D đối với sự tăng trưởng năng suất của

chính công ty đó. Theo tính toán của Griliches (1992), bằng việc sử dụng các

số liệu ở cấp độ DN của Mỹ, độ co giãn của đầu ra, được định nghĩa bằng

phần trăm thay đổi của đầu ra chia cho phần trăm thay đổi của đầu vào, ước

tính là khoảng 0,07. Điều đó có nghĩa với mỗi 10% tăng thêm của chi phí cho

hoạt động R&D, sản lượng đầu ra sẽ tăng thêm 0.7%. Nói cách khác, tỉ suất

hoàn vốn đối với hoạt động R&D của DN là khoảng 27% [101].

Các nghiên cứu khác ở cấp độ DN từ Canada, Đài Loan, Ý cũng được

thực hiện tương tự. Trong khi đó, Hall và cộng sự (2010) tổng hợp từ các

nghiên cứu trước đó, ước tính độ co giãn đầu ra đối với hoạt động R&D ở cấp

độ DN dao động từ 0,01 đến 0,25, nhưng tập trung quanh khoảng 0,08. Độ co

giãn này tương đương với tỉ suất hoàn vốn thông thường trong khoảng 20-30%,

trong đó một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 75% [106]. Tính toán này

khá sát với ước lượng từ nghiên cứu của Griliches nói trên.

Ở cấp độ ngành công nghiệp và quốc gia, tỉ suất hoàn vốn xã hội (social

rate of return) thường được ước tính thông qua đo lường tác động của hoạt

động R&D của một DN đối với các DN khác. Các DN khác này có thể không

hoạt động cùng ngành hoặc địa bàn với DN có hoạt động R&D. Tổng kết các

nghiên cứu về vấn đề này, Griliches (1992) đã phát biểu rằng các nghiên cứu

đều có chung một luận điểm: hiệu ứng lan toả tri thức có tồn tại, mức độ của

nó khá lớn, và tỉ suất hoàn vốn xã hội cao hơn đáng kể so với tỉ lệ của đối với

23

từng DN. Khi một ý tưởng khoa học được sáng tạo ra, nó rất dễ được bắt

chước bởi các DN khác, mặc dù việc bảo hộ sáng chế và độ trễ trong phổ biến

tri thức mới cho phép người phát minh hưởng lợi từ sáng tạo của mình. Việc

sao chép ý tưởng cũng tốn kém do mất nhiều thời gian và công sức để giải

mã. Điều đó cho thấy hoạt động R&D không chỉ đóng vai trò thúc đẩy sáng

tạo công nghệ mới mà còn rất quan trọng trong việc triển khai các công nghệ

hiện có [101].

Griffith, Redding và Van Reenen (2000) cung cấp một khuôn khổ thực

nghiệm trong đó tỉ suất hoàn vốn đối với hoạt động R&D được cấu thành từ

tác động lên năng suất thông qua sáng tạo và tác động thông qua nâng cao

năng lực bắt chước công nghệ. Điều đáng lưu ý là yếu tố thứ 2 đặc biệt quan

trọng đối với các DN, các ngành công nghiệp và các quốc gia đi sau trong

cuộc đua công nghệ. Các quốc gia càng ở phía sau đường biên tiên phong về

công nghệ càng có cơ hội lớn trong việc tăng chỉ số năng suất các yếu tố tổng

hợp (Total Factor Productivity - TFP) thông qua chuyển giao công nghệ từ

các quốc gia phát triển hơn [99].

Trên thực tế, theo báo cáo của Ulku (2004), thông qua việc sử dụng

một vài kỹ thuật dữ liệu cùng với số liệu về chi tiêu cho hoạt động R&D, tổng

sản phẩm quốc nội (GDP), đầu tư, dân số, và xuất nhập khẩu tại 20 quốc gia

trong khối OECD và 10 quốc gia khác nằm ngoài khối OECD trong giai đoạn

từ 1981 đến 1997, đã phát hiện thấy sự đổi mới đến từ các hoạt động R&D có

tác động tích cực lên đầu ra của đầu ra ở cả các nước phát triển và đang phát

triển. Cụ thể hơn, theo Hulya Ulku, cứ 1% tăng lên trong chỉ số sáng tạo có

thể dẫn đến mức tăng trưởng khoảng 0,05% ở cả các nước OECD và các nước

không thuộc OECD trong khi cứ 1% tăng lên về chi tiêu R&D hàng năm của

Chính phủ sẽ làm tăng chỉ số sáng tạo lên khoảng 0,2% [116]. Hay nói cách

khác, báo cáo này đã chỉ ra rằng những hoạt động KHCN đã gián tiếp tác

động thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua việc kích thích sự đổi mới và

sáng tạo trong nội tại của một quốc gia. Theo quy tắc bắc cầu, kết quả báo cáo

của Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF) chỉ ra rằng cứ 1% tăng lên về chi tiêu

24

KHCN hàng năm của Chính phủ sẽ mang lại tầm 0,01% GDP. Gần đây hơn,

trong một bài báo đăng trên tạp chí Thủ tục - Khoa học Xã hội và Hành vi số

229 (2016), Rana Deljavan Anvari và Davoud Norouzi đã sử dụng phương

pháp bình phương nhỏ tổng quát để điều tra tác động của R&D và ba biến số

khác về phát triển kinh tế ở 21 quốc gia bao gồm cả những quốc gia phát triển

và đang phát triển tại Châu Âu trong giai đoạn từ 2005 đến 2013. Theo đó,

R&D cùng với thương mại điện tử được xác nhận là có ảnh hưởng tích cực

trực tiếp đến GDP bình quân đầu người trong quãng thời gian này. Kết quả

cho thấy cứ mỗi phần trăm tăng lên trong chi tiêu R&D có thể sẽ mang lại

tăng trưởng 0,0168% của GDP bình quân đầu người [174]. Kết luận này

chênh lệch không quá nhiều với kết luận của báo cáo về mối liên hệ giữa đổi

mới công nghệ được tạo ra trong các lĩnh vực R&D và tăng trưởng kinh tế của

IMF tế năm 2004 đã nói ở trên. Cũng năm 2016, tại một bài báo cáo khác

đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 29 do Svetlana Sokolov-Mladenović,

Slobodan Cvetanović, và Igor Mladenović nghiên cứu về ảnh hưởng của chi

tiêu R&D lên tăng trưởng kinh tế trong khối EU28 trong thập niên 2002-2012

cũng đưa ra kết luận tích cực cho mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Theo

Svetlana Sokolov-Mladenović, Slobodan Cvetanović, và Igor Mladenović,

việc tăng chi tiêu cho R&D theo tỷ lệ với GDP lên 1% sẽ làm tăng tốc độ tăng

trưởng GDP thực lên 2,2% [186]. Ngoài hai công trình nghiên cứu này, còn

nhiều bài báo khác cũng ủng hộ tầm quan trọng của hoạt động R&D vào tăng

trưởng kinh tế và các mặt khác của cả nền kinh tế như công trình nghiên cứu

của Sylwester (2001) với 20 quốc gia OECD vào năm 2001. Theo nghiên cứu

này, mặc dù mối liên hệ giữa mức chi tiêu R&D và tốc độ phát triển kinh tế

không đồng bộ xuyên suốt các quốc gia, nếu chỉ tính riêng các quốc gia trong

khối G7 thì kết quả lại hoàn toàn khác. Còn nhiều báo cáo nghiên cứu khác

ủng hộ quan điểm hoạt động R&D thúc đẩy sáng tạo và tăng trưởng kinh tế

như Argentino Pessoa (2010), Kokko, Tingvall và Videnord (2015), Gumus

và Celikay (2015), và Freimane và Balina (2016).

25

2.2. Vai trò của đầu tư từ khu vực doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ

DN đầu tư cho KHCN được hiểu là quá trình DN sử dụng các nguồn

lực về tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để tiến hành

các hoạt động KHCN nhằm tạo ra những sản phẩm mới, công nghệ mới, hay

những quy trình mới góp phần tăng năng suất lao động, mang lại lợi nhuận

cho DN và phát triển kinh tế đất nước.

Đầu tư bài bản cho nghiên cứu các ứng dụng KHCN mới là chiến lược

đã giúp nhiều DN tạo bước đột phá trong ĐMCN, sản phẩm, xây dựng thương

hiệu, quy trình sản xuất, củng cố năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng.

Hầu hết các tiến bộ công nghệ đều đỏi hỏi sự đầu tư có chủ đích, ở một

giai đoạn nào đó, của DN đang tìm kiếm lợi nhuận [103]. Do vậy, các đổi mới

công nghệ trong công nghiệp được hình thành từ đầu tư cho hoạt động KHCN

là động lực chính của tăng trưởng kinh tế và cần sự đầu tư lớn các nguồn lực để

có thể gặt hái được lợi ích từ sự phát triển của các ý tưởng khoa học.

Các nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm đều khẳng định vai trò

quan trọng của hoạt động KHCN đối với sự tăng trưởng kinh tế ở cả ba cấp

độ: doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Thêm nữa, các nghiên cứu cũng chỉ ra

rằng tỉ suất hoàn vốn tính chung cho xã hội cao hơn đáng kể so với tỉ suất

hoàn vốn của từng DN. Trong khi đó, các DN, với bản chất tìm kiếm lợi

nhuận, quyết định mức đầu tư cho KHCN dựa trên tỉ suất hoàn vốn của hoạt

động này. Vì tỉ suất hoàn vốn này thấp hơn mức chung xã hội được hưởng lợi,

mức độ đầu tư của DN cho KHCN đang thấp hơn nhiều so với mức tối ưu.

Với hiệu quả kinh tế của hoạt động KHCN, đây là khoảng trống (hoặc thất bại

của thị trường) mà các chính phủ cần can thiệp để đạt mức tối ưu, trong đó

cân bằng được lợi ích của DN và xã hội từ hoạt động đầu tư cho KHCN. Nếu

lấy con số khiêm tốn nhất trong các ước tính nêu trên, giả sử tỉ suất hoàn vốn

xã hội đối với hoạt động KHCN là 30% và tỉ suất hoàn vốn riêng của DN là

7-14%. Như vậy, để đạt mức tối ưu, cần tăng mức đầu tư cho KHCN lên hai

26

đến bốn lần so với mức chúng ta đang đầu tư hiện nay để đạt mức tối ưu trong

tăng trưởng.

Chính nhờ vào những nghiên cứu này mà càng ngày các quốc gia phát

triển, đang phát triển và có thu nhập trung bình, hay những quốc gia có thu

nhập thấp đều đang chú tâm vào nghiên cứu và phát triển. Trên thực tế, từ

năm 2000 đến năm 2013, chi tiêu R&D tính theo phần trăm GDP, số lượng nhà

nghiên cứu, bằng sáng chế, cũng như tài liệu khoa học công bố tại tất cả các

nước đều đang theo xu hướng tăng lên [117]. Đạt được điều này không thể

không kể đến sự tập trung vào chính sách thúc đẩy R&D của chính phủ trên

toàn cầu.

2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến đầu tƣ cho hoạt động khoa học và công

nghệ của doanh nghiệp

Theo Becker (2013), có 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức đầu tư cho

R&D của DN. Các yếu tố sẽ được phân tích cụ thể sau đây.

2.3.1. Đặc tính của mỗi doanh nghiệp và ngành công nghiệp

Nhà kinh tế chính trị kinh điển Schumpeter từ rất sớm đã đưa ra cái

nhìn về sự ảnh hưởng của tình hình tài chính nội bộ (được thể hiện chủ yếu

qua dòng tiền và doanh thu đến đầu tư cho R&D). Nhận định này được ủng

hộ bởi nhiều nghiên cứu thực nghiệm, mặc dù mức độ ảnh hưởng còn phụ

thuộc vào quy mô, tuổi của DN và từng quốc gia. Theo đó, các DN nhỏ và

non trẻ sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tình hình tài chính nội bộ khi quyết

định đầu tư cho R&D ([59], [105], [63]). Điều này khá dễ hiểu vì các DN nhỏ

và còn non trẻ thường khó tiếp cận với các nguồn tài chính bên ngoài, do vậy

phải phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn tài chính nội bộ khi quyết định tài trợ

cho hoạt động R&D. Độ “nhạy cảm” với “sức khoẻ tài chính” của DN còn

khác nhau giữa các quốc gia. Nghiên cứu của Hillier, Pindado, De Queiroz và

De La Torre (2011) với mẫu gồm chín quốc gia Châu Âu, Nhật Bản và Hoa

Kỳ cho thấy hoạt động R&D của DN ít nhạy cảm với dòng tiền hơn ở các

quốc gia có năng lực quản trị DN tốt hơn, đặc biệt trong việc bảo vệ lợi ích

của các nhà đầu tư.

27

2.3.2. Tính cạnh tranh

Các lý thuyết kinh tế cho rằng sự cạnh tranh về thị phần có thể có hai

ảnh hưởng khác biệt lên hoạt động R&D của DN. Lập luận thứ nhất, chủ yếu

được ủng hộ bởi những nhà kinh tế theo mô hình tăng trưởng Schumpeter, cho

rằng đối với các DN đã có vị trí ổn định trên thị trường, đặc biệt những DN

đang nắm giữ thị phần lớn, sự cạnh tranh hoặc tỉ lệ bị bắt chước cao sẽ làm

giảm động lực để đầu tư cho hoạt động R&D vì chúng làm giảm “phần

thưởng” dành cho những sáng tạo mới của DN ([170], [102], [50], [65]).

Ngược lại với lập luận này là quan điểm cho rằng hoạt động R&D có

thể được sử dụng bởi các DN như là yếu tố chiến lược trong cuộc chiến dành

thị phần. Nghiên cứu của Spencer và Brander (1983) cho thấy các DN trong

nước có xu hướng đầu tư mạnh mẽ hơn cho R&D khi phải đối mặt với cạnh

tranh từ các DN đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Clemenz (1990) cho rằng

đầu tư cho R&D không phải là một chiến lược hiệu quả trong các ngành công

nghiệp có tính cạnh tranh thấp vì “phần thưởng” thiếu rõ ràng.

Các quan điểm lý thuyết trái ngược nhau đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu

thực nghiệm về vấn đề này. Một nghiên cứu năm 2005 được thực hiện bởi

Aghion, Bloom, Blundell, Griffith và Howitt đã xem xét và phân tích cả hai

giả thuyết, sử dụng số liệu từ các ngành công nghiệp sản xuất của Anh. Kết

quả là mối liên hệ giữa mức độ cạnh tranh và chỉ số ĐMST được biểu diễn

như một hình chữ U ngược. Khi thị trường còn chưa cạnh tranh cao độ, các

DN nào vượt lên trước các đối thủ cạnh tranh trước sẽ có lợi thế rất lớn trong

việc nắm giữ thị phần. Do đó, các DN có nhiều động lực để đầu tư hơn cho

R&D trong giai đoạn này. Ngược lại, trong một thị trường có tính cạnh tranh

cao, tạo ra một sự độc quyền về công nghệ và sản phẩm sẽ khó hơn rất nhiều.

Lợi thế biên cho hoạt động R&D giảm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ đầu

tư cho hoạt động R&D [51].

2.3.3. Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ

Chính sách KHCN hiện nay cũng được gọi là chính sách KHCN sáng

tạo (KHCNST) [75]. Người ta thường sử dụng thuật ngữ chính sách

28

KHCNST như một loại chính sách, nhưng cũng có thể coi đó là ba loại “ý

tưởng” khác nhau về chính sách - chính sách khoa học, chính sách công nghệ

và chính sách đổi mới [143]. Mỗi loại có đặc điểm riêng biệt:

Chính sách khoa học tập trung vào việc thúc đẩy sản xuất tri thức khoa

học liên quan đến việc phân bổ nguồn lực giữa các hoạt động khoa học khác

nhau. Chính sách khoa học phục vụ các mục tiêu khác nhau từ sự tò mò thuần

túy về hiểu thế giới đến các mục tiêu quân sự cụ thể như bom nguyên tử

[122]. Chính sách khoa học đôi khi dựa trên một mô hình tuyến tính trong đó

những nỗ lực nghiên cứu sẽ tự động chuyển ít nhiều thành kết quả KT-XH.

Chính sách công nghệ là tập trung vào việc thúc đẩy sự phát triển và sử

dụng các công nghệ cụ thể, nó được coi là có tầm quan trọng chiến lược đối với

đất nước. Chính sách công nghệ dựa trên giả định rằng có những công nghệ chiến

lược cụ thể có tác động lớn đến nền kinh tế và các mục tiêu xã hội, nó tập trung

vào sự phát triển và cải tiến của các công nghệ đó hoặc áp dụng rộng rãi hơn.

Chính sách đổi mới là sự kết hợp chính sách KHCN, nhằm can thiệp vào

quá trình đổi mới toàn bộ từ khoa học (thăm dò) đến ứng dụng vào các công

nghệ cụ thể, giới thiệu ra thị trường và phổ biến rộng rãi. Chính sách đổi mới

không chỉ chú ý đến nội dung KHCN mà còn cả khung thể chế và những thay

đổi rộng hơn cần thiết cho những đổi mới được đưa vào thị trường và sử dụng.

Chính sách còn có thể được hiểu là hành động chủ ý từ các Chính phủ

trong nền kinh tế với mục đích đạt được mục tiêu thông qua việc kích thích

những thay đổi trong hành vi của các cá nhân và tổ chức. Khi nói đến các

chính sách KHCNST, mục đích là ảnh hưởng đến tốc độ và hướng của các

quy trình trong KHCNST.

Theo hướng tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN thì những chính

sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCNST ngoài việc chia thành bốn nhóm:

trọng cung, trọng cầu, hỗ trợ, liên kết [184], có thể tham khảo mô hình chính

sách hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST do Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF)

giới thiệu trong Chương trình đào tạo về Hệ sinh thái khởi nghiệp năm 2019.

29

Hình 2.1. Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Nguồn: NATIF (2019)

Từ hình 2.1 cho thấy, căn cứ vào quy trình phát triển công nghệ có thể

chia thành bốn giai đoạn cơ bản:

Giai đoạn 1. Nghiên cứu, gồm 2 quy trình chính là: nghiên cứu cơ bản;

nghiên cứu ứng dụng.

Giai đoạn 2. Thực nghiệm, gồm 3 quy trình chính là: phát triển công

nghệ; triển khai thực nghiệm; sản xuất thực nghiệm.

Giai đoạn 3. Chuyển giao, gồm 3 quy trình chính là: chuyển giao công

nghệ; phát triển sản phẩm mới; tiếp thị sản phẩm.

Giai đoạn 4. Tăng trưởng, gồm 2 quy trình chính là: tăng trưởng bền

vững; hoàn thiện, cải tiến sản phẩm.

30

Bảng 2.1. Chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho khoa học và công nghệ theo

hƣớng tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm khoa học và công nghệ.

Nghiên cứu

Thực nghiệm

Chuyển giao

Tăng trưởng

Quy

B1.

B2.

B3.

B4.

B5.

B6.

B7.

B8.

B9.

B10.

trình

Nghiê

Nghiê

Phát

Triển

Sản

Chuyển

Phát

Tiếp

Tăng

Hoàn

phát

n cứu

n cứu

triển

khai

xuất

giao

triển

thị sản

trưởn

thiện,

triển

cơ bản

ứng

công

thực

thực

công

sản

phẩm

g bền

cải tiến

công

dụng

nghệ

nghiệ

nghiệ

nghệ

phẩm

vững

sản

nghệ

m

m

mới

phẩm

Chứng

Phát

Sản

Chuẩn

Phát

Thươn

Cải tiến công

Quy

minh ý

triển

phẩm

hóa

triển

g mại

nghệ, duy trì

trình

tưởng,

sản

ra thị

công

sản

hóa

sản phẩm mới

phát

phẩm

trường

nghệ

phẩm

sản

triển

hình

mẫu

phẩm

sản

phẩm

Chính sách trọng cung

Chính sách trọng cầu

Chính

sách

Chính sách về các yếu tố phụ trợ

thúc

Chính sách liên kết

đẩy

Nguồn: Steinmueller (2010), NATIF (2019) và tác giả tổng hợp (2019)

Trong bốn giai đoạn này, nguồn vốn nhà nước được đầu tư vào ba giai

đoạn 1, 2 và 3 (hình 2.1). Giai đoạn bốn là sau khi sản phẩm được thương mại

hóa, sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng và hoàn thiện. Xét về tính chất, giai

đoạn 1, 2 thể hiện bản chất của những chính sách trọng cung, còn giai đoạn 3

thể hiện bản chất của những chính sách trọng cầu. Ngoài ra các chính sách về

các yếu tố phụ trợ (nhân lực KHCN chất lượng cao, hạ tầng KHCN); Các

chính sách liên kết giữa các bên sẽ xuyên suốt trong các quy trình từ đầu tiên

tới cuối cùng của chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN. Có thể tích hợp những

quy trình, chính sách này ở bảng 2.1.

31

2.3.4. Vị trí và cơ hội tiếp cận nguồn tri thức

Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động R&D của DN là

khoảng cách địa lý giữa nó với các nguồn của tri thức. Nhà kinh tế học đạt

giải Nobel Paul Krugman là người đã đặt nền móng cho lý thuyết về vai trò

của địa lý đối với ĐMST vào năm 1991 khi cho rằng các quốc gia có thể phát

triển nội sinh thành các vùng lõi công nghiệp và các vùng ngoại biên nông

nghiệp.

Vai trò của vị trí địa lý càng quan trọng hơn đối với các DN trong lĩnh

vực công nghệ cao. Do vậy các DN thường có xu hướng tìm kiếm trụ sở gần

các cơ sở nghiên cứu lớn [86]. Điều này giải thích cho tầm quan trọng của Đại

học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đối với sự hình thành của

Đại lộ 128 hay của Đại học Stanford với sự hình thành của Thung lũng

Silicon. Liên quan đến yếu tố này, Nelson (1986) cho rằng các trường đại học

hiếm khi tự nó tạo ra công nghệ mới, mà có tác động nhiều hơn trong việc hỗ

trợ hoạt động R&D của DN trở nên hiệu quả hơn. Một nghiên cứu nổi tiếng

khác của Jaffe (1989) cung cấp các bằng chứng cho thấy ảnh hưởng tích cực

của các trường đại học đến chi tiêu R&D của DN tại các bang của Hoa Kỳ,

bang nào có khả năng cải thiện hệ thống nghiên cứu trong các trường đại học

đều nâng cao đáng kể trình độ sáng tạo của mình thông qua việc thu hút hoạt

động R&D của DN [123].

Bên cạnh khả năng tiếp cận với nguồn tri thức, các DN cũng được

hưởng lợi thông qua các hoạt đông nghiên cứu chung với các trường đại học

[130]. Sự bù đắp lẫn nhau về năng lực nghiên cứu giúp DN vượt qua rào cản

về chi phí và thời gian trong việc phát triển công nghệ và sản phẩm mới, trong

khi các trường đại học có thể được hưởng lợi từ hoạt động thương mại hoá

công nghệ [130].

2.3.5. Lan toả tri thức từ hoạt động nghiên cứu và phát triển nước ngoài

Lý thuyết chiết trung về các DN đa quốc gia cho rằng các DN FDI

thường có trình độ công nghệ tiên tiến hơn các DN trong nước và có thể

chuyển giao công nghệ cho các DN ở nước sở tại ([89], [90], [67]). Cơ sở của

32

lập luận này là chi nhánh ở nước ngoài của các tập đoàn đa quốc gia có thể

nhận chuyển giao công nghệ, tri thức từ công ty mẹ, sau đó chuyển giao cho

các DN bản địa thông qua các hoạt động trực tiếp như các hợp đồng nghiên

cứu, hợp đồng cấp quyền hoặc một cách gián tiếp qua hiệu ứng lan tỏa tri thức.

Tuy vậy, các nghiên cứu thực nghiệm, dù không nhiều, đều cho thấy

không có tác động rõ ràng của mức đầu tư cho R&D của các DN FDI lên đầu tư

R&D của các DN trong nước ([193], [88], [87]). Điều này được các tác giả lý

giải là do các DN trong nước có thể được hưởng lợi nhiều hơn từ hiệu ứng lan

toả tri thức tạo ra bởi các DN nước ngoài hơn là tự thực hiện hoạt động R&D.

Đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, nghiên cứu của Driffield,

Love và Menghinello (2010) với các DN Italia thậm chí còn chỉ ra rằng

những DN đầu tư nước ngoài có lợi nhuận cao nhất là những DN biết cách

bảo vệ tốt nhất sự “rò rỉ” tri thức từ công ty mẹ sang các công ty trong nước

[88]. Như vậy, kỳ vọng các hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ diễn ra cùng

với nguồn đầu tư nước ngoài là không có cơ sở. Đối với các thị trường có trình

độ công nghệ cao như Hoa Kỳ, nơi có nguồn tri thức dồi dào từ các công ty bản

địa, nhiều DN nước ngoài thậm chí còn đặt chi nhánh tại đây để “hút” tri thức

công nghệ về cho tập đoàn mẹ ([100], [61]).

Để mô hình hoá ảnh hưởng của các nhân tố đã nêu ở trên lên quyết định

đầu tư cho R&D, David, Hall và Toole (2000) đã đề xuất một giản đồ tuy đơn

giản mà rất hữu ích. Nếu mặc định rằng trong 1 giai đoạn nhất định, mỗi công

ty có 1 tập hợp các dự án khả thi, thì hàm MRR, là 1 đường dốc xuống, sẽ

tượng trưng cho tỉ lệ lợi nhuận biên từ vốn đầu tư vào R&D của tất cả các dự

án khả thi theo thứ thự từ lớn đến bé. Các tác giả này cũng cho rằng công ty

có thể tự tính tỷ lệ lợi nhuận dự kiến cho từng dự án, và sử dụng các tỷ lệ này

để xếp hạng các dự án theo thứ tự giảm dần. Vì vậy, khi đầu tư vào R&D tăng

lên, công ty sẽ lần lượt bắt đầu thực hiện các dự án với tỷ lệ lợi nhuận dự kiến

thấp hơn [82] (Hình 2.2).

33

Hình 2.2. Mức cân bằng của đầu tƣ R&D

MRR: tỉ lệ lợi nhuận biên; MCC: chi phí cận biên

Chính sách công có thể góp phần thúc đẩy nỗ lực của các công ty tư

nhân, thông qua tăng tỷ lệ lợi nhuận kì vọng, tức là đường MRR di chuyển

sang bên phải, hoặc thông qua giảm chi phí đầu tư của công ty, tức là đường

MCC dịch chuyển sang bên phải. Mức độ ảnh hưởng của đầu tư công vào chi

tiêu tư nhân cho R&D phụ thuộc vào độ dốc của 2 đường MRR và MCC, vì

thế mức độ linh hoạt của 2 hàm này sẽ quyết định kết quả cuối cùng của chính

sách công nghệ [82].

Đường MRR dự kiến không chỉ phụ thuộc vào khối lượng các nguồn

lực đã đầu tư vào hoạt động R&D, mà còn phụ thuộc vào một chuỗi các biến

số như là cơ hội cải tiến công nghệ đi kèm với các hoạt động của công ty, nhu

cầu dự kiến, và các điều kiện nội bộ để sử dụng các kết quả nghiên cứu. Hàm

chi phí cận biên cũng phụ thuộc vào khối lượng nguồn lực đã sử dụng, và một

vec-tơ các biến khác bao gồm chính sách hỗ trợ chính phủ, mà chính sách này

lại có ảnh hưởng tác động lên chi phí đầu tư của công ty; các điều kiện kinh tế

vĩ mô và tình trạng của thị trường vốn ảnh hưởng đến chi phí thu thập vốn nội

bộ và bên ngoài, cũng như sự sẵn có của nguồn vốn mạo hiểm [82].

34

2.4. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ

Đứng trên quan điểm của DN là tổ chức tìm kiếm lợi nhuận thông qua

việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ của mình, để thúc đẩy các hoạt động đầu

tư cho R&D của các DN, các chính sách cần hướng trực tiếp đến việc hỗ trợ

tài chính cho DN, thúc đẩy đầu tư và thực hiện các hoạt động liên quan đến

R&D mà không sợ rủi ro.

Căn cứ vào những chính sách cụ thể theo khái niệm mà Steinmueller

(2010) đã nêu, NCS xây dựng khung phân tích cho luận án như Bảng 2.3.

- Tài trợ trực tiếp cho nghiên cứu (cơ bản và ứng dụng); Chính sách

- Tài trợ cho phát triển (công nghệ, sản phẩm mẫu) thông trọng cung

qua các ưu đãi thuế.

- Tài trợ cho sản phẩm ra thị trường (tìm hiểu thị trường, Chính sách

sản xuất thực nghiệm, ra mắt sẳn phẩm); trọng cầu

- Tài trợ cho chuyển giao công nghệ;

- Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao; Chính sách

- Phát triển hạ tầng cho KHCN. về các yếu tố

phụ trợ

- Liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia Chính sách

liên kết

Bảng 2.3. Khung phân tích chính sách cho luận án.

Nguồn: Steinmueller (2010) và tác giả (2019)

Từng nhóm chính sách cụ thể trong khung được trình bày sau đây.

2.4.1. Chính sách trọng cung

Các chính sách trọng cung tập trung vào các chính sách hỗ trợ tài chính

hoặc cấp kinh phí trực tiếp cho DN để thực hiện các hoạt động R&D, và nhờ

đó, đường MCC dịch chuyển về phía bên phải, tức là chi phí đầu tư của DN

sẽ được giảm xuống. Nội hàm của chính sách trọng cung là tạo ra sự khuyến

khích các DN mở rộng sản xuất thông qua miễn giảm thuế, tăng cường đầu tư

35

cho nghiên cứu và phát triển để nâng cao năng lực sản xuất, giảm chi phí và

giá cả hàng hóa.

( 1) Tài trợ cho nghiên cứu

Các nghiên cứu đều cho thấy tài trợ trực tiếp đặc biệt hữu ích với các

DN nhỏ - những tổ chức vốn phải phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn lực tài

chính bên ngoài. Gonzalez, Jaumandreu và Pazo (2005) đã tìm hiểu cách thức

ra quyết định đầu tư cho R&D của các DN khi được hỗ trợ một phần kinh phí

từ chính phủ. Trong một nghiên cứu khác Gonzalez và Pazo (2008) cũng nhận

thấy, tương tự như với các DN nhỏ, nguồn tài trợ cho hoạt động R&D thường

hiệu quả hơn đối với các DN trong các lĩnh vực công nghệ thấp, điều mà theo

các tác giả có thể do hiệu ứng kích thích. Nghiên cứu của Becker và Hall

(2013) cũng có các kết quả tương tự.

Một số công trình nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa quy mô

khoản tài trợ và hoạt động R&D của DN được biểu diễn dưới dạng hình chữ

U ngược. Guellec và Van Pottelsberghe de la Potterie (2003) cho rằng khoản

tài trợ sẽ có tác dụng kích thích lớn nhất nếu chiếm từ 4-11% tổng kinh phí

cho dự án được tài trợ. Các mức tài trợ trên 20% không những không kích

thích DN đầu tư thêm cho R&D mà còn có tác động ngược do các DN sẽ sử

dụng nguồn tài trợ thay thế cho vốn tự có để thực hiện hoạt động R&D [104].

Kết luận này được củng cố thêm bởi nghiên cứu của Gorg và Strobl (2007).

Từ quan điểm chính sách, hiệu ứng bất tuyến tính nói trên cho thấy với bất kỳ

nguồn ngân sách nào, tài trợ ở mức độ vừa phải cho một số lượng lớn dự án

sẽ tốt hơn cung cấp một lượng lớn tài chính cho một nhóm nhỏ DN.

(2) Tài trợ cho phát triển (ưu đãi thuế)

Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng chính sách cho phát triển, mà cụ thể là

ưu đãi thuế có tác động tích cực đến mức chi tiêu cho R&D của DN [60]. Mặc

dù vậy, độ đàn hồi của ưu đãi thuế đối với đầu tư cho R&D không hoàn toàn

giống nhau giữa các nghiên cứu mà phụ thuộc vào số liệu đầu vào, phương pháp

và mô hình tính toán [56].

36

Một kết luận đáng chú ý là các chính sách ưu đãi thuế có tác dụng

mạnh trong việc thúc đẩy chi tiêu R&D trong ngắn hạn, trong khi đó các

khoản tài trợ tài chính trực tiếp phát huy hiệu quả trong trung và dài hạn [82].

Điều này được lý giải bởi bản chất khác biệt của hai hình thức hỗ trợ. Ưu đãi

thuế không giới hạn nội dung dự án, vì vậy các DN có xu hướng triển khai

những dự án R&D mang lại lợi ích lớn hơn trong ngắn hạn. Trong khi đó, tài trợ

tài chính chỉ được trao cho những dự án do chính phủ chọn, thường là những dự

án có tầm nhìn dài hạn và mở ra các cơ hội mới trong tương lai, qua đó thúc đẩy

DN dùng nguồn vốn tự có để triển khai các giai đoạn sau của dự án.

Kết luận này, một mặt ủng hộ các cơ chế hỗ trợ tài chính trực tiếp của

Chính phủ. Mặt khác khuyến nghị rằng các nguồn lực tài chính hữu hạn nên

ưu tiên dành cho các DN nhỏ, vì rõ ràng các DN lớn có thể tự triển khai hoạt

động R&D mà không cần đến nguồn hỗ trợ bên ngoài. Cũng có các bằng

chứng cho thấy cả hai công cụ chính sách sẽ phát huy hiệu quả tốt hơn nếu

được phối hợp cùng nhau trong triển khai. Điều đáng lưu ý là hỗ trợ tài chính

trực tiếp từ chính phủ không phải là một hàm tuyến tính với mức độ đầu tư

cho R&D của DN, mà giống một hình chữ U ngược. Điều này có nghĩa là

mức độ hỗ trợ quá ít hoặc quá nhiều đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư

nhân cho R&D. Mặc dù vậy, cho đến nay có rất ít nghiên cứu chỉ rõ được

mức độ ảnh hưởng tương đối của hai công cụ này cũng như mức độ tối ưu của

mỗi công cụ trong việc thúc đẩy DN đầu tư cho R&D.

2.4.2. Chính sách trọng cầu

Chính sách trọng cầu, theo Steinmueller (2010) tập trung vào việc gia

tăng lợi nhuận thu được từ các sản phẩm và công nghệ mới bằng cách giảm

giá thành của các sản phẩm, nhờ đó làm tăng số lượng sản phẩm được bán ra.

Do vậy, chính sách này thường khuyến khích ở cuối giai đoạn sản xuất thực

nghiệm để chuẩn bị sản phẩm ra mắt thị trường cho tới tiếp thị, thương mại

hóa sản phẩm. Theo cách tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN, thì

những chính sách trọng cầu được chia thành ba loại chính là:

37

Chính sách tài trợ cho sản phẩm ra thị trường (tìm hiểu thị trường, sản

xuất thực nghiệm, ra mắt sản phẩm);

Chính sách tài trợ cho chuyển giao công nghệ;

Chính sách tài trợ cho thương mại hóa sản phẩm (phát triển sản phẩm

mới, tiếp thị sản phẩm).

2.4.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ

Các chính sách về các yếu tố phụ trợ bao gồm những chính sách nhằm

gia tăng lượng cán bộ có trình độ cao, cũng như cải thiện hạ tầng KHCN, bao

gồm tăng cường năng lực về công nghệ thông tin (CNTT), nhờ đó làm giảm

chi phí R&D cho DN.

(1) Chính sách về nhân lực cho khoa học và công nghệ

Theo cuốn Cẩm nang FRASCATI-Hướng dẫn thống kê R&D của Tổ

chức Hợp tác và phát triển kinh tế, nhân lực R&D bao gồm những người trực

tiếp tham gia vào hoạt động R&D hoặc trực tiếp hỗ trợ hoạt động R&D [165].

Nhân lực R&D được chia thành ba nhóm:

Nhóm 1: Nhà nghiên cứu khoa học (nhà nghiên cứu/nhà khoa học/kỹ

sư nghiên cứu) là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp có trình độ từ cao

đẳng trở lên hoặc không có văn bằng chính thức, song họ vẫn thường xuyên

làm các công việc tương đương như nhà nghiên cứu/nhà khoa học, tham gia

vào quá trình tạo ra tri thức, sản phẩm và quy trình mới, tạo ra phương pháp

và hệ thống mới.

Nhóm 2: Nhân viên kỹ thuật và tương đương bao gồm những người thực

hiện các công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ thuật trong những

lĩnh vực của KHCN. Họ tham gia vào R&D bằng việc thực hiện những nhiệm

vụ khoa học và kỹ thuật có áp dụng những khái niệm và phương pháp vận hành

dưới sự giám sát của các nhà nghiên cứu khoa học nhóm 1.

Nhóm 3: Nhân viên phụ trợ trực tiếp R&D gồm nhân viên hành chính

văn phòng tham gia vào các dự án R&D; những người làm việc liên quan đến

nhân sự, tài chính và hành chính trực tiếp phục vụ công việc R&D của các tổ

38

chức R&D. Quan hệ giữa nhân lực KHCN và nhân lực R&D là quan hệ bao

hàm: nhân lực R&D là một bộ phận của nhân lực KHCN

Nhật Bản đã trở thành nước thu hút nhân lực KHCN từ khắp nơi trên thế

giới nhờ các chính sách như thuê chuyên gia tư vấn nước ngoài, đào tạo kỹ sư

Nhật Bản ở ngoại quốc [22]. Chính phủ Nhật Bản cũng khuyến khích thay thế

nhập khẩu nhân lực chất lượng cao bằng kỹ sư nội địa thông qua việc cử sinh

viên đi nước ngoài học tập, đồng thời tăng cường đào tạo kỹ sư bậc trung trong

nước. Tại Hàn Quốc, đội ngũ cán bộ trí thức được hình thành từ ba nguồn chủ

yếu: Nhà nước; trường, viện, trung tâm nghiên cứu; và các tập đoàn kinh tế. Sự

ra đời của Viện KHCN Hàn Quốc (KIST) với các chính sách mạnh bạo đã thu

hút nhân tài từ khắp thế giới và Hàn Quốc trở thành quốc gia CNH thành công

nhất. Nước này có nhiều chính sách khuyến khích các trường đại học tăng

cường R&D, tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế đi sâu nghiên cứu và ứng

dụng các thành tựu KHCN vào phát triển kinh tế, đáp ứng trực tiếp các nhu cầu

của thị trường. Còn Trung Quốc đang cải cách thể chế hóa khoa học và xây

dựng hệ thống nhà nước sáng tạo, bao gồm việc hoàn thiện cơ chế phát triển

nhân tài, khuyến khích nhà khoa học tích cực sáng tạo, thu hút các nhà khoa

học Hoa kiều về nước làm việc với mức lương cao, ... Nhờ đó, đến 2012, tỷ lệ

người làm R&D ở quốc gia này đã đạt mức 43/10.000 dân [22].

Hoa Kỳ không tổ chức theo cấp hành chính mà được tổ chức thành các

cơ quan nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu và công ty. Nhà

nước đóng vai trò tư vấn hỗ trợ, không trực tiếp quản lý hoạt động KHCN.

Hoạt động KHCN và đào tạo nguồn nhân lực luôn gắn liền với nhau. Các cơ

quan nghiên cứu KHCN không những cho phép các nhà khoa học phát huy

tính chủ động, sáng tạo trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh lành

mạnh, mà còn gắn quyền lợi và trách nhiệm với nhà khoa học và tập thể

nghiên cứu do nhà khoa học đứng đầu. Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ cho thấy đối

tượng thụ hưởng hỗ trợ thông qua quỹ phải là các DN hoặc các viện, tổ chức

nghiên cứu hoạt động theo hình thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.

Ngoài ra, trong hoạt động KHCN, Hoa Kỳ cũng hỗ trợ những cách thức phổ

39

biến để du nhập tri thức KHCN từ bên ngoài vào như: Các hoạt động mậu

dịch quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, cấp giấy phép công nghệ, di cư nhân

lực KHCN [29].

Chính sách này cũng được áp dụng ở một số nước Nam mỹ như Brazil,

Argentina, Venezuela [35]. Argentina tăng cường các mạng lưới liên kết và

mở rộng sự hợp tác công - tư. Một trong những hình thức mạng lưới liên kết

là hợp tác với các viện nghiên cứu lớn trên thế giới. Brazil xóa bỏ tình trạng

quan liêu và chú trọng vào chất lượng nghiên cứu khoa học. Brazil đã giải

quyết vấn đề này bằng cách thay đổi cơ chế chính sách ở tầm quốc gia nhằm

tạo điều kiện cho các nhà khoa học tập trung vào việc phát huy khả năng của

họ hơn là mất thời gian vào những thủ tục hành chính; tập trung nguồn lực

bền vững vào giáo dục và khoa học. Peru đặt mục tiêu nhanh chóng tăng

cường năng lực nghiên cứu. Sau nhiều năm không được quan tâm, Hội đồng

Khoa học, công nghệ và đổi mới công nghệ Quốc gia (CONCYTEC) của Peru

bất ngờ được tăng ngân sách lên 20 lần chỉ trong vòng 18 tháng, đạt gần 110

triệu đô la và sẽ còn tiếp tục phát triển với tốc độ tương tự. Venezuela tôn

trọng khoa học và nhà khoa học. Điều cấp bách mà Venezuela làm là khôi

phục tinh thần tôn trọng khoa học và cấp kinh phí vào hướng nghiên cứu cơ

bản để ngăn chặn nạn chảy máu chất xám, tiến tới đảo ngược xu hướng này.

(2) Chính sách về hạ tầng khoa học và công nghệ

Chính sách về hạ tầng KHCN nhằm giúp thiết lập nền tảng và xây dựng

môi trường hỗ trợ phát triển hoạt động R&D. Hạ tầng KHCN bao gồm các

sàn giao dịch công nghệ (giúp phát triển thị trường KHCN), các trung tâm tri

thức, hạ tầng cơ sở thông tin, hạ tầng CNTT, các cơ chế bảo vệ quyền sở hữu

trí tuệ,…

Sàn giao dịch công nghệ là các trung tâm dịch vụ kết nối, hỗ trợ cả bên

tạo ra công nghệ và bên sử dụng công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng

trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững trên nền tảng ĐMST. Sàn giao dịch

công nghệ được xem là tổ chức quan trọng, có vai trò cốt lõi trong phát triển

thị trường KHCN, đồng thời là nền tảng cho các hoạt động tư vấn, môi giới,

40

xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ, .... Thực tế cho thấy, Sàn

giao dịch công nghệ góp phần tăng tỷ trọng giao dịch công nghệ của quốc gia,

tạo môi trường hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực

KHCN quốc gia, phục vụ phát triển KT-XH của đất nước, góp phần bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức tham

gia thị trường công nghệ. Đồng thời, giúp cơ quan quản lý nắm bắt được các

số liệu về giao dịch công nghệ; kiểm soát, chọn lọc được công nghệ tốt, loại

bỏ các công nghệ lạc hậu.

Các kết quả nghiên cứu về vai trò của khả năng tiếp cận các các trung

tâm tri thức tới hoạt động R&D của DN cho thấy các chính phủ có thể thúc

đẩy đầu tư cho R&D bằng cách cải thiện năng lực nghiên cứu của hệ thống

các trường đại học, viện nghiên cứu và thúc đẩy sự liên kết giữa các trung tâm

nghiên cứu này với hoạt động R&D của khu vực DN. Đồng thời, việc hình

thành các cụm công nghệ tập trung (technology cluster) theo từng lĩnh vực

công nghệ công nghiệp sẽ rất hữu ích trong việc thúc đẩy hoạt động R&D và

nâng cao trình độ công nghệ.

Việc xây dựng và vận hành các cơ sở thông tin KHCN chuyên ngành

một cách hiệu quả sẽ giúp tiếp thu sáng chế, phát minh công nghệ mới, tham

khảo thông tin, tri thức chuyên môn hiện đại trong lĩnh vực tương ứng, đồng

thời giúp kết nối các chuyên gia KHCN nhằm phục vụ đắc lực trong quá trình

tìm tòi và sáng tạo. Theo tác giả Đào Tiến Khoa (2016), tùy vào trình độ phát

triển KHCN mà các quốc gia trên thế giới cũng có những cách tiếp cận khác

nhau đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin KHCN trực tuyến của

mình [31]. Thí dụ, trong lĩnh vực khoa học hạt nhân, các quốc gia đã và đang

phát triển điện hạt nhân cũng như những ứng dụng bức xạ hạt nhân trong y tế,

công nghiệp và nông nghiệp,… đều đặt việc xây dựng cơ sở dữ liệu hạt nhân

là một trong những việc đầu tiên phải làm. Hiện nay ở Hoa Kỳ, ngoài một

Trung tâm Dữ liệu hạt nhân quốc gia ở Brookhaven, còn có chương trình dữ

liệu hạt nhân của chính phủ liên bang đặt dưới sự giám sát của Bộ trưởng Bộ

Năng lượng nhằm luôn duy trì khả năng tiên phong của nền KHCN hạt nhân

41

Hoa Kỳ; các quốc gia có nền KHCN hạt nhân phát triển ở châu Á như Nhật

Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… đều có cơ sở dữ liệu hạt nhân của riêng mình.

Những cơ sở dữ liệu hạt nhân quốc gia này được kết nối chặt chẽ trong mạng

lưới của Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA, giúp phục vụ việc phát

triển KHCN hạt nhân toàn cầu [31].

Để thúc đẩy các hoạt động đầu tư cho R&D, bên cạnh những chính

sách hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động R&D, cần có những chính sách để bảo hộ

cho sản phẩm của hoạt động nghiên cứu, cũng như nâng cao tính cạnh tranh

của các DN. Theo các lý thuyết kinh tế thông thường, việc bảo hộ tài sản trí

tuệ thông qua hệ thống luật SHTT, bao gồm các sáng chế, có thể hạn chế mức

độ và phạm vi sử dụng của sản phẩm nghiên cứu trong 1 thời gian ngắn

(chính là thời gian được bảo hộ), nhưng lại đem lại nhiều lợi ích về dài hạn

cho xã hội, do nó thúc đẩy hoạt động sáng tạo [194]. Độ mạnh hệ thống sáng

chế của mỗi quốc gia được đánh giá dựa trên một phương pháp được công

nhận rộng rãi bởi Ginarte và Park. Phương pháp này được phát triển dựa trên

hệ thống SHTT của 110 quốc gia trong khoảng 30 năm (từ 1960-1990) [95].

Chỉ số để đánh giá hệ thống sáng chế mạnh hay yếu bao gồm 05 yếu tố: (i)

mức độ bao phủ của hệ thống (tức là các dạng sáng chế có khả năng được bảo

hộ); (ii) thành viên của các hiệp ước quốc tế; (iii) thời hạn bảo hộ; (iv) cơ chế

thực thi; và (v) các điều khoản hạn chế (ví dụ như li-xăng bắt buộc khi một

sáng chế được bảo hộ không được triển khai trên thực tế) [95].

Bên cạnh đó, CNTT cho KHCN cũng là một trong các biện pháp thiết lập

hạ tầng phát triển KHCN. Việc ứng dụng CNTT cho KHCN, đặc biệt là trong

công tác quản lý, giúp tinh giản thủ tục hành chính, tăng quyền nhiều hơn cho

nhà khoa học và đơn vị chủ trì là một chính sách cần được quan tâm, nhất là

trong cuộc cách mạng 4.0 như hiện nay. Theo chuyên gia Tạ Hải Tùng (2017),

cần nhấn mạnh yếu tố tăng cường ứng dụng CNTT trong mọi khâu của hoạt

động quản lý KHCN: Từ xét duyệt đề tài/dự án, giám sát triển khai cũng như

công khai cơ sở dữ liệu các đề tài/dự án, cơ sở dữ liệu các tổ chức chủ trì, và nhà

42

khoa học. Đây là cách để tăng cường hiệu quả quản lý, hướng tới công khai,

minh bạch, tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của nền KHCN [44].

2.4.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Chính sách liên kết là những chính sách nhằm tạo ra sự liên kết giữa

các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN, đặc biệt là môi

trường kết hợp giữa các tổ chức nghiên cứu và các DN. Một trong những

chính sách này có thể kể đến vai trò của Hiệp hội Doanh nghiệp KHCN. Hiệp

hội sẽ là cầu nối giúp chuyển giao kết quả nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào

sản xuất kinh doanh, nâng cao giá trị sản phẩm phục vụ đời sống.

Một trong những chính sách liên kết hiệu quả là tạo cơ chế thuận lợi cho

việc thành lập các quỹ tư nhân tài trợ cho các sản phẩm KHCN với ưu thế về

hiệu quả, sáng tạo và linh hoạt. Ví dụ điển hình cho loại hình quỹ này ở Việt

Nam là Quỹ đổi mới sáng tạo KHCN (VinIF) và Quỹ tài trợ nghiên cứu ứng

dụng (VinTech Fund) của Tập đoàn Vingroup; Nhóm DN qui mô lớn đi đầu và

cũng là nhóm DN có đầu tư cao cho KHCN như: Viettel, FPT, Trường Hải,...[6].

Cuối cùng, nhưng là yếu tố tiên quyết, xuyên suốt và quan trọng đối với

các vấn đề chính sách thúc đẩy nói chung và vấn đề chính sách liên kết nói

riêng, đó chính là vai trò của Nhà nước. Nhà nước không chỉ định hình trong

chiến lược, kế hoạch phát triển KHCN mà còn phải dẫn dắt, tạo “sân chơi” với

những cơ chế chính sánh phù hợp để thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.

43

Tiểu kết chƣơng 2

Chương 2 nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy DN đầu tư

cho KHCN. Luận giải vai trò của KHCN là nguồn lực mạnh mẽ, là động lực

then chốt giúp tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và bền vững. Đầu tư cho

KHCN cũng là chiến lược giúp nhiều DN tạo bước đột phát trong đổi mới

công nghệ, đổi mới sản phẩm, xây dựng thương hiệu, quy trình sản xuất, củng

cố năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng của doanh nghiệp. Phân tích

và luận giải các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho nghiên cứu khoa

học và phát triển công nghệ của khu vực DN. Trên cơ sở đó luận giải cách các

Chính phủ có thể làm để thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN thông qua hệ thống

chính sách. Sự can thiệp của Chính phủ cùng với các tác động tích cực đến

hoạt động R&D góp phần tạo ra chính sách tài khóa hiệu quả. Các chính sách

thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Chính phủ được chia thành bốn nhóm là

chính sách trọng cung, chính sách trọng cầu, chính sách về các yếu tố phụ trợ,

và chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.

Tương ứng với từng giai đoạn cụ thể của chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN.

Đây là cơ sở lý luận của khung phân tích mà NCS sẽ sử dụng để nghiên cứu

các kinh nghiệm quốc tế của một số nước trong Chương 3, và sau đó tiến

hành đánh giá thực trạng chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Việt

Nam và đưa ra những bài học phù hợp với điều kiện và thực tiễn của Việt

Nam ở Chương 4.

Một phần kết quả này đã được công bố trong công trình (2-Danh mục

công trình liên quan đến luận án).

44

Chƣơng 3

CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ

CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC,

HÀN QUỐC VÀ ISRAEL

Trong luận án này, NCS lựa chọn ba quốc gia là Trung Quốc, Hàn

Quốc và Israel để nghiên cứu kinh nghiệm về các chính sách thúc đẩy DN đầu

tư cho KHCN. Việc lựa chọn này trước tiên dựa vào những thành tựu về phát

triển KHCN mà ba quốc gia đã đạt được trong những năm qua, sau đó là căn

cứ vào đặc điểm tương đồng giữa Việt Nam với mỗi quốc gia để tiến hành so

sánh, từ đó rút ra được những bài học phù hợp với tình hình thực tế và điều

kiện phát triển KHCN của Việt Nam.

Bảng 3.1. So sánh một số đặc điểm của Việt Nam với Trung Quốc,

Hàn Quốc và Israel

Đặc điểm Việt Nam

Trung Quốc

Hàn Quốc

Israel

Châu Á

Châu Á

Châu Á

Châu Á

1975

5.000 năm phát triển 1961

1948

Vùng địa lý Năm độc lập

Chính trị XHCN

Cộng hòa nhân dân (kinh tế XHCN)

Dân chủ đại nghị (TBCN)

Diện tích

- 9.596.961 km² - Lớn thứ 2 thế giới

- 331.210 km² - 3/4 là đồi núi

- 20,000 km2 - 60% sa mạc

về đất

Cộng hòa nhân dân (TBCN) - 100.210 km² - 30% đất thấp, còn lại là vùng cao và ngọn núi

Dân số

1,405 tỷ (2019)

51,47 triệu (2019) 9,11 triệu (2019)

97,84 triệu (2019)

- Kinh

tế

tế

- Nước kinh tế

phát triển

Kinh tế

- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Nền kinh tế lớn

thị trường, hỗn hợp, tự do, ít có sự can thiệp của Chính phủ

thị Kinh định trường hướng xã hội chủ nghĩa

thứ 2 Thế giới

- Thứ 21 về cạnh tranh quốc gia (2016)

- Kinh tế phát triển

- USD 7,510 - Thứ 121 thế

GDP 2018

- USD 18,110 - Thứ 73 thế giới

- USD 41,351 - Thứ 29 thế giới

- USD 37,972 - Thứ 34 thế giới

giới

“Do

Con người

Người Thái” Châu Á

Chỉ số phát triển con của Trung người Quốc thuộc nhóm các nước cao, đứng

Chỉ số phát triển con người của Hàn Quốc đạt loại rất cao, đứng thứ

Thứ 4 thế giới về nhân lực kỹ năng cao; Thông minh thế giới; nhất

45

Đặc điểm Việt Nam

Trung Quốc

Hàn Quốc

Israel

thứ 85/189 quốc gia năm 2019

23/189 quốc gia năm 2019)

Phổ cập PTTH toàn dân

coi

Giáo dục

Cải cách

Tốt thứ 3 thế giới

Rất được trọng

lượng Chất kém so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội

Công nghiệp hóa

Đang trong quá trình CNH

Khoa học và kỹ thuật

Dẫn về đầu nghiên cứu khoa học

- CNH năm 2000 - Từng dẫn đầu thế giới với nhiều phát minh quan trọng

2 đến 4,5% (2000-2017)

- Khoảng

- Cao nhất

0,45%-1,4%

% GDP cho KHCN

Khoảng 0,8 đến 1,8% (2000-2017)

thế giới năm 2013, 2015, 2017

Khoảng 4 đến 4,5%; hầu như cao nhất thế giới trong suốt giai đoạn 2000-2016.

6,8 (2013)

11 (2012)

64,2 (2013)

140 (2011) cao nhất thế giới

Tỷ lệ nhà khoa học /10 nghìn lao động

:

63

% giữa NSNN /Doanh nghiệp

2 : 86 (2015) (11%:trường ĐH 1%:cơ sở tư nhân phi lợi nhuận)

23,9 : 76,1 (2017)

25 : 75 (2015)

- Gắn chính

- M&A với các FDI của Mỹ - Nhân lực chất

sách kinh tế, KHCN với ĐMST

- Nguồn nhân lực - Lĩnh vực công nghiệp phù hợp lớn

lượng cao

- Chất lượng đào tạo

- Tập đoàn (Chaebols)

trường, viện

Nguyên nhân phát triển

- Tài

lung

- IIA (OCS) hỗ trợ các dự án chuẩn

- Tinh thần khởi

trợ “đa cấp độ”, “đa phương thức”

- Innopolis (thung silicon châu Á) - Lợi ích tài chính

nghiệp cao

27,3 (2015) (1%:trườngĐH 3%:nước ngoài 5,5%: khác) Trước kia chủ yếu dựa vào tài thác khai nguyên. Trong giai đoạn 2011-2020, lượng chất tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao được đọng nâng lên rõ rệt. trưởng Tăng từng tế kinh bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và ĐMST

Nguồn: Tác giả tổng hợp (2019)

Bảng 3.1 cho thấy một số điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước

so sánh.

46

3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc

3.1.1. Bối cảnh quốc gia

Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới với số dân trên 1,405 tỷ

người. Với diện tích là 9.596.961 km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích

lục địa lớn thứ 2 trên thế giới và có tổng diện tích lớn thứ 3 trên thế giới

[141]. Về mặt bộ máy hành chính, Trung Quốc có 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô

thị trực thuộc và 2 đặc khu hành chính là Hồng Kông và Ma Cao [154].

Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế

tập, còn gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ ở lưu vực Hoàng Hà.

Từ năm 221 trước công nguyên, khi nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để

hình thành một đế quốc Trung Hoa thống nhất, quốc gia này đã trải qua các

lần mở rộng, đứt đoạn và cải cách. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ triều đại

phong kiến cuối cùng của Trung Quốc là nhà Thanh vào năm 1911 và cầm

quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật

Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản đánh bại Quốc

dân Đảng và thiết lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh vào

ngày 1 tháng 10 năm 1949 [154].

Từ khi thành lập vào năm 1949 cho đến cuối năm 1978, nước Cộng hòa

Nhân dân Trung Hoa có một kinh tế kế hoạch tập trung theo kiểu Liên Xô. Kể

từ khi bắt đầu tự do hóa kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc nằm trong số các

nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, dựa ở mức độ lớn vào tăng

trưởng do đầu tư và xuất khẩu. Trong gần 30 năm từ năm 1978, GDP của

Trung Quốc đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim ngạch

thương mại tăng hơn 100 lần. Vào năm 1992, Trung Quốc vẫn còn xếp thứ 133

thế giới về GDP bình quân đầu người, với hơn một nửa dân số sống dưới mức

2 USD/ngày, nhưng dự kiến tới năm 2022, Trung Quốc sẽ tăng 69 bậc (lên

hạng 64 thế giới) trong xếp hạng về GDP bình quân đầu người, và chỉ còn chưa

đầy 2% dân số Trung Quốc sống dưới chuẩn nghèo của thế giới [73].

Tới năm 2000, Trung Quốc đã hoàn thành công nghiệp hóa, và bắt đầu

chuyển từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng việc nghiên cứu tạo ra

47

các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, tạo ra một cơ sở vững chắc để giải quyết

việc biến Trung Quốc từ một “công xưởng của thế giới” thành một “nhà máy của

tri thức”. Sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc được Ngân hàng Thế giới mô tả

là “sự mở rộng bền vững nhanh nhất của một nền kinh tế lớn trong lịch sử”.

Theo IMF, tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc

trong giai đoạn 2001-2010 là 10,5%. Trong giai đoạn 2007-2011, tăng trưởng

kinh tế của Trung Quốc tương đương với tổng tăng trưởng của các quốc

gia G7. Tính đến năm 2019, kinh tế Trung Quốc lớn thứ hai thế giới xét theo

GDP danh nghĩa, tổng giá trị khoảng 14.172 tỉ USD theo Quỹ Tiền tệ Quốc

tế. Nếu xét về GDP theo sức mua tương đương, Trung Quốc đạt 27.449 tỷ

USD vào năm 2019 [118].

Chính sách KHCN của Trung Quốc đã trải qua bốn giai đoạn kể từ khi

thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949 [127]. Giai đoạn đầu,

từ 1949 đến 1959, KHCN tập trung hỗ trợ sự phát triển của ngành công nghiệp

nặng giống như mô hình Xô-viết cũ; Giai đoạn hai, từ 1960 cho đến khi kết thúc

Cách mạng Văn hóa năm 1976, kinh tế Trung Quốc bị đình trệ và các đề tài

nghiên cứu KHCN nhuộm màu lý thuyết. Ở giai đoạn ba, công cuộc cải cách do

Đặng Tiểu Bình phát động và kế tiếp bởi Giang Trạch Dân cho đến năm 2001,

Nhà nước tập trung vào việc xây dựng các cơ sở nghiên cứu độc lập và từng

bước chuyển sang các nghiên cứu định hướng thị trường, tạo ra sản phẩm cụ thể.

Giai đoạn bốn bắt đầu từ năm 2002, thời điểm chính sách của Trung Quốc tăng

cường một cách mạnh mẽ sự hậu thuẫn cho công nghiệp công nghệ cao (CNC),

cùng với sự hỗ trợ phát triển cho một nền công nghiệp xanh còn non trẻ [73].

Những năm đầu thế kỷ XXI (2002-2012) là giai đoạn bùng nổ của xuất

khẩu các sản phẩm được sản xuất từ Trung Quốc, nhất là sau khi nước này gia

nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), xuất khẩu CNC cũng tăng rõ rệt.

Trung Quốc hiện nay thường được gọi là “công xưởng của thế giới”. Khu vực tư

nhân và bán tư nhân đã giành được vị trí dẫn đầu trong hoạt động ĐMCN, với sự

tài trợ từ nước ngoài cũng như sự hỗ trợ của Chính phủ cho các dự án KHCN.

Các tổ chức nghiên cứu được chính phủ hỗ trợ lan rộng khắp đất nước. Những

48

cơ sở hàng đầu về ĐMCN ở các trung tâm lớn, đặc biệt là ở Bắc Kinh, Thượng Hải

và Quảng Châu, đã được chuyển giao hoàn toàn cho các DN tư nhân.

Đầu tư vào KHCN của Trung Quốc đã tăng đều qua các năm, từ dưới

1% GDP năm 2000 hiện đã lên tới con số 2,145% vào năm 2017 (Hình 3.1).

Hình 3.1. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Trung Quốc

Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm (2019)

Mức đầu tư cho KHCN những năm trở lại đây của Trung Quốc đã đạt

tới mức kỷ lục 262,55 nghìn tỷ USD năm 2017; đứng thứ 2 trên toàn thế giới

chỉ sau Mỹ.

49

Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm [76]

Hình 3.2. Nguồn chính cho quỹ R&D Trung Quốc so với Nhật Bản và Mỹ

Đầu tư R&D của các DN tăng 40 lần lên 1,2 nghìn tỷ nhân dân tệ từ

năm 1995 đến năm 2016, trong khi quỹ R&D của chính phủ lại có dấu hiệu

suy giảm khi chỉ tăng 12,8 lần lên khoảng 320 tỷ nhân dân tệ. Từ năm 2000

đến năm 2016, tỷ lệ R&D được tài trợ bởi chính phủ đã giảm từ 33,4% xuống

còn 20%. Điều này đặt Trung Quốc ở mức tương đương với Hoa Kỳ (25,1%)

và Hàn Quốc (22,7%), nhưng thấp hơn đáng kể so với Nga (68,2%) và

Mexico (67,4%). Tuy nhiên, xu hướng này có thể sớm thay đổi khi Bắc Kinh

hành động để thực hiện các chính sách nhằm tăng cường đổi mới.

3.1.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho

khoa học và công nghệ

Chính phủ Trung Quốc coi phát triển KHCN là động lực chính của phát

triển bền vững và hy vọng sẽ bứt phá tạo ra một nền kinh tế lấy đổi mới, sáng tạo

làm trung tâm vào những năm 2020. Chính phủ rất coi trọng việc cải cách hệ

thống KHCN và xây dựng Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS), coi đây là

định hướng có tầm quan trọng đặc biệt nhằm tạo ra một nền khoa học hiện đại và

một cơ sở hạ tầng công nghệ vững mạnh. Trong số các nhiệm vụ quan trọng nhất

50

đã xác định có việc xây dựng các tổ chức nghiên cứu KHCN và thiết kế những

chính sách quan trọng để dẫn dắt, thúc đẩy các nỗ lực R&D và củng cố mối quan

hệ chặt chẽ giữa khu vực DN và các tổ chức nghiên cứu KHCN [127].

Kế hoạch phát triển KHCN trung và dài hạn của Trung Quốc giai đoạn

2006-2020 do Bộ Khoa học và Công nghệ và Văn phòng quốc vụ viện

(MOST và SC) xây dựng năm 2006 đã đánh giá rằng, kể từ khi đưa ra chính

sách cải cách và mở cửa, công cuộc cải cách hệ thống KHCN của Trung Quốc

đã có những bước đột phá quan trọng và có những bước tiến đáng kể vì nó đã

định vị chặt chẽ việc tạo liên kết mạnh mẽ giữa KHCN với nền kinh tế, nhằm

mục đích tăng cường ĐMCN, chuyển giao và CNH các thành tựu KHCN;

nhấn mạnh việc tái cơ cấu và chuyển đổi cơ chế, đồng thời áp dụng một loạt

các biện pháp cải cách mạnh mẽ [182].

Tuy nhiên, hệ thống KHCN tại thời điểm 2006 của Trung Quốc vẫn

chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường và yêu cầu cao hơn về

phát triển kinh tế và KHCN. Trước hết, các DN Trung Quốc vẫn chưa thực sự

trở thành tác nhân chính trong ĐMCN vì khả năng đổi mới của họ chưa tốt.

Thứ hai, lĩnh vực KHCN vẫn còn bị ngăn cách, dẫn đến sự phân tán, trùng

lặp. Các nỗ lực và hiệu suất tổng thể chưa cao. Khả năng đổi mới của KHCN

trong lĩnh vực hàng hóa công cộng được cho là yếu. Thứ ba, quản lý KHCN ở

cấp vĩ mô chưa được phối hợp chặt chẽ, nhất là mô hình phân bổ và hệ thống

phân bổ nguồn lực KHCN chưa đáp ứng được nhu cầu mới cho sự phát triển

KHCN. Thứ tư, cơ chế khen thưởng nhân sự xuất sắc, khuyến khích các hoạt

động đổi mới và tiên phong vẫn chưa hoàn thành. Những vấn đề này đã làm tổn

hại đến việc xây dựng năng lực đổi mới của quốc gia [127].

Trước tình hình đó, định hướng của Chính phủ để tăng cường cải cách

hệ thống KHCN xác định là: Tập trung vào hiệu quả phân phối nguồn lực

KHCN và hội nhập toàn diện, tạo bước đột phá trong ĐMCN. Tập trung vào

hệ thống DN có sự tích hợp của công nghiệp, học thuật và nghiên cứu, để thúc

đẩy mạnh mẽ việc xây dựng toàn diện một NIS đặc sắc Trung Quốc và tăng

cường khả năng đổi mới bản địa của quốc gia [182].

51

Tiến trình cải cách hệ thống KHCN của Trung Quốc thực hiện các

nhiệm vụ chính sau:

(1) Hỗ trợ, thúc đẩy các DN trở thành tác nhân chính trong ĐMCN

Cạnh tranh thị trường là một động lực quan trọng đằng sau ĐMCN,

trong khi ĐMCN lại là con đường cuối cùng để nâng cao khả năng cạnh tranh

của DN. Cùng với cải cách sâu rộng và mở cửa, các DN Trung Quốc đang

đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong ĐMCN. Để tăng cường đáng kể

động lực và sức sống của ĐMCN ở cấp độ DN, Chính phủ cần phải cung cấp các

điều kiện thuận lợi hơn, cho các hoạt động R&D. Cụ thể là:

- Để các chính sách kinh tế và KHCN đóng vai trò định hướng cho

phép các DN trở thành nhà chi tiêu R&D chính. Nỗ lực phải được đẩy nhanh

để tạo ra môi trường thống nhất, cởi mở, cạnh tranh có trật tự cho nền kinh tế

thị trường bằng các chính sách tài khóa, thuế và tiền tệ để các DN, đặc biệt là

các DN lớn, được khuyến khích tăng chi tiêu R&D và thiết lập R&D của riêng

DN của họ. Các phòng thí nghiệm kỹ thuật quốc gia và trung tâm kỹ thuật

ngành cần được thành lập tại các viện nghiên cứu hoặc các DN lớn, có khả

năng R&D công nghệ hùng mạnh, phối hợp với các trường đại học, viện

nghiên cứu. Khuyến khích các tập đoàn ĐMCN thuộc nhiều hình thức khác

nhau do các DN khởi xướng, phối hợp với các trường đại học và viện nghiên

cứu với mục đích nâng cao năng lực ĐMCN [182].

- Cải cách phương thức của các chương trình KHCN để cho phép các

DN thực hiện các nhiệm vụ R&D cấp quốc gia. Các chương trình KHCN

quốc gia sẽ phản ánh nhiều hơn các nhu cầu công nghệ chính về KHCN và

thu hút nhiều DN tham gia vào các chương trình đó. Trong các lĩnh vực có

triển vọng ứng dụng thị trường rõ rệt, cần thiết lập một cơ chế do DN lãnh

đạo với sự tham gia của các trường đại học và viện nghiên cứu [182].

- Hoàn thiện cơ chế chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện cho việc

tích hợp và ứng dụng các công nghệ công nghiệp. Thiết lập và hoàn thiện cơ

chế thúc đẩy liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và hệ thống giao dịch

SHTT. Phát triển mạnh mẽ các loại tổ chức dịch vụ trung gian KHCN để đáp

52

ứng nhu cầu của DN, tạo điều kiện cho dòng chảy kiến thức và chuyển giao

công nghệ giữa các DN, và giữa các DN với các trường đại học và viện

nghiên cứu. Các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và trung tâm kỹ thuật

(nghiên cứu công nghệ) là nơi tiếp cận dễ dàng hơn đối với các DN [182].

- Đẩy nhanh việc thành lập một hệ thống DN hiện đại để tăng cường

động lực bẩm sinh cho DN ĐMCN. Nâng cao năng lực ĐMCN sẽ được coi là

chỉ số quan trọng trong việc đo lường hiệu quả hoạt động của các DN nhà nước

(DNNN) trong khi phân phối dựa trên yếu tố công nghệ là một phần quan trọng

của cải cách quyền sở hữu dành cho ngành công nghiệp CNC. Bám sát chủ

trương chuyển đổi các viện R&D theo định hướng ứng dụng thành DN và làm

sâu sắc thêm cải cách quyền sở hữu tại các viện đó. Điều này sẽ không chỉ dẫn

đến một hệ thống quản lý được cải thiện và thiết lập một cơ chế khuyến khích

hợp lý và hiệu quả, mà còn cho phép các viện R&D chuyển đổi đóng vai trò

chính trong công nghiệp hóa CNC và ĐMCN ngành [182].

- Tạo môi trường đổi mới thuận lợi để thúc đẩy các hoạt động đổi mới

tại các DNVVN. Vì DNVVN, đặc biệt DNVVN dựa trên công nghệ, thường

rất sáng tạo nhưng lại yếu kém trong đầu tư mạo hiểm, do vậy cần tạo môi

trường chính sách thuận lợi hơn cho các DN đó bằng cách soạn thảo và xây

dựng luật và chính sách ưu đãi, đặc biệt là trong bối cảnh tiếp cận thị trường

và chống lại thị trường cạnh tranh không lành mạnh. Phát triển mạnh mẽ một

hệ thống đầu tư và tài trợ KHCN, cơ chế đầu tư mạo hiểm và nhanh chóng

xây dựng các cơ quan dịch vụ trung gian của KHCN để phục vụ nhu cầu

ĐMCN tại các DNVVN [182].

(2) Thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng một NIS với đặc điểm của Trung Quốc

Mục tiêu tăng cường cải cách hệ thống KHCN là thúc đẩy và tăng

cường xây dựng NIS. NIS là một hệ thống công lập do Chính phủ lãnh đạo,

phát huy đầy đủ vai trò cơ bản của thị trường trong việc phân bổ nguồn lực,

trong khi cho phép những tác nhân tham gia đổi mới khác nhau tạo ra các liên

kết chặt chẽ và tương tác với nhau. Việc xây dựng NIS đặc sắc Trung Quốc sẽ

theo định hướng cơ bản là thiết lập hệ thống ĐMCN do DN lãnh đạo với sự

53

kết hợp giữa các DN, trường đại học và viện nghiên cứu, đây sẽ là điểm đột

phá cho việc xây dựng toàn diện công cuộc đổi mới quốc gia. Chỉ khi một hệ

thống như vậy được dẫn dắt bởi các DN, nó mới có thể đảm bảo định hướng

thị trường cho ĐMCN và kết hợp hiệu quả các thế mạnh nghiên cứu đa dạng

hóa công nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chỉ khi các DN,

trường đại học và viện nghiên cứu làm việc cùng nhau, các nguồn lực KHCN

mới có thể được phân bổ một cách hiệu quả, sức sống của các viện nghiên cứu

mới được kích hoạt và DN mới có được khả năng duy trì sự đổi mới. Mặc dù cải

thiện mạnh mẽ khả năng ĐMCN của các DN là trung tâm, nhưng bắt buộc phải

thiết lập cơ chế mới cho phép các viện nghiên cứu và trường đại học cung cấp

dịch vụ phù hợp với nhu cầu của các hoạt động ĐMCN [182].

Hiện nay, một làn sóng cách mạng công nghệ và công nghiệp mới đang

phù hợp với sự chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc và

định hình lại cấu trúc phân công lao động quốc tế. Chính phủ cho rằng Trung

Quốc phải nắm bắt cơ hội lịch sử này để thực hiện chiến lược tái tạo năng lực

sản xuất của quốc gia, củng cố kế hoạch và triển khai mạnh mẽ về phía trước

theo yêu cầu của chiến lược toàn diện “Four Four” (xã hội thịnh vượng; cải

cách chính sách; quy định pháp luật; kỷ cương kỷ luật). Chính phủ hạ quyết

tâm đưa Trung Quốc trở thành nhà lãnh đạo sản xuất toàn cầu trước thời điểm

kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, điều này sẽ

đặt nền tảng cho việc thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” nhằm làm trẻ hóa đất

nước Trung Quốc. “Made in China 2025” đã và đang là kim chỉ nam cho

chiến lược sản xuất của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.

Chính phủ khẳng định quan điểm có tính chiến lược về hỗ trợ và cung

cấp, gồm: Cải cách cơ chế thể chế; Môi trường thị trường công bằng; Chính

sách hỗ trợ tài chính; Chính sách tài khóa và thuế; Hệ thống đào tạo tài năng

đa cấp độ; Chính sách DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ; Mở cửa cho sản xuất; Hệ

thống tổ chức và thực hiện [183].

Chính phủ cũng xác định quan điểm đổi mới bản địa trong bối cảnh

Trung Quốc hiện nay. Thuật ngữ đổi mới bản địa chủ yếu liên quan đến chính

54

sách đổi mới của Trung Quốc. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi với sự ra

đời của Chương trình trung hạn và dài hạn phát triển KHCN quốc gia (2006-

2020) vào đầu năm 2006, trong đó chủ yếu tập trung vào mục tiêu đưa Trung

Quốc thành một cường quốc về KHCN bằng cách cải thiện khả năng tạo ra sự

đổi mới bản địa (còn gọi là đổi mới nội sinh, đổi mới độc lập hay đổi mới

trong nước). Thúc đẩy đổi mới bản địa là nội dung cốt lõi của cải cách kinh tế

Trung Quốc trong tương lai và có ảnh hưởng lớn đến các sáng kiến phát triển

kinh tế trung hạn. Nó không chỉ đề cao đổi mới trên nguyên bản, thực sự mới,

đổi mới độc lập mà còn tích hợp, kết hợp các công nghệ hiện có thông qua đổi

mới theo một cách thức mới và đồng hóa, cải tiến công nghệ nhập khẩu. Bộ

Khoa học và Công nghệ Trung Quốc (MOST) hợp tác với Ủy ban Cải cách và

Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC) đã ban hành một văn bản vào năm

2006 trong đó xác định các sản phẩm được coi là đổi mới bản địa với các

thuộc tính: được phát triển chủ yếu bởi các DN trong nước; sở hữu trong nước

quyền SHTT; bước nhảy vọt về công nghệ so với các sản phẩm hiện có [128].

3.1.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ

Từ năm 2001-2006, các chính sách phát triển R&D của Trung Quốc tập

trung vào việc phát triển kinh tế thông qua việc phát triển KHCN, sáng tạo,

công nghệ cao, và thương mại hóa các sản phẩm của hoạt động R&D. Vào

cuối những năm 1990, nguồn kinh phí bắt đầu được mở rộng từ phía chính

phủ hỗ trợ sang dần phía các DN không thuộc chính phủ, và các DN tư nhân

trở thành người được hưởng lợi nhiều từ các chính sách phát triển R&D này

của Trung Quốc. Từ giữa những năm 1980 và cuối những năm 1990, các

chương trình nghiên cứu KHCN chính của Trung Quốc vẫn được điều hành

bởi Bộ Khoa học và Công nghệ nước này, ví dụ như Chương trình Công nghệ

quan trọng, hoặc Chương trình Công nghệ cao Quốc gia ([115], [160]). Trong

những năm tiếp theo, không có sự thay đổi đáng kể nào về chính sách KHCN

quốc gia của Trung Quốc và các chương trình nghiên cứu khoa học. Chỉ sau

năm 2006, Chính phủ Trung Quốc mới bắt đầu đưa ra những kế hoạch rất

55

quyết liệt để thúc đẩy các hoạt động R&D thông qua nhiều cách thức khác

nhau, được thể hiện rõ nhất qua “Chiến lược Quốc gia Phát triển Khoa học và

Công nghệ trung và dài hạn (2006-2020)”. Đây được coi là bước chuyển biến

đáng kể đối với các chính sách phát triển KHCN của nước này.

Mục tiêu được đặt ra của chương trình này là chi phí cho hoạt động

R&D trên tổng GDP của nước này đến năm 2020 phải cao hơn 2,5% [182].

Với thực tế là hơn 70% tổng chi phí của đất nước này đến từ các DN, chính

phủ Trung Quốc đã thi hành rất nhiều các chính sách hỗ trợ tài chính cho các

hoạt động R&D, bao gồm việc giảm thuế cho các DN đã được công nhận là

DN công nghệ cao, ưu đãi để mời chào nhân tài, và khấu hao thiết bị. Một

trong những điểm quan trọng nhất trong chính sách phát triển R&D của Trung

quốc là các ưu đãi “đa cấp độ và đa phương thức”. Theo Chiến lược Quốc gia

Phát triển Khoa học và Công nghệ trung và dài hạn (2006-2020), chính phủ

Trung Quốc nhấn mạnh đến vai trò của các cơ quan chính phủ ở các cấp độ

khác nhau.

KHCN đóng vai trò quản trị trong chiến lược xây dựng "Quốc gia sáng

tạo" của Trung Quốc. Mục tiêu là đến năm 2020 Trung Quốc sẽ trở thành

quốc gia sáng tạo, đứng khoảng thứ 15 về chỉ số sáng tạo KHCN trên bảng

xếp hạng của Tổ chức SHTT Thế giới (WIPO). Sáng tạo KHCN cũng có

Chiến lược 3 bước, đó là đến năm 2020 trở thành quốc gia sáng tạo, vào

khoảng năm 2035, đi đầu trong các quốc gia sáng tạo, đến năm 2050 trở thành

cường quốc KHCN trên thế giới [182].

Vào năm 2015, Bắc Kinh đã cho ra mắt “Made in China 2025”, một kế

hoạch tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ trong các ngành

công nghiệp chính. Là một phần của sự thúc đẩy này, 901 quỹ hướng dẫn của

chính phủ đã được đưa ra với mục tiêu huy động được 347 tỷ đô la để giúp

giảm bớt gánh nặng tài trợ cho R&D cho các công ty Trung Quốc. Việc giảm

thuế tự do cũng đang được cung cấp cho các công ty để tiếp tục thúc đẩy đầu

tư vào R&D [183].

56

Trung Quốc thực hiện các chính sách và biện pháp thúc đẩy doanh

nghiệp đầu tư cho KHCN thông qua các Chương trình, áp dụng các bước để

xây dựng Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia bằng cách ban hành các chính

sách và luật trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế dựa trên ĐMST. Các chính

sách và biện pháp được thực hiện có lợi nhất cho việc tăng cường khả năng

đổi mới của DN bản địa, thúc đẩy sự sáng tạo của cán bộ KHCN, tận dụng

triệt để các nguồn lực KHCN cả trong và ngoài nước, hỗ trợ phát triển KT-

XH. Đến năm 2002, Trung Quốc đã ban hành hơn 500 khuyến nghị chính

sách về khoa học, công nghệ và ĐMST trong đó chính sách thuế chiếm

khoảng 25% tổng số các chính sách và luật liên quan tới KHCN [155].

3.1.3.1. Chính sách trọng cung

“Chiến lược Quốc gia Phát triển Khoa học và Công nghệ trung và dài

hạn (2006-2020)” thúc đẩy các DN tăng chi tiêu R&D và tăng cường năng lực

đổi mới công nghệ thông qua một số chính sách: Đẩy nhanh việc áp thuế giá

trị gia tăng dựa trên tiêu dùng và thực hiện thanh toán công nghiệp cho mua

sắm thiết bị được ưu tiên bằng thuế giá trị gia tăng được khấu trừ; Thực hiện

một loạt các chính sách nghỉ lễ về thuế, nâng cao mức độ khuyến khích các

chính sách, bao gồm khấu trừ trước thuế đối với chi phí R&D của DN công

nghệ cao; khuyến khích các DN thành lập các quỹ đặc biệt dành cho các hoạt

động R&D; DN được phép đẩy nhanh khấu hao các dụng cụ và thiết bị được

sử dụng trong hoạt động R&D; Ban hành chính sách thuế kỳ nghỉ để mua sắm

các dụng cụ và thiết bị khoa học tiên tiến [182].

Cải cách phương thức của các chương trình KHCN để cho phép các

DN thực hiện các nhiệm vụ R&D quốc gia cũng là một chính sách quan trọng.

Các chương trình KHCN quốc gia phản ánh nhiều hơn các nhu cầu công

nghiệp chính cho KHCN, và thu hút nhiều DN tham gia vào các chương trình

đó. Trong các lĩnh vực triển vọng ứng dụng thị trường rõ ràng, Trung Quốc

thiết lập một cơ chế do DN lãnh đạo với sự tham gia của các trường đại học

và viện nghiên cứu [182].

57

Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc tăng cường trao đổi nước ngoài và hỗ

trợ gây quỹ cho các DN thành lập cơ sở R&D ở nước ngoài, và cung cấp dịch

vụ tiện lợi và chất lượng cho các DN Trung Quốc đầu tư vào nước ngoài. Thực

hiện Luật về thúc đẩy DN nhỏ và vừa và hỗ trợ thành lập nhiều loại hình

DNVVN để tận dụng tối đa sức sống của họ trong đổi mới công nghệ. Khuyến

khích và hỗ trợ SEM khởi xướng các nỗ lực R&D hợp tác dưới hình thức liên

doanh hoặc ký gửi bằng cách cung cấp hỗ trợ chính sách cho việc thương mại

hóa các thành tựu đổi mới [182].

Chương trình “Made in China 2025” đưa ra các chính sách hỗ trợ tài

chính, chính sách tài khoá và thuế. Về hỗ trợ tài chính, Chính phủ mở rộng

các kênh tài chính sản xuất và giảm chi phí tài chính; khuyến khích Ngân

hàng phát triển Trung Quốc tăng các khoản vay cho các DN sản xuất; Hỗ trợ

các DN sản xuất đủ điều kiện tìm kiếm nguồn tài chính từ thị trường vốn

trong và ngoài nước và phát hành các công cụ tài trợ nợ khác nhau; Tăng

cường hỗ trợ cho các DN sản xuất thực hiện thăm dò tài nguyên ở nước

ngoài; tài trợ nợ và tài trợ vốn theo các điều kiện tiên quyết về rủi ro có thể

kiểm soát và kinh doanh bền vững;…[183]. Về chính sách tài khoá và thuế,

sử dụng quan hệ đối tác công tư (PPP) để phân bổ vốn xã hội cho các dự án

lớn, nâng cấp công nghệ và cơ sở hạ tầng sản xuất chính; đổi mới cách hỗ trợ

của quỹ tài chính bằng cách chuyển đổi từ trợ cấp xây dựng sang trợ cấp hoạt

động từng bước; thực hiện chính sách thúc đẩy, giảm rủi ro đầu tư vào sản

xuất lô số 0; thực hiện các chính sách thuế theo hướng chuyển đổi sản xuất,

thúc đẩy cải cách thuế giá trị gia tăng và hoàn thiện các phương pháp tính

toán và kiểm toán chi phí nghiên cứu để giảm gánh nặng thuế cho DN sản

xuất;…[183].

Đối với các DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ, Trung Quốc thực hiện và hoàn

thiện các chính sách ưu đãi tài chính và thuế để hỗ trợ các DN nhỏ và siêu nhỏ

và tối ưu hóa các quỹ đặc biệt cho các DNVVN; khuyến khích các ngân hàng

thương mại phát triển dịch vụ tài chính chuyên biệt cho các DN nhỏ và siêu

nhỏ, như hệ thống bảo lãnh cho thuê và các sản phẩm tài chính sáng tạo; xây

58

dựng và hoàn thiện nền tảng khởi nghiệp cho các DNVVN và các quỹ đầu tư

kinh doanh trực tiếp để đầu tư vào các DN nhỏ và siêu nhỏ;… [183].

Trung Quốc cung cấp khoản trợ cấp thuế R&D với mức giảm ấn định

đối với các DN lớn là 50%, ưu đãi đặc biệt 75% dành cho các DNVVN (bắt

đầu từ năm 2017). Trong trường hợp nghĩa vụ thuế chưa đủ, các khoản tín

dụng chưa sử dụng có thể kéo dài tiếp 5 năm, hoặc 10 năm đối với DNVVN

cũng như DN CNC và mới (High and new technology enterprises- HNTEs).

Trong trường hợp R&D được thầu lại, khoản giảm thuế được giới hạn đến

80% các chi phí được chấp nhận trên một dự án [166].

Liên quan đến hỗ trợ thuế nhập khẩu thiết bị, Trung Quốc đã cho phép

nhập khẩu miễn thuế các thiết bị nghiên cứu KHCN của các tổ chức nghiên cứu

khoa học, tổ chức phát triển công nghệ và trường học. Việc nhập khẩu nghiên

cứu khoa học, phát triển công nghệ khoa học và đồ dùng dạy học mà các nhà

cung cấp trong nước không thể sản xuất hoặc không thể đáp ứng các yêu cầu

về hiệu suất, được miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT nhập khẩu. Ngoài ra,

sách giảng dạy, tài liệu nghiên cứu khoa học có liên quan được nhập khẩu bởi

các viện nghiên cứu khoa học và trường học, được miễn thuế nhập khẩu [85].

Vì mức độ của các công nghệ bản địa của Trung Quốc vẫn còn thấp,

vốn FDI là một kênh quan trọng để tiếp cận với công nghệ tiên tiến nước

ngoài. Chính phủ Trung Quốc đã thiết kế kế hoạch của mình để thúc đẩy các

ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao dựa trên vốn đầu tư nước ngoài và

do đó, đã cố gắng thu hút vốn FDI. Trung Quốc cung cấp lợi ích về thuế và

thành lập các đặc khu kinh tế (Special Economic Zone- SEZ) và các khu khoa

học, như Khu phát triển kinh tế và kỹ thuật (Economic and Technological

Development Zone- ETDZ) và khu phát triển công nghiệp công nghệ cao

(High-tech Industrial Development Zone- HIDZ), cũng như mở cửa ven biển

thành phố và khu vực. Họ cũng cung cấp các hướng dẫn có hệ thống để

chuyển các nguồn vốn FDI vào các ngành công nghiệp mục tiêu. Để thu hút

vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ đã cung cấp mức thuế suất ưu đãi 15% và

24% cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Thuế thu nhập dành cho

59

DN có đầu tư nước ngoài và DN nước ngoài. Nhìn chung, thuế suất ưu đãi

24% đã được áp dụng cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ 15% đã

được áp dụng cho các DN công nghệ cao trong HIDZs và lợi nhuận phát sinh

từ xuất khẩu của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào SEZs [152]. Doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động sản xuất. được thiết

lập để hoạt động trong hơn 10 năm, đã được miễn thuế trong hai năm kể từ

ngày đầu tiên thực hiện quy trình. Trong ba năm sau đó, đã giảm 50% tiền

thuế thu nhập. Các công ty trong nước chỉ có thể được hưởng các khoản giảm

thuế và ngày lễ này khi chúng được thành lập tại HIDZs hoặc ở các khu vực

kém phát triển phía tây [152].

Quỹ đổi mới và Quỹ xúc tiến KHCN do Chính phủ Trung Quốc quản lý

thực hiện hoạt động kích thích sự đổi mới trong KHCN. Nguồn kinh phí do 2

Quỹ trên quản lý đã tiếp tục tăng từ 6,3 tỷ nhân dân tệ năm 1978 lên 15,4 tỷ

nhân dân tệ năm 1990, lên 64,3 tỷ nhând ân tệ năm 1997 và lên tới 124,4 tỷ

nhân dân tệ năm 2004 [152]. Trung Quốc đã thành lập Quỹ phát triển công

nghệ cho các DNVVN từ hai nguồn vốn chính: Bộ Tài chính và Ngân hàng

Nhà nước, chỉ hỗ trợ các DN ở giai đoạn sản xuất thử nghiệm. Trung Quốc

khuyến khích thành lập các Quỹ đầu tư mạo hiểm (chủ yếu của các nhà đầu tư

nước ngoài) để đầu tư vào các dự án công nghệ có triển vọng; thành lập Quỹ phát

triển sáng chế để đầu tư nghiên cứu, hoàn thiện sáng chế. DN nào nếu dành lợi

nhuận trước thuế để mua công nghệ thì sẽ được nhà nước miễn thuế thu nhập DN

cho phần kinh phí đó. Hằng năm, DN được trích 5% doanh thu (không tính thuế)

để nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ [39].

3.1.3.2. Chính sách trọng cầu

Trung Quốc hoàn thiện cơ chế chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện

cho việc tích hợp và ứng dụng các công nghệ công nghiệp; Thiết lập và hoàn

thiện cơ chế thúc đẩy liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống giao dịch

IPR; Phát triển mạnh mẽ các loại tổ chức dịch vụ trung gian KHCN để đáp

ứng nhu cầu của DN, tạo điều kiện cho dòng chảy kiến thức và chuyển giao

60

công nghệ giữa các DN, và giữa các DN với các trường đại học và viện

nghiên cứu [182].

Với chiến lược đổi mới bản địa, Chính phủ xây dựng các quy định thực

thi Luật mua sắm Chính phủ để khuyến khích và bảo vệ sự đổi mới của người

bản địa. Thiết lập một cơ chế phối hợp để mua sắm chính phủ các sản phẩm

sáng tạo bản địa. Chính phủ thực hiện chính sách mua đầu tiên đối với các sản

phẩm và thiết bị công nghệ cao được sản xuất trong nước có quyền sở hữu trí

tuệ độc quyền; Cung cấp hỗ trợ chính sách cho các DN trong việc mua sắm

thiết bị công nghệ cao trong nước; Phát triển các tiêu chuẩn công nghệ có liên

quan thông qua mua sắm chính phủ [182].

3.1.3.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ

i) Chinh sách về nhân lực KHCN

Sau năm 1990, đã dấy lên việc thực hiện các giải pháp liên quan tới vấn

đề tái tạo và gia tăng nguồn nhân lực. Từ năm 1998, hoạch định chính sách

của Trung Quốc đã chuyển sự quan tâm vào Hệ thống Đổi mới Quốc gia và

nền kinh tế tri thức. Nhà nước khuyến khích các DN tuyển dụng và nuôi

dưỡng nhân sự KHCN có trình độ cao, với sự hỗ trợ chính sách tương ứng.

Khuyến khích và hướng dẫn nhân viên KHCN tại các viện nghiên cứu và

trường đại học làm việc về đổi mới hoặc tạo ra các DN KHCN của riêng họ.

Nhân viên KHCN tại các viện nghiên cứu và trường đại học được phép nhận

thêm việc làm để phát triển công nghệ tại các DN; khuyến khích sinh viên tốt

nghiệp đại học làm việc cho các công ty; khuyến khích các DN nuôi dưỡng

các tài năng công nghệ, phối hợp với các trường đại học và viện nghiên cứu.

Tài năng kỹ thuật tầm cỡ cao có thể được nuôi dưỡng thông qua nhiều kênh

và phương thức đa dạng. Các DN công nghệ cao thuộc sở hữu nhà nước được

phép đưa ra một loạt các chính sách thúc đẩy, bao gồm các lựa chọn thực tế

để vinh danh các kỹ thuật viên và nhân viên quản lý có trình độ cao; Hỗ trợ

các DN để thu hút và tuyển dụng các nhà khoa học và kỹ sư nước ngoài [182].

Chương trình “Made in China 2025” thiết lập hệ thống đào tạo tài năng

đa cấp độ, theo đó: Tăng cường đào tạo nhân sự chuyên môn, kỹ thuật, quản

61

lý và hành chính và hệ thống phát triển tài năng; Triển khai Dự án xúc tiến

chất lượng cho các nhân viên quản lý và điều hành DN và Dự án đào tạo Yin

He để giúp các DNVVN nuôi dưỡng các doanh nhân và nhân viên quản lý cấp

cao; Tập trung vào các nhân viên kỹ thuật và chuyên môn cấp cao và có nhu

cầu cao bằng cách thực hiện Dự án cải thiện nhân sự tri thức; Tăng số lượng

kỹ sư sản xuất tiên tiến bằng cách xây dựng các trung tâm đào tạo kỹ thuật và

đổi mới trong các trường đại học; Khuyến khích hợp tác giữa các DN và

trường học để đào tạo các nhà nghiên cứu, kỹ thuật viên và các chuyên gia

liên ngành cần thiết cho sản xuất; Tăng cường dự báo nhu cầu nhân sự công

nghiệp, tăng cường cơ sở dữ liệu nhân sự và xây dựng hệ thống đánh giá nhân

tài công nghiệp và nền tảng phân phối thông tin; Xây dựng và hoàn thiện các

tổ chức dịch vụ nhân sự sản xuất và cải thiện các cơ chế điều chỉnh việc

chuyển giao nhân sự giữa các công ty; Chọn các chuyên gia và sinh viên trẻ

tài năng, đặc biệt là những người có nền tảng chuyên môn và kỹ thuật, ra

nước ngoài học tập và đào tạo, đồng thời xây dựng các cơ sở đào tạo quốc tế

tại Trung Quốc;… [183].

Ngoài ra, cải cách giáo dục đại học được chú trọng, các biện pháp điều

chỉnh đã được tiến hành để thực hiện nhiệm vụ đầy tham vọng là tái tạo hệ

thống giáo dục và phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Trung Quốc đã tiến

hành hàng loạt cải cách để hiện đại hóa và tiếp sinh lực cho hệ thống giáo

dục. Trung Quốc đã áp dụng ưu tiên cao cho hệ thống giáo dục ở cấp tiểu học,

đại học và đào tạo nghề. Để thay đổi nguồn nhân lực, Trung Quốc đã chú ý

đến việc tạo ra, mở rộng và đặt mục tiêu hướng tới sự xuất sắc quốc tế trong

những lĩnh vực quan trọng tại trường đại học được lựa chọn và hình thành các

trường đại học đẳng cấp quốc tế. Các sáng kiến này cũng được thực hiện để

thu hút nguồn nhân lực có tay nghề hồi hương tham gia vào các trường đại

học và tổ chức nghiên cứu, làm gia tăng kỹ năng, mở rộng số lượng những

người có trình độ tiến sĩ,…. Cuộc cải cách đã nhận được nhiều kết quả: tăng

số lượng người đăng ký vào chương trình giáo dục đại học từ 5 triệu lên 23

triệu người, số người tham gia trong độ tuổi 18-22 tăng từ 10% lên 22%, mở

62

rộng số lượng các tổ chức giáo dục đại học từ 1.054 năm 1995 lên 1.731 năm

2004 và tăng số lượng nghiên cứu viên lên 77% từ năm 1995 đến 2004.

Những nỗ lực này đã đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 2 trong xếp hạng thế giới

chỉ sau Hoa Kỳ [160].

ii) Chính sách về hạ tầng KHCN

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sản phẩm R&D giữa

người tạo sản phẩm (tổ chức R&D) và người sử dụng sản phẩm (DN), gần

đây Trung Quốc đã có những đổi mới trong chuyển giao công nghệ; tư vấn

công nghệ; và dịch vụ công nghệ như thiết kế, chế tạo,… ([182], [183]). Một

số chính sách cụ thể gồm:

- Phát triển thị trường KHCN và thúc đẩy phát triển các tổ chức trung

gian: Trung Quốc xây dựng mô hình phát triển thị trường KHCN thông qua

các Trung tâm dịch vụ KHCN thuộc Hiệp hội Thị trường công nghệ; Sàn giao

dịch công nghệ Thượng Hải; Trung tâm Sức sản xuất Quảng Đông. Bên cạnh

đó, Trung Quốc cũng rất quan tâm việc phát triển hệ thống các tổ chức trung

gian, môi giới nhằm tạo quan hệ, kết nối cung-cầu. Hệ thống các cơ quan

trung gian này bao gồm các đơn vị sự nghiệp của nhà nước; các đơn vị thuộc

các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; các tổ chức tư nhân.

- Hoàn thiện cơ chế chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện cho việc

tích hợp và ứng dụng các công nghệ. Thiết lập và hoàn thiện cơ chế thúc đẩy

liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống giao dịch IPR. Phát triển mạnh

mẽ các loại tổ chức dịch vụ trung gian KHCN để đáp ứng nhu cầu của DN,

tạo điều kiện cho dòng chảy kiến thức và chuyển giao công nghệ giữa các

DN, và giữa các DN với các trường đại học và viện nghiên cứu. Các phòng

thí nghiệm trọng điểm quốc gia và trung tâm kỹ thuật (nghiên cứu công nghệ)

sẽ được tiếp cận dễ dàng hơn cho các DN [182].

- Chiến lược quyền sở hữu trí tuệ và chiến lược tiêu chuẩn công nghệ.

Tăng cường nhận thức IPR trong khi cho phép các DN, viện nghiên cứu và

trường đại học chú trọng hơn và tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đưa

ra phạm vi rộng lớn cho vai trò quan trọng của các hiệp hội công nghiệp trong

63

bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thiết lập và hoàn thiện hệ thống trình độ chuyên

môn việc làm và hệ thống tín dụng công cộng có lợi cho việc bảo vệ quyền sở

hữu trí tuệ [182].

- Xây dựng các khu công nghệ, trung tâm KHCN tập trung:

Các phòng thí nghiệm kỹ thuật quốc gia và trung tâm kỹ thuật ngành

được thành lập tại các viện nghiên cứu hoặc các DN lớn sở hữu khả năng

nghiên cứu và phát triển công nghệ khá mạnh, phối hợp với các trường đại học

và viện nghiên cứu. Khuyến khích các tập đoàn đổi mới công nghệ thuộc nhiều

hình thức khác nhau do các DN khởi xướng, phối hợp với các trường đại học

và viện nghiên cứu, cho mục đích nâng cao năng lực đổi mới công nghệ [182].

Tối ưu hóa môi trường cho CNH CNC và nâng cao năng lực của các cơ

sở CNH CNC, bao gồm cả các khu công nghiệp CNC quốc gia, bằng cách xây

dựng các chính sách thuận lợi không chỉ cho sự phát triển của các khu CNC

cấp quốc gia mà còn giúp thúc đẩy sự phát triển của các khu vực lân cận.

Thiết lập nền tảng thông tin cho trao đổi công nghệ và thông tin thương mại,

và cung cấp hỗ trợ chính sách cho phát triển kỹ thuật và dịch vụ liên quan

thông qua các dịch vụ trung gian của KHCN, bao gồm công viên KHCN đại

học, vườn ươm DN KHCN, trung tâm xúc tiến năng suất và trung tâm chuyển

giao công nghệ [182].

Một sáng kiến hỗ trợ quan trọng khác là việc phát triển công viên khoa

học, khu công nghiệp CNC và trung tâm hợp tác nghiên cứu giữa trường đại

học và ngành công nghiệp, việc phối hợp cùng phát triển công nghệ và quan

hệ đối tác cùng hợp tác. Xác định những yêu cầu kỹ năng mới không chỉ cung

cấp kỹ năng mà còn nhắm tới các ngành nghề phù hợp để tạo ra các kỹ năng

được coi là xác thực nhất cho Trung Quốc. Xây dựng các tổ chức mới nhằm

đáp ứng những thách thức của công nghệ mới xuất hiện trong các viện, trường

và ngành công nghiệp cũng là một nhân tố rất quan trọng. Quá trình này bao

gồm cả việc phá bỏ những cấu trúc cũ và hình thành một cấu trúc mới. Ngoài

việc thúc đẩy các nhóm công nghệ cụ thể và các chương trình hỗ trợ khác

nhằm giúp ngành công nghiệp trong nước, Trung Quốc thúc đẩy xây dựng các

64

tiêu chuẩn riêng của mình như: đạo luật Bayh-Dole cho Trung Quốc, chính

sách ĐMST bản địa của Trung Quốc.

- Xây dựng hệ thống dịch vụ thông tin và phổ biến công nghệ:

Xây dựng hệ thống dịch vụ tích hợp cho DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ bằng

cách hoàn thiện mạng lưới nền tảng dịch vụ công cho DN vừa, nhỏ và siêu

nhỏ; xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin để cung cấp cho các DNVVN các dịch

vụ chuyên biệt liên quan đến khởi nghiệp, đổi mới, tài chính, tư vấn, đào tạo

và tuyển dụng [183].

Tăng cường hỗ trợ cho việc phổ biến công nghệ nông nghiệp thông qua

việc thiết lập các cơ chế mới để phổ biến các công nghệ phù hợp tiên tiến đến

các vùng nông thôn [182].

3.1.3.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Nhằm huy động nhiều nguồn lực, Trung Quốc đã đặt mục tiêu tới sự

thay đổi không chỉ về thành tố đổi mới như các viện nghiên cứu hay tổ chức

giáo dục, đào tạo mà còn củng cố môi trường ĐMST. Đồng thời, các nguồn lực

này đã định hình cốt lõi của chính sách KHCN và ĐMST của Trung Quốc.

Hệ sinh thái cho ĐMST được tăng cường, bao gồm cơ sở hạ tầng tổ

chức như các trường đại học và viện nghiên cứu, nhà cung cấp dịch vụ trung

gian và mối quan hệ giữa các tổ chức này. Trung Quốc có nhiều viện nghiên

cứu, trường đại học và xưởng sản xuất trước khi tiến hành cải cách nhưng hệ

thống này trước đây đã bị quá tải từ trước đó, do thiếu sự liên kết giữa các

thành tố đổi mới, thiếu các dịch vụ hỗ trợ trung gian và việc chuyển từ nghiên

cứu sang ứng dụng còn yếu. Cả viện nghiên cứu cũng như trường đại học đều

rất cần được chuyển đổi. Việc chuyển đổi các tổ chức này đã được hỗ trợ

bằng các chính sách nhằm xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ chuyển đổi. Những

sáng kiến như xây dựng công viên khoa học, cơ hội tài trợ, thiết lập dịch vụ

trung gian,… đã giúp hình thành liên kết và cải thiện hệ sinh thái cho ĐMST.

Hiện nay, việc xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia đặc sắc Trung Quốc nhấn

mạnh yếu tố xây dựng hệ thống đổi mới công nghệ do DN lãnh đạo với sự kết

hợp giữa các DN, trường đại học và viện nghiên cứu, đây là điểm đột phá cho

65

việc xây dựng toàn diện sự đổi mới quốc gia. Chỉ khi một hệ thống như vậy

được dẫn dắt bởi các DN, nó có thể đảm bảo định hướng thị trường đổi mới

công nghệ và kết hợp hiệu quả các thế mạnh nghiên cứu đa dạng hóa công

nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chỉ khi các DN, trường đại

học và viện nghiên cứu làm việc cùng nhau, các nguồn lực KHCN mới có thể

được phân bổ một cách hiệu quả, sức sống của các viện nghiên cứu mới được

kích hoạt và DN có được khả năng duy trì sự đổi mới. Mặc dù cải thiện mạnh

mẽ khả năng đổi mới công nghệ của các DN, nhưng bắt buộc phải thiết lập cơ

chế mới cho phép các viện nghiên cứu và trường đại học cung cấp dịch vụ phù

hợp với nhu cầu của các hoạt động đổi mới công nghệ [182].

3.2. Kinh nghiệm Hàn Quốc

3.2.1. Bối cảnh quốc gia

Hàn Quốc đạt được sự phát triển kinh tế phi thường trong nửa thế kỷ

qua, chuyển mình từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế thâm dụng

công nghệ. Là quốc gia nghèo trong thập niên 1960, nhưng Hàn Quốc đã

nhanh chóng học hỏi, thích nghi và tạo ra các công nghệ tiên tiến cần thiết

cho sự chuyển đổi thành công của nền kinh tế [126]. Tổng sản phẩm quốc dân

bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD năm 1960 lên gần 33.500 USD

năm 2018 [144]. Các tác nhân chủ yếu trong sự phát triển kinh tế nhanh

chóng này là chính phủ, các học viện và các DN tư nhân. Điều quan trọng là

chính phủ đã thực thi chính sách nhập khẩu công nghệ và tài trợ cho các

nhóm R&D trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, và điều đó đã mở

đường cho sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ của Hàn Quốc sau đó [126].

Hàn Quốc là một mô hình rất thành công về tiến bộ kinh tế và phát

triển xã hội thông qua sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống R&D đã góp

phần to lớn vào thành công này thông qua việc mua lại các công nghệ chiến

lược từ nước ngoài và xây dựng năng lực công nghệ quốc gia. Về đầu vào hệ

thống R&D, tổng chi phí R&D tại Hàn Quốc liên tục tăng lên (trừ giai đoạn

khủng hoảng tài chính 1997-1999) và chiếm khoảng 3,5% GDP. Chính phủ

Hàn Quốc đã dần tăng kinh phí dành cho các hoạt động R&D kể từ khi bắt

66

đầu quá trình CNH những năm 1960, tăng từ 1,2 tỷ won năm 1963 lên 10,5 tỷ

won năm 1970. Năm 1980, kinh phí này đã tăng gấp 19 lần chỉ trong 1 thập

kỷ, đạt 211,7 tỷ won (chiếm 0,58% GDP) [126]. Nếu xét theo tỷ lệ trên GDP

dành cho R&D của Chính phủ Hàn Quốc trong vòng gần 20 năm qua (từ năm

2000 đến năm 2017), chúng ta cũng chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh mẽ

từ mức 2,18% ở đầu kỳ lên tới mức 4,553% ở cuối kỳ, đạt tỷ lệ cao nhất so

với các nước trên thế giới vào năm 2017, tỷ lệ này của Hàn Quốc đã vượt qua

Israel để vươn lên đứng đầu thế giới với 4,553% GDP dành cho hoạt động

R&D (Hình 3.3).

Hình 3.3. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Hàn Quốc

Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm (2019)

Cùng với việc kinh phí dành cho R&D tăng rất nhanh kể từ khi tái thiết

nền kinh tế từ năm 1960, phần đóng góp cho kinh phí R&D giữa khu vực

công và khu vực tư nhân cũng thay đổi nhiều trong giai đoạn này và càng

ngày tỷ lệ kinh phí dành cho R&D của khu vực tư nhân ngày càng vượt trội

so với khu vực công. Chính phủ chi phối nguồn chi tiêu R&D trước 1980, sau

đó, khu vực tư nhân liên tục mở rộng đóng góp, chiếm 70-80% chi phí R&D

so với mức 20-30% của chính phủ. Về thực hiện R&D (trong tổng chi phí

R&D) các DN chi tiêu khoảng 80%, các viện nghiên cứu công lập khoảng

67

10% và các trường đại học khoảng 10%. Các DN lớn luôn dẫn đầu về đầu tư

R&D trong khu vực tư nhân, đầu tư R&D của các DNVVN đã tăng nhẹ từ

năm 1990. Các công ty liên doanh đầu tư số tiền tương đương với các

DNVVN vào R&D trong những năm đầu thế kỷ XXI [126].

Sự phát triển của hệ thống R&D tại Hàn Quốc có thể được chia thành

hai giai đoạn [126]:(i) giai đoạn 1 là từ năm 1960 đến đầu nững năm 1980,

trong giai đoạn này Chính phủ đóng vai trò chủ yếu; và (ii) giai đoạn 2 là từ

những năm 1990 đến nay, với vai trò chủ đạo là các khu vực tư nhân. Trong

giai đoạn đầu tiên, Chính phủ ghi dấu ấn của mình lên các khu vực tư nhân để

nâng cấp và cải tiến khả năng nghiên cứu công nghệ trong các khu vực này,

bằng cách xây dựng các viện nghiên cứu công cần thiết và đầu tư cho lĩnh vực

giáo dục và R&D. Trong giai đoạn sau, các công ty tư nhân, các tập đoàn lớn

như các Chaebols đóng vai trò dẫn dắt NIS. Tuy nhiên, ngay cả trong giai

đoạn sau, Chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng của mình trong việc củng cố

hệ thống R&D quốc gia. Chính phủ tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ giữa ba thành

phần chính: chính phủ, trường Đại học/Viện nghiên cứu và các DN tư nhân để

đạt được khả năng hiệp lực của quá trình đầu tư, và cung cấp những ưu đãi về

thuế và tài chính cho những DN hoạt động trong các ngành công nghiệp liên

quan đến công nghệ.

Có thể thấy mô hình phát triển của hệ thống R&D tại Hàn Quốc đã

mang lại hiệu quả to lớn, dựa trên việc mở rộng liên tục nguồn đầu tư của quỹ

R&D và nguồn nhân lực cũng như đa dạng hóa những tác nhân thực hiện hoạt

động R&D như các viện nghiên cứu của DN, các viện nghiên cứu của chính

phủ (GRI) và các trường đại học. Hệ thống R&D đã thích nghi và biến đổi

thành công, đáp ứng những thay đổi trong điều kiện và nhu cầu KT-XH trong

quá trình tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế đất nước, cung cấp các

công nghệ phù hợp cho phát triển công nghiệp. Sự can thiệp có tính chiến

lược của chính phủ cũng là một tác nhân quan trọng cho việc chuyển đổi hệ

thống R&D thành công trong suốt 5 thập kỷ qua. Khung hành chính KHCN

của chính phủ cũng tiếp tục phát triển để đảm bảo sự phối hợp thành công

68

giữa các cơ quan phụ trách R&D của các bộ, ngành khác nhau chịu trách

nhiệm cho việc mở rộng liên tục đầu tư R&D và các tác nhân thực hiện R&D

[91]. Sự mở rộng liên tục của nền kinh tế dựa trên xuất khẩu và định hướng

cho các Chaebol (tập đoàn lớn) được hưởng các điều kiện thị trường toàn cầu

thuận lợi trong quá trình tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc của động lực cho sự

vận hành của hệ thống R&D tại Hàn Quốc [91]. Chính phủ đã thúc đẩy phát

triển KHCN bằng các dự án nghiên cứu lớn của quốc gia. Những dự án này

được mở rộng vào những năm 1990 với kế hoạch cho các dự án quốc gia tiên

tiến (HAN), hay còn gọi là các dự án của G7, với mục đích thúc đẩy Hàn

Quốc tiến vào hàng ngũ nhóm bảy quốc gia hàng đầu thế giới. Ủy ban Kế

hoạch G7 của Hàn Quốc đã chọn các dự án theo tiêu chí về mức độ phát triển

của các ngành công nghiệp chiến lược [145].

Sự phát triển của hệ thống R&D của Hàn Quốc được xem như một mô

hình thành công nổi tiếng của hệ thống KHCN để công nghiệp hóa các nước

đang phát triển. Mô hình này cũng đã được giới thiệu như trường hợp chuẩn

của các hệ thống quản trị công nghiệp KHCN (STI) tinh hoa nhất trong số các

quốc gia OECD. Tương lai hệ thống R&D của Hàn Quốc hiện đang được xem

xét để tái cấu trúc hoặc điều chỉnh cho nó hiệu quả hơn, đóng góp tốt hơn cho

phát triển KT-XH. Vấn đề hiện tại của hệ thống gồm sự phối hợp của các bộ,

ngành và các tổ chức R&D, mở rộng nghiên cứu cơ bản chiến lược, nâng cao

nguồn nhân lực R&D, chuyên môn hóa GRI, nâng cao năng lực các viện

nghiên cứu của DN và kích hoạt quan hệ đối tác công tư giữa các GRI, các

trường đại học và viện nghiên cứu của DN.

3.2.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho

khoa học và công nghệ

Trong những năm 1960, Hàn Quốc phụ thuộc hoàn toàn vào các nước

tiên tiến về cơ sở sản xuất và công nghệ. Các nguồn chính để nhập khẩu công

nghệ là Hoa Kỳ và Cộng hòa Liên bang Đức. Năm 1965, một thỏa thuận Hàn

Quốc-Nhật Bản đã dẫn đến các quan hệ ngoại giao được kết nối lại và Hàn

Quốc đã giành được quyền yêu cầu bồi thường từ Nhật Bản. Kết quả là có

69

một dòng vốn đáng kể trong 10 năm từ Nhật Bản, bắt đầu từ năm 1966, khiến

Nhật Bản trở thành nguồn cung cấp công nghệ chính cho Hàn Quốc với số

lượng nhập khẩu công nghệ tăng lên rất mạnh mẽ [68]. Quan điểm thiết kế

chính sách KHCN trong những năm 1970 là tập trung vào sự thích ứng và cải

tiến các công nghệ nhập khẩu và thiết lập các hệ thống R&D tư nhân. Trong

giai đoạn này, đầu tư chung của dòng vốn trong và ngoài nước đã được thúc

đẩy, gắn với sự xem xét, đánh giá về hiệu quả lan truyền của nó đối với công

nghệ trong nước. Nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài hóa ra lại không thực sự

hiệu quả trong việc phổ biến công nghệ nước ngoài. Do đó, chính phủ ban

hành luật về đầu tư vốn nước ngoài, trong đó bổ sung một số hạn chế về các

điều khoản và điều kiện đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi khuyến khích

nhập khẩu công nghệ [68].

Sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất

trong những năm 1970 đã nhanh chóng làm tăng nhu cầu về công nghệ tiên

tiến của nước ngoài. Dự trữ ngoại hối của Hàn Quốc đã tăng đáng kể từ giữa

những năm 1970 và chính phủ nhận ra rằng, để tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ

hơn nữa, cần phải chuyển trọng tâm sự lãnh đạo của mình trong phát triển

kinh tế và công nghệ sang các ngành công nghiệp. Những yếu tố này, cùng

với xu hướng tự do hóa thương mại và đầu tư nước ngoài, buộc chính phủ

Hàn Quốc từng bước thực hiện chính sách tự do hóa công nghệ và nhập khẩu

vốn. Nhờ đó, những năm 1980, đất nước này đã có bước tiến khác hướng tới

mục tiêu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. Trong thành tựu của quá

trình thực hiện mục tiêu này, KHCN đã đóng một vai trò tích cực, dẫn đầu,

thay vì hỗ trợ, cho tăng trưởng kinh tế. Những chính sách hỗ trợ đáng kể được

dành cho giáo dục đại học, khoa học cơ bản cũng như ứng dụng, và nghiên

cứu về khoa học cơ bản của các trường đại học [126].

Chính phủ Hàn Quốc xác định mục tiêu dài hạn của KHCN phải phù

hợp với mục tiêu phát triển quốc gia. Mục tiêu phát triển quốc gia được tuyên

bố là đạt được thứ hạng ngang bằng với các nước phát triển, phấn đấu đứng

thứ 15 của thế giới về tổng sản phẩm quốc gia (GNP) và đứng thứ 10 thế giới

70

về khối lượng thương mại [68]. Để bù đắp cho nguồn tài nguyên thiên nhiên ít

ỏi của đất nước, mục tiêu cần thiết cho KHCN là trở thành không gian đổi

mới, sáng tạo, lọt vào top 10 thế giới trong lĩnh vực công nghệ công nghiệp.

Do hạn chế về nguồn lực sẵn có, các khu vực ưu tiên cần được thiết lập thông

qua việc xem xét, đánh giá nhu cầu quốc gia và lợi thế so sánh. Với quan

điểm xác định vai trò của KHCN là dẫn dắt sự phát triển của quốc gia và hỗ

trợ các nhu cầu phát triển KT-XH, từ đó các chính sách được thiết kế theo

hướng cơ bản này, bao gồm nhân lực, đầu tư, hệ thống R&D quốc gia, hệ

thống thông tin công nghệ, cơ chế hỗ trợ tài chính và thuế, tạo ra một thị

trường cho các sản phẩm công nghệ mới, tăng cường công nghệ cho DN nhỏ,

hình thành các khu vực R&D, xây dựng văn hóa xã hội theo định hướng công

nghệ, và quốc tế hóa KHCN và hợp tác quốc tế. Trên cơ sở đó, xác định mục

tiêu phát triển nguồn nhân lực, nhất là các nhà khoa học và kỹ sư cho R&D,

tăng ngân sách và thúc đẩy đầu tư vào R&D, trong đó chính phủ và khu vực

công sẽ chịu trách nhiệm cho 30-40% của tổng số, và khu vực tư nhân cho

60-70% còn lại, với các công cụ chính sách kích thích sẽ được cải thiện [68].

Ưu tiên hàng đầu trong đầu tư R&D sẽ được dành cho các lĩnh vực có lợi

nhuận kỳ vọng cao, tính liên kết và tính hướng ngoại cao, tính tất yếu và khả

năng thành công cũng như lợi ích công cộng cao [68].

Để phân chia hoạt động R&D một cách hiệu quả, các DN công nghiệp

sẽ đầu tư cho các công nghệ công nghiệp, trong khi các viện quốc gia và công

lập chịu trách nhiệm về nghiên cứu ứng dụng và các dự án quốc gia có rủi ro

cao và hợp tác với bên ngoài, còn các trường đại học tập trung cho nghiên cứu

cơ bản và phát triển nhân lực, cũng như hợp tác với các viện và các ngành

công nghiệp. Để tích hợp giáo dục và nghiên cứu, đặc biệt là trong các lĩnh

vực điều khiển máy móc bằng máy tính, các cơ sở R&D được xây dựng ở

nhiều khu vực khác nhau để tạo thành một mạng lưới. Phát triển công nghệ ở

cấp khu vực đã góp phần quan trọng vào sự phát triển cân bằng của Hàn

Quốc. Trong thế kỷ XXI, các ngành công nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát triển

mạnh mẽ để tạo thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, bởi vì cấu trúc

71

kinh tế sẽ thay đổi thành một trong những “nền kinh tế đa dạng” thay vì “nền

kinh tế có quy mô”. Do đó, các hệ thống hỗ trợ liên quan đến tài chính, thuế,

thông tin và các biện pháp mua sắm công sẽ được đặc biệt dành cho việc tăng

cường công nghệ cho các ngành công nghiệp nhỏ và vừa [68].

3.2.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ

Chính phủ hỗ trợ hiện đại hóa và nâng cấp công nghệ của các ngành

công nghiệp trong nước bằng cách dần dần thúc đẩy việc tạo ra các khả năng

KHCN trong nước và bằng cách hỗ trợ học tập. Trong giai đoạn đầu tiên,

chính phủ tập trung vào kỹ thuật đảo ngược và học hỏi từ thực tiễn tốt nhất

nước ngoài; từ những năm 1970, họ đã đầu tư vào việc thành lập các viện

nghiên cứu của chính phủ để ủng hộ sự phát triển của năng lực trong nước. Từ

những năm 1980, chính phủ đã tiến hành R&D và thúc đẩy khu vực tư nhân

đầu tư vào R&D. Đến thập niên 1990, các chaebols (tập đoàn Hàn Quốc), đã

cam kết cao đối với R&D và chính phủ đã mở rộng hỗn hợp chính sách cho

R&D để bao gồm hỗ trợ kinh doanh mạo hiểm phù hợp với nhu cầu gia tăng

từ khu vực tư nhân [164].

Chính phủ là nguồn chi tiêu R&D chi phối trước năm 1980. Kể từ đó,

khu vực tư nhân tiếp tục mở rộng đóng góp, đăng ký 76% tổng chi phí R&D

trong năm 2006 so với 24% của chính phủ. Tuy nhiên, trong năm 2009, tỷ lệ

khu vực chính phủ và tư nhân là 29:71, cho thấy chính phủ đang tăng đầu tư

R&D để thúc đẩy chi tiêu R&D nhiều hơn [91]. Vai trò của các trường đại

học trong nghiên cứu cơ bản trở nên quan trọng hơn và các mối liên kết học

thuật trong ngành được khuyến khích. Khu vực tư nhân nhận ra sự cần thiết

phải phát triển các công nghệ cần thiết cho các ngành công nghiệp tri thức

trong tương lai và hướng công việc của các viện nghiên cứu của họ theo

hướng này. Nó cũng bắt đầu làm việc với GRI và các trường đại học trong

quan hệ đối tác chiến lược để phát triển cơ sở công nghệ trong nước và tham

gia Hệ thống đổi mới quốc gia (NIS) [91].

72

Năm 1981, Luật Xúc tiến Phát triển Công nghệ năm 1972 đã được sửa

đổi để thúc đẩy thành lập các DNVVN và phòng thí nghiệm của các DN lớn,

dẫn đến việc mở rộng nhanh chóng chi tiêu R&D tư nhân. Do các ưu đãi về

thuế và tài chính, việc thực thi Luật đã thúc đẩy các DN kinh doanh tài trợ cho

các hoạt động R&D của chính họ một cách độc lập và cùng với các viện nghiên

cứu công lập. Không chỉ chi phí R & D của tư nhân mà của cả các viện nghiên

cứu do chính phủ tài trợ cũng tăng mạnh do hai nhóm dự án chính của quốc

gia: Các Dự án của Chính phủ và Các Dự án chung của Chính phủ-DN [126].

Hàn Quốc đã cho thấy một mô hình rất thành công về tiến bộ kinh tế và

phát triển xã hội thông qua sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống R&D của

quốc gia đã góp phần vào thành công này thông qua việc mua lại chiến lược

công nghệ nước ngoài và quy trình xây dựng năng lực quốc gia. Hệ thống

R&D phản ánh nhu cầu kinh tế xã hội của đất nước liên tục thay đổi trong nền

kinh tế toàn cầu, với chính phủ thực hiện vai trò chính là quản lý tăng tốc và

tạo điều kiện cho R&D đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

3.2.3.1. Chính sách trọng cung

Để giảm chi phí R&D cho các DN tư nhân, Chính phủ đã thành lập

Quỹ Dự trữ cho R&D vào năm 1973, bắt đầu miễn thuế và áp dụng tỷ giá

thấp khi mua thiết bị phục vụ cho các hoạt động R&D vào năm 1976 [126].

Trong những năm đầu của thập kỷ 80, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu chuyển

sự chú ý sang hệ thống sáng tạo định hướng bởi khu vực tư nhân, và việc phát

triển các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao. Trong năm 1981, Luật

Thúc đẩy Phát triển Công nghệ ban hành lần đầu vào năm 1972 đã được sửa

đổi để ủng hộ cho việc thành lập các DNVVN, cùng với các phòng thí nghiệm

thuộc các DN lớn, đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng của chi phí cho R&D

trong khu vực tư nhân [148]. Nhờ những hỗ trợ về thuế và tài chính, việc thực

thi Luật này đã thúc đẩy các DN bỏ kinh phí thực hiện các hoạt động R&D

theo các hình thức độc lập hoặc kết hợp với các viện nghiên cứu công lập. Chi

phí cho R&D của khu vực tư nhân cùng với chi phí cho R&D của các Viện

73

nghiên cứu công lập tăng nhanh chóng nhờ hai dự án quốc gia chính: Dự án

của Chính phủ và Dự án Kết hợp giữa Chính phủ và DN [68].

Bắt đầu từ giữa những năm 1980, khu vực tư nhân đóng vai trò chủ yếu

trong NIS, trong khi Chính phủ bắt đầu chuyển dịch dần sang vai trò hỗ trợ

cho các hoạt động R&D và đóng vai trò kết nối các thành tố tham gia hệ

thống này để phù hợp với môi trường kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi. Trước

tiên, Hàn Quốc đã mất vị thế cạnh tranh về các ngành công nghiệp dựa trên

nguồn nhân công giá rẻ, khi chi phí nhân công tăng trưởng với tốc độ trung

bình khoảng 5,8% vào những năm 1960 và 7,5% vào những năm 1970. Thứ

hai, các quốc gia phát triển như Nhật Bản ngày càng hạn chế việc chuyển giao

công nghệ cho Hàn Quốc, do các công ty Hàn Quốc đang ngày càng thâm

nhập sâu vào các lĩnh vực mà Nhật Bản đang chiếm ưu thế [134]. Do những

thay đổi trong môi trường kinh doanh quốc tế, Chính phủ Hàn Quốc cần phải

đề xuất những thay đổi về chính sách phát triển kinh tế, chủ yếu hướng đến

nền kinh tế thị trường thay vì nền kinh tế được định hướng và can thiệp bởi

chính phủ và phát triển những ngành công nghiệp đã có từ lâu đời.

Vì vậy, rất nhiều những loại ưu đãi về thuế đã bắt đầu được thực thi vào

những năm 1980, cho thấy nỗ lực của Chính phủ Hàn Quốc trong việc chuyển

giao vai trò lãnh đạo trong việc phát triển công nghệ của mình sang các công

ty tư nhân; ví dụ như việc loại bỏ các giới hạn trên trong các ưu đãi về thuế khi

sử dụng Quỹ Dự phòng cho R&D; miễn thuế cho các hoạt động R&D và đào

tạo; miễn thuế thuê đất ở địa phương khi xây dựng các Viện nghiên cứu R&D

vào năm 1981; giảm nghĩa vụ thuế đối với nhập khẩu thiết bị R&D vào năm

1982; và tín dụng thuế đối với những hoạt động phát triển nguồn nhân lực vào

năm 1986. Cùng với những chính sách hỗ trợ về thuế cho các hoạt động R&D,

việc giảm tỷ lệ thuế lợi tức từ 40% vào năm 1980 xuống 30% vào năm 1988

cũng đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động R&D của mình [126].

74

Bảng 3.2. Một số chính sách ƣu đãi thuế để thúc đẩy các hoạt động liên quan đến R&D của Hàn Quốc

Giai đoạn

Thúc đẩy việc thành lập vốn mạo hiểm

Thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ

Thúc đẩy việc thƣơng mại hóa R&D

1960 Miễn

thuế hoặc giảm phần trả cho việc khẩu nhập công nghệ

1970 Miễn

thuế hoặc giảm doanh thu từ các hoạt động R&D (1975)

Miễn thuế và tỷ suất khấu hao xã hội đối với các tài sản từ công nghệ mới được thương mại hóa (1973);

Miễn thuế thu nhập đối với các dịch vụ thuật tư vấn kỹ (1975)

1980 Miễn thuế thu nhập cho các nhà nghiên cứu và kỹ sư nước ngoài (1980)

Hệ thống quỹ dự trữ cho các suất đầu tư bị mất vào các DN có vốn đầu tư mạo hiểm (1980);

Ưu đãi thuế đặc biệt cho các DN vừa và nhỏ hoạt động liên đến R&D quan (1985)

Loại bỏ phần tăng vốn từ phần doanh thu bị đánh thuế đối với các DN có vốn đầu tư mạo hiểm (1982)

Miễn thuế đặc biệt đối với các mẫu thử để thí thực hiện trong các nghiệm nghiên cứu

2000 Miễn thuế đối với các sáng chế lên đến 50% doanh thu từ việc có được chuyển nhượng quyền sở hữu

Miễn thuế địa phương đối với việc sử dụng tài sản tại địa phương cho các Viện nghiên cứu; Giảm thuế cho việc đầu tư trang thiết bị trong các phòng thí nghiệm phục vụ cho nghiên cứu

Nguồn: Jiwon và cộng sự [126]

Tín dụng thuế đối với những suất đầu tư cho cơ sở hạ tầng liên quan

đến R&D và sự phát triển nguồn nhân lực được đưa ra vào những năm 1990.

75

Tuy nhiên, do quá trình toàn cầu hóa diễn ra trong những năm này, cùng với

sự trưởng thành của hệ thống WTO, khiến cho Chính phủ Hàn Quốc phải tiếp

tục việc bãi bỏ các chế định [134]. Vì thế, một số chương trình ưu đãi thuế

được triển khai trong thời kì CNH trước đó đã phải bãi bỏ. Bảng 3.2 thể hiện

các loại hình ưu đãi thuế khác nhau được đưa ra bởi Chính phủ để thúc đẩy

các hoạt động liên quan đến R&D.

Trong những năm 2000, chính sách ưu đãi thuế cho sự phát triển các

hoạt động liên quan đến R&D và nguồn nhân lực lại bắt đầu được tái khởi

động. Một số ví dụ cho các chính sách này bao gồm việc miễn giảm thuế thu

nhập từ việc chuyển giao công nghệ, ưu đãi thuế cho các DNVVN mới thành

lập, và tín dụng thuế đối với việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng để phát triển công

nghệ và nguồn nhân lực. Để có thể hưởng các ưu đãi này, các công ty đã mua

bản quyền sáng chế sẽ được miễn thuế lên tới 3% (7% đối với trường hợp

DNVVN) trên tổng hợp đồng, và 3% chi phí mua lại sẽ được miễn giảm trong

trường hợp máy móc, thiết bị, việc cài đặt hệ thống quản lý thông tin và hệ

thống bảo vệ an toàn thông tin. Chính phủ đã bắt đầu hỗ trợ cho các DNVVN

từ những năm 1970, nên các DN này đã nhận được các ưu đãi về thuế, bao

gồm việc giảm thuế thu nhập hoặc thuế lợi tức của các DNVVN nằm ngoài

Seoul, lên tới 50% trong 4 năm kể từ khi thành lập, và thuế địa phương bao

gồm việc giảm thuế tài sản 50% trong 5 năm [126].

3.2.3.2. Chính sách trọng cầu

Tuy có nhiều thành tựu và tiến bộ nhanh chóng trong R&D, Hàn Quốc

vẫn có một chặng đường dài phía trước về thương mại công nghệ, vì Hàn

Quốc đã phải đối mặt với những thiếu sót trong lĩnh vực này trong mọi ngành

công nghiệp. Dù quy mô có tăng lên, lượng giao dịch công nghệ của Hàn

Quốc vẫn thấp hơn nhiều so với các nước phát triển khác, như Mỹ, Đức và

Nhật Bản. Lượng giao dịch công nghệ của Hàn Quốc trong năm 2008 so với

các quốc gia này lần lượt là 1/17.8, 1/11.8 và 1/3.3 ([159], [161]).

Ngành công nghiệp cho thấy thâm hụt lớn nhất trong thương mại công

nghệ là điện tử, mặc dù nó ghi nhận lượng xuất khẩu công nghệ lớn nhất,

76

chiếm 68,5% tất cả xuất khẩu công nghệ. Điện tử chiếm khoảng một nửa tổng

thâm hụt thương mại công nghệ của Hàn Quốc trong suốt những năm 2000.

Ngành công nghiệp máy móc là ngành xuất khẩu công nghệ lớn thứ hai, với

tỷ lệ 20%. Mặc dù ngành công nghiệp điện tử đã dẫn đầu xuất khẩu công

nghệ, nhưng nó nhập khẩu một lượng lớn công nghệ từ nước ngoài, chiếm

58,4% tổng lượng nhập khẩu công nghệ trong năm 2009 ([159], [161]). Ngay

cả khi giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp điện tử là tương đối đáng kể so

với các ngành công nghiệp khác, lượng xuất khẩu công nghệ tuyệt đối vẫn

chậm hơn so với nhập khẩu công nghệ.

Chính sách trọng cầu của Hàn Quốc hướng tới tăng cường xuất khẩu

sản phẩm công nghệ. Bên cạnh thương mại công nghệ, định hướng chính sách

R&D của Hàn Quốc có thể liên quan đến xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng

công nghệ. Các chính sách R&D của Hàn Quốc đã thực sự góp phần phát

triển các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ của Hàn Quốc kể từ giữa

những năm 1980. Ngành công nghiệp CNTT phát triển theo cách này bắt đầu

dẫn đầu xuất khẩu Hàn Quốc từ những năm 1990. Cùng với ô tô, các sản

phẩm CNTT như bán dẫn, màn hình tinh thể lỏng (LCD) và thiết bị cầm tay

dẫn đầu xuất khẩu Hàn Quốc hiện nay [126].

3.2.3.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ

* Chính sách phát triển nhân lực KHCN

Tại Hàn Quốc, Luật Giáo dục đã được ban hành vào năm 1949, khiến

giáo dục tiểu học bắt buộc và ngân sách dành cho học phí ngày càng tăng sau

Chiến tranh Triều Tiên [140]. Ngoài ra, giáo dục trung học cơ sở trở thành bắt

buộc vào năm 1985 và dần dần mở rộng cho tất cả học sinh cấp hai ở Hàn

Quốc vào năm 2004. Hiện tại, Hàn Quốc là một trong những nước có tỷ lệ cao

nhất về dân số theo học các trường cao đẳng [163]. Bên cạnh đó, khuyến

khích giáo dục đại học, xây dựng nguồn nhân lực thông qua chương trình đào

tạo nghề cũng là một phần trong nỗ lực của Chính phủ. Là một quốc gia theo

đuổi công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu, Chính phủ lấy một số chương

trình quản lý nguồn nhân lực từ đào tạo nghề đến các trường kỹ thuật trung

77

học trong những năm 1960 và 1970 [126]. Đặc biệt, Luật Dạy nghề ban hành

năm 1967 cho phép Chính phủ xây dựng 26 trường dạy nghề công cộng và đã

đào tạo hơn 350.000 người, chia sẻ khoảng 3% lực lượng lao động vào năm

1986. Cấp trợ cấp cho các công ty tư nhân liên quan đến các chương trình đào

tạo tại nhà máy cũng tạo điều kiện thực hiện các kỹ năng cần thiết cụ thể cho

từng ngành [126]. Trong những năm 1980, các trường cao đẳng kỹ thuật hai

năm và các trường đại học bốn năm sẽ đào tạo những công nhân và kỹ thuật

viên lành nghề để tăng nguồn cung lao động cần thiết cho các ngành công

nghiệp thâm dụng công nghệ [134]. Chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu

Cao cấp về Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (Korean Advanced Institute of

Science and Technology- KAIST) vào năm 1971 với sự hỗ trợ tài chính đầy

đủ cho ngân sách hoạt động để tạo ra những thạc sĩ và tiến sĩ về khoa học và

kỹ thuật [140]. Nhiều nhà khoa học và kỹ sư nam trẻ tuổi đã được trao đặc

quyền miễn nghĩa vụ quân sự, kéo dài đến hai năm [145]. Các cơ hội học

bổng cũng được cung cấp cho sinh viên đại học và sau đại học để thu hút sinh

viên tài năng vào lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. Với nỗ lực của Chính phủ, số

lượng các nhà nghiên cứu đã tăng trưởng một cách đều đặn.

* Chính sách phát triển hạ tầng KHCN

- Phát triển các trung tâm tri thức

Chính phủ Hàn Quốc còn thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Hàn

Quốc (KIST), là viện nghiên cứu đa lĩnh vực đầu tiên tại Hàn Quốc vào năm

1966, và nó bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1969. Với vai trò là viện nghiên

cứu công lập đầu tiên, KIST đóng vai trò tiên phong trong việc phát triển công

nghệ trong lĩnh vực ô to, điện tử, cơ khí, đóng tàu, lọc hóa dầu, sản xuất thép,

các kim loại không phải sắt, và các công nghệ có thể xuất khẩu khác. KIST tạo

ra nhiều lợi ích cho phép cung cấp thông tin và công nghệ đã có đến những nhà

nghiên cứu R&D có kinh nghiệm cũng như cho nền công nghiệp [78].

Ngoài ra, KIST cũng là hạt nhân trong hệ thống R&D Quốc gia của

Hàn Quốc, và đóng vai trò như là một mô hình nền móng cơ bản bằng cách

cung cấp các nghiên cứu đánh giá tính khả thi của công nghệ, đặc biệt là cho

78

ngành công nghiệp hoá chất và ngành công nghiệp nặng trong những năm

1970. Nhận thức được các hạn chế của ngành công nghiệp dựa chủ yếu vào

nguồn nhân công, và với tình hình giá nhân công ngày càng tăng, Chính phủ

Hàn Quốc mạnh mẽ tiến hành phát triển các ngành công nghiệp nặng và công

nghiệp hoá chất đem lại giá trị cao hơn từ năm 1973. Quá trình này được tiếp

tục tiến hành cho đến cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 [145].

Một số ngành công nghiệp nặng chính được quan tâm là ngành công nghiệp

sản xuất gang thép, cơ khí, đóng tàu, điện tử, hóa dầu và các kim loại không

phải sắt. Ngay sau khi thành lập KIST, Bộ Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc

cũng được thành lập vào năm 1967 [140]. Trong suốt thời kỳ này, việc nội địa

hóa công nghệ nhập khẩu và nghiên cứu đảo ngược là những chính sách về

KHCN chính của Hàn Quốc.

Mặc dù KIST đóng vai trò chính trong việc tiến hành các hoạt động

nghiên cứu R&D cho đến giữa những năm 1970, nhưng một Viện nghiên cứu

đơn độc khó có thể đáp ứng được số lượng rất lớn các nhu cầu nghiên cứu từ

các ngành công nghiệp đang phát triển. Vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã ban

hành một đạo luật để thúc đẩy việc thành lập các Viện nghiên cứu đặc biệt

được Chính phủ hỗ trợ, cho phép cung cấp các giải pháp công nghệ cho từng

ngành công nghiệp cụ thể vào năm 1974, và thành lập các viện nghiên cứu

công lập trong những năm 1970 [68]. Một số Viện nghiên cứu công lập đã

được thành lập và phát triển sau khi đạo luật này được ban hành: Viện Nghiên

cứu Cao cấp về Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KAIST) được thành lập

vào năm 1971, đã góp phần đào tạo rất nhiều các nhà khoa học trẻ và tài năng;

Viện Nghiên cứu về An toàn Hạt nhân Hàn Quốc (Korea Institute of Nuclear

Safety- KINS); Viện Nghiên cứu về Nhân sâm và Thuốc lá Hàn Quốc, Viện

Nghiên cứu về Hoạch định và Đánh giá Công nghệ Hàn Quốc; cùng với các

Viện nghiên cứu khác.

Để hỗ trợ cho các ngành công nghiệp khác nhau thuộc lĩnh vực công

nghiệp nặng và hóa chất, Chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu Máy móc

và Vật liệu Hàn Quốc, Viện Hóa học và Viện Nghiên cứu Đóng tàu Hàn Quốc

79

trong giữa những năm 1970 ([78], [84]), ngay sau khi ban hành Kế hoạch

Thúc đẩy Công nghiệp Nặng và Hóa chất. Các Viện nghiên cứu công lập này

cung cấp các công nghệ cho các ngành công nghiệp nặng và hóa chất, làm cơ

sở cho việc trở thành các ngành công nghiệp xuất khẩu hàng đầu của Hàn

Quốc trong những thập kỷ sau.

Trong những năm 1980, các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến như

các linh kiện điện tử, máy tính, chất bán dẫn, các máy móc và ô tô phát triển

mạnh mẽ trong giai đoạn này. Viện Nghiên cứu Công nghệ Điện tử Hàn Quốc

(Korea Institute of Electronics Technology- KIET) được thành lập vào năm

1976 đóng vai trò là một viện nghiên cứu hoàn toàn dành cho việc phát triển

các công nghệ liên quan đến ngành công nghiệp điện tử. KIET tham gia vào tất

cả các cuộc thương lượng nhập khẩu công nghệ giữa các DN Hàn Quốc và các

DN nước ngoài, và cung cấp cho các nhu cầu của các khu vực tư nhân [126].

Viện Nghiên cứu điện tử và viễn thông (ETRI) được thành lập năm

1985 do sáp nhập KIET và Viện Nghiên cứu Công nghệ Điện tử và Viễn

thông Hàn Quốc (KETRI). ETRI trở thành một công cụ đắc lực cho ngành

công nghiệp điện tử và viễn thông, và đã thực hiện rất nhiều dự án quốc gia,

phát triển các công nghệ mới để thúc đẩy các ngành công nghiệp CNC [52].

Có thể nói, các Viện nghiên cứu của Chính phủ đa phần là khơi mào, hoạch

định và điều phối các nghiên cứu mục tiêu bằng cách quản lý các công nghệ

nhập khẩu, thúc đẩy việc chuyển giao, quản lý các tư vấn nước ngoài, cũng

như tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao và được đào tạo để có thể đáp ứng

được nhu cầu về con người khi quá trình CNH diễn ra.

- Tăng cường hệ thống sở hữu trí tuệ để đảm bảo cạnh tranh

Cũng giống như các quốc gia phát triển khác, Hàn Quốc rất chú trọng

đến việc phát triển và cải tiến hệ thống bảo hộ sáng chế của mình. Hệ thống

bảo hộ sáng chế của Hàn Quốc được thành lập từ năm 1946, và đã được thay

đổi 16 lần kể từ thời điểm đó. Sự thay đổi đáng kể nhất về chính sách bảo hộ

sáng chế của Hàn Quốc là lần thay đổi vào năm 1986, khi chính phủ nước này

mong muốn xây dựng một hệ thống bảo hộ sáng chế mạnh và có hiệu quả hơn

80

để phù hợp với các hệ thống tại các quốc gia phát triển [196]. Bên cạnh đó,

nhu cầu bảo hộ sáng chế tại Hàn Quốc cũng tăng cùng với sự phát triển kinh

tế và công nghệ của nước này. Tại thời điểm đó, nền công nghiệp đang dần

chuyển dịch để đạt được sự phát triển kinh tế bền vững, và do đó chính phủ

Hàn Quốc muốn thúc đẩy hoạt động đầu tư cho R&D thông qua hệ thống bảo

hộ sáng chế. Số lượng bằng sáng chế trong nước và nước ngoài được cấp tại

Hàn Quốc tăng lên đáng kể, đặc biệt là sau lần sửa đổi Luật SHTT vào các

năm 1988 và 1994. Ví dụ, số lượng bằng sáng chế được cấp tại Hoa Kỳ cho

các DN Hàn Quốc năm 1963 là bằng 0, cấp năm 1970 là 3, tăng lên đến 8 vào

năm 1980, và từ 225 bằng sáng chế vào năm 1990 đến 3.944 bằng sáng chế

được cấp vào năm 2003 [196]. Theo một khảo sát của Cơ quan sáng chế Hàn

Quốc (Korean Intellectual Property Office- KIPO) vào năm 2005, tại cùng

thời điểm có tới 8.552 công ty Hàn Quốc nộp đơn đăng ký tại cơ quan này,

cho thấy việc tăng số lượng sáng chế cũng đi kèm với số lượng công ty mong

muốn được bảo hộ quyền sở hữu cho các nghiên cứu của mình [138].

3.2.3.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

- Chính sách hợp tác R&D

Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng và triển khai chính sách hợp tác R&D

cùng với chuỗi các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm ở giai đoạn những năm

60. Đầu tiên, chính phủ Hàn Quốc thiết lập liên danh công nghiệp để kết hợp

các DN với chính phủ. Việc hợp tác R&D thông qua liên danh công nghiệp đã

trở thành kênh truyền tải kiến thức chính cho đến bây giờ. Vì các doanh

nghiệp Hàn Quốc không có đủ các nguồn tài nguyên cũng như khả năng kĩ

thuật để thực hiện chính sách hợp tác R&D một cách triệt để, chính vì vậy

chính phủ Hàn Quốc đã tập trung thiết lập liên danh công nghiệp nhằm mục

đích cung cấp đẩy đủ thông tin tới các doanh nghiệp và giới thiệu các DN câu

chuyện mà các nước tiên tiến đã thực hiên được ([185], [125]). Thứ hai, chính

phủ Hàn Quốc thực hiện triệt để chính sách hợp tác R&D cho phép các doanh

nghiệp Hàn Quốc tham gia vào các dự án hợp tác R&D của chính phủ thông

qua các chương trình hợp tác R&D quốc gia có quy mô lớn vào những năm

81

80. Chính phủ Hàn Quốc cũng tham khảo và học tập theo hệ thống chính sách

hợp tác R&D của Nhật bản, đất nước được coi là có những đường hướng

chính sách đúng đắn như các nước phát triển khác. Vì khá gần với Nhật Bản

về mặt địa lý và lịch sử, Hàn Quốc đã nhanh chóng áp dụng vào chính sách

hợp tác R&D của mình dựa trên hệ thống chính sách của Nhật Bản [178].

- Phát huy vai trò của các tập đoàn lớn- Chaebols

Trong quá trình phát triển của Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và

tăng trưởng kinh tế tại Hàn Quốc, các Chaebols- thuật ngữ chỉ các xí nghiệp

tập đoàn lớn của Hàn Quốc- đã nổi bật lên trong sự tăng trưởng công nghiệp

thần kỳ của Hàn Quốc ([134], [132]). Mặc dù thực tế có thể đúng là các

Chaebols của Hàn Quốc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tăng

trưởng kinh tế và sau đó, nhưng Chính phủ Hàn Quốc cũng góp phần quan

trọng trong việc tạo ra các nhà nghiên cứu có trình độ và kinh nghiệm, cùng

với thiết lập và duy trì các viện và trung tâm nghiên cứu ngay cả trong những

thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, sớm hơn rất nhiều so với các công ty tư

nhân, ví dụ như các Chaebols, bắt đầu tiến hành các hoạt động R&D bằng

chính kinh phí của mình trong những năm 1980 [134].

- Thành lập các Innopolis

Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu xây dựng “Thung lũng Silicon của Châu

Á” với mục tiêu tạo ra các công viên khoa học, được gọi tên là Innopolis,

khởi công vào năm 1979. Thuật ngữ này được tạo ra bằng cách ghép hai từ

"innovation" (nghĩa là “sáng tạo”) và “polis” (nghĩa là “thành phố”). Vào năm

1992, hầu hết cơ sở hạ tầng của Khu Nghiên cứu Daedeok gần như đã được

hoàn chỉnh. Tổng số cơ sở nghiên cứu thuộc Daedeok Innopolis tăng từ 742

đơn vị vào năm 2005 đến 1266 vào năm 2010, tức là tăng tới khoảng 70% chỉ

trong 5 năm. Bên cạnh đó, việc gia tăng số lượng các công ty tư nhân cùng

với số lượng các viện nghiên cứu công lập và các viện nghiên cứu phi lợi

nhuận cũng đáng để ghi nhận. Mặc dù Chính phủ xây dựng nên Daedeok

Innopolis và thành lập các viện nghiên cứu công lập trong khu vực này,

nhưng vài năm sau các công ty tư nhân cũng bắt đầu thiết lập các phòng thí

82

nghiệm R&D của riêng họ để đạt được lợi ích từ việc phối hợp với các Viện

nghiên cứu công lập này [84].

Vào năm 2011, các innopolis tại Gwangju và Daegu cũng được thiết kế

để kích thích sự phát triển trên toàn quốc đối với việc nghiên cứu công nghệ và

thúc đẩy sự kết hợp với các công ty lân cận. Các Innopolis tại các thành phố chính

của Hàn Quốc được kỳ vọng là sẽ đóng góp cho sự phát triển cân bằng của đất

nước đi kèm với những sáng tạo và thương mại hóa đối với các công nghệ có sẵn.

Tính đến tháng 8 năm 2012, lần lượt 382 và 198 đơn vị nghiên cứu (bao gồm các

tổ chức thuộc Chính phủ, các viện nghiên cứu công lập, trường Đại học và các

công ty tư nhân) đã được thành lập tại Gwangju và Daegu [126].

Chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng liên kết NIS với các đầu mối công

nghệ tại các khu vực. Mỗi khu vực được đề xuất phát triển một loại công nghệ

cụ thể, thúc đẩy mối quan hệ giữa các đơn vị nghiên cứu tại từng khu vực với

công nghệ đó, và tạo ra sự phát triển. Ví dụ như khu vực Chungcheong có

Daedeok Innopolis sẽ tập trung phát triển các công nghệ thông tin mới như cơ

điện tử, các công nghệ pin công nghệ cao, trong khi tại khu vực Honam, thuộc

vùng tây nam của Bán đảo Triều Tiên, nơi đặt Gwangju Innopolis, lại tập

trung phát triển các ứng dụng thông tin, ngành công nghiệp ô tô và đóng tàu.

Khu vực Dae-kyung có Daegu Innopolis lại tập trung phát triển các ngành năng

lượng xanh, dược liệu thảo mộc, và phát triển văn hóa và du lịch. Thông qua

việc xây dựng hệ thống hợp tác giữa NIS và các đầu mối công nghệ tại các vùng,

và cùng với việc chuyên môn hóa công nghệ tại mỗi khu vực, Chính phủ Hàn

Quốc đã phân bố công nghệ cân bằng với sự phát triển kinh tế [126].

Vai trò của các trường đại học trong nghiên cứu cơ bản trở nên quan

trọng hơn và các mối liên kết học thuật trong các ngành được khuyến khích.

Khu vực tư nhân nhận ra yêu cầu tất yếu phải phát triển các công nghệ cần

thiết cho các ngành công nghiệp tri thức trong tương lai và hướng công việc

của các viện nghiên cứu của họ theo hướng này. Các DN tư nhân cũng bắt đầu

làm việc với GRI và các trường đại học trong quan hệ đối tác chiến lược để phát

triển cơ sở công nghệ trong nước và tham gia Hệ thống đổi mới quốc gia (NIS).

83

3.3. Kinh nghiệm Israel

3.3.1. Bối cảnh quốc gia

Israel là quốc gia nhỏ tại Trung Đông với dân số khoảng 9,2 triệu người

(năm 2020), là quốc gia duy nhất trên thế giới mà người Do Thái chiếm đa số

(khoảng 73,9%) [124]. Năm 1949, Israel là một thành viên của Liên Hiệp Quốc.

Sau cuộc chiến tranh giành độc lập vào năm 1948, Israel là một quốc

gia nghèo. Nền kinh tế của quốc gia này bị kiệt quệ do chi phí cho chiến

tranh, cơ sở hạ tầng, đường xá bị phá hủy, sự ra đi của các kỹ sư người Anh,

những người vận hành phần lớn các tài sản quan trọng của quốc gia (các nhà

máy lọc dầu, cảng biển và sân bay), đồng thời phải đối mặt với một thách

thức khổng lồ khi hàng triệu người tị nạn Do Thái trở về từ châu Âu và các

quốc gia A rập [191]. Ngài David Ben Gurion - thủ tướng đầu tiên của Israel,

đã đưa ra định hướng phát triển trong tương lai của quốc gia mình bằng cách

quyết định đặt KHCN là ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Ngay sau khi chiến

tranh kết thúc, ông đã yêu cầu Quân đội thành lập “Ban Chỉ huy Khoa học”

(Science Command), có trách nhiệm duy trì các ưu thế về công nghệ của

Israel so với các kẻ địch của nước này. Ban Chỉ huy này sau đó đã trở thành

một bộ phận của Bộ Quốc phòng Israel, và được gọi tắt là RAFAEL. Bộ phận

này sau đó đã trở thành một công ty quốc doanh vào đầu những năm 2000.

Công nghệ được “chảy” (spillover) ra từ RAFAEL bắt đầu từ những năm

1960, khi các nhà khoa học và kỹ sư được đào tạo bởi RAFAEL rời khỏi cơ

quan này và bắt đầu xây dựng các DN riêng, chủ yếu trong lĩnh vực công

nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication

Technology- ICT). Một số công ty vẫn đang vận hành thành công trong lĩnh

vực này cho đến tận bây giờ, ví dụ như Elbit System [191].

Kinh tế ổn định nhưng năng động, nghiên cứu học thuật cấp cao, văn

hóa sáng tạo sâu rộng, cũng như hệ sinh thái của Israel là các yếu tố làm cho

Israel trở nên lý tưởng cho nỗ lực R&D trong tất cả các lĩnh vực và tất cả các

ngành công nghiệp, tạo được sự hấp dẫn cho các công ty đa quốc gia [153].

Theo thống kê của OECD năm 2019, chi tiêu của Israel cho R&D tính theo

84

phần trăm GDP là đều đạt ở mức cao nhất thế giới trong suốt giai đoạn 2008-

2018. Năm 2018, chi tiêu cho R&D đạt 4,545% GDP, cao hơn nhiều so với

mức trung bình 2,372% của OECD [167]. Những đặc điểm nổi bật của cộng

đồng nghiên cứu Israel đã tạo thành động cơ đằng sau nền công nghiệp R&D

của nước này [153]:

- Đứng thứ nhất thế giới về số lượng nhà nghiên cứu trên một triệu dân

(2018).

- Đứng thứ nhất thế giới về số lượng kỹ sư trên đầu người (2017).

- Đứng thứ nhất thế giới chi tiêu cho R&D tính theo phần trăm GDP

(2018).

- Đứng thứ hai thế giới về khả năng đầu tư mạo hiểm (2018).

- Đứng thứ ba thế giới về đổi mới (2017).

- Đứng thứ ba thế giới về chất lượng của các viện nghiên cứu khoa học

(2017).

- Đứng thứ ba thế giới về chi tiêu của DN cho R&D (2018).

Sau hơn bốn thập kỷ phát triển, Israel đã trở thành một trong những quốc

gia công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới và là trung tâm đổi mới toàn cầu.

Israel đứng thứ 2 về đổi mới trong số 138 nền kinh tế được nêu trong Báo cáo

cạnh tranh toàn cầu của WEF (World Economic Forum) năm 2016-2017, xếp

thứ 24 trong số 128 nền kinh tế trong Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2016 [197].

Israel là “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 2.000 công ty khởi nghiệp và chỉ đứng

sau Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ về số lượng công ty khởi nghiệp.

T Israel là “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 2.000 công ty khởi nghiệp

và chKHCN, trong slà “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 2.000 công ty khởi

nghiệp và chỉ đứng sau Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ về số lượng công ty

khởi nghiệp. đa qug slà “ Theo số liệu của Tổ chức OECD, tỷ lệ % GPD đầu

tư cho R&D của Iseral luôn dẫn đầu thế giới với mức từ 4-4,5% trong suốt

gần 20 năm từ 2000 đến 2017, ngoại trừ một số năm như 2013, 2015, 2017

đứng sau tỷ lệ của Hàn Quốc (Hình 3.4). Trị số tuyệt đối về tổng chi phí cho

85

R&D của Israel vào năm 2016 là khoảng 13,526 tỷ USD và đạt gần 16 tỷ

USD năm 2017, nằm trong nhóm thứ 3 thế giới về giá trị đầu tư cho KHCN.

Hình 3.4. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Iseral

Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm (2019)

Tính theo sự đóng góp về kinh tế của các hoạt động R&D, hoạt động

xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Israel năm 2019 tiếp tục tăng

trưởng và đạt mức kỷ lục của mọi thời đại là 45,8 tỷ USD (tăng 12% so với

năm 2018), chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu của Israel. Phần lớn sự tăng

trưởng trong xuất khẩu CNC bắt nguồn từ xuất khẩu phần mềm và R&D,

chiếm 63% xuất khẩu CNC và tăng khoảng 14% kể từ năm 2018, lên tới 28,8

tỷ USD [120].

3.3.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho

khoa học và công nghệ

Mục tiêu của chính phủ Israel là định vị Israel nằm ở vị trí cốt lõi của

nền kinh tế tri thức [79]. Vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế

của Israel đã được thể hiện một cách xuất sắc thông qua sự can thiệp hợp lý

và hiệu quả của chính phủ vào việc thiết lập năng lực của Israel trong công

nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT). Nhiều nhà nghiên cứu đồng

thuận cao trong đánh giá về vai trò chính của chính phủ trong sự xuất hiện và

phát triển của các ngành CNC năng động của Israel, trong đó ngành

CNTT&TT là một phần quan trọng [80]. Nghiên cứu điển hình về lĩnh vực

86

CNTT&TT của Israel cho thấy vai trò quan trọng của chính phủ đối với sự

nổi lên của Israel như một cường quốc về CNTT&TT bằng cách đặt nền

móng cho công nghiệp tư nhân để hỗ trợ đổi mới và thông qua đầu tư lớn vào

xây dựng nguồn nhân lực. Tài sản chiến lược chính là nguồn nhân lực và chất

lượng nguồn nhân lực là điều cần thiết nhất cho đổi mới và tăng trưởng kinh

tế. Hệ thống giáo dục đại học của Israel, hầu hết được chính phủ hỗ trợ, đã

đóng góp rất lớn vào thành công của Israel trong lĩnh vực CNC [80].

Các chủ trương, quan điểm của Chính phủ đã mang lại sự phát triển

đáng kinh ngạc của ngành CNTT cũng như toàn bộ ngành công nghiệp CNC

của Israel. Từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, Israel đã tận

dụng tối đa sự đầu tư lớn vào công nghệ quân sự và quốc phòng, trình độ học

vấn cao, những người nhập cư lành nghề đến từ Nga, cũng như văn hóa đổi

mới để phát triển ngành CNTT và đưa đất nước trở thành “Quốc gia khởi

nghiệp” [80]. Hệ sinh thái CNTT của Israel từng bước được xây dựng ở khu

vực Tel Aviv và Haifa, cả hai đều gần với các cơ sở nghiên cứu hàn lâm hàng

đầu: Technion- Viện Công nghệ Israel và Đại học Tel Aviv. Các DN trong hệ

sinh thái này được định hướng xuất khẩu. Các DN CNTT rất khó phát triển vì

ở rất xa khách hàng của họ ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Vì vậy, giải pháp là

chuyển tiếp thị và trụ sở ra khỏi Israel và thiết lập các hoạt động gần với

khách hàng của họ. Tuy nhiên, R&D vẫn ở lại Israel để tận dụng nguồn vốn

nhân lực. Khi ngành CNTT phát triển, các công ty đa quốc gia tìm kiếm công

nghệ đổi mới đã mua các công ty khởi nghiệp nhỏ và thành lập các trung tâm

R&D địa phương. Ngày nay có 298 công ty đa quốc gia đặt các trung tâm

R&D tại Israel, như IBM, Intel, Apple, Cisco, Motorola và Microsoft [80].

Ở Israel, ba động lực chính đằng sau cộng đồng CNC là các trường đại

học mạnh, một cộng đồng khởi nghiệp sôi động và khả năng tiếp cận vốn

[80]. Một quan điểm được chính phủ Israel kiên trì theo đuổi là, sự đổi mới và

sự lan tỏa kiến thức làm nền tảng cho nó, chính là nguồn động lực chủ yếu

cho tăng trưởng kinh tế. Chính phủ Israel cũng xác lập một quan điểm mang

tính hành động, đó là tập trung hoàn thiện hệ thống đổi mới, phát triển cơ sở

hạ tầng, đầu tư vào R&D và tạo ra giá trị kinh tế. Chính phủ đã thành lập Cơ

87

quan đổi mới quốc gia với sứ mệnh thúc đẩy đổi mới như là đòn bẩy cho tăng

trưởng kinh tế bền vững. Như vậy, đặt ra một nhiệm vụ kép: bảo tồn và tăng

cường các tài sản đổi mới và tận dụng các tài sản này tốt hơn theo hướng mở

rộng ảnh hưởng tài chính đối với nền kinh tế nói chung. Tầm nhìn của chính

phủ Israel là tăng số lượng lớn các DN trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh

tế, do đó sẽ phải áp dụng chiến lược ĐMCN, sử dụng nó để phát triển lợi thế

cạnh tranh và sử dụng lao động với mức lương và năng suất cao. Quan điểm

chiến lược của chính phủ là dựa trên ba cấp độ: cơ sở hạ tầng, công nghệ và

giá trị kinh tế. Quan điểm này tạo ra một sự thay đổi trong chính sách đổi mới

ở Israel là tập trung chủ yếu khuyến khích các quy trình R&D và tạo ra giá trị

công nghệ [119].

- Cấp độ hành động đầu tiên: Cơ sở hạ tầng đổi mới [119]

Cấp độ đầu tiên chuyển sang phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng cần

thiết để tạo ra công nghệ và hệ thống đổi mới, và dự kiến sẽ chiếm một phần

quan trọng hơn trong chính sách đổi mới của chính phủ so với trước đây. Cấp

độ này được xây dựng trên hai trụ cột: Trụ cột thứ nhất tập trung bồi dưỡng

nguồn nhân lực lành nghề - trung tâm lợi thế của nền kinh tế Israel và là nền

tảng cho tất cả các hoạt động R&D và đổi mới. Trụ cột thứ hai tập trung vào

đầu tư cho cơ sở hạ tầng nghiên cứu nhằm tạo ra các công nghệ tiên tiến.

- Cấp độ hành động thứ hai: Đầu tư R&D [119]

Cấp độ thứ hai bao gồm giải quyết các thất bại của thị trường trong đầu

tư R&D, và đặc biệt, bắc cầu cho “các thung lũng chết” đã ngăn cản các DN

có tiềm năng tiếp cận thị trường, đồng thời tham gia rủi ro để thúc đẩy các

DN chấp nhận rủi ro công nghệ lớn hơn. Cho đến nay, hoạt động này vẫn là

cốt lõi của sự hỗ trợ từ chính phủ cho đổi mới ở Israel. Nó tiếp tục tạo thành

một cấp trung tâm trong chiến lược của Cơ quan đổi mới quốc gia, tuy nhiên

nếu trước đây mục tiêu chính của nó là tăng phạm vi R&D trong ngành công

nghiệp Israel, thì ngày nay nó hướng tới tầm quan trọng lớn hơn là tăng

cường chất lượng R&D, ảnh hưởng thị trường và khả năng thúc đẩy năng lực

cạnh tranh của DN.

- Cấp độ hành động thứ ba: Nắm bắt giá trị kinh tế [119]

88

Cấp độ thứ ba, có liên quan đến lĩnh vực CNTT&TT, tập trung vào

nắm bắt giá trị kinh tế, thúc đẩy các DN tăng giá trị kinh tế do cốt lõi của sự

đổi mới. Hai hướng hoạt động chính ở cấp độ này là thúc đẩy phát triển các

DN hoàn chỉnh ở Israel thông qua phát triển cơ sở hạ tầng tài chính và tạo ra

các động lực cho các tập đoàn đa quốc gia mở rộng phạm vi hoạt động của họ

ở Israel. Hướng hoạt động tiếp theo ở cấp độ này liên quan đến thúc đẩy hoạt

động của các DN Israel sáng tạo trên thị trường toàn cầu. Tập trung xây dựng

cầu nối tới các thị trường mới nổi, tăng cường hợp tác với các nước hàng đầu

châu Âu, Mỹ và phương Đông.

3.3.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư

cho khoa học và công nghệ

Đối với Israel, nguyên tắc trung lập chi phối các chương trình hỗ trợ

chính, đảm bảo rằng các nguồn lực được phân bổ đáp ứng với các tín hiệu thị

trường thay vì những chỉ thị quan liêu [149]. Chính phủ đã đưa ra một loạt

các chương trình đổi mới vượt ra ngoài các khoản trợ cấp R&D thông thường

như: “Yozma”, quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ tài trợ đã khởi động thị

trường đầu tư mạo hiểm đang phát triển mạnh ở Israel; chương trình “Vườn

ươm”, đáp ứng những cơ hội mở ra bởi sự di cư hàng loạt của các nhà khoa

học và công nhân lành nghề từ Liên Xô cũ; chương trình “Magnet”, được

thiết kế để hỗ trợ các dự án chung của các DN và viện nghiên cứu,… Lĩnh

vực CNC ở Israel đã phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng kể từ giữa những

năm 1980. Số bằng sáng chế của Mỹ cấp cho các nhà phát minh của Israel đã

tăng gấp 3 lần kể từ năm 1985, xuất khẩu CNC của Israel đã tăng gấp 8 lần

trong thập kỷ qua. Sự phát triển quan trọng tiếp theo là việc thông qua Luật

thúc đẩy R&D công nghiệp (Luật R&D) năm 1984. Đây là bộ luật chính để

xác định các thông số chính sách của chính phủ đối với R&D công nghiệp kể

từ đó. Mục tiêu là tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp định hướng

xuất khẩu, dựa trên cơ sở khoa học, có khả năng tạo việc làm và cải thiện cán

cân thanh toán quốc gia [149]. Như vậy, cốt lõi của Luật R&D là một chương

trình thúc đẩy và biện pháp hỗ trợ tài chính mà các DN, dù là tập đoàn lớn

hay DN nhỏ, đều được hưởng sau khi đáp ứng một số tiêu chí đủ điều kiện.

89

3.3.3.1. Chính sách trọng cung

Khởi nguồn của những hỗ trợ của chính phủ cho hoạt động R&D tại

Israel được bắt nguồn từ năm 1968 thông qua việc thành lập Văn phòng của

các nhà khoa học lớn (Office of the Chief Scientist - OCS) trực thuộc Bộ

Công nghiệp và Thương mại, với nhiệm vụ là hỗ trợ các dự án R&D được

thực hiện bởi các DN tư nhân. Kể từ đó, các cơ quan phát triển của Israel đã

bắt tay vào phát triển một ngành công nghiệp dựa trên nền tảng khoa học tại

địa phương, được định nghĩa là các hoạt động R&D sản phẩm mới. Để thực

hiện mục tiêu đã nêu này, cơ quan phát triển công nghiệp chính của Israel là

OCS đã thực hiện một loạt chính sách tuân thủ một nguyên tắc - tối đa hóa

các hoạt động R&D công nghiệp. Do đó, trong khi các nhà phát triển muộn

khác tập trung hầu hết các nỗ lực của họ vào sản xuất công nghiệp, Israel đã

từ bỏ sản xuất để tiến hành đổi mới [79].

Các công ty với quy mô lớn hoặc nhỏ nếu đáp ứng được một số quy

định nêu trong các văn bản pháp luật sẽ nhận được các khoản kinh phí hỗ trợ

phù hợp để phát triển các sản phẩm sáng tạo định hướng xuất khẩu. OCS hỗ

trợ tới tối đa 50% tổng chi phí của dự án R&D đối với các công ty lớn, và tới

66% tổng chi phí R&D của các công ty start-up, thông qua rất nhiều các

chương trình hỗ trợ khác nhau [149]. Các chương trình chính do OCS hỗ trợ

bao gồm: (i) “Magnet”, chương trình thúc đẩy các nghiên cứu tổng thể tiền

cạnh tranh (pre-competitive generic research) được thực hiện bởi các nhóm

liên doanh; (ii) chương trình ươm mầm công nghệ; (iii) các chương trình

khác, liên quan đến các hợp tác nghiên cứu R&D song phương và đa phương.

Đây là chương trình hỗ trợ lớn nhất, và việc điều hành chương trình này

là hoạt động chính của OCS [149]. Chương trình này được thực hiện như sau:

các DN đạt yêu cầu sẽ nộp hồ sơ xin hỗ trợ kinh phí cho các dự án R&D cụ

thể. Các hồ sơ này sẽ được xem xét bởi một Hội đồng khoa học, và nếu được

chấp thuận (khoảng 70%), DN sẽ được hỗ trợ tối đa là 50% tổng kinh phí từ

NSNN cho dự án. Khi thành công, DN sẽ phải hoàn trả kinh phí như sau: 3%

doanh thu từ việc bán sản phẩm trong 3 năm đầu tiên; 4% trong 3 năm tiếp theo

và 5% kể từ năm thứ 7 trở đi, tương ứng với phần kinh phí nhà nước đã cấp.

90

Ngoài ra, DN nhận hỗ trợ cũng phải tuân thủ các điều kiện: (i) dự án nghiên

cứu này chỉ được thực hiện bởi chính DN; (ii) các sản phẩm tạo ra từ dự án

phải được sản xuất tại Israel; (iii) các kiến thức (know-how) thu được từ dự án

sẽ không được phép chuyển giao cho bên thứ ba [149].

Hội đồng khoa học, đứng đầu bởi một nhà khoa học lớn (Chief

Scientist), có trách nhiệm trong việc xác định các điều kiện để cấp kinh phí hỗ

trợ (theo các quy định nêu tại Luật năm 1985), và rà soát đánh giá các hồ sơ

nộp để lựa chọn những DN phù hợp. Hội đồng này gồm cả những thành viên

thuộc Chính phủ và các đại diện bên ngoài Chính phủ, nhưng chủ yếu thành

viên là các chuyên gia ở bên ngoài chịu trách nhiệm rà soát hồ sơ [149].

Chính phủ sẽ hỗ trợ tối đa đến 50% tổng chi phí cho hoạt động R&D

thuộc các dự án “dẫn đến các kiến thức, quá trình hoặc hệ thống để tạo ra một

sản phẩm/quy trình mới, hoặc là để cải thiện đáng kể những sản phẩm/quy trình

đã có”. Theo một chương trình khác, chính phủ sẽ hỗ trợ 30% chi phí cho hoạt

động R&D thuộc các dự án dẫn đến sự cải tiến các sản phẩm đang có sẵn trong

đời sống, và 20% cho các sản phẩm thuộc lĩnh vực quân sự. Các công ty start-

up sẽ được hỗ trợ đến 2/3 chi phí cho hoạt động R&D, với mức tối đa là

250.000 USD/năm trong vòng 02 năm. Các sản phẩm thuộc lĩnh vực quân sự

nhưng hướng đến thị trường xuất khẩu sẽ được hỗ trợ lên tới 30% [149].

Israel cũng có những chính sách dài hạn để thúc đẩy sự phát triển của

các ngành công nghiệp tại các khu vực ngoại ô. Theo đó, đối với những vùng

phát triển kém nhất, kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động R&D sẽ được tăng thêm

10%, tức là các dự án phục vụ cho đời sống sinh hoạt sẽ được hỗ trợ tối đa là

60%, còn các dự án phục vụ cho quốc phòng sẽ được hỗ trợ tối đa 40% [149].

- Chương trình “Magnet”

Mặc dù có sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực công nghệ cao từ

cuối những năm 1960, các lĩnh vực công nghiệp tại Israel bị phân mảnh tương

đối lớn, và các công ty công nghiệp của nước này quá nhỏ để có thể chịu được

các khoản chi phí quá cao để phát triển các công nghệ mới trong các lĩnh vực

mới. Ngoài ra, chính phủ Israel cũng thúc đẩy việc thành lập các đại học

nghiên cứu đẳng cấp quốc tế, nhưng các trường đại học này lại hoạt động

91

tương đối cô lập khỏi sự phát triển và nhu cầu của các ngành công nghiệp

xung quanh, và do đó một phần tiềm năng kinh tế lớn nằm trong nguồn nhân

lực chất lượng cao và trong các nghiên cứu của các trường đại học thường

không thể được tận dụng ([149], [80]).

Trước tình trạng như vậy, OCS thành lập chương trình “Magnet” vào

năm 1993, để hỗ trợ cho việc thành lập các liên doanh bao gồm các công ty

hoạt động trong các ngành công nghiệp và các viện nghiên cứu để phát triển

các công nghệ tổng quát, tiền cạnh tranh (Pre-Competivtive Technology). Các

liên doanh này sẽ nhận được một khoản hỗ trợ cho hoạt động R&D trong

nhiều năm (thường là từ 3-5 năm) với phần kinh phí được hỗ trợ lên tới 66%

tổng kinh phí dành cho hoạt động R&D của dự án, mà không có yêu cầu về

việc bồi hoàn [149]. Liên doanh này cần phải bao gồm số lượng nhiều nhất có

thể nhóm các thành viên hoạt động trong cùng lĩnh vực công nghiệp, kết hợp

với các viện nghiên cứu thực hiện các nghiên cứu khoa học liên quan đến các

mục tiêu kỹ thuật của dự án.

Để tránh khỏi những tranh cãi liên quan đến mức độ tin tưởng lẫn nhau,

các thành viên của liên doanh phải đồng ý cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ

được tạo ra từ dự án này cho bất kỳ bên thứ ba nào quan tâm, với chi phí được

xác định không dựa trên sự độc quyền. Cùng với việc thúc đẩy các công nghệ

tiền cạnh tranh, sự hỗ trợ cho liên doanh sẽ ngừng lại khi dự án đạt được mức

độ thử nghiệm quy mô pilot. Điều đó có nghĩa là các hoạt động R&D tiếp

theo cần thiết để thương mại hóa sản phẩm sẽ không được hỗ trợ bởi Magnet,

nhưng các công ty thành viên có thể tiếp tục đăng ký nhận hỗ trợ từ OCS cho

các nghiên cứu này. Ngược lại so với các hỗ trợ của OCS cho các dự án R&D

trong công nghiệp, chương trình Magnet hoạt động dựa trên nền tảng cạnh

tranh, tức là nó được mở ra cho bất kỳ số lượng các đề xuất thành lập liên

doanh mới nào, và nó chỉ lựa chọn các liên doanh nào dựa trên một hệ thống

xếp hạng các liên doanh [149].

- Chương trình ươm mầm

Các tổ chức ươm mầm công nghệ là các tổ chức hỗ trợ tạo ra một cơ

hội cho các DN mới, ít kinh nghiệm có thể phát triển các ý tưởng công nghệ

92

sáng tạo của họ và thiết lập nền tảng kinh doanh mới dựa trên việc thương

mại hóa các ý tưởng này [121]. Chương trình được đưa ra từ đầu những năm

1990, khi làm sóng di cư từ các quốc gia Xô Viết lên tới đỉnh điểm. Rất nhiều

người trong số di dân là các nhà khoa học và các chuyên gia, đi tới Israel tạo

ra một nguồn nhân lực có giá trị cực lớn, đem theo nhiều ý tưởng về các sản

phẩm sáng tạo. Tuy nhiên, họ lại thiếu các điều kiện cần thiết để có thể thành

công về mặt thương mại, từ ngôn ngữ, các yêu cầu trong hoạt động thương

mại tại các quốc gia phương tây, cho đến các kĩ năng quản lý và tiếp cận

nguồn vốn. Mặc dù chương trình này hướng đến những người dân di trú,

nhưng nó cũng mở ra cho tất cả công dân Israel [121].

Mục tiêu của các tổ chức ươm mầm là để hỗ trợ các DN mới thành lập

tại các giai đoạn đầu tiên của DN dựa trên công nghệ, và giúp cho các DN này

có thể thực thi các ý tưởng và tạo ra các dự án kinh doanh mới. Tiền đề là các

tổ chức ươm mầm công nghệ phải nâng cao một cách đáng kể triển vọng của

DN trong việc thu hút vốn đầu tư ở các giai đoạn tiếp theo, tìm kiếm các đối

tác chiến lược, và phát triển hoạt động kinh doanh dựa trên tự thân của chính

họ. Đương nhiên giai đoạn khởi đầu này rất nhiều rủi ro, và thực tế là đầu

những năm 1990 không có nguồn lực về tài chính nào tại Israel hỗ trợ cho các

công ty thuộc loại hình này. Từ giữa những năm 1990, bắt đầu có sự gia tăng

về số lượng vốn đầu tư mạo hiểm, và do đó mục tiêu chia sẻ rủi ro của

chương trình này không nổi bật như thời điểm ban đầu của nó [121].

Mỗi một tổ chức ươm mầm công nghệ được thiết kế sao cho nó có khả

năng xử lý cùng lúc 10 - 15 dự án, và hỗ trợ cho các dự án trong những lĩnh

vực sau: xác định khả năng công nghệ và thị trường của ý tưởng; đưa ra kế

hoạch cho hoạt động R&D và tổ chức nhóm nghiên cứu; thu hút vốn và chuẩn

bị cho việc đưa ra thị trường; cung cấp các dịch vụ về quản trị và văn thư; đưa

ra các khuyến nghị cho việc duy trì, thực hành, kế toán và pháp luật [121].

Để được thông qua, các dự án phải hướng đến việc phát triển các ý tưởng

sáng tạo với tiềm năng xuất khẩu. Nhóm R&D thường bao gồm khoảng 3-6

người, và dự án triển khai trong quá trình “ươm mầm” tối đa là 02 năm. Kỳ

vọng của chương trình này là cho đến cuối giai đoạn ươm mầm, DN sẽ hình

93

thành nên được một mô hình và kế hoạch kinh doanh vững chắc, và dự án có

thể thu hút được những nguồn vốn đầu tư khác và/hoặc sự tham gia của một

đối tác chiến lược. Kinh phí cho mỗi dự án là khoảng 150.000 USD/năm, và

hầu hết là thực hiện trong hai năm. Cũng như các chương trình khác của OCS,

sản phẩm của dự án phải được sản xuất tại Israel, và nếu thành công thì DN

phải hoàn trả một khoản chi phí thông qua các “đặc quyền” về buôn bán [121].

Tính từ lúc khởi đầu của chương trình là năm 1991, cho đến cuối năm

1998, chương trình ươm mầm công nghệ đã hỗ trợ cho gần 700 dự án, với

khoảng 900 chuyên gia tham dự, 70% trong số đó là những người nhập cư, tất

cả đều có bằng cấp cao. Tỷ lệ thành công của các dự án lên tới khoảng 50%,

tức là một nửa dự án trong số được hỗ trợ có thể tự thân tiếp tục phát triển.

Trong số các dự án còn lại, có khoảng 200 dự án đã thu hút được các khoản

đầu tư thêm, từ khoảng 50.000 USD cho tới vài triệu USD. Các lĩnh vực được

hỗ trợ bao gồm: điện tử (27%); phần mềm (20%); thiết bị y tế (17%); Hóa học

(27%); khác (9%) [121].

Năm 1977, Tổ chức Hợp tác R&D trong công nghiệp song phương

Israel - Hoa Kỳ (Bi-national Industrial R&D Foundation - BIRD) được thành

lập với nguồn vốn 110 triệu USD được sử dụng để hỗ trợ các dự án phối hợp

phi quân sự giữa các công ty Israel và các công ty Hoa Kỳ, với điều kiện là

khi dự án thành công thì các công ty tham gia phải hoàn trả một khoản tiền

nhất định. Tổ chức này đã rất thành công trong việc đưa ngành công nghệ của

Israel thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực thị trường

tài chính. Bên cạnh đó, Tổ chức này còn tạo ra sân chơi trong môi trường

quốc tế cho các công ty công nghệ cao Israel.

Về ưu đãi thuế, thuế suất thuế DN được áp dụng ở mức 6% đối với các

DN có doanh thu hợp nhất trên 10 tỷ NIS (tương đương 3 tỷ USD), 12% đối

với các DN khác (7,5% nếu DN được thành lập trong khu vực ưu tiên quốc

gia) với cam kết ổn định lãi suất trong ít nhất 10 năm. Các DN định vị ở hầu

hết các khu vực ngoại vi cũng nhận được 2 năm miễn thuế lợi nhuận và 5 năm

giảm trách nhiệm thuế. Ngoài ra, có một cơ chế ưu đãi đặc biệt dành cho các

DN công nghệ với điều kiện DN phải đầu tư ít nhất 7% thu nhập vào R&D và

94

đạt được ít nhất một trong ba yêu cầu: Ít nhất 20% lực lượng lao động được

sử dụng trong R&D; Đầu tư vốn mạo hiểm trước đây đã được thực hiện trong

DN; Tăng trưởng trung bình hằng năm trong ba năm liền đạt 25% theo doanh

số hoặc tổng số nhân viên [153].

Ngoài ưu đãi về thuế cho các DN R&D, Israel còn ban hành Luật Thiên

thần năm 2010, sửa đổi năm 2016, cung cấp lợi ích thuế cho các nhà đầu tư

duy nhất đầu tư vào các công ty Israel trong giai đoạn R&D ban đầu (hạt

giống). Mục tiêu của Luật là tăng nguồn tài chính có sẵn cho các công ty

chuyên sâu về R&D giai đoạn đầu của Israel [153].

3.3.3.2. Chính sách trọng cầu

Ở Israel, Chương trình MAGNETON hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ

học viện sang công nghiệp. Chương trình này dành cho các công ty công

nghiệp của Israel muốn nhận các công nghệ mới từ các học viện và cho các

nhóm nghiên cứu học thuật được phê duyệt muốn tiến hành nghiên cứu ứng

dụng mới hợp tác với một công ty có liên quan. Những người tham gia đủ

điều kiện sẽ nhận được khoản tài trợ lên tới 66% ngân sách được phê duyệt.

Không có khoản thanh toán tiền bản quyền nào là bắt buộc [153].

Một chương trình quan trọng của chính phủ là Yozma (có nghĩa là

“sáng kiến” theo tiếng Do Thái), được mô tả bởi báo cáo OECD năm 2010 là

“chương trình thành công và nguyên bản nhất trong lịch sử đổi mới tương đối

dài của Israel”. Được thành lập vào năm 1993, Yozma đã đầu tư khoảng 80

triệu đô la cho 40% cổ phần trong mười quỹ đầu tư mạo hiểm mới. Để thu hút

thêm các nhà đầu tư nước ngoài, chương trình đã cung cấp cho họ bảo hiểm

với 80% rủi ro giảm giá và cho họ lựa chọn mua cổ phần của chính phủ với

giá chiết khấu trong vòng năm năm (sau đó được thực hiện trong tám quỹ).

Để giảm thiểu rủi ro, các quỹ được yêu cầu phối hợp nhiều khoản đầu tư của

họ. Yozma cũng thành lập quỹ 20 triệu đô la của riêng mình để đầu tư trực

tiếp vào các công ty nhỏ. Trong số 15 công ty danh mục đầu tư của nó, chín

công ty đã được công khai hoặc được mua lại. Yozma là chất xúc tác cho

ngành đầu tư mạo hiểm Israel. Nó cung cấp tài trợ giai đoạn đầu rất cần thiết

cho các công ty Israel để đưa sản phẩm của họ ra thị trường. Trong những

95

năm 1990, các khoản đầu tư vốn mạo hiểm đã tăng 60 lần từ 58 triệu đô la lên

3,3 tỷ đô la, với các công ty danh mục đầu tư tăng từ 100 lên 800. Đến năm

1999, Israel chỉ đứng sau Hoa Kỳ về vốn cổ phần tư nhân với tỷ lệ GDP và

70% tăng trưởng của nó đến từ liên doanh công nghệ cao [83].

3.3.3.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ

* Chính sách phát triển nhân lực KHCN

Năm 1967, Israel phải chịu lệnh cấm vận vũ khí, nhưng đó lại là một cơ

hội để nền KHCN nước này tăng tốc rất nhanh. Được dẫn dắt bởi các ngành

công nghiệp công nghệ cao phục vụ cho quốc phòng, số lượng các nhà khoa

học và kỹ sư tăng lên gần 5 lần từ năm 1968 đến năm 1984. Cùng thời điểm

này, tổng số lượng người lao động trong các ngành công nghiệp chỉ tăng 50%

[98]. Để đáp ứng cho các nhu cầu về nhân lực ngày càng tăng, nhiều trường

đại học được thành lập mới, trong khi các trường đại học về khoa học và kỹ

thuật cũ được mở rộng. Theo báo cáo năm 2013 của Viện Nghiên cứu chính

sách quốc gia Neaman, 45% dân số trong độ tuổi lao động của Israel đã đi học

đại học (năm 2019), một trong những tỷ lệ cao nhất trong số các nước OECD;

Trong năm 2008/2009, 8.700 sinh viên lấy bằng khoa học và kỹ thuật; Đội

ngũ giảng dạy và nghiên cứu của Israel bao gồm 9.740 người tại các trường

đại học và 3.530 người ở các trường cao đẳng (năm 2010/2011) [156].

Để đảm bảo cho nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho các hoạt

động R&D, từ năm 1995, Israel đã trở thành quốc gia đầu tư cho giáo dục

nhiều nhất trong số các quốc gia OECD, với 10,3%GDP đầu tư cho giáo dục

(Hoa Kỳ đầu tư 7,2%; Anh đầu tư 5,5%) [158] và tiếp tục duy trì ở mức cao

so với mức trung bình chung của các nước OECD (năm 2015 Israel đầu tư

vào giáo dục 6,0%GDP so với mức trung bình chung của các nước OECD là

5,0% [159]). Chính phủ Israel nhận thức được rằng khu vực công không thể

đầu tư quá nhiều cho nghiên cứu cơ bản do các rủi ro thất bại quá lớn, trong

khi mức độ sở hữu các kết quả nghiên cứu lại tương đối thấp. Do đó, các

nghiên cứu của các trường đại học và các nghiên cứu tiền cạnh tranh sẽ được

Chính phủ hỗ trợ, ví dụ như các chương trình được cấp bởi OCS như đã trình

bày ở trên. Bên cạnh đó, tại các trường Đại học của Israel đều có Văn phòng

96

Chuyển giao Công nghệ (Technology Transfer Offices). Văn phòng này có

trách nhiệm trong việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu của trường Đại

học cho các DN. Tuy nhiên, các trường Đại học của Israel cũng nhận thức rõ

được là việc chuyển giao công nghệ thông qua việc bán li-xăng chỉ chiếm một

phần nhỏ trong số các nghiên cứu có thể triển khai trong thực tế. Vì vậy, các

trường Đại học tại Israel khuyến khích tinh thần khởi nghiệp của các sinh viên

thông qua hàng loạt các hoạt động, ví dụ như các khóa học về khởi nghiệp,

lập kế hoạch kinh doanh, hoặc các câu lạc bộ khởi nghiệp. Hiện nay có

khoảng 20% các nhà sáng lập của các công ty khởi nghiệp tại Israel là các nhà

DN đã hơn một lần khởi nghiệp. Việc rời bỏ các công ty sau khi bị mua lại và

chuyển sang một công ty khởi nghiệp mới cũng là một hiện tượng thông

thường tại quốc gia này, do các kỹ sư và các nhà khoa học tại đây có đầy đủ

kiến thức và kỹ năng về công nghệ.

* Chính sách phát triển hạ tầng KHCN

Trong các quốc gia nghiên cứu, việc xây dựng những chính sách phát

triển hạ tầng KHCN, đặc biệt là hạ tầng CNTT cho KHCN nổi bật nhất là tại

Israel. Do địa thế quốc gia không cho phép thành lập các khu công nghệ tập

trung, Israel tập trung phát triển CNTT làm hạ tầng KHCN để phục vụ kết

nối, chia sẻ tri thức. Bên cạnh việc phát triển làm hạ tầng của KHCN, CNTT

còn là sản phẩm chủ lực trong ĐMST và phát triển KHCN. Trong lịch sử cận

đại, rất ít quốc gia phát triển muộn lại đạt được thành công rực rỡ với ngành

công nghiệp CNTT. Israel là một ngoại lệ và người ta lập luận rằng chính lợi

thế cạnh tranh về R&D đã giúp Israel phát triển vượt bậc trong ngành CNTT.

Lợi thế cạnh tranh trong R&D này tồn tại trong tất cả các ngành công nghiệp

CNTT và khoa học đời sống, và thúc đẩy ngành công nghệ cao của Israel

thành công trước tiên về phần cứng và sau đó là phần mềm. Do đó, trái ngược

với mô hình tăng trưởng công nghiệp theo các lý thuyết phát triển muộn,

Israel đã không theo mô hình của một sự tiến hóa từ công nghệ thấp sang

công nghiệp công nghệ cao, từng bước xây dựng năng lực và dựa vào bắt

chước công nghệ nước ngoài. Thay vào đó, Israel trực tiếp bước vào giai

đoạn cao nhất của ngành công nghệ cao tiên tiến nhất, chỉ tập trung vào tăng

97

cường R&D công nghiệp hay chính sách phát triển một hệ thống công nghiệp

dựa trên nền tảng khoa học, giống như những gì chúng ta thấy ở Israel ngày

nay, tạo ra một sự khác biệt rõ rệt với lịch sử của các nước công nghiệp khác.

Do đó, hệ thống đổi mới của Israel, mặc dù không được xây dựng trực tiếp

bởi những nỗ lực của chính phủ, nhưng cũng được hỗ trợ rất nhiều trong sự

phát triển của đất nước.

3.3.3.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Mặc dù ảnh hưởng của nguồn vốn FDI và sự kết hợp với các công ty đa

quốc gia đến quyết định đầu tư cho R&D tại các quốc gia khác nhau không

thống nhất, nhưng tại Israel, các yếu tố này lại là những nhân tố chính đóng

góp vào các hoạt động R&D chung cho cả đất nước. Không giống như một số

quốc gia khác, Israel luôn mở cửa đối với nguồn vốn FDI này. Vào những

năm đầu của thập niên 70, Israel đã thành công trong việc thu hút đầu tư cho

R&D và sản xuất từ các công ty có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, như Intel và

Motorola. Tuy nhiên, khoảng thời gian sau đó cho đến những năm 1990, dòng

vốn từ các công ty đa quốc gia bị hạn chế do tình hình bất ổn chính trị và sự

chiếm ưu thế của các công ty bản địa (hầu hết là có liên quan đến quân đội).

Kể từ sau những năm 1990, nhiều công ty nước ngoài đã mua lại các công ty

khởi nghiệp của Israel như là một cầu nối để bước vào quốc gia này. Trong

khoảng thời gian từ năm 1995 - 2005, đã có 566 công ty được đăng ký trên cơ

sở dữ liệu của Quỹ Đầu tư mạo hiểm Israel, và 63% trong số đó đã được mua

lại hoặc sáp nhập, và 37% được cổ phần hóa [191]. Đa số các công ty mua lại

đều là các công ty nước ngoài. Nguồn vốn FDI đổ vào Israel không phải do

chi phí nhân công thấp hoặc thị trường lớn như các quốc gia khác, mà do trình

độ R&D và những công nghệ mới chính là những lý do thu hút các công ty

nước ngoài. Ví dụ như Microsoft Israel đã phát triển lên tới 500 kỹ sư chỉ qua

10 thương vụ mua lại, hoặc IBM đã thuê hơn 2000 kỹ sư chỉ qua 11 thương

vụ mua lại [191].

Ngoài ra, thông qua OCS, chính phủ Israel cũng triển khai những

chương trình hợp tác giữa các công ty lớn trên thế giới và các đơn vị nghiên

cứu tại Israel. MATIMOP, một tổ chức chính phủ phi lợi nhuận, hoạt động

98

dưới danh nghĩa của OCS để thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về R&D.

Tổ chức này sử dụng nguồn kinh phí của Israel và bốn quốc gia (Hoa Kỳ,

Canada, Singapore và Hàn Quốc) để cấp tiền cho các dự án R&D kết hợp, mà

có thể phát triển lên quy mô lớn hơn. Chương trình này cùng với BIRD đóng

vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng R&D của các công ty thuộc

Israel với các yếu tố khác của các công ty nước ngoài để tạo ra mối quan hệ

có lợi cho cả hai bên [191].

3.4. Một số bài học chung rút ra từ kinh nghiệm của ba quốc gia

Từ những nội dung phân tích chi tiết ở trên, có thể đánh giá một số vấn đề

về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN ở các quốc gia đã nghiên cứu.

(1) Hàn Quốc

Kể từ khi bắt đầu công nghiệp hóa, các nỗ lực thúc đẩy R&D của Chính

phủ Hàn Quốc đã đi kèm với tăng trưởng kinh tế đáng chú ý. Là một quốc gia

đã trải qua thành công kinh tế mạnh mẽ và đã thay đổi từ một quốc gia phụ

thuộc nhiều vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, gần như không

có cơ sở sản xuất ngay sau chiến tranh Triều Tiên vào đầu những năm 1960,

Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về thâm dụng vốn và

công nghệ các ngành công nghiệp. kinh nghiệm của Hàn Quốc có thể cung

cấp một số bài học ý nghĩa cho các nước đang phát triển đang theo đuổi các

chính sách xúc tiến R&D và tăng trưởng kinh tế nói chung.

Đầu tiên, Chính phủ Hàn Quốc đã coi nguồn nhân lực là một yếu tố

quan trọng trong R&D. Điều này phù hợp với lý thuyết tăng trưởng kinh tế

nội sinh của Romer (1990), Grossman và Helpman (1991), Aghion và Howitt

(1992) và những nhà khoa học khác, nói rằng sự gia tăng mức độ tài nguyên

dành cho R&D sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Không có tài

nguyên thiên nhiên thiết yếu hoặc trình độ công nghệ tiên tiến để phát triển

kinh tế, Chính phủ Hàn Quốc nhận ra cần phải có nhiều kỹ sư và nhà khoa

học lớn. Về mặt này, họ đã thành lập các tổ chức học thuật chuyên ngành

KHCN như KAIST năm 1971, Viện KHCN Gwangju năm 1993 và Viện

KHCN Daegu Gyeongbuk vào năm 2003. KAIST được thành lập dưới sự tài

trợ của chính phủ và ban đầu được biên chế bởi một số giảng viên khoa học

99

và kỹ thuật Hàn Quốc được đào tạo ở các nước tiên tiến, chủ yếu là Hoa Kỳ.

Những học giả trở lại đã dẫn đến sự phát triển công nghệ hiện tại của Hàn

Quốc. Do đó, thành lập các tổ chức học thuật chuyên ngành khoa học và kỹ

thuật, thu hút các nhà khoa học tài năng và các kỹ sư để xây dựng nền tảng

của hệ thống R&D là rất cần thiết cho các nước đang phát triển đang theo

đuổi phát triển kinh tế dựa trên công nghệ.

Thứ hai, Chính phủ Hàn Quốc không chỉ giáo dục các nhà khoa học trẻ

và thu hút các học giả từ nước ngoài, mà còn thành lập nhiều viện nghiên cứu,

trong đó các nhà khoa học và kỹ sư có thể nghiên cứu và thực hiện các chính

sách R&D. Bắt đầu với KIST trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Chính

phủ Hàn Quốc đã thành lập các viện nghiên cứu phát triển các công nghệ bản

địa tiên tiến và hợp tác với các chủ thể khác trong R&D. Các nước đang phát

triển cũng cần xây dựng các viện nghiên cứu chuyên ngành dành cho việc

phân tích và triển khai các hoạt động R&D để đạt được sự phát triển công

nghệ một cách hiệu quả. Ngoài ra, như trường hợp ở Hàn Quốc, các viện

nghiên cứu đặc thù của ngành cần được thành lập để nhắm đến mục tiêu phát

triển các ngành công nghiệp. Như đã thấy trong lịch sử, Hàn Quốc thành lập

và thúc đẩy các viện nghiên cứu như KIST và KAIST trong hơn hai thập kỷ để

tạo ra năng lực KHCN trong chuyển giao công nghệ cho các ngành công nghiệp,

nguồn nhân lực và hợp tác giữa các chủ thể kinh tế, không có lối tắt nào trong việc

phát triển bản địa năng lực KHCN của các nước đang phát triển.

Thứ ba, sự hợp tác hiệu quả giữa Chính phủ và khu vực tư nhân cũng

rất quan trọng. Ở các nước phát triển, nói chung, khu vực tư nhân chịu tỷ lệ

chi cho R&D lớn hơn. Do đó, thành lập các viện nghiên cứu công cộng sẽ

không đảm bảo các hoạt động R&D bền vững. Thay vào đó, các viện nghiên

cứu công cộng cần hỗ trợ khu vực tư nhân, đó là những gì Chính phủ Hàn

Quốc đảm nhận trong giai đoạn sau của NIS. Trong giai đoạn đầu, chính phủ

cần phải bắt đầu phát triển công nghệ, trong khi ở giai đoạn sau, chính phủ

cần làm cầu nối giữa các khu vực tư nhân, giữa các trường đại học và DN và

giữa các viện công và tư nhân để tăng cường NIS.

100

Thứ tư, lợi ích tài chính, như ưu đãi thuế cho các hoạt động R&D, là

cần thiết để thúc đẩy các viện và công ty chấp nhận rủi ro và đầu tư vào R&D.

Chính phủ Hàn Quốc đã cung cấp các lợi ích về thuế trong những năm 1970

đến 1980, đặc biệt là để phát triển các ngành công nghiệp thâm dụng vốn giá

trị gia tăng. Hàn Quốc cũng cấp ưu đãi thuế cho các ngành công nghiệp công

nghệ trong những năm 1990 đến 2000. Chính phủ cần cung cấp các ưu đãi

cho các công ty để thúc đẩy họ sớm bắt đầu hoạt động kinh doanh, đặc biệt là

các DNVVN, phải chịu rủi ro khi đầu tư vào các hoạt động R&D. Một số nhà

phê bình cho rằng Chính phủ Hàn Quốc quá bảo vệ và ít định hướng thị

trường trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, tuy nhiên, sự phát triển

kinh tế của Hàn Quốc cho thấy tầm quan trọng của việc cung cấp các khuyến

khích phù hợp để thúc đẩy các hoạt động R&D. Sau khi đã nhận được ưu đãi

từ Chính phủ, khu vực tư nhân đã theo đuổi các hoạt động R&D một cách tích

cực và tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn thông qua sự hợp tác tích cực giữa

Chính phủ và khu vực tư nhân.

Thứ năm, việc xây dựng các thành phố sáng tạo cung cấp một bài học

quan trọng khác cho các nước đang phát triển. Dự án innopolis của Hàn Quốc

nhắm đến hai điều: hợp tác giữa các viện nghiên cứu công cộng, các trường

đại học và các công ty tư nhân và cân bằng phát triển kinh tế và công nghệ

trên toàn quốc. Để giảm các vấn đề bất bình đẳng khu vực và tăng cường tăng

trưởng kinh tế trong quá trình thúc đẩy các hoạt động R&D, các nước đang

phát triển có thể xem xét các dự án như xây dựng các khu khoa học hoặc khu

phát triển công nghệ tương tự như ở Hàn Quốc để phát triển công nghệ bản

địa và tạo điều kiện giao tiếp giữa các bên tham gia trong R&D .

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các nước đang phát triển

cần phải hiểu được lợi thế so sánh thay đổi và hướng sự chú ý của các chính

sách R&D đi trước một bước. Với lao động giá rẻ trong những năm 1960,

Chính phủ Hàn Quốc đã phát triển ngành công nghiệp lao động. Tuy nhiên,

khi nền kinh tế Hàn Quốc trở nên thua kém Trung Quốc và một số nước Đông

Nam Á về mức lương [140], Chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng thay đổi

chính sách công nghiệp để thúc đẩy các ngành công nghiệp nặng và hóa chất

101

bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước tiên tiến. Để tiếp tục hỗ trợ sự

phát triển, Chính phủ đã thành lập các viện nghiên cứu liên quan vào những

năm 1970. Phản ánh sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp sang các ngành công

nghiệp công nghệ, trong những năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc đã chuyển

trọng tâm của chính sách công nghiệp từ định hướng theo ngành sang hỗ trợ

theo định hướng R&D [145].

Do đó, khởi xướng và thực thi các chính sách công phù hợp về KHCN

bao gồm luật pháp và cơ chế thực thi phù hợp với môi trường xã hội cũng là

một bài học có ý nghĩa mà các nước đang phát triển cần phải nghiên cứu.

Ngay cả khi Hàn Quốc phải đối mặt với một con đường dài phía trước liên

quan đến phát triển công nghệ, hệ thống R&D của họ đã chuyển đổi thành

công từ bắt chước sang đổi mới. Do đó, sẽ rất hữu ích cho các nước đang phát

triển cân nhắc chính sách R&D của mình để tìm cách phát triển các ngành

công nghiệp thâm dụng công nghệ giá trị gia tăng.

(2) Trung Quốc

Qua việc nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN

của Trung Quốc, có thể thấy, một cách từ từ và có hệ thống, quốc gia này đã

thu hẹp khoảng cách khoa học với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Trung

Quốc đã vượt lên trong một số nhóm công nghệ cụ thể. Trung Quốc có thể đạt

được không chỉ đơn thuần nhờ vào phát triển R&D mà còn do đã chú trọng

vào chế tạo và tạo điều kiện nhằm khuyến khích học hỏi và nâng cao trình độ.

Một trong những khía cạnh khác trong quy trình thể chế hóa các chính sách của

Trung Quốc là việc phối hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế, KHCN và ĐMST.

Thành công của Trung Quốc nằm ở việc xây dựng cở sở hạ tầng vật chất cùng

với sự chuyển đổi cần có trong các thành tố nằm giữa tri thức và đã thành công

trong việc cân bằng mối liên kết giữa các thành tố của hệ thống ĐMST. Kế

hoạch ĐMST của Trung Quốc thể hiện sự chú trọng vào chuyên môn hóa và

mục tiêu đạt được các mốc kết quả trung và dài hạn.

Tìm hiểu rõ nguyên nhân phát triển năng động của KHCN Trung Quốc

đã cho thấy Trung Quốc đặt sự phát triển muốn hướng tới và huy động nguồn

102

lực tương xứng, phát triển liên tục các chính sách cùng với công cụ khả thi và

thi hành nghiêm túc, với ý chí chấp nhận thất bại và nỗ lực điều chỉnh chúng.

(3) Israel

Nền KHCN Israel đã đạt được những thành tựu cực kỳ đáng nể trong

những năm qua, giai đoạn mà nhiều học giả đã gọi là “giai đoạn Anh hùng”

của Israel, nhờ đó đã xây dựng đất nước Israel thành một trong những quốc

gia đứng đầu thế giới về tiềm lực kinh tế, quốc phòng và khoa học. Để đạt

được những thành tựu này, Chính phủ Israel, với một hệ tư tưởng xuyên suốt

lấy KHCN làm trung tâm, đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của Israel

(bốn Tổng thống đầu tiên của Israel là những nhà khoa học hoặc hàn lâm rất

nổi tiếng). Thông qua việc xây dựng Tổ chức OCS với nhiều chương trình hỗ

trợ R&D khác nhau, chính phủ Israel đã mở ra một cơ hội mới cho sự phát

triển của nền KHCN nước này. Tổ chức này không chỉ đóng vai trò như là

một nguồn kinh phí chủ yếu cho những nghiên cứu của các DN KHCN Israel,

mà còn thúc đẩy quá trình đầu tư cho hoạt động R&D của các DN và các quỹ

đầu tư mạo hiểm. Các quốc gia khác cũng có thể học tập mô hình này để tạo

ra các quỹ đầu tư công cho các hoạt động R&D trước khi nguồn kinh phí từ

khu vực tư nhân đầu tư cho R&D đạt đến một ngưỡng nhất định, với điều

kiện tiên quyết là có lực lượng các nhà khoa học và kỹ sư có trình độ cao.

Bên cạnh đó, Israel cũng là một quốc gia của những người nhập cư, là

những người có xu hướng chấp nhận rủi ro và có tinh thần khởi nghiệp cao.

Nhờ đó, khả năng nghiên cứu và hấp thụ công nghệ của quốc gia này cũng ở

mức cao trên thế giới, cũng như thu hút được nhiều các công ty, tập đoàn đa

quốc gia đầu tư để có thể sử dụng được lượng chất xám khổng lồ tại đây.

Những yếu tố đó kết hợp lại với nhau để đem lại một thương hiệu độc nhất

trên thế giới cho Israel: “Quốc gia khởi nghiệp”.

Các chuyên gia Israel cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành

một quốc gia phát triển giống như những gì mà người Israel đã từng làm. Một

số nội dung mà Việt Nam có thể học hỏi được như :

- Thứ nhất, Việt Nam nên đẩy mạnh giáo dục, cần tập trung xây dựng

các trường đại học, qui mô không lớn nhưng tiên tiến về các mặt: điều kiện

103

vật chất - kỹ thuật, nội dung đào tạo - nghiên cứu, và tổ chức - quản trị.

- Thứ hai, chiến lược can thiệp của chính phủ, giống như Israel đã thực

hiện đầu tư chiến lược vào công nghệ để tạo ra lợi thế cho quốc gia.

- Thứ ba, làm cho tinh thần khởi nghiệp được phổ biến rộng khắp.

- Thứ tư, đẩy mạnh giao thương với các nước láng giềng.

- Thứ năm, nâng cao chất lượng và hiệu quả của đầu tư nước ngoài.

- Thứ sáu, đặt ra chuẩn mực cao, chẳng hạn mỗi năm phải tăng ba bậc

trong năng lực tranh toàn cầu, bằng cách tăng cường giáo dục và công nghệ

đẳng cấp thế giới, cải thiện cơ sở hạ tầng, thu hút FDI chất lượng cao, tạo điều

kiện cho DN CNC.

- Thứ bảy, tận dụng lợi thế chi phí thấp của sản xuất song song với

sáng tạo CNC.

Rõ ràng có rất nhiều yếu tố để Việt Nam có thể trở thành một quốc gia

khởi nghiệp giống như Israel, đó là con người Việt Nam thông minh, Chính

phủ năng động và luôn luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho kinh tế, DN phát

triển. Hơn nữa, Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới,

tham gia hàng loạt các FTA quan trọng sẽ giúp cho dòng vốn FDI chảy vào

Việt Nam ngày một nhiều. Điều này sẽ sớm đưa Việt Nam trở thành điểm

nóng, thành một trung tâm khởi nghiệp cho các công ty trong nay mai.

104

Tiểu kết chƣơng 3

Chương 3 nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho

KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel. Cả ba quốc gia này đều xây

dựng một hệ tư tưởng xuyên suốt lấy KHCN làm trung tâm, đóng vai trò

quyết định cho sự phát triển KT-XH. Các nước này đã xây dựng hành lang

pháp lý thông thoáng, đồng bộ, bảo đảm quyền SHTT, đảm bảo quyền lợi và

tính cạnh tranh cho DN. Hàn Quốc và Israel đưa ra nhiều chương trình hỗ trợ

R&D khác nhau như phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy chuyển giao công

nghệ, đầu tư phát triển và thương mại hóa công nghệ, .... Các nỗ lực này có

những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động đầu tư cho R&D của khu vực DN.

Bằng một cách từ từ và có hệ thống, Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách

khoa học với các nước phát triển. Thành công của Trung Quốc nằm ở việc

xây dựng cơ sở hạ tầng cùng với sự chuyển đổi cần có trong các thành tố nằm

giữa tri thức và đã thành công trong việc cân bằng mối liên kết giữa các thành

tố của hệ thống ĐMST

Từ các nghiên cứu chung trên thế giới và nghiên cứu về thành công của

Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel có thể khẳng định một số luận điểm chung

quan trọng trong chính sách của các quốc gia này như là bài học kinh nghiệm

tốt cho Việt Nam.

(1) Vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân

đối với sự phát triển KHCN;

(2) Các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng quan trọng trong việc

thu hút đầu tư từ khu vực DN cho hoạt động nghiên cứu và triển khai;

(3) Nhân lực chất lượng cao là chìa khóa của sự thành công;

(4) Những vấn đề về thương mại hóa công nghệ, ĐMST, quyền SHTT,

nền tảng CNTT cần được chú trọng nhiều hơn, đặc biệt trong cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0 hiện nay.

Một phần các kết quả này đã được công bố trong các công trình (1, 3, 4

- Danh mục công trình liên quan đến luận án).

105

Chƣơng 4

CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP

ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM

VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

4.1. Quan điểm và mục tiêu của Nhà nƣớc về thúc đẩy doanh nghiệp đầu

tƣ cho khoa học và công nghệ

4.1.1. Hiện trạng hạ tầng và chính sách khoa học và công nghệ

Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới rất đáng ghi

nhận. Đổi mới kinh tế và chính trị năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế,

nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế

giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu

người tăng 2,7 lần, đạt mức tăng trưởng 7,08% năm 2018 và 7,02% năm 2019

[43]. Dữ liệu của tổng cục thống kê năm 2019 cho thấy các DN trong các

ngành ứng dụng KHCN cao như nhóm ngành thông tin và truyền thông; hoạt

động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; hoạt động chuyên môn, KHCN có

hiệu suất đầu tư tốt, mang lại giá trị gia tăng cao hơn các nhóm ngành khác.

Tại báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 (GCI 4.0), Diễn

đàn Kinh tế Thế giới đã đưa ra đánh giá năng lực cạnh tranh của 141 nền kinh

tế dựa trên cách tiếp cận của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, theo đó, Việt

Nam đứng thứ 67, được đánh giá là quốc gia có điểm số được cải thiện nhiều

nhất trên toàn cầu [197]. Tuy nhiên, về năng lực ĐMST, theo báo cáo trên,

Việt Nam chỉ đạt 37 điểm, đứng thứ 76/141 nền kinh tế.

Về đóng góp của KHCN vào tăng trưởng kinh tế, theo tính toán của

Viện Năng suất Việt Nam, đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) vào

tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 44,46%,

cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011 - 2015. Điều

này cho thấy dưới tác động của tổng hợp các nhân tố, trong đó có KHCN, các

yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (vốn và lao động) đã được sử dụng hiệu

quả hơn.

106

Về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), chỉ số ĐMST của Việt Nam

đã liên tục được cải thiện. từ vị trí 71 năm 2014, đến năm 2019, Việt Nam

vươn lên giữ vị trí 42. Năm 2020 là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam giữ vị trí

này, đứng đầu trong nhóm 29 quốc gia cùng mức thu nhập (WIPO, 2020).

Nhóm chỉ số đầu vào tạo thuận lợi cho ĐMST tiếp tục tăng là minh chứng

cho việc Việt Nam tiếp tục duy trì sự đầu tư của nhà nước, cũng như các DN

cho khoa học công nghệ và ĐMST, tạo môi trường thuận lợi như thể chế,

trình độ kinh doanh, tín dụng tiếp tục ở mức cao.

* Về hạ tầng KHCN

Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, tính đến hết năm 2019 có

758.610 DN đang hoạt động, trong đó DN ngoài nhà nước chiếm 96,23%.

Theo trình độ công nghệ, năm 2018 số DN nhóm ngành công nghệ cao tăng

từ 5.182 DN năm 2010 lên 11.834 DN năm 2018, nhưng cũng chỉ chiếm

12,24% tổng số các DN kinh doanh ngành chế biến, chế tạo [43].

Một loạt các khu công nghệ cao tại các thành phố lớn đã được xây dựng

như Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh, Khu công nghệ cao Đà Nẵng, Khu

công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) và thường xuyên được đầu tư xây dựng,

nâng cấp mới cơ sở vật chất. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra quyết định thành

lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, được xây dựng tại Khu công nghệ

cao Hòa Lạc. Tháng 4/2019, Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật

(IoT Innovation Hub), dự án hợp tác với công ty Ericsson (Thụy Điển) đã

được ra mắt tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, cho thấy quyết tâm của Chính

phủ trong việc nắm bắt cơ hội, thách thức mới trong các xu hướng mới nhất

về số hóa, kết nối vạn vật của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hoạt

động R&D thường tập trung ở các DN có hoạt động sản xuất sản phẩm CNC,

DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc DN trong khu CNC. Tuy

nhiên, việc triển khai không được đồng đều và chưa đạt được hiệu quả như

mong muốn, chưa tăng được giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất kinh

doanh. Hạn chế trong liên kết giữa hoạt động R&D, ươm tạo của khu CNC

107

với viện - trường, DN chưa được thiết lập một cách hiệu quả, còn rời rạc;

chưa có sự nối kết hoạt động công nghệ cao trong và ngoài khu CNC.

Điều tra NC&PT năm 2017 do Cục thông tin KHCN Quốc gia công bố

[4] cho thấy đặc điểm của một số nhân tố NC&PT như sau:

- Việt Nam có 172.683 người tham gia các hoạt động NC&PT (Bảng

4.1). Số lượng cán bộ nghiên cứu trong các tổ chức giáo dục đại học giảm từ

53,18% năm 2011 xuống 47,26% năm 2017 (Bảng 4.2)

Bảng 4.1. Nhân lực NC&PT qua các năm (ngƣời)

Nhân lực theo chức năng

2011

2013

2015

2017

Cán bộ nghiên cứu

105.230

128.997

131.045

136.070

Cán bộ kỹ thuật

9.781

12.799

11.522

11.066

Cán bộ hỗ trợ

19.770

22.948

24.179

25.547

Tổng số

134.781

164.744

167.746

172.683

Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin và công nghệ Quốc gia

Bảng 4.2. Nhân lực NC&PT theo khu vực thực hiện và chức năng năm 2017

Khu vực thực hiện

Tổng số Cán bộ

Cán bộ

Cán bộ

nghiên

kỹ

hỗ trợ

cứu

thuật

Tổ chức NC&PT

34.197

26.681

2.406

5.110

Tổ chức giáo dục đại học, cao đẳng,

88.481

69.095

2.981

16.405

học viện

Tổ chức dịch vụ KHCN

3.229

2.331

442

456

Đơn vị hành chính, sự nghiệp

20.584

14.949

3.148

2.487

Doanh nghiệp

26.192

23.014

2.089

1.089

Tổng số

172.683

136.070

11.066

25.547

Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia

- Cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ tăng 4.373 người trong thời gian

2011-2017; Tỉ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học trong tổng số cán

bộ nghiên cứu đã tăng từ 43,8% (năm 2011) lên 52,7% (năm 2017).

108

- Năm 2017 cả nước có 687 tổ chức NC&PT với các qui mô khác nhau,

số tổ chức NC&PT có qui mô dưới 30 người chiếm 54%, trong khi tổ chức

NC&PT có qui mô nhân lực trên 100 người chỉ chiếm 15%. Điều này cho thấy

số tổ chức NC&PT của Việt Nam tuy nhiều nhưng quy mô nhỏ (Bảng 4.3).

Bảng 4.3. Tổ chức NC&PT chia theo qui mô nhân lực năm 2017

Số lƣợng

Tỷ lệ %

Qui mô

Dưới 30 người

371

54,00

Từ 30 đến dưới 50 người

118

17,18

Từ 50 đến dưới 10 người

97

14,12

Trên 100 người

101

14,70

Tổng

687

100

Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin và công nghệ Quốc gia

- Theo phân bố địa lý ta thấy, hai phần ba số tổ chức này tập trung tại

Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, vùng Tây Bắc chỉ chiếm 1,3% (Bảng 4.4).

Bảng 4.4. Tổ chức NC&PT theo vùng địa lý năm 2017

Số lƣợng ổ chức NC&PT ( tỉ lệ %)

Vùng

1.Hà Nội

329 - (47,89)

2.TP. Hồ Chí Minh

131 - (19,07)

3.Đồng bằng sông Hồng (trừ Hà Nội)

24 - (3,49)

4.Tây Bắc

9 - (1,31)

5.Đông Bắc

29 - (4,22)

6.Bắc Trung Bộ

49 - (7,13)

7.Nam Trung Bộ

29 - (4,22)

8.Tây Nguyên

23 - (3,35)

9.Đồng Nam Bộ (trừ TP. Hồ Chí Minh)

28 - (4,08)

10.Đồng bằng sông Cửu Long

36 - (5,24)

Tổng số

687 - (100)

Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin và công nghệ Quốc gia

109

- Các tổ chức trên nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực: Khoa học kỹ thuật và

công nghệ 195 (chiếm 28,38%); Khoa học Xã hội 165 (chiếm 24,02%); Khoa

học Nông nghiệp 154 (chiếm (22,42%); Khoa học Tự nhiên chiếm 13,97%;

Khoa học nhân văn chiếm 4,66%; Khoa học y, dược chiếm 6,55% [4].

* Về chính sách KHCN

Là một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam hiện đã có nhiều cơ chế,

chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN nhằm đẩy mạnh xã hội hóa, huy

động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực từ khu vực DN cho đầu tư phát

triển KHCN theo Chiến lược Phát triển KHCN giai đoạn 2011 - 2020. Đầu tư

cho KHCN trong những năm qua đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong

đóng góp của xã hội, nhất là từ khu vực DN. Nếu như trong khoảng 10 năm

trước đây, kinh phí hoạt động KHCN chủ yếu dựa vào NSNN (khoảng 70-

80% tổng đầu tư cho KHCN), thì đến nay đầu tư cho KHCN từ NSNN và từ

DN đã tương đối cân bằng với tỉ lệ tương ứng là 52% và 48% (năm 2018) [4].

Các DN, các tập đoàn lớn quan tâm nhiều hơn đến đầu tư cho KHCN;

DNVVN bước đầu đã có sự quan tâm và đầu tư cho KHCN; DN khởi nghiệp

ĐMST của Việt Nam đã có bước trưởng thành mạnh mẽ, tiếp cận, cạnh tranh

được với các DN khởi nghiệp ĐMST quốc tế [7]. Tuy nhiên, ngoại trừ một số

DN lớn, đặc biệt DN hoạt động trong lĩnh vực CNTT, còn tuyệt đại đa số DN

không quan tâm nhiều đến đầu tư cho lĩnh vực này. Hoạt động R&D thường

tập trung ở các DN trong khu CNC, hoặc các DN có hoạt động sản xuất sản

phẩm CNC, DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Liên kết giữa hoạt

động R&D, ươm tạo của Khu CNC với viện - trường, DN chưa được thiết lập

một cách hiệu quả; Chưa có sự nối kết hoạt động CNC trong và ngoài Khu

CNC. Các DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta còn hạn chế về

trình độ công nghệ. Những hạn chế này có liên quan tới tiềm lực CNC nói

chung và hoạt động R&D của DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất nói

riêng. Đến nay, số DN thành lập Quỹ KHCN cũng như tỷ lệ vốn được sử

dụng so với số vốn đã trích lập Quỹ còn khiêm tốn. Theo thống kê, đầu tư cho

KHCN của khối DN hiện nay chỉ bằng 1/2 đầu tư từ NSNN [28].

110

Trong những năm qua, NSNN đầu tư cho hoạt động KHCN duy trì vào

khoảng 2% tổng chi hàng năm, xấp xỉ 0,5% GDP (bao gồm cả chi cho an

ninh, quốc phòng và chi dự phòng quốc gia) [3]. Tỷ lệ 2% tổng chi NSNN là

một tỉ lệ khá cao, không thua kém các nước có nền KHCN phát triển như Mỹ,

Nhật bản, Châu Âu. Tuy nhiên, do giá trị tuyệt đối của GDP Việt Nam không

lớn nên số tiền tương ứng cho đầu tư KHCN còn khá ít. Thêm vào đó, thực tế

trong suốt 20 năm qua chưa năm nào đạt 2%, thường chỉ đạt 1,5 - 1,7% tổng

chi NSNN. Dự toán NSNN năm 2018 được Quốc hội thông qua đã quyết định

tăng chi cho KHCN 8% so với năm 2017, nhưng chi cho KHCN vẫn chưa đạt

2% như mong muốn [30]. Đây là một con số còn rất khiêm tốn so với các

quốc gia tiên tiến về KHCN với tỷ lệ đầu tư xã hội cho KHCN luôn đạt 3-4%

GDP, thậm chí lên tới 4-5% như Iseral, Hàn Quốc [166].

Việc ra mắt của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia năm 2008 và Quỹ

Đổi mới công nghệ quốc gia năm 2011 đã đánh dấu sự hình thành một mô

hình mới trong quản lý tài chính KHCN, góp phần đa dạng hoá các kênh đầu

tư. Tuy nhiên, cơ chế Quỹ từ NSNN còn nhiều bất cập chưa thể giải quyết và

chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart), Sự kiện kết nối cung cầu công

nghệ (Techdemo) và Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo (Techfest) được tổ chức

hàng năm đã góp phần kết nối giữa các bên cung, cầu công nghệ, thúc đẩy thị

trường KHCN và hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam. Các Tech là

cầu nối cho các DN, nhà khoa học/nhà đầu tư trao đổi, giao lưu, tìm hiểu nhu

cầu thực tế và tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh. Các Tech giúp tìm ra con

đường hiệu quả để đưa KHCN vào cuộc sống và đến gần hơn với người dân.

4.1.2. Quan điểm và mục tiêu

Nghị quyết Hội nghị TW 6 khóa XI của Đảng tháng 10/2012 khẳng

định: “KHCN là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước”. Với mục tiêu tổng quát là: “Phát triển mạnh

mẽ KHCN, làm cho KHCN thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển

lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng,

111

hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; Bảo vệ môi trường, bảo đảm

quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo

hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định

hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”. Kết luận 50-KL/TW ngày

30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW 6,

khóa XI về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế khẳng

định: “Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết đã đạt được những kết

quả quan trọng. Tiềm lực KHCN quốc gia được tăng cường. ĐMST và khởi

nghiệp sáng tạo được thúc đẩy, lan tỏa trong xã hội. Thị trường KHCN bước

đầu phát triển. Hợp tác quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng

cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao. KHCN đã đóng góp quan trọng cho tăng

trưởng và sự cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm QP-AN, góp phần phòng

chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển

bền vững”. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp để phát triển toàn diện

KHCN trong giai đoạn tới là: “Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về

đầu tư, tài chính và DN, bảo đảm đồng bộ các qui định pháp luật về KHCN;

tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế, phương thức quản lý tổ chức, hoạt động

KHCN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Đổi mới hệ thống sáng

tạo quốc gia theo hướng lấy DN làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên

cứu là chủ thể nghiên cứu chủ yếu, là yếu tố “lõi” của hệ thống khoa học

quốc gia.”

Với quan điểm lấy DN làm trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia

được đặt ra thống nhất trong cả hệ thống chính trị, việc rà soát và củng cố

hiệu quả của hệ thống chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN là việc làm

vô cùng cấp thiết.

112

4.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và công

nghệ tại Việt Nam

Để phát triển thị trường KHCN, đặc biệt là DN KHCN, Chính phủ đã

ban hành nhiều chính sách thúc đẩy thông qua Luật KHCN năm 2013, Luật

công nghệ cao 2013, Luật chuyển giao công nghệ 2017, các văn bản dưới luật

(Nghị định số 95/2014/NĐ-CP [19], Nghị định số 13/2019/NĐ-CP [17],

Thông tư số 83/2016/TT-BTC [12],…), Chương trình Phát triển thị trường

KHCN đến năm 2020 [48], Chương trình Hỗ trợ phát triển DN KHCN và tổ

chức KHCN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm [47],…

nhằm ưu đãi, hỗ trợ DN KHCN như: miễn giảm thuế thu nhập cá nhân; Miễn

giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; ưu đãi tín dụng cho DN KHCN thực hiện

hoạt động R&D; hỗ trợ tài chính cho hoạt động R&D đề hình thành sản phẩm

thương mại hoá;…

Sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động R&D của DN thông qua các

cơ chế, chính sách hỗ trợ đều hướng đến mục đích tối đa hoá tổng số lợi ích

chung cho xã hội do tác động lan tỏa của tri thức KHCN được DN mang lại từ

các giải pháp công nghệ mới. Sự tác động của chính phủ thông qua nhiều

công cụ trong đó công cụ hỗ trợ về tài chính được xem là hữu hiệu nhằm thúc

đẩy hoạt động R&D của DN, khắc phục hiện tượng DN đầu tư cho hoạt động

R&D thấp hơn ngưỡng đầu tư mà xã hội mong muốn. Nhà nước đã thúc đẩy

hoạt động R&D thông qua hệ thống chính sách xuyên suốt về KHCN, với xương

sống chính là các Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Các công cụ

chính sách hiện đang được sử dụng để thúc đẩy hoạt động này được chia thành

bốn nhóm bao gồm:

4.2.1. Chính sách trọng cung

(1) Chính sách tài trợ trực tiếp

- Quỹ phát triển KHCN quốc gia (NAFOSTED) được thành lập theo

Nghị định số 122/2003/NĐ-CP của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động

từ tháng 3/2008. Quỹ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có chức năng

tài trợ, cho vay để thực hiện nhiệm vụ KHCN do tổ chức, cá nhân đề xuất.

113

Việc ra đời và đi vào hoạt động của NAFOSTED được đánh giá là một

dấu ấn quan trọng trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý KHCN, được cộng

đồng các nhà khoa học đánh giá là bước đột phá trong đổi mới cơ chế quản lý

KHCN ở nước ta. Hằng năm, NAFOSTED tài trợ trên 300 nhiệm vụ KHCN

với hàng nghìn lượt nhà khoa học tham gia. Ngoài việc giải quyết các vấn đề

đặt ra, các nhiệm vụ KHCN, Quỹ này góp phần tạo ra một lượng lớn các sản

phẩm khoa học, trong đó số lượng công trình công bố ISI là sản phẩm từ các

đề tài nghiên cứu do NAFOSTED tài trợ được duy trì, chiếm 20-25% công bố

ISI tính cho Việt Nam và ước tính chiếm trên 50% số công trình công bố ISI

được tài trợ từ NSNN [38].

- Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia là tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt

động không vì mục đích lợi nhuận, có chức năng cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi

suất vay, bảo lãnh để vay vốn, hỗ trợ vốn cho các tổ chức, cá nhân và DN

thực hiện nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ.

Thành lập từ năm 2011 với tôn chỉ hoạt động "là người bạn của doanh

nghiệp", Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ tài chính

cho các tổ chức, cá nhân và DN ĐMCN thông qua các hình thức cho vay ưu đãi,

hỗ trợ tài chính, hỗ trợ vốn vay. Tuy nhiên đến nay hành lang pháp lý cho các

hoạt động của Quỹ này vẫn chưa được hoàn thiện để thực hiện được trọn vẹn các

chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt là đối với hoạt động cho vay và bảo lãnh vốn vay.

- Hỗ trợ tài chính trực tiếp thông qua các Chương trình KHCN quốc gia:

Vốn Ngân sách cho KHCN được xem là một trong những biện pháp

quan trọng nhất thể hiện nỗ lực của nhà nước đối với KHCN nói chung và

hoạt động R&D của DN nói riêng. Nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước có

tính chất châm ngòi, thu hút các nguồn vốn khác. Các Chương trình quốc gia

đang được triển khai với mục tiêu lấy DN làm trung tâm, đầu tư có trọng tâm,

trọng điểm, đầu tư tới ngưỡng để có thể thúc đẩy các DN đầu tư vào KHCN,

đặc biệt là các Chương trình: Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia,

Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Chương trình phát triển sản

phẩm quốc gia, Chương trình hỗ trợ phát triển DN KHCN và tổ chức KHCN

114

công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Chương trình phát triển

thị trường và DN KHCN, Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc

gia đến năm 2025. Các nhiệm vụ thuộc các Chương trình được triển khai

thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần quan trọng phát triển KT-XH của

các địa phương và các ngành kinh tế. Phần lớn các nhiệm vụ được thực hiện

theo hình thức DN chủ trì kết hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học và

các chuyên gia công nghệ để phát triển sản phẩm dưới sự hỗ trợ của nhà

nước. Sự gắn kết này đã góp phần thúc đẩy ĐMST tại các DN và đẩy mạnh

ứng dụng kết quả NC&PT công nghệ trong thực tiễn đời sống KH-XH.

Thực tế tổng kết giai đoạn đến 2020 cho thấy, các Chương trình quốc

gia đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như hàng trăm công nghệ, quy

trình công nghệ được hấp thu và làm chủ, hàng chục bằng sáng chế, giải pháp

hữu ích được đăng ký bảo hộ, năng suất lao động trung bình tăng gấp 5,4 lần,

sau đổi mới công nghệ, sản phẩm đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường

trong nước và tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nước ngoài, doanh thu của

các DN tăng lên gấp khoảng 3 lần, lợi nhuận tăng khoảng 2,4 lần so với trước.

Tuy vậy, vì nhiều lý do, phần lớn các Chương trình không đạt được các mục

tiêu đã đề ra, các nội dung triển khai chưa đi vào chiều sâu, chưa tạo được sự

lan toả, chưa thu hút được nhiều DN tham gia.

(2) Chính sách tài trợ gián tiếp (ưu đãi về thuế, miễn giảm tiền thuê, ưu

đãi tín dụng,...)

Để thúc đẩy khu vực tư nhân đầu tư cho hoạt động R&D, nhà nước đã

dùng chính sách thuế thông qua các điều khoản trong các luật: Luật KHCN

năm 2013, Luật đầu tư 2014, Luật công nghệ cao 2013, Luật chuyển giao

công nghệ, Luật thuế thu nhập DN, Luật thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, Luật

thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn dưới luật có liên quan để hỗ trợ

DN khi đầu tư cho KHCN. Cụ thể:

- Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: Nghị định số 218/2013/NĐ-

CP quy định việc áp thuế suất ưu đãi 10% (bằng ½ thuế suất thu nhập DN

thông thường) trong thời hạn 15 năm, miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế

115

phải nộp trong 09 năm tiếp theo đối với một số khoản thu nhập của DN đầu tư

cho KHCN [17].

- Ưu đã thuế nhập khẩu: Thông tư số 83/2016/TT-BTC và Nghị định

118/2015/NĐ-CP quy định đối với DN công nghệ cao, DN KHCN, tổ chức

KHCN theo quy định của pháp luật về công nghệ cao và pháp luật về KHCN

được áp dụng ưu đãi về thuế nhập khẩu tuỳ thuộc vào điều kiện về ngành

nghề, địa bàn, quy mô vốn đầu tư hoặc sử dụng lao động của từng dụ án đầu

tư cụ thể [12],[20].

- Ưu đã thuế sử dụng đất phi nông nghiệp: Thông tư số 83/2016/TT-

BTC quy định đối với DN công nghệ cao, DN KHCN, tổ chức KHCN theo

quy định của pháp luật về công nghệ cao và pháp luật về KHCN được áp

dụng ưu đãi về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tùy thuộc vào điều kiện về

ngành nghề, địa bàn, quy mô vốn đầu tư hoặc sử dụng lao động của từng dự

án đầu tư cụ thể [12].

- Ưu đãi thuế giá trị gia tăng: Thông tư số 219/2013/TT-BTC quy định

máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt

động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ thuộc loại trong nước chưa

sản xuất được nhập khẩu là đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng [8].

- Miễn thuế thu nhập: Thông tư số 78/2014/TT-BTC, Thông tư số

151/2014/TT-BTC, Thông tư số 95/2015/TT-BTC quy định việc miễn thuế

thu nhập đối với: Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ theo quy định của pháp luật về KHCN được miễn

thuế trong thời gian thực hiện hợp đồng nhưng tối đa không quá 03 năm kể từ

ngày bắt đầu có doanh thu từ thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ; Thu nhập từ bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu

tiên áp dụng ở Việt Nam theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ

Khoa học và Công nghệ được miễn thuế tối đa không quá 05 năm kể từ ngày

có doanh thu từ bán sản phẩm; Thu nhập từ bán sản phẩm sản xuất thử

nghiệm trong thời gian sản xuất thử nghiệm theo quy định của pháp luật; Thu

116

nhập từ chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ

chức, cá nhân ở địa bàn có điều kiện KH-XH đặc biệt khó khăn [9][10][11].

- Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước, miễn lệ phí trước bạ: Nghị định số

số 46/2014/NĐ-CP quy định đối với đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học

của DN KHCN nếu đáp ứng được các điều kiện liên quan (nếu có) bao gồm:

đất xây dựng phòng thí nghiệm, đất xây dựng cơ sở ươm tạo công nghệ và

ươm tạo DN KHCN, đất xây dựng cơ sở thực nghiệm, đất xây dựng cơ sở sản

xuất thử nghiệm. Đối với các khu công nghệ cao, ưu đãi về tiền thuê đất được

quy định cụ thể trong văn bản quy định cơ chế ưu đãi của từng khu [18]. Nghị

định số 13/2019/NĐ-CP quy định DN KHCN được miễn lệ phí trước bạ khi

đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật về

lệ phí trước bạ [21].

- Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp: Nghị định số 218/2013/NĐ-

CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp: DN được thành lập, hoạt động theo quy

định của pháp luật Việt Nam được trích tối đa 10% trên thu nhập tính thuế

hàng năm để lập Quỹ phát triển KHCN của DN (Nghị định số 122/2003/NĐ-

CP [16]). Chế độ Quỹ KHCN được xem là một chính sách quan trọng thúc

đẩy hoạt động R&D trong DN, đồng thời thúc đẩy tối đa đầu tư của DN cho

hoạt động KHCN [17].

- Ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp KHCN thực hiện hoạt động nghiên

cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản xuất kinh doanh: được vay vốn tín

dụng đầu tư của Nhà nước; cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất vay

và bảo lãnh để vay vốn (Nghị định số 13/2019/NĐ-CP). Ngoài ra, các

Chương trình KHCN lớn như Chương trình quốc gia phát triển công nghệ

cao, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình phát triển sản

phẩm quốc gia đều có nội dung hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các DN hoạt động

KHCN thuộc đối tượng hỗ trợ của các Chương trình [21].

- Không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại các

phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN,

117

cơ sở nghiên cứu KHCN của nhà nước để thực hiện các hoạt động nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm sản

phẩm mới, ươm tạo DN KHCN [21].

4.2.2. Chính sách trọng cầu

(1) Xúc tiến thương mại:

Năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra Chương trình xúc tiến

thương mại quốc gia (Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg), theo đó, Chương

trình xúc tiến thương mại quốc gia được xây dựng với mục tiêu tăng cường

hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước,

thương mại miền núi, biên giới và hải đảo; Hỗ trợ công tác quy hoạch và vận

hành hạ tầng thương mại; Góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh

của cộng đồng DN; Gắn kết các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và du

lịch [46]. Cụ thể:

- Nội dung xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu: Hỗ trợ một phần

chi phí thực hiện thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ

liệu các thị trường xuất khẩu trọng điểm theo ngành hàng; Hỗ trợ kinh phí thuê

chuyên gia trong và ngoài nước để tư vấn phát triển sản phẩm phát triển xuất

khẩu, thâm nhập thị trường nước ngoài; Hỗ trợ đào tạo nâng cao nghiệp vụ xúc

tiến thương mại; Hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ triển lãm thương mại;…[46].

- Nội dung xúc tiến thương mại thị trường trong nước: Hỗ trợ chi phí

tham gia triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm của DN đến người tiêu dùng;

Hỗ trợ chi phí điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường trong nước, nghiên

cứu phát triển hệ thống phân phối, cơ sở hạ tầng thương mại; Hỗ trợ đào tạo,

tập huấn về kỹ năng kinh doanh, tổ chức mạng lưới bán lẻ;… [46].

Ngoài ra, các DN đã thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển sản

phẩm quốc gia được ưu tiên tham gia các đề án xúc tiến thương mại sản phẩm

quốc gia, phát triển thị trường sản phẩm quốc gia và phát triển công nghiệp hỗ

trợ phục vụ phát triển sản phẩm quốc gia theo quy định tại Thông tư số

10/2014/TT-BCT [2].

118

(2) Chính sách ưu tiên cho thương mại hóa kết quả nghiên cứu, sản

phẩm của doanh nghiệp KHCN:

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP quy định doanh nghiệp KHCN được:

- Ưu tiên trong việc xác lập quyền SHTT, công nhận, đăng ký lưu hành sản

phẩm hình thành từ kết quả KHCN để phát triển sản phẩm mới [21].

- Sử dụng Quỹ phát triển KHCN của DN để thương mại hóa kết quả

KHCN; Ưu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thương mại hóa kết quả KHCN, tài

sản trí tuệ của Nhà nước [21].

- Ưu tiên xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm hình

thành từ kết quả KHCN của DN KHCN trong trường hợp sản phẩm thuộc

danh mục sản phẩm nhóm 2 khi chưa có quy chuẩn kỹ thuật tương ứng [21].

4.2.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ

(1) Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ

Phát triển nguồn nhân lực R&D cho DN có hoạt động KHCN nói chung

và hoạt động CNC nói riêng là hết sức cần thiết, là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm của nhằm thực hiện chính sách của Nhà nước đối với hoạt động

CNC quy định tại Luật công nghệ cao, Luật KHCN và các văn bản có những

quy định chi tiết về hoạt động và các biện pháp khuyến khích của cá nhân

hoạt động KHCN, phát triển nguồn nhân lực KHCN. Chính sách phát triển

nhân lực công nghệ cao của Việt Nam nhận định: đào tạo nhân lực công nghệ

cao phải gắn với thực tiễn, nhiệm vụ ứng dụng, phát triển công nghệ cao đáp

ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo đảm về số lượng,

chất lượng và cơ cấu nhân lực công nghệ cao; sử dụng hiệu quả và đãi ngộ thỏa

đáng. Nhân lực công nghệ cao được đào tạo đồng bộ về cơ cấu, trình độ bao

gồm nhà khoa học, nghiên cứu viên, chuyên gia công nghệ, cán bộ quản lý, kỹ

thuật viên, công nhân kỹ thuật. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá

nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia phát triển nhân lực công

nghệ cao; dành ngân sách, các nguồn lực, áp dụng mức ưu đãi cao nhất theo quy

định của pháp luật để phát triển nhân lực công nghệ cao [40][41].

119

Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo, bồi

dưỡng nhân lực KHCN ở trong nước và nước ngoài bằng NSNN (Đề án

2395) thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2025. Đây là đề án nhằm góp phần

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kiến thức, kỹ năng quản lý, nghiên

cứu, tiếp thu, làm chủ, phát triển công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại của đội

ngũ nhân lực KHCN, hình thành lực lượng chuyên gia KHCN trình độ cao,

đáp ứng yêu cầu phát triển KH-XH của đất nước thông qua các khóa đào tạo,

bồi dưỡng trong và ngoài nước đối với chuyên gia KHCN; nhóm nghiên cứu;

bồi dưỡng sau tiến sĩ và bồi dưỡng nhân lực quản lý KHCN [49].

Công tác đào tạo nguồn nhân lực R&D cũng được lồng ghép trong nội

dung của các chương trình KHCN quốc gia. Cụ thể như trong Chương trình

phát triển sản phẩm quốc gia triển khai nội dung hỗ trợ hợp tác nghiên cứu,

trao đổi chuyên gia để giải quyết những vấn đề KHCN phức tạp ở trình độ

quốc tế, đẩy nhanh việc hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh đủ năng lực

tiếp thu, làm chủ và sáng tạo công nghệ. Chương trình quốc gia phát triển

công nghệ cao có nội dung đào tạo và huy động được đội ngũ nhân lực CNC

thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình. Các nhiệm vụ KHCN theo Nghị

định thư, các nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu song phương và đa phương về

KHCN mang tính chiến lược được đưa vào triển khai nhằm đẩy mạnh hợp tác

nghiên cứu, chuyển giao các thành tựu KHCN tiên tiến của các đối tác trên thế

giới, góp phần nâng cao trình độ KHCN của các ngành, lĩnh vực và phát triển

nguồn nhân lực trình độ cao.

Chính sách đào tạo nhân lực KHCN ở Việt Nam không phải mới thực

hiện, nhưng còn nhiều khó khăn, hạn chế như: chưa có sự gắn kết nhu cầu giữa

các cơ sở giáo dục, đào tạo với doanh nghiệp trong việc triển khai đào tạo nhân

lực KHCN; DN KHCN, DN CNC chưa dành đủ nguồn lực cho việc đào tạo,

nâng cao trình độ nhân lực; cơ chế tài chính cho công tác đào tạo nhân lực

KHCN, đặc biệt là nhân lực CNC còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được hạ tầng

phục vụ công tác đào tạo.

120

(2) Các chính sách phát triển hạ tầng KHCN

Luật KHCN năm 2013 quy định những nội dung nhằm thúc đẩy ứng

dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy hoạt động

sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý sản xuất và ĐMST như quy định đầu tư từ

NSNN cho KHCN; quy định đầu tư của DN, tổ chức và cá nhân vào KHCN

thông qua các ưu đãi về thuế, tín dụng, sử dụng trang thiết bị phục vụ nghiên

cứu tại các cơ sở do Nhà nước trang bị; Xây dựng hạ tầng phục vụ phát triển

KHCN, phát triển CNC, xây dựng và phát triển thị trường KHCN [41].

Luật công nghệ cao quy định: DN thành lập mới từ dự án đầu tư sản

xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNC được khuyến khích phát triển,

được hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đất đai, thuế nhập

khẩu; DN hoạt động tại Việt Nam sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản

phẩm CNC được khuyến khích phát triển, ưu tiên xét chọn tham gia dự án có

sử dụng vốn NSNN [40].

Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 cũng đã có những biện pháp

thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường KHCN như: DN được

sử dụng quỹ phát triển KHCN của DN để đầu tư, đối ứng vốn, nhận vốn đối

ứng đầu tư cho đổi mới công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KHCN,

khởi nghiệp sáng tạo; Quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền khác phát sinh từ

kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đối tượng sở hữu trí tuệ

có thể xác định được giá trị là quyền tài sản để bảo đảm cho giao dịch vay

vốn đầu tư cho các dự án KHCN; DN đầu tư cho cơ sở vật chất - kỹ thuật hoạt

động giải mã công nghệ, tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải mã công nghệ

được hưởng các ưu đãi; .... Ngoài ra, tổ chức chợ công nghệ, hội chợ công

nghệ, triển lãm công nghệ, điểm kết nối cung cầu công nghệ, sàn giao dịch

công nghệ, trung tâm giao dịch công nghệ là nơi trưng bày, giới thiệu,

mua, bán công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ; hỗ trợ DN, tổ chức, cá

nhân có công nghệ mới được tạo ra trong nước công bố, trình diễn, giới thiệu

công nghệ, tham gia chợ, hội chợ công nghệ trong nước, ngoài nước; Tổ chức

thiết lập các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ [42]. Bên cạnh đó, các

121

văn bản hướng dẫn thi hành luật đang từng bước được ban hành để đưa các

quy định của Luật vào cuộc sống.

Trên thực tế, các tổ chức dịch vụ tư vấn, giám định, thẩm định, đánh

giá, ươm tạo, môi giới chuyển giao công nghệ được thúc đẩy hình thành và

phát triển thông qua nội dung của các Chương trình, Đề án phát triển thị

trường KHCN, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST,… Trung tâm Hỗ trợ khởi

nghiệp sáng tạo quốc gia đã được Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập năm

2019 với chức năng chính là tư vấn, hỗ trợ các thành phần trong hệ sinh thái

khởi nghiệp sáng tạo kết nối, chia sẻ nguồn lực, tài nguyên; tổ chức các sự

kiện ĐMST nhằm tìm kiếm, tạo lập các DN khởi nghiệp.

Đến hết năm 2019, đã có 18 sàn giao dịch công nghệ và thiết bị được

hình thành; 50 vườn ươm công nghệ và trên 200 tổ chức đại diện sở hữu công

nghiệp đang hoạt động. Mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển giao

tiến bộ KHCN phục vụ phát triển KH-XH ở 63 tỉnh, thành phố được đầu tư

nâng cấp [3].

Các hoạt động kết nối giữa các bên cung, cầu công nghệ được đẩy

mạnh thông qua các sự kiện kết nối, hội chợ công nghệ, triển lãm quốc tế về

công nghệ hàng năm (Techdemo, Techmart, Techfest, ...).

4.2.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Chính sách liên kết được Chính phủ Việt Nam thực hiện thông qua các

nhiệm vụ của một số Chương trình KHCN quốc gia theo hướng tăng cường

liên kết, bổ trợ lẫn nhau, nâng cao chuỗi giá trị của các sản phẩm chủ lực quốc

gia. Đặc biệt ba Chương trình: Chương trình quốc gia phát triển công nghệ

cao, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình đổi mới công

nghệ quốc gia đã thu hút được các đơn vị có năng lực tham gia thực hiện triển

khai 170 nhiệm vụ, trong đó 60% số nhiệm vụ do DN trực tiếp là đơn vị chủ

trì. Phần lớn các nhiệm vụ được thực hiện theo hình thức DN chủ trì kết hợp

với các viện nghiên cứu, trường đại học; được triển khai trên hơn 30 tỉnh

thành, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần quan trọng phát triển KH-

XH của các địa phương và các ngành kinh tế. Các nhiệm vụ được triển khai

122

đã góp phần tạo ra sự kết nối giữa DN, viện nghiên cứu, trường đại học và

nhà nước. 65% số nhiệm vụ có sự phối hợp nghiên cứu của DN và viện,

trường, huy động được hơn 500 chuyên gia từ các các tổ chức nghiên cứu

tham gia trực tiếp vào các hoạt động của nhiệm vụ. Riêng đối với các nhiệm

vụ trên lĩnh vực nông nghiệp, hàng ngàn nhân lực địa phương đã được đào tạo

công nghệ và cam kết lâu dài tham gia vào chuỗi cung ứng [4].

Ví dụ, Chương trình hỗ trợ DN KHCN và tổ chức KHCN công lập thực

hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592) có mục tiêu thúc

đẩy, hỗ trợ hình thành và phát triển DN KHCN, huy động các nguồn lực xã

hội để phát triển DN KHCN nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc triển khai

ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản

xuất, kinh doanh, đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm hàng hóa là kết quả

của hoạt động KHCN, phát triển thị trường KHCN, góp phần phát triển KT-

XH của đất nước.

Đưa vào thực hiện từ năm 2015, Chương trình 592 đã triển khai được một

số nhiệm vụ nghiên cứu chính sách, đề xuất giải pháp phát triển DN KHCN và

một số nhiệm vụ phát triển DN KHCN thông qua việc triển khai ứng dụng các

kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất trong các lĩnh

vực: công nghệ sinh học, công nghệ môi trường, nông nghiệp, y dược, ….

4.3. Đánh giá chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và

công nghệ tại Việt Nam

4.3.1. So sánh Việt Nam và các quốc gia tham khảo

Chương 3 đã trình bày bối cảnh, quan điểm, chính sách phát triển

KHCN, trong đó có chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung

Quốc, Hàn Quốc và Israel. Cả ba quốc gia này đều có một số đặc điểm chung

như sau:

Đều là các quốc gia châu Á chậm phát triển cho đến những năm 1960

của thế kỷ XX. Trung Quốc giành độc lập năm 1949, Israel năm 1948 và Hàn

Quốc giành độc lập sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953. Cơ sở

hạ tầng thấp kém, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn, chính quyền

123

non trẻ, thể chế chưa hoàn thiện, …. Đó là những gì mà cả ba quốc gia này

phải đối mặt vào những năm 1950-1960 của thế kỷ trước.

Vào những năm 1960 cả ba quốc gia đều có nền sản xuất lạc hậu, công

nghiệp chưa có nền tảng vững chắc, trình độ công nghệ thấp kém, giáo dục và

khoa học chưa phát triển, trong đó cả ba tác nhân quan trọng nhất thực hiện

R&D của mỗi quốc gia là trường đại học, viện nghiên cứu và DN đều chưa

phát triển. Đầu tư cho KHCN ít ỏi và chủ yếu từ ngân sách eo hẹp của nhà

nước. Đầu tư của DN cho KHCN gần như là con số không.

Cả ba quốc gia đều ở vào giai đoạn khởi đầu của trào lưu ĐMCN trên

thế giới trên cơ sở bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (vào cuối

những năm 1970), đó chính là công cuộc CNH diễn ra phổ biến trên phạm vi

toàn cầu với sự kế thừa thành quả của quá trình cơ khí hóa, điện khí hóa và

bắt đầu chuyển đổi sang thời kỳ tự động hóa. Đồng thời, cũng đang ở vào thời

kỳ dân số vàng của mỗi quốc gia. Thực tiễn cho thấy thành công có tính đột

phá ở các quốc gia hầu hết đều gắn với việc khai thác triệt để những cơ hội

mà làn sóng cách mạng công nghiệp mang lại và những lợi thế của thời kỳ

dân số vàng.

Ba quốc gia đều đạt thành công ở mức độ khác nhau về sự phát triển

bứt phá kinh tế sau 4-5 thập kỷ tiến hành công cuộc CNH đất nước dựa trên

động lực KHCN và thành công cả trên phương diện hoàn thiện thể chế kinh

tế, tăng cường cho R&D và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trung Quốc

với dân số trên 1,4 tỷ người đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới

với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong mấy thập kỷ, và trở thành nước chủ

công trong nhóm các nền kinh tế mới nổi BRICS. Hàn Quốc đã được thừa

nhận là một “con hổ châu Á” với nhiều thành tựu kinh tế và KHCN đẳng cấp

hàng đầu thế giới, còn được gọi là những “Kỳ tích sông Hàn”. Israel trở thành

“Quốc gia khởi nghiệp”, dẫn đầu thế giới về trào lưu đổi mới, sáng tạo dựa

trên công nghệ, kỹ thuật cao, trở thành biểu tượng về sự vươn lên từ nghèo

khó nhờ khai thác nguồn nhân lực giàu tri thức, chất xám.

124

Ba quốc gia đều đã có nền kinh tế thị trường với những điều kiện tự do

căn bản cho phát triển đất nước, đây cũng là điểm tương đồng với Việt Nam.

Bên cạnh những đặc điểm chung nêu trên, mỗi quốc gia lại có những

đặc điểm riêng, khác biệt, những đặc điểm đó cũng ảnh hưởng nhất định đến

con đường và chính sách phát triển của mỗi quốc gia.

Trung Quốc giành độc lập dân tộc bằng một cuộc đấu tranh cách mạng

giải phóng dân tộc và lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, xây dựng

nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và phát triển một nền kinh tế thị

trường đặc sắc Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Theo đó, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều tiết của nền

kinh tế, mặc dù kinh tế tư nhân sau này cũng được khuyến khích phát triển.

Hàn Quốc độc lập sau chiến tranh Triều Tiên và đi theo con đường Tư

bản chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường với sự đề cao vai trò điều hành,

dẫn dắt của Chính phủ, quan tâm sớm đến phát triển công nghiệp và lấy

KHCN làm động lực thực sự cho phát triển kinh tế.

Israel giành độc lập sau chiến tranh và xung đột sắc tộc, để lại một đất

nước với cơ sở hạ tầng lạc hậu và các mối đe dọa vũ lực thường trực. Quốc

gia này đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế theo mô hình thị trường tự

do, chọn đột phá vào công nghệ, đổi mới, sáng tạo và DN tư nhân để tạo bước

nhảy vọt về chất trong phát triển kinh tế.

Mức độ thành công của mỗi nước đều rất lớn, nhưng có khác nhau về

mức độ và cũng đều đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi. Sự khác biệt này,

ngoài nguyên nhân khách quan do tác động của tình hình kinh tế thế giới, còn

phụ thuộc vào tư duy, nhận thức, quan điểm và chủ trương, chính sách cụ thể

của mỗi nước ở từng giai đoạn phát triển.

Kết quả so sánh trên sẽ là một trong những căn cứ cho NCS khi đưa ra

những đề xuất về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho R&D của Việt Nam.

4.3.2. Một số đánh giá từ khảo sát thực tế doanh nghiệp

Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến 31/12/2018, Việt

Nam có 3.590 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN, trong đó 1.629 tổ chức công

125

lập và 1.961 tổ chức ngoài công lập. Ngoài ra, có khoảng 2.000 DN đạt điều

kiện DN KHCN trong các lĩnh vực: CNTT, sản xuất phần mềm, DN trong các

khu CNC, DN sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích chưa đăng ký để cấp giấy

chứng nhận DN KHCN [4].

Đến hết năm 2019, Việt Nam có 480 DN được cấp giấy chứng nhận DN

KHCN (tăng 14% so với năm 2018), có 39 tổ chức được cấp giấy chứng nhận

DN CNC và 24 tổ chức, DN được cấp giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng

công nghệ cao [4]. Tổng doanh thu năm 2018 của 165 DN KHCN được khảo

sát đạt hơn 160.000 tỷ đồng, trong đó 151 DN có doanh thu từ sản phẩm KHCN

với tổng giá trị đạt 8.672,8 tỷ đồng (chiếm 5,4% tổng doanh thu); 147 DN có lãi

với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2018 đạt 5.215,2 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi

nhuận trước thuế của sản phẩm KHCN đạt 724,9 tỷ đồng/131 DN [4].

Với số lượng DN đang ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và

chất lượng, những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN trở nên ý nghĩa

hơn so với việc đầu tư tiền thuần túy cho nghiên cứu khoa học. Để nhìn nhận

thực tế về những chính sách thúc đẩy này, NCS tiến hành thu thập một số

thông tin từ phía DN thông qua hình thức khảo sát bằng phiếu hỏi. Các hình

thức thu thập được NCS sử dụng là: Phỏng vấn trực tiếp, gửi phiếu qua email,

qua link bảng hỏi online. Để tránh sự trùng lặp giữa các bên thu thập dữ liệu,

DN tham gia khảo sát sẽ được xác định rằng họ chưa trả lời phiếu hỏi này qua

bất kỳ kênh thông tin nào, kể cả online hay offline. Sau gần một năm thực

hiện, số lượng phiếu từ các kênh được thu thập lại. Số lượng phiếu gửi đi là

120 phiếu, thu về được 103 phiếu hợp lệ dùng được cho phân tích.

(1) Kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi

Các DN được thống kê mô tả theo bốn đặc điểm: Loại hình DN, Quy mô

DN, Lĩnh vực hoạt động và Tỷ lệ trích lập hàng năm cho Quỹ KHCN của DN.

Dữ liệu thống kê (hình 4.1) cho thấy, số DN trả lời khảo sát: 103. Trong

đó, DN Nhà nước: 9; DN tư nhân: 88; DN FDI: 6; DN quy mô lớn đi đầu: 5;

DNVVN: 98; DN KHCN hay DN CNC: 52; DN khởi nghiệp ĐMST: 18.

DN có tỷ lệ trích quỹ KHCN hàng năm đạt từ 5% trở lên (tính theo tỷ lệ

của thu nhập tính thuế DN): 3; từ 3% đến dưới 5%: 15; từ 1% đến dưới 3%:

126

10; còn lại có tới 75 DN (chiếm 72,8%) trích dưới 1% cho quỹ này. Qua số

liệu khảo sát cho thấy: Số DN trích lập quỹ từ 3% trở lên khá nhiều (18 DN),

trong đó ngoài 9 DN Nhà nước phải trích tối thiểu 3% theo quy định của Luật

120

3

N/A Quỹ ≥ 5%

100

0 6

15

33

80

10

DN FDI DN Lĩnh vực khác 3% ≤ Quỹ < 5%

18

60

98

88

40

75

DN tư nhân VN Quy mô DNVVN DN khởi nghiệp, ĐMST 1% ≤ Quỹ < 3%

52

20

9

5

DN Nhà nước VN Quy mô DN Lớn DN KH&CN, DN CNC Quỹ < 1%

0

Quy mô

Loại hình

Lĩnh vực Quỹ KHCN

KHCN, còn có 9 DN đạt tỷ lệ lý tưởng này.

Hình 4.1. Thống kê các doanh nghiệp khảo sát

Nguồn: NCS tổng hợp (2019)

Các DN khảo sát được hỏi về các chính sách thúc đẩy của Chính phủ

theo bốn cấp độ: Có biết đến chính sách đó hay không? Nếu có biết thì có

thuộc đối tượng áp dụng của chính sách hay không? Nếu thuộc đối tượng áp

dụng thì khả năng áp dụng chính sách tại DN là dễ hay khó? Chính sách áp

dụng đạt hiệu quả ở mức nào? Cấp độ 1 là câu hỏi bắt buộc để đánh giá về

tình hình DN nắm bắt về các chính sách như thế nào. Cấp độ 2, 3, 4 là không

bắt buộc đối với từng chính sách do có thể DN chưa biết hoặc chưa áp dụng

chính sách nào đó tính tới thời điểm trả lời khảo sát.

Số lượng chính sách được chi tiết hóa từ khung phân tích ở bảng 4.5

dựa trên những thống kê thực tế của Việt Nam và tham vấn ý kiến chuyên gia.

Tổng số 10 cụm chính sách được chia thành bốn nhóm. Kết quả đánh giá các

chính sách được trình bày ở bảng 4.5.

127

Bảng 4.5. Khảo sát DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN.

Thuộc

Chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho

Áp

Hiệu

TT

Biết

đối

KHCN

dụng

quả

tƣợng

I

Nhóm chính sách trọng cung

Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc

1

gia (Nafosted) / Quỹ Đổi mới công nghệ

70

40

13

3,2

quốc gia

2

Các Chương trình KHCN quốc gia

70

52

40

4,1

3

Các ưu đãi về thuế

70

52

52

2,8

4

Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp

72

52

52

2,9

5

Ưu đãi tín dụng

60

52

10

4,6

6 Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước

52

52

30

3,0

II Nhóm chính sách trọng cầu

7

90

Xúc tiến thương mại

90

70

3,8

Chính sách ưu tiên cho thương mại hóa kết

8

quả nghiên cứu, sản phẩm của doanh nghiệp

60

34

20

2,5

KHCN

III Nhóm chính sách hỗ trợ

9

Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao

60

52

30

4,0

IV Nhóm chính sách liên kết

Liên kết với viện, trường để tham gia các

10

47

47

24

3,8

Chương trình KHCN quốc gia

Nguồn: Thống kê dữ liệu khảo sát (2019)

Kết quả khảo sát cho thấy

Cấp độ 1: Có trên 50% DN khảo sát biết đến những chính sách thúc

đẩy DN đầu tư cho KHCN nhưng không đồng đều đối với từng cụm chính

sách. Mặc dù tỷ lệ chưa được cao nhưng các DN đã phần nào quan tâm tới

việc áp dụng KHCN và tìm hiểu những ưu đãi dành cho hoạt động sản xuất

kinh doanh sản phẩm KHCN.

Cấp độ 2: Phần lớn các DN có đủ điều kiện làm đối tượng của chính

sách là các DN KHCN, DN CNC; một phần nhỏ là DN khởi nghiệp ĐMST do

tham gia vào Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia.

128

Cấp độ 3: Có 6/10 nhóm chính sách được đánh giá là dễ áp dụng (trên

50% các DN đã vượt qua cấp độ 2 áp dụng) nằm đều ở cả 4 nhóm chính sách

trọng cung, trọng cầu, hỗ trợ và liên kết. Phần còn lại các chính sách chỉ được

áp dụng trong phạm vi hẹp đặc biệt chính sách về ưu đãi tín dụng, Quỹ Đổi

mới công nghệ quốc gia ít được các DN thấy có khả năng áp dụng.

Cấp độ 4: Đa phần các DN đều đánh giá chính sách đạt mức hiệu quả

trung bình khá (mức điểm từ 3 đến dưới 4). Ba chính sách được ghi nhận mức

điểm cao (trên 4) là Các Chương trình KHCN quốc gia, Chính sách ưu đãi tín

dụng và Chính sách phát triển nhân lực KHCN. Ở đây xuất hiện một nghịch lý

là chính sách liên quan đến ưu đãi tín dụng được coi là khó để áp dụng (tham

gia) nhưng lại có thể mang lại hiệu quả cao nếu được thực thi. Hai chính sách

được đánh giá có hiệu quả không cao (mức điểm dưới 3) là ưu đãi thuế (mặc dù

phổ cập và dễ áp dụng) và chính sách thương mại hoá. Có một bất ngờ là chính

sách đã được Luật hóa, được mọi DN biết đến và áp dụng lại chỉ đạt hiệu quả ở

mức thấp gần nhất (2,9 điểm) - đó là chính sách về trích lập quỹ KHCN trong

DN. Điều này cho thấy rằng việc áp dụng các chính sách không phải lúc nào

cũng mang lại hiệu quả mà DN mong muốn trong đầu tư KHCN.

Những số liệu từ khảo sát mang lại một góc độ chủ quan, từ trong chính

DN nhìn nhận sự tác động của những chính sách lên hoạt động sản xuất, kinh

doanh và tái đầu tư cho KHCN như thế nào để nâng cao hiệu quả cho DN, từ

đó một số DN khảo sát đã đề xuất những nội dung nổi cộm trong chính sách

để góp phần nâng cao hiệu quả của những khuyến khích này.

Nội dung chủ yếu mà các DN có đề xuất được trình bày ở bảng 4.6

Bảng 4.6. Đề xuất của DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN

TT Chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN Đề cập

1. Quỹ đầu tư cho khởi nghiệp, ĐMST 50/103

2. Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp 61/103

3. Nhân lực KHCN 65/103

Nguồn: Thống kê dữ liệu khảo sát (2019)

4. Thương mại hóa các sản phẩm KHCN 75/103

129

Vấn đề thương mại hóa sản phẩm KHCN được các DN quan tâm nhiều

nhất với 75/103 ý kiến. Các ý kiến đề cập tới việc tạo sàn thương mại cho sản

phẩm KHCN hoặc tìm đầu ra, thậm chí là tìm người đặt hàng ngay từ những

nghiên cứu ban đầu.

Về vấn đề quỹ và nhân sự KHCN, các DN cho rằng cần nâng cao năng

lực “thực” của đội ngũ nhân sự làm nghiên cứu khoa học để những sản phẩm

đầu ra được thị trường đón nhận tốt hơn, sử dụng nguồn quỹ KHCN của chính

DN được hiệu quả hơn (1/2 phiếu khảo sát có đề xuất). Đề xuất này cho thấy,

DN không ngại trích lập cho quỹ KHCN nhưng vấn đề sử dụng quỹ hiệu quả và

mang lại nhiều giá trị từ những nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới

là vấn đề mà DN quan tâm.

(2) Kết quả từ nghiên cứu doanh nghiệp điển hình

Nghiên cứu điển hình được thực hiện trên hai DN với hai đặc điểm

tương đối khác nhau. Một là DNNN, có quy mô lớn, tỷ lệ đầu tư cho KHCN

cao. DN còn lại là một start-up mới thành công trong năm 2019. Việc nghiên

cứu về chính sách cũng đưa ra theo những điểm nổi bật, sự thành công của

mỗi DN chứ không giàn trải cho tất cả bốn nhóm chính sách. Một vài kết quả

bước đầu thu về trong hộp 1 và hộp 2 dưới đây.

Hộp 1: Doanh nghiệp lớn

Có thể nâng mức trần trích quỹ cho KHCN lên hơn 10%

Đối với chính sách về trích lập quỹ KHCN của DN tối thiểu 3% và tối đa 10%

(với DNNN), DN này cho rằng có thể nới rộng mức trần trong việc trích lập

quỹ KHCN của DN lên trên 10% vì thực tế bản thân DN có khả năng trích cao

hơn và cũng có nhu cầu sử dụng mức đầu tư nhiều hơn cho những R&D mới.

Mức trích lập tối đa cần được quy định cao hơn hoặc cho DN tự quyết định,

miễn sao đảm bảo chi đúng, chi hiệu quả nguồn quỹ này.

Thương mại hóa trong chính cách làm của mình

Thay vì bao cấp hay đầu tư cho các hoạt động R&D, hãy đặt hàng hoặc cho vay

đối với những hoạt động này. Khoản vay không lãi, có thời hạn và kết quả là

những nghiên cứu sẽ được ứng dụng trong thực tiễn thị trường.

130

Nguồn nhân lực KHCN out-sourcing

Có hai điều quan trọng đối trong R&D, đó là vốn và con người. Nếu vốn có thể

tích lũy từ các nguồn tài trợ bên ngoài hoặc nguồn trích lập bên trong DN, thì

nhân lực cũng vậy. Khi nguồn lực con người cho KHCN của DN không đủ,

hãy sử dụng những nguồn lực tốt hơn của xã hội - đó chính là những nhà khoa

học từ các Trường, Viện, cơ sở nghiên cứu.

Nguồn: Phỏng vấn doanh nghiệp (2019)

Đối với DN start-up, đây là DN quy mô nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực

CNC, mới bước chân vào thị trường từ 2 năm trước. Những chia sẻ của DN

về các chính sách thúc đẩy thực sự là một bài học tốt cho những mô hình

start-up tương tự có thể học hỏi theo. Ghi nhận trong hộp thứ 2 dưới đây.

Hộp 2: Doanh nghiệp start-up

Hãy định hướng vào quỹ đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần

Là một start-up, lại là start-up công nghệ, phải nghĩ khác, làm khác để tạo ra sản

phẩm thuyết phục được những nhà đầu tư. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khó

khăn nhất, nên start-up cần các quỹ mạo hiểm, các nhà đầu tư thiên thần.

Không thể tách rời nền tảng CNTT và cách mạng 4.0

Trong giai đoạn hiện nay, start-up nói chung và start-up công nghệ nói riêng

không thể tách rời với nền tảng CNTT và cuộc cách mạng 4.0. DN cần biết tận

dụng những chính sách phát triển hạ tầng CNTT cho KHCN của nhà nước để

tìm kiếm những hướng đi cho riêng mình, không chỉ trong phát triển sản phẩm

KHCN mà còn trong cả quá trình nghiên cứu khách hàng, đưa sản phẩm ra thị

trường. Đó là kinh nghiệm thành công của chính DN sau 02 năm R&D.

Nguồn: Phỏng vấn doanh nghiệp (2019)

Như vậy có thể thấy, thúc đẩy các DN đầu tư cho KHCN, hướng tới các

DN khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam giai đoạn hiện nay đang ở trong trạng

thái “trăm hoa đua nở” với rất nhiều các chính sách khuyến khích khác nhau

từ giai đoạn đầu hình thành ý tưởng KHCN cho tới các giai đoạn nghiên cứu

và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, chuyển giao và thương mại

hóa sản phẩm. Đánh giá thực trạng vấn đề này cùng với việc so sánh những

131

chính sách và cách làm tương tự ở các quốc gia trên thế giới (đã nghiên cứu

trong chương 3) sẽ là cơ sở để rút ra được những bài học kinh nghiệm phù

hợp cho Việt Nam.

4.3.3. Một số kết quả đã đạt được

Kết hợp những kết quả phân tích, đánh giá từ dữ liệu thứ cấp và dữ liệu

sơ cấp, có thể nhận thấy một số kết quả đã đạt được trong chính sách thúc đẩy

DN đầu tư cho KHCN của Chính phủ Việt Nam như sau:

Thứ nhất, về xây dựng các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN,

Việt Nam đã có tương đối đầy đủ những chính sách liên quan. Nền tảng pháp

luật của Việt Nam cũng đã có đầy đủ những văn bản luật liên quan, tạo hành

lang pháp luật thông thoáng cho các DN phát triển KHCN. Các Luật trong

lĩnh vực KHCN đã được Quốc hội ban hành: Luật Khoa học và công nghệ

(2013); Luật Đo lường (2011); Luật Sở hữu trí tuệ (2005), sửa đổi bổ sung

năm 2009; Luật Công nghệ cao (2008); Luật Năng lượng nguyên tử (2008);

Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (2007); Luật Chuyển giao công nghệ

(2006); Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (2006). Ngoài các Luật chuyên

ngành, Quốc hội đã ban hành một số Luật có liên quan đến KHCN như Luật

Bảo vệ môi trường (2014), Luật Đa dạng sinh học (2008); Luật Công nghệ

thông tin (2006),…

Thứ hai, về triển khai, các chính sách của Việt Nam thúc đẩy DN đầu

tư cho KHCN đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối đầy đủ trong việc phân

cấp, phân quyền quản lý từ Trung ương đến địa phương để có thể xây dựng,

ban hành, tổ chức thực thi và kiểm soát hoạt động KHCN. Đồng thời đã có

những tác động tích cực tới hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu,

ĐMCN theo hướng ứng dụng CNC, công nghệ tiên tiến vào sản xuất.

Chính sách tài chính cho hoạt động KHCN đã thông thoáng hơn như

nâng mức chi cho các đề tài, dự án, khoán kinh phí thực hiện nhiệm vụ nghiên

cứu KHCN; quy trình xác định, tuyển chọn các nhiệm vụ cấp quốc gia được

đổi mới theo hướng ưu tiên các dự án trọng điểm, có tầm ảnh hưởng tới xã

hội. Chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy DN ĐMCN đã được

tăng cường như ban hành danh mục các công nghệ khuyến khích chuyển giao,

132

công nghệ hạn chế và cấm chuyển giao vào Việt Nam nhằm hạn chế tác động

xấu tới môi trường.

Chính sách thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đã bước

đầu được hình thành và phát triển.

Chính sách thúc đẩy nguồn cung công nghệ, kích cầu công nghệ và

phát triển các tổ chức trung gian trên thị trường KHCN đã từng bước được

đẩy mạnh.

Chính sách ưu đãi thuế, tín dụng, hỗ trợ đào tạo, tuyên truyền việc ứng

dụng KHCN vào sản xuất đã có những tác động tích cực. Chính sách SHTT

đã thúc đẩy được các hoạt động sáng tạo trong DN, tổ chức KHCN. Cùng với

đó là việc xây dựng chính phủ điện tử, bước đầu triển khai đã có hiệu quả, các

hoạt động hợp tác quốc tế được mở rộng và tăng cường.

Những nghiên cứu trực tiếp từ DN cũng đã ghi nhận kết quả tương tự.

Các chính sách đang dần dần đi sâu vào hoạt động của các DN, tạo nền tảng

tốt cho sự phát triển KHCN của chính các DN này, cũng như hệ sinh thái

ĐMST của đất nước.

4.3.4. Một số hạn chế và nguyên nhân

Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định trong hoạt động KHCN,

các chính sách này vẫn còn có những hạn chế cần phải được hoàn thiện để

khuyến khích tốt hơn cho DN:

(1) DN chưa nhận thức đầy đủ về chính sách nghiên cứu, ứng dụng và

phát triển công nghệ, chưa coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm có tính quyết định

tới sự phát triển KT-XH, chưa thực sự tạo được môi trường minh bạch trong

hoạt động KHCN. Các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học,

công nghệ vào sản xuất chưa thực sự hướng về DN, lấy DN làm trung tâm.

(2) Chính sách trọng cung về tài trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng, đào tạo chưa

tạo động lực mạnh mẽ cho DN ĐMST, mức ưu đãi còn thấp, thủ tục còn rườm rà;

chưa thực sự quyết liệt trong việc triển khai các chính sách mới về KHCN, kinh

phí đầu tư cho KHCN của nhà nước còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa

huy động tốt được các nguồn lực xã hội đầu tư cho KHCN.

(3) Chính sách trọng cầu trong phát triển thị trường KHCN chưa mang

lại hiệu quả cao như mong muốn, còn thiếu vắng các tổ chức trung gian có uy

133

tín, nguồn cung công nghệ còn hạn chế, đồng thời hoạt động ĐMCN chưa trở

thành nhu cầu cấp bách của DN, trình độ, năng lực công nghệ của DN còn

thấp. Các hoạt động chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa

học từ nguồn vốn NSNN còn khó khăn trong việc định giá và xác định

phương thức chuyển giao.

(4) Trong chính sách về các yếu tố phụ trợ quản lý còn thiếu các định

hướng KHCN ưu tiên phù hợp, thiếu các chính sách mạnh mẽ để tạo bước đột

phá trong các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Thiếu cơ sở dữ liệu thống kê

quốc gia đồng bộ về khoa học, công nghệ và ĐMST. Chậm hình thành hệ

thống đánh giá độc lập và bộ chỉ số đánh giá giá trị giao dịch công nghệ, tốc

độ ĐMCN.

(5) Chính sách liên kết: Chính sách liên kết để đưa sản phẩm KHCN

vào sản xuất còn hạn chế. Mối liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa

nghiên cứu với thị trường, giữa nhà khoa học với DN còn lỏng lẻo. Việc

chuyển đổi các tổ chức KHCN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn

gặp nhiều khó khắn, dẫn tới hiệu quả, hiệu lực chính sách chưa cao.

Như vậy, các chính sách về KHCN đã được hình thành một cách tương

đối hệ thống và đã trở thành chính sách điều tiết vĩ mô quan trọng nhằm thúc

đẩy sự phát KHCN, KT-XH. Tuy nhiên, các chính sách về KHCN vẫn còn

những hạn chế nhất định, dẫn tới năng suất lao động chưa cao, DN ít có tính

sáng tạo, thiếu năng lực nội sinh về KHCN. Thực trạng này có thể từ một số

nguyên nhân sau:

Các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu, làm chậm quá trình đưa

chính sách vào thực tế. Phần lớn các DN có hoạt động KHCN không có nhiều

nhu cầu trong sử dụng vốn NSNN. Họ có nhu cầu cao hơn trong việc được

hưởng chính sách vay vốn ưu đãi như đã được quy định trong các Luật hay

các Chương trình quốc gia. Tuy nhiên, các quy định hướng dẫn việc vay vốn

ưu đãi từ ngân hàng phát triển Việt Nam, hay hỗ trợ lãi suất vay từ các Quỹ

KHCN chưa được ban hành, khiến việc thực hiện chưa được triển khai trên

diện rộng. Hiện nay, chỉ có thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong việc cho DN

CNC tiếp cận vốn vay ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất vay.

134

Cơ chế hỗ trợ tài chính từ nguồn NSNN thông qua các nhiệm vụ

KHCN hay thông qua các dự án hỗ trợ DN sản xuất sản phẩm từ các Quỹ

KHCN chưa đủ thông thoáng do chính sách chung về quản lý tài sản công

chưa cho phép việc hỗ trợ không hoàn lại đối với các DN ngoài nhà nước.

Việc này khiến cho các DN e dè khi tiếp cận các Chương trình quốc gia do lo

ngại về quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học hay tài sản được hình

thành thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN. Ngoài ra, việc giải ngân

nguồn kinh phí hỗ trợ từ NSNN thực hiện theo các quy định quản lý ngân

sách hành chính sự nghiệp cũng gây khó khăn cho DN. Điều này làm hạn chế

sự lan tỏa của các Chương trình quốc gia và khả năng hoạt động của các Quỹ

do có kinh phí nhưng có ít dự án, đối tượng để hỗ trợ.

Với việc trích lập Quỹ KHCN của DN, DN không biết thực hiện thế

nào để đúng với quy định pháp luật, thủ tục kiểm soát chi đối với Quỹ chưa

phù hợp.

Nguồn nhân lực R&D còn thiếu về lượng và chất, chưa đáp ứng được tốc

độ phát triển KHCN trong khu vực và trên thế giới. Các viện nghiên cứu, trường

đại học, nhân lực R&D chủ yếu tập trung ở các khu vực lớn như Hà Nội, TP.

Hồ Chí Minh, Đà Nẵng nên với các khu công nghiệp tập trung ở xa các khu

vực này không huy động được đủ nguồn nhân lực chất lượng cao để phát

triển. Ngoài ra sự liên kết giữa các nhà khoa học và DN còn hạn chế, các kết

quả nghiên cứu từ viện, trường ít được ứng dụng cũng như các vấn đề KHCN

mà DN gặp phải trong sản xuất chưa được nghiên cứu hỗ trợ giải quyết.

Việc đầu tư hạ tầng cho KHCN còn thiếu và dàn trải, chưa có quy

hoạch. Nguồn lực các phòng thí nghiệm chưa được sử dụng hiệu quả, hạ tầng

thông tin về KHCN cũng còn rất thiếu. Thực tế hiện nay ở Việt Nam nhiều

quyết sách, quyết định cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai KHCN vẫn

được thông qua trên cơ sở tư vấn của các hội đồng chuyên gia các cấp (mà

các tư vấn này thường còn mang tính chủ quan).

4.4. Một số bài học kinh nghiệm

4.4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế

Bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự báo.

Cụ thể có một số vấn đề nổi lên như: Bệnh dịch mới bùng phát trên quy mô

135

rộng, khó dự đoán, gây ra tác động lớn lên mọi lĩnh vực KH-XH; Tình hình

địa chính thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các

quốc gia lớn tiếp tục diễn ra gay gắt; Xu hướng ký kết các FTA song phương

đang và sẽ tiếp tục trong giai đoạn tới với phạm vi điều chỉnh được mở rộng,

không chỉ là cắt giảm thuế quan và thuận lợi hoá thương mại mà còn cách

thức sản xuất hàng hoá, mức độ tự do hoá cao; Cạnh tranh công nghệ đóng

vai trò quan trọng trong cạnh tranh chiến lược, là nhân tố quyết định trong

kinh tế toàn cầu.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự kết hợp của công nghệ trong

các lĩnh vực vật lý, số hoá và sinh học tạo ra những khả năng mới và có tác

động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới. Công

nghệ số và nền kinh tế chia sẻ có thể dẫn đến dịch chuyển chuỗi giá trị toàn

cầu, dòng chảy thương mại và những ngành dựa vào xuất khẩu. Nó có thể làm

chậm, thậm chí làm đảo ngược xu hướng hội tụ phát triển, trong đó các nước

kém phát triển có xu hướng ngày càng gặp nhiều bất lợi. Tiêu chí để trở thành

điểm sản xuất có thể thay đổi, yếu tố chi phí lao động thấp ít quan trọng hơn

so với sự sẵn có của lao động kỹ năng, hay cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, những

tác động bất lợi của việc thay đổi công nghệ sản xuất đối với việc làm (tự

động hóa làm tăng thất nghiệp lao động có trình độ kỹ năng thấp) có thể được

bù đắp bằng tăng năng suất và tăng sản xuất toàn cầu (do tăng nhu cầu về đầu

vào và hàng hóa cuối cùng).

Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục cho thấy có nền tảng mạnh và khả

năng chống chịu cao. Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam

chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức

chống chịu đáng kể. Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân

số và xã hội. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung bình

gần 76 tuổi, cao hơn các nước có thu nhập tương đương trong khu vực.

Nhưng dân số đang bị già hoá nhanh. Tăng trưởng và công nghiệp hoá nhanh

của Việt Nam để lại nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên

thiên nhiên. Tình trạng khai thác thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như

cát, thuỷ sản và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài

hạn. Bên cạnh đó, đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn

136

thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Đô thị hoá, tăng trưởng kinh tế và

dân số tăng nhanh đang đặt ra những thách thức ngày càng lớn về quản lý chất

thải và xử lý ô nhiễm [34].

4.4.2. Một số bài học kinh nghiệm để xây dựng chính sách thúc đẩy doanh

nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng,triển khai các chính

sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN được rút ra trên những nền tảng

(1) Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách thúc

đẩy DN đầu tư cho KHCN ở trong và ngoài nước;

(2) Bài học thành công về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN,

ĐMST ở ba quốc gia châu Á: Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel;

(3) Thực trạng đầu tư cho KHCN của Chính phủ và các DN Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay qua nguồn dữ liệu thứ cấp và qua kết quả khảo sát

thực tế;

(4) Xu hướng phát triển KHCN toàn cầu và xu hướng đầu tư của DN

cho KHCN;

(5) Xu hướng về chính sách cho KHCN và ĐMST nói chung, sau đó là

xu hướng về chính sách tài trợ cho nghiên cứu, phát triển và đổi mới trong

DN.

Dựa trên năm căn cứ cả về lý luận và thực tiễn kể trên, phân tích, đánh

giá hệ thống chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn

Quốc và Israel, có thể thấy cả ba quốc gia này đều quan tâm xây dựng những

chính sách thúc đẩy cụ thể, tổ chức thực hiện nghiêm túc và thường xuyên đánh

giá, phân tích, điều chỉnh chính sách cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương nhất quán,

xuyên suốt về phát triển KHCN, coi KHCN cùng với giáo dục và đào tạo là

quốc sách hàng đầu, là động lực và nền tảng cho phát triển KT-XH, tiến hành

sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ đổi

mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với phát

triển, ứng dụng KHCN, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng để phát triển nhanh

và bền vững đất nước. Trong khi tiếp tục coi kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ

137

đạo trong nền kinh tế, Đảng ta xác định phát triển kinh tế tư nhân trở thành

một động lực quan trọng của nền kinh tế và đề ra mục tiêu năm 2020 cả nước

có ít nhất 1 triệu DN tư nhân.

Để KHCN thực sự đóng vai trò là động lực cho sự cất cánh của nền

kinh tế thì đầu tư cho KHCN là một yêu cầu hàng đầu. Chính sách của ba

quốc gia cho thấy rõ vai trò “cầm chịch” của chính phủ trong vấn đề này. Đầu

tư cho KHCN một phần đến từ NSNN và phần này chủ yếu đóng vai trò hỗ

trợ, còn phần đầu tư từ khu vực DN là phần chủ yếu và đóng vai trò quyết

định đến ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống.

Muốn DN tăng cường đầu tư cho KHCN thì nhà nước cần có cơ chế, chính

sách phù hợp. Kết hợp kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel,

NCS đề xuất những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và triển

khai chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN và ĐMST.

4.4.2.1. Bài học về nhóm chính sách trọng cung

(1) Nâng cao hiệu quả của chính sách đầu tư tài chính trực tiếp qua

các Quỹ và Chương trình quốc gia

Xây dựng cơ chế tài chính trong hỗ trợ giải quyết các vấn đề KHCN ở

DN thông qua các nhiệm vụ KHCN theo hướng thông thoáng hơn. Cụ thể, đối

với các nhiệm vụ KHCN trong đó NSNN hỗ trợ đến 30% tổng kinh phí thực

hiện: DN chủ trì được giao quyền sở hữu không bồi hoàn kết quả và tài sản

của nhiệm vụ.

Sử dụng hiệu quả NSNN chi cho hoạt động KHCN, chú trọng các giải

pháp: Phân bổ chi ngân sách sự nghiệp KHCN đảm bảo trọng tâm, trọng điểm

tạo đột phá về một số công nghệ có tác động tích cực đến việc nâng cao sức

cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.

Hình thành cơ chế chấp nhận rủi ro trong đầu tư KHCN.

(2) Hoàn thiện chính sách tài chính và thuế của Nhà nước

Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính bình đẳng, thông thoáng, thân

thiện, đơn giản. Thực hiện cải cách hành chính, thúc đẩy và tạo tâm lý cho

DN yên tâm đầu tư chiều sâu cho hoạt động R&D và ĐMCN. Nâng cao tính

minh bạch của thể chế, rà soát lại hệ thống pháp luật và quy định, loại bỏ các

quy định không cần thiết, chồng chéo, kém hiệu lực, ổn định chính sách tài

138

chính, thuế, tín dụng. Từng bước chuyển đổi phương thức quản lý, cấp phát

ngân sách hoạt động KHCN theo kết quả đầu ra, xây dựng cơ chế hỗ trợ gián

tiếp, tập trung tạo điều kiện kỹ thuật hạ tầng, tạo khung pháp lý để hình thành

thêm nhiều kênh cung ứng nguồn tài chính cho ĐMCN như Quỹ đầu tư mạo

hiểm (đã được nhắc tới trong Luật CNC).

Nghiên cứu bổ sung hoàn thiện và thực thi các công cụ chính sách tín

dụng mới nhằm thúc đẩy đầu tư hoạt động R&D, ĐMCN của DN như:

Chính sách tín dụng bình đẳng, thông thoáng cho mọi thành phần kinh

tế, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục xét duyệt;

Cải thiện mức vốn cho vay, trên cơ sở nghiên cứu tiềm năng và tính khả

thi của dự án, đầu tư chiều sâu cho hoạt động R&D, ĐMCN cụ thể của từng DN;

Cải tiến tín dụng theo hướng mở rộng diện cho vay trung hạn và dài

hạn. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, công bằng, bình

đẳng. Thực hiện triệt để các ưu đãi của Luật khuyến khích đầu tư trong nước,

Luật chuyển giao công nghệ, Luật Khoa học và Công nghệ về các loại thuế.

Nổi bật nhất trong chính sách tài chính là chính sách ưu đãi về thuế, tín

dụng, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng

KHCN. Khi nhà nước mở rộng chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và hỗ trợ

để thúc đẩy hoạt động R&D phục vụ trực tiếp cho ứng dụng, ĐMCN trong

DN thì các DN sẽ có thêm động lực để tăng đầu tư cho nhiệm vụ này. Lợi ích

thiết thân của DN là ở chỗ, nếu đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN (với

sự hỗ trợ một phần của nhà nước về thuế, tín dụng hoặc hỗ trợ tài chính trực

tiếp) DN sẽ có khả năng ĐMCN, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao

hiệu quả sản xuất kinh doanh và trực tiếp góp phần nâng cao năng lực cạnh

tranh của DN.

Cũng như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Israel, Việt Nam cần tăng

cường, mở rộng các cơ chế, chính sách thúc đẩy, hỗ trợ về tài chính như một

dạng cung cấp “vốn mồi” để thúc đẩy các DN đầu tư cho KHCN vì lợi ích

thiết thân của chính mình.

Ba nước nêu trên đều có các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ cho DN, song

các chính sách cụ thể của mỗi nước không hoàn toàn giống nhau, mà tùy

thuộc điều kiện, đặc điểm của từng nước và tùy thuộc vào định hướng, yêu

139

cầu, khả năng của từng chính phủ. Ngay cả chính sách thúc đẩy, ưu đãi của

một nước cũng cần điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của từng

giai đoạn phát triển kinh tế.

Như vậy, việc quan trọng là cần thiết kế các cơ chế, chính sách thúc

đẩy, hỗ trợ thật cụ thể, đa dạng, phong phú để đáp ứng nhu cầu ĐMCN của

DN và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước

trong từng giai đoạn.

(3) Cải tiến chính sách để thúc đẩy vốn từ DN đầu tư cho KHCN.

Chính phủ cần nghiên cứu nâng tỷ lệ trích lập Quỹ phát triển KHCN

lên mức tối thiểu là 10% lợi nhuận trước thuế để DN có thể đầu tư nhiều hơn

cho việc phát triển KHCN. Đồng thời, cần quy định việc trích lập Quỹ phát

triển KHCN là bắt buộc đối với các DN. Với chủ trương DN là trung tâm

trong phát triển KHCN, cho phép DN tự chịu trách nhiệm trong việc trích lập,

sử dụng quỹ và cơ quan quản lý nhà nước chỉ hậu kiểm việc sử dụng quỹ của

DN nhằm tạo thuận lợi cho DN trong việc đầu tư cho hoạt động KHCN.

Các ngân hàng cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục cho vay vốn. Đặc biệt,

cần có một cơ quan đứng ra để bảo lãnh “tín chấp” cho DN trong quá trình thẩm

định tính khả thi của đề tài, dự án. Ở địa phương, cơ quan này nên là Sở KHCN.

Vận động các DN thay đổi thiết bị, ĐMCN thông qua tổ chức thực hiện

các Chương trình KHCN quốc gia theo hướng: NSNN chỉ hỗ trợ vốn mồi

(dưới 10% tổng kinh phí thực hiện), nguồn vốn từ các DN là nguồn vốn chủ

đạo để huy động cho đầu tư phát triển KHCN.

(4) Lựa chọn những dự án chuẩn và tài trợ đa cấp độ, đa phương thức.

Tham khảo Israel về việc xác lập những chương trình R&D chuẩn được

điều hành bởi Quỹ KHCN quốc gia, DN sẽ được hỗ trợ tỷ lệ kinh phí (tối đa là

50% hoặc 70%) từ NSNN với điều kiện ràng buộc cụ thể. Khi thành công, DN

sẽ phải hoàn trả kinh phí như sau: 3% doanh thu từ việc bán sản phẩm trong 3

năm đầu tiên; 4% trong 3 năm tiếp theo và 5% kể từ năm thứ 7 trở đi, tương

ứng với phần kinh phí nhà nước đã cấp.

Dự án nghiên cứu này chỉ được thực hiện bởi chính DN; Các sản phẩm

tạo ra từ dự án phải được sản xuất tại Việt Nam.

140

Các kiến thức know-how thu được từ dự án sẽ không được phép

chuyển giao cho bên thứ ba hoặc theo quy định của Chính phủ.

Mức hỗ trợ kinh phí có thể được tăng thêm nếu chương trình thực hiện

ở những vùng kinh tế khó khăn hoặc đặc thù theo quy định của Chính phủ.

Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ Trung Quốc trong việc tài trợ

đa cấp độ, đa phương thức. Đa cấp độ nghĩa là các chương trình tùy thuộc vào

quy mô sẽ được thẩm định và duyệt chi ở các cấp khác nhau, chứ không phải

chương trình chuẩn nào cũng tập trung hết vào Nafosted làm gia tăng áp lực cho

hoạt động của Quỹ này. Đa phương thức tức là không chỉ Chính phủ mà các cơ

quan khác cũng có quyền tham gia và xét duyệt kinh phí cho chương trình.

4.4.2.2. Bài học về nhóm chính sách trọng cầu

(1) Đầu tư vào ngành nghề trọng điểm gắn với cách mạng công nghiệp 4.0

Xu hướng của KHCN hiện này là gắn những lĩnh vực KHCN mới với

cách mạng công nghiệp lần thứ tư như các ngành CNTT, trí tuệ nhân tạo,

công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ nano, …. Đặc biệt khi

Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH đất nước thì những ngành CNTT,

cơ khí, ô tô được ưu tiên hàng đầu. Do vậy, Chính phủ cần lựa chọn những

lĩnh vực, ngành nghề trọng điểm này để đầu tư thúc đẩy các DN trong ngành

gia tăng R&D để tạo ra những sản phẩm KHCN mới, có giá trị gia tăng cao.

(2) Chính sách đặt hàng sản phẩm KHCN

Nhà nước cần có những chính sách căn cứ trên những nhu cầu thiết yếu

của xã hội để đặt hàng DN sản xuất các sản phẩm công nghệ có giá trị gia

tăng cao cho cộng đồng. Đây là giải pháp gắn kết giữa nghiên cứu khoa học

và thực tiễn, nâng cao hiệu quả ứng dụng các kết quả đề tài, dự án nghiên cứu.

(3) Đầu tư cho những doanh nghiệp lớn trong ngành hoặc sáp nhập và

mua bán với các FDI lớn

Đầu tư cho những DN lớn của Việt Nam như Viettel, VNPT, VinGroup

để trở thành những DN dẫn đầu giống như những Chaebols của Hàn Quốc là

điều mà Việt Nam đang thực hiện và cần phát huy. Cũng như Hàn Quốc,

trong giai đoạn đầu Chính phủ đóng vai trò chủ yếu, hỗ trợ DN nâng cấp và

cải tiến khả năng nghiên cứu công nghệ bằng cách xây dựng các viện nghiên

cứu công cần thiết và đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và R&D. Trong giai đoạn

141

sau, các công ty tư nhân, các tập đoàn lớn sẽ đóng vai trò dẫn dắt NIS, tuy

nhiên ngay cả trong giai đoạn này Chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng

trong việc củng cố hệ thống R&D quốc gia, đặc biệt là trong mối quan hệ

giữa ba nhà: Nhà nước - Nhà trường - Nhà DN.

Song song với việc tạo ra những DN lớn, Việt Nam có thể học hỏi kinh

nghiệm Israel trong việc tạo ra những “ông lớn” liên doanh, thậm chí là hoàn

toàn thuộc sở hữu nước ngoài nhưng vẫn phục vụ sự phát triển KHCN trong

nước thông qua hình thức M&A với những FDI lớn, đặc biệt là đối với những

DN khởi nghiệp của Việt Nam. Các quỹ đầu tư mạo hiểm mới phát hiện ra các

cơ hội mới, và phát triển các sản phẩm hoặc công nghệ tới ngưỡng rủi ro mà

các công ty đã đứng vững trên thị trường có thể chấp nhận được. Khi đó các

sản phẩm hoặc công nghệ của những start-up này sẽ được M&A với quá trình

phát triển kinh doanh của các FDI lớn để cùng phát triển mạnh hơn.

(4) Bảo hộ quyền SHTT và tự do hóa trong hoạt động KHCN quốc tế

Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật trong thời kỳ

toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ và thực thi quyền SHTT ngày

càng có vai trò quan trọng đối với các DN và các nhà khoa học. Một sản

phẩm muốn thương mại hóa ra thị trường cần phải đảm bảo được tính pháp lý

đồng thời bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các nhà khoa học cũng như

các DN đã đầu tư R&D các sản phẩm KHCN đó. Hơn nữa, xu hướng của

KHCN thế giới là tăng cường bảo hộ quyền SHTT và thống nhất theo các quy

định, tiêu chuẩn quốc tế trong các hoạt động KHCN và tự do hoá các hoạt

động KHCN quốc tế. Song, đây vẫn là vấn đề còn hạn chế và nhiều thách

thức đối với Việt Nam, nhất là nhận thức và hành động của các cấp, các

ngành, DN và cả xã hội còn chưa tốt. Chính vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện

chính sách, pháp luật về SHTT, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, nâng cao

nhận thức của các cấp, các ngành, DN và cả xã hội về SHTT, đồng thời có cơ

chế, chính sách hỗ trợ DN về bảo hộ và thực thi quyền SHTT. Chỉ khi DN

hiểu, nắm vững pháp luật về SHTT và được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ

về bảo hộ và thực thi quyền SHTT thì DN mới yên tâm đầu tư cho KHCN. Từ

đó thúc đẩy việc thương mại hóa sản phẩm để mang lại những lợi ích tài

chính và xã hội.

142

4.4.2.3. Bài học về nhóm chính sách về các yếu tố phụ trợ

(1) Về chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực

Qua kinh nghiệm của ba nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel cho

thấy nguồn nhân lực KHCN vừa là điều kiện tiền đề, vừa là động lực để phát

triển một nền kinh tế dựa trên KHCN. Chính phủ các nước đều quan tâm và

có chính sách hỗ trợ cụ thể cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KHCN,

nhất là nhân lực R&D. Nhân lực cho KHCN đang có xu hướng ngày càng

quốc tế hóa để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu của mỗi quốc

gia trong hệ thống R&D chung toàn thế giới. Ba nước trên cũng rất chủ động

trong việc thu hút lao động chất xám trình độ cao từ bên ngoài. Israel nổi

tiếng với việc chào đón và sử dụng dòng trí thức di cư từ Liên xô cũ cũng như

lực lượng chất xám nhập cư. Hàn Quốc đã từng ban hành nhiều chính sách ưu

đãi đặc biệt để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học người Hàn từ Hoa Kỳ và

phương Tây trở về nước làm việc. Trung Quốc cũng thu hút một số lượng lớn

các nhà khoa học, trí thức Hoa kiều từ các nước phát triển về nước làm việc.

Thêm vào đó yêu cầu về tự do hóa hoạt động KHCN cũng như thương mại

hóa những sản phẩm KHCN đòi hỏi đội ngũ nhà nghiên cứu phải nâng cao

trình độ để đáp ứng yêu cầu chung. Đổi mới từ trong chính môi trường đào

tạo nguồn nhân lực này như các trường học phổ thông, đại học, cao đẳng, các

viện nghiên cứu là yêu cầu cấp thiết. Một số vấn đề đặt ra với chính sách của

Chính phủ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN của DN gồm:

Tìm hiểu nhu cầu đào tạo nhân lực R&D của các DN để Nhà nước có

chính sách hỗ trợ và chương trình đào tạo phù hợp cho DN trong từng thời kỳ.

Nâng cao nhận thức của DN về vai trò DN trong phát triển nhân lực R&D.

Thực hiện các chương trình hỗ trợ DN đào tạo nguồn nhân lực như:

Chương trình hỗ trợ DN nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo dây

chuyền thiết bị mới; Chương trình hỗ trợ DN áp dụng các hệ thống quản lý

chất lượng tiên tiến và các công cụ nâng cao năng suất; Chương trình hỗ trợ

DN về SHTT; Chương trình hỗ trợ xúc tiến các sản phẩm từ kết quả nghiên

cứu khoa học;…

143

Thực hiện các chính sách hỗ trợ nâng cao trình độ quản lý, quản trị,

điều hành DN nhằm cải thiện năng lực kinh doanh và hiệu quả của việc sử

dụng vốn.

Thu hút lao động chất xám trình độ cao từ bên ngoài, đây là vấn đề

không phải mới đối với nước ta, tuy nhiên, chính sách “trải thảm đỏ” cho trí

thức Việt kiều về nước làm việc không phải chỉ là tiền lương và các đãi ngộ

vật chất, mà quan trọng hơn là tạo ra một môi trường học thuật, một môi

trường nghiên cứu thực sự dân chủ, sáng tạo, có điều kiện làm việc tốt để phát

huy trí tuệ, tâm huyết của lực lượng này.

Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện chính sách và nâng cao

năng lực của đội ngũ hoạch định chính sách. Có chính sách đúng đắn, phù

hợp, nhưng khâu tổ chức thực hiện yếu kém thì hạn chế kết quả, thậm chí làm

cho chính sách không đi vào thực tiễn. Các cơ chế, chính sách, dù hay dù dở,

cũng đều xuất phát từ con người, cụ thể là đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn

chính sách. Để tăng cường và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công

chức trong công tác tư vấn, tham mưu hoạch định chủ trương, chính sách, thì

cần đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng tập

trung đào tạo, bồi dưỡng về phẩm chất, thái độ và kỹ năng thực thi công vụ.

Đồng thời, phải làm tốt công tác đánh giá cán bộ, bố trí cán bộ thực sự có đủ

năng lực và tâm huyết vào các vị trí tham mưu, tư vấn chính sách.

(2) Đối với việc thiết lập hạ tầng KHCN

Chính phủ cần đẩy mạnh việc đánh giá thực trạng một số ngành sản

xuất, xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình ĐMCN cho các ngành, lĩnh vực có

thế mạnh, làm cơ sở để đầu tư trọng tâm .

Bố trí nguồn vốn đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm dùng chung

trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu CNC.

Thiết lập các mạng lưới kết nối chuyển giao công nghệ, xây dựng hệ

thống thông tin, cơ sở dữ liệu, sáng chế trong nước, kết nối cơ sở dữ liệu sáng

chế quốc tế.

Phát triển thị trường công nghệ theo hướng thúc đẩy quá trình thương

mại hóa sản phẩm công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu lực thực

thi pháp luật về bảo vệ quyền SHTT, phát triển mạnh hệ thống các tổ chức

144

dịch vụ công nghệ, thông tin môi giới giao dịch công nghệ, các trung tâm giao

dịch và thực hiện các dịch vụ chuyển giao công nghệ, …

4.4.2.4. Bài học về nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới

sáng tạo quốc gia

(1) Tăng cường nhận thức cho cá nhân, DN và quốc gia về KHCN,

ĐMST và khởi nghiệp

Khởi nghiệp không phải là phong trào, xu hướng để các cá nhân, các

DN làm cho hợp thời đại. Mà khởi nghiệp cần được nhận thức là con đường

tạo ra giá trị, giúp người dân và DN Việt Nam có thể thoát được bẫy thu nhập

trung bình suốt mấy chục năm qua. Chỉ có khởi nghiệp ĐMST mới có thể

giúp chúng ta tạo ra những sản phẩm có giá trị cao hơn.

Cá nhân hay DN khởi nghiệp phải là những con người có xu hướng

chấp nhận rủi ro và có ý chí cao. Chính phủ và các tổ chức đầu tư cho KHCN,

ĐMST, khởi nghiệp đóng vai trò đầu tiên, xuyên suốt; còn các DN, các nhà

khoa học phải giữ vai trò trọng yếu, chủ động và không ngừng tìm tòi, phát

triển những sản phẩm KHCN mới để tăng cường năng lực cạnh tranh cho các

start-up của Việt Nam. Nhà nước và các bên liên quan ngoài việc đóng vai trò

định hướng, còn đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát, giúp cho các quỹ KHCN

được đầu tư và sử dụng hiệu quả, tránh bị chiếm dụng hoặc đầu tư một cách

lãng phí.

(2) Gắn kết hạ tầng thông tin cơ sở dữ liệu cho doanh nghiệp và phương

thức truyền thông về KHCN

Khảo sát thực tế cho thấy DN Việt Nam chưa thực sự quan tâm nhiều

tới hạ tầng cơ sở dữ liệu cũng như tổ chức DN hoạt động KHCN. Việc áp

dụng CNTT trong KHCN đã được đặt ra một cách cấp thiết trong giai đoạn

hiện nay, nhất là khi cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra trên mọi lĩnh vực.

Chính phủ cần nghiên cứu để xây dựng hoặc khuyến khích các DN xây dựng

những nền tảng hạ tầng thông tin cơ sở dữ liệu, làm căn cứ cho những nghiên

cứu tiếp sau. Bên cạnh đó, vấn đề truyền thông và KHCN cần phải gắn liền

nhau. Không chỉ có nhận thức về khởi nghiệp, ĐMST mà việc hiểu biết về

KHCN cũng giúp cho việc cập nhật thông tin được kịp thời và có được những

ý tưởng sáng tạo, phù hợp. Một số đề xuất:

145

Tăng cường vai trò của DN trong đầu tư vào R&D thông qua thay đổi

nhận thức về hoạt động R&D.

Tăng cường cung cấp thông tin thường xuyên và đầy đủ; tư vấn và hỗ

trợ DN trong tìm hiểu các chính sách có liên quan.

Cập nhật thông tin, thị trường trong nước và quốc tế để DN có phương

án sản xuất kinh doanh phù hợp, hiệu quả.

Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về kết quả đầu tư cho

R&D điển hình của DN.

(3) Gắn kết hoạt động của các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia

Đẩy mạnh gắn kết hoạt động của các Viện nghiên cứu, trường đại học

và DN thông qua các nhiệm vụ liên kết, xây dựng mạng lưới liên kết nhà khoa

học, chuyên gia và DN để giải quyết các vấn đề KHCN khó khăn.

146

KẾT LUẬN

Luận án nghiên cứu về “Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho

khoa học và công nghệ của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam” được

trình bày thành ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Ngoài những phần cơ

bản theo quy chuẩn của một luận án, phần Nội dung được chia thành bốn

chương: Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách thúc đẩy DN đầu tư

cho KHCN; Cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN;

Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và

Israel; Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Việt Nam và một số

bài học kinh nghiệm.

Tổng quan các nghiên cứu của luận án về các chính sách có ảnh hưởng

tới việc đầu tư vào KHCN của khu vực DN trong và ngoài nước được xác

định là quan điểm tổng hợp về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN

chứ không chỉ tập trung vào một hay một vài chính sách cụ thể. Luận án

nghiên cứu các chính sách theo mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN bắt

đầu từ ý tưởng ĐMST, trải qua các giai đoạn khác nhau cho tới đầu ra cuối

cùng là sản phẩm được thương mại hóa trên thị trường.

Trong cuộc cách mạng 4.0 như hiện nay, có thể thấy vai trò của KHCN

là một bộ phận nguồn lực không thể thiếu, là động lực then chốt trong quá

trình phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN. Sự can thiệp của Chính phủ cùng

với các tác động tích cực đến hoạt động R&D là một phần quan trọng không

trong chính sách của Chính phủ các nước trên toàn cầu. Các chính sách thúc

đẩy DN đầu tư cho KHCN nói chung được chia thành bốn nhóm: Nhóm chính

sách trọng cung; Nhóm chính sách trọng cầu; Nhóm chính sách về các yếu tố

phụ trợ; Nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia.

Tuy nhiên tùy điều kiện thực tiễn của mỗi quốc gia mà các chính sách được

áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng thụ hưởng và

từng giai đoạn phát triển.

Nghiên cứu chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung

Quốc, Hàn Quốc và Israel cho thấy ba quốc gia này đều xây dựng một hệ tư

147

tưởng xuyên suốt lấy KHCN làm trung tâm, đóng vai trò quyết định cho sự

phát triển KT-XH. Để thực hiện mục tiêu này Chính phủ các nước đã xây

dựng hành lang pháp lý thông thoáng, đồng bộ, bảo đảm quyền SHTT, đảm

bảo quyền lợi và tính cạnh tranh cho DN; Thúc đẩy chuyển giao công nghệ,

đầu tư phát triển và thương mại hóa công nghệ, cân bằng mối liên kết giữa

các thành tố của hệ thống ĐMST. Các nỗ lực này có những ảnh hưởng tích

cực đến hoạt động đầu tư cho R&D của khu vực DN, thúc đẩy sự sáng tạo và

tăng trưởng kinh tế một cách bền vững ở mỗi quốc gia.

Thực trạng hoạt động đầu tư cho KHCN của các DN Việt Nam nói

chung và các chính sách thúc đẩy hoạt động này nói riêng cho thấy còn nhiều

hạn chế và bất cập:

Các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ

vào sản xuất chưa thực sự hướng về DN, chưa lấy DN làm trung tâm;

Chính sách về tài trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng, đào tạo chưa tạo động

lực mạnh mẽ cho DN ĐMST, mức ưu đãi còn thấp, thủ tục còn rườm rà;

Hoạt động ĐMCN chưa trở thành nhu cầu cấp bách của DN, trình độ,

năng lực công nghệ của DN còn thấp;

Thiếu các định hướng KHCN ưu tiên phù hợp, thiếu các chính sách

mạnh mẽ để tạo bước đột phá trong các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế;

Mối liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa nghiên cứu với thị

trường, giữa nhà khoa học với DN còn lỏng lẻo. Việc chuyển đổi các tổ chức

KHCN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn gặp nhiều khó khắn, dẫn

tới hiệu quả, hiệu lực của chính sách chưa cao.

Qua nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của

Trung Quốc, ta thấy bằng một cách từ từ và có hệ thống, quốc gia này đã thu

hẹp khoảng cách khoa học với các nước phát triển. Thành công của Trung

Quốc nằm ở việc xây dựng cở sở hạ tầng cùng với sự cân bằng mối liên kết

giữa các thành tố của hệ thống ĐMST.

Nhờ chú trọng vào các hoạt động R&D, Hàn Quốc đã thay đổi từ một

quốc gia phụ thuộc nhiều vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động

148

sang một trong những quốc gia hàng đầu về thâm dụng vốn và công nghệ các

ngành công nghiệp. Các chính sách R&D luôn đi trước một bước. Hệ thống

R&D của Hàn Quốc đã chuyển đổi thành công từ bắt chước sang đổi mới.

Điều này, sẽ rất hữu ích cho việc tăng cường chính sách R&D của các nước

đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Chính phủ Israel thông qua việc xây dựng Tổ chức OCS với nhiều

chương trình hỗ trợ R&D khác nhau, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển của

nền KHCN nước này. Việt Nam có thể học tập mô hình này để tạo ra các quỹ

đầu tư công cho các hoạt động R&D trước khi nguồn kinh phí từ khu vực tư

nhân đầu tư cho R&D đạt đến một ngưỡng nhất định, với điều kiện tiên quyết

là có lực lượng các nhà khoa học và kỹ sư có trình độ cao. Bằng chính sách thu

hút nhân tài từ những người nhập cư, thu hút nhiều công ty, tập đoàn đa quốc

gia đầu tư vào để có thể sử dụng được lượng chất xám khổng lồ này. Đây là bài

học mà Việt Nam có thể tham khảo, đặc biệt trong thời kỳ hậu Covid-19.

Bài học kinh nghiệm là một nội dung trọng yếu của luận án, thể hiện

những tổng kết, đúc rút từ chính sách của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt

là của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel. Có 13 bài học kinh nghiệm chia

thành bốn nhóm chính sách được rút ra đối với Việt Nam trong việc xây dựng

và triển khai chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.

Các bài học này không nên áp dụng một chính sách cứng nhắc cho mọi

lúc, mọi nơi, mọi đối tượng thụ hưởng và mọi giai đoạn phát triển mà phải

thường xuyên đánh giá, phân tích quá trình thực thi chính sách, xác định rõ

những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc, bất cập để từ đó có sự

điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách đáp ứng tình hình thực tiễn và yêu

cầu phát triển.

Các bài học rút ra luôn chỉ có giá trị tham khảo. Việt Nam đang hội tụ

đầy đủ những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để tăng tốc phát triển và

cất cánh với động lực mới là đổi mới, sáng tạo và KHCN. Vấn đề là ở chỗ cần

có một quyết tâm chính trị và một cam kết mạnh mẽ từ những người lãnh đạo

cao nhất của đất nước, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị, người dân và

149

DN, dựa vào động lực KHCN và đổi mới, sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục

tiêu đưa nước ta trở thành một quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình

cao vào năm 2030 và khát vọng trở thành một quốc gia phát triển theo định

hướng XHCN vào năm 2045./.

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Đỗ Thành Long (2018), Chính sách đầu tư cho R&D: kinh nghiệm của

một số nước và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh Tế, số

5(480), pp 33-45.

2. Thanh Minh Nguyen, Tuyen Quang Tran, Long Thanh Do (2018),

Government Support and Firm Profitability in Vietnam, Comparative

Economic Research, Vol 21, Number 4, 2018, pp 85-100.

3. Đỗ Thành Long (2020), Một số chính sách đột phá của Israel trong

phát triển hệ thống đổi mới và công nghệ, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi

& Trung Đông,Số 04(176),pp 23-32.

4. Đỗ Thành Long (2020), Phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ của Hàn Quốc, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số

4(721), pp 77-79.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Lê Xuân Bá và Vũ Xuân Nguyệt Hồng chủ biên. 2008. Chính sách huy

động các nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp,

NXB Thống kê.

2. Bộ Công Thương. 2014. Thông tư số 10/2014/TT-BCT của Bộ Công

Thương quy định thực hiện cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại, phát

triển thị trường, phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển sản

phẩm quốc gia, ban hành ngày 12/3/2014, Hà Nội.

3. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2019. Sách Khoa học, công nghệ và đổi mới

sáng tạo Việt Nam năm 2019, NXB Khoa học và Kĩ thuật.

4. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2019. Sách Khoa học và công nghệ Việt

Nam năm 2018, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

5. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2020. “Báo cáo kết quả triển khai Chương

trình phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển

công nghệ cao, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia”, Tờ trình báo

cáo Thủ tướng Chính phủ của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày

23/3/2020.

6. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2020. Sách Khoa học, công nghệ và đổi mới

sáng tạo Việt Nam 2019, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

7. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh. 2019. Bài phát

biểu tại Lễ mít tinh ngày KHCN Việt Nam 2019 và Lễ trao Giải thưởng

Tạ Quang Bửu,

IDNews=16079>.

8. Bộ Tài chính. 2013. Thông tư số 219/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành

Luật thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày

18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều Luật thuế giá trị gia tang, ban hành ngày 31/12/2013 Hà Nội.

9. Bộ Tài chính. 2013. Thông tư số 78/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành

Nghị định số số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy

152

định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,

ban hành ngày 18/06/2014, Hà Nội.

10. Bộ Tài chính. 2014. Thông tư số 151/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành

Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 của Chính phủ về việc

sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định quy định về thuế, ban

hành ngày 10/10/2014, Hà Nội.

11. Bộ Tài chính. 2015. Thông tư số 95/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu

nhập doanh nghiệp tại các văn bản có liên quan, ban hành ngày

22/6/2015, Hà Nội.

12. Bộ Tài chính. 2016. Thông tư số 83/2016/TT-BTC hướng dẫn thực hiện

ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật đầu tư, ban hành ngày 17/6/2016,

Hà Nội.

13. Trần Ngọc Ca. 2000. Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một

số chính sách thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu và

phát triển trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam, Báo cáo tổng hợp đề tài,

Viện Chiến lược và chính sách KHCN.

14. CIEM. 2018. Chuyên đề Số 2/2018: “Chính sách khoa học và công nghệ

trong bối cảnh 4.0”, Cổng thông tin kinh tế VN - VNEP

(https://Vnep.org.vn).

15. CIEM. 2018. Chuyên đề Số 3/2018: “Mức độ sẵn sàng tham gia Cách

mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam: So sánh với trường hợp của Trung

Quốc”, Cổng thông tin kinh tế VN - VNEP (https://Vnep.org.vn).

16. Chính phủ. 2003. Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về thành lập Quỹ Phát

triển khoa học và công nghệ quốc gia, ban hành ngày 22/10/2003, Hà

Nội.

17. Chính phủ. 2013. Nghị định số 218/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, ban hành ngày

26/12/2013, Hà Nội.

18. Chính phủ. 2014. Nghị định số số 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền

thuê đất, thuê mặt nước, ban hành ngày 15/05/2014, Hà Nội.

153

19. Chính phủ. 2014. Nghị định số 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ

chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ, ban hành ngày

17/10/2014, Hà Nội.

20. Chính phủ. 2015. Nghị định số 118/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư, ban hành ngày

12/11/2015, Hà Nội.

21. Chính phủ. 2019. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP quy định về doanh

nghiệp khoa học và công nghệ, ban hành ngày 01/02/2019, Hà Nội.

22. Phạm Xuân Đà. 2017. “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực KHCN

của một số nước”.

nghiem-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc-va-cong-nghe-cua-mot-so-

nuoc-c7a574154.html>, (29/9/2017).

23. Trần Xuân Đích. 2017. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn việc

khuyến khích doanh nghiệp trích lập Quỹ phát triển khoa học và công

nghệ, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ KHCN.

24. Đỗ Phú Hải. 2014. “Chính sách phát triển nguồn nhân lực KHCN ở việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(74)-2014.

25. Trần Đắc Hiến. 2016. “Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KHCN - Đổi mới từ

cách làm”.

trung-uong/11709-dao-tao-boi-duong-nhan-luc-khacn-doi-moi-tu-cach-

lam.html>.

26. Nguyễn Việt Hòa. 2007. Tác động của cơ chế, chính sách công đến việc

khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KHCN, Báo cáo tổng kết đề tài

cấp Bộ KH&CN.

27. Nguyễn Việt Hòa và các tác giả. 2011. Nghiên cứu, phân tích và đánh

giá chính sách đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp ngành công nghiệp,

Báo cáo đề tài cấp Bộ KH&CN.

28. Lê Hoằng Bá Huyền. 2019. “Huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp cho

khoa học và công nghệ: Rào cản và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Tài

chính kỳ 1 tháng 8/2019,

154

doi/huy-dong-von-dau-tu-cua-doanh-nghiep-cho-khoa-hoc-va-cong-

nghe-rao-can-va-giai-phap-khac-phuc-312044.html>.

29. Tấn Kiệt. 2013. “Kinh nghiệm quản lý hoạt động KHCN của Hoa Kỳ do

các quỹ tài trợ và một số đề xuất cho Việt Nam”, Vietnam Journal of

Science and Technology Policies and Management, tập 2, số 2, 2013.

30. Nghiêm Vũ Khải. 2017. “Đầu tư cho khoa học và công nghệ vẫn quá ít”.

d72838.html>, (21/11/2017).

31. Đào Tiến Khoa. 2016. “Xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin KHCN hiện

đại”, Tạp chí Tia Sáng,

dung-ha-tang-co-so-thong-tin-KHCN-hien-dai--9386>, (25/01/2016).

32. Hoàng Xuân Long. 2011. Nghiên cứu về chính sách của địa phương

nhằm khuyến khích doanh nghiệp hoạt động KHCN trên địa bàn, Báo

cáo đề tài cơ sở của Viện Chiến lược và Chính sách KHCN.

33. Nguyễn Sỹ Lộc và các tác giả. 2006. Quản lý công nghệ cho doanh

nghiệp. NXB Khoa học và Kỹ thuật.

34. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. 2020. “Tổng quan về Việt Nam”. <

https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview>,

(08/10/2020).

35. Thanh Nhàn. 2014. “Những kinh nghiệm quản lý khoa học từ Nam Mỹ”.

< http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/nhung-kinh-nghiem-quan-ly-

khoa-hoc-tu-nam-my-8161>, (27/11/2014).

36. Quan Minh Nhựt. 2015. “Thực trạng và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ

đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp nông nghiệp tại Thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số

66 (2015).

37. Quan Minh Nhựt, Huỳnh Văn Tùng. 2014. “Thực trạng và nhân tố ảnh

hưởng đến mức độ đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ tại Thành phố Cần Thơ”, Tạp

chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 31d.

155

38. Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia. 2018. “Hội nghị tổng kết của Quỹ

phát triển KH&CN quốc gia giai đoạn 2008 - 2018”.

trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-quoc-gia-giai-doan-2008-2018/>,

(18/01/2020).

39. Nguyễn Thị Phượng. 2018. “Thị trường khoa học và công nghệ Trung

Quốc: Xây dựng những mô hình mới”.

nghe-trung-quoc-xay-dung-nhung-mo-hinh-

moi/20180830092752510p1c785.htm>, (03/09/2018).

40. Quốc hội. 2008. Luật công nghệ cao số 21/2008/QH12, ban hành ngày

13/11/2008.

41. Quốc hội. 2013. Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13, ban

hành ngày 18/6/2013.

42. Quốc hội. 2017. Luật chuyển giao công nghệ số 17/2017/QH14, ban

hành ngày 19/6/2017.

43. Tổng cục Thống kê. 2020. Niên giám thống kê 2019, NXB Thống kê.

44. Tạ Hải Tùng. 2017. “Đưa công nghệ thông tin vào quản lý khoa học”,

Tạp chí Tia sáng, https://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Dua-cong-

nghe-thong-tin-vao-quan-ly-khoa-hoc-10392, (25/01/2017).

45. Hoàng Văn Tuyên. 2017. Phát triển hoạt động nghiên cứu và triển khai

(R&D) trong các doanh nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa

học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

46. Thủ tướng Chính phủ. 2010. Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg về việc ban

hành quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến

thương mại quốc gia, ban hành ngày 15/11/2010, Hà Nội.

47. Thủ tướng Chính phủ. 2012. Quyết định số 592/QĐ-TTg phê duyệt

Chương trình hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp KHCN và tổ chức KHCN

công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, ban hành ngày

22/5/2012, Hà Nội.

156

48. Thủ tướng Chính phủ. 2013. Quyết định số 2075/QĐ-TTg phê duyệt

Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến 2020, ban

hành ngày 08/11/2013, Hà Nội.

49. Thủ tướng Chính phủ. 2015. Quyết định số 2395/QĐ-TTg phê duyệt Đề án

đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ ở trong nước và nước

ngoài bằng ngân sách nhà nước, ban hành ngày 25/12/2015, Hà Nội.

TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI

50. Aghion, P. and Howitt, P.. 1992. “A model of growth through creative

destruction”, Econometrica, vol. 60, no. 2, pp. 323-351.

51. Aghion, P., Bloom, N., Blundell, R., Griffith, R. and Howitt, P. 2005.

“Competition and innovation: An inverted U relationship”, Quarterly

Journal of Economics, vol 120: pp 701-728.

52. Ahn, Hyeon-Ju, Mah, Jai S. 2007. “Development of technology-

intensive industries in Korea”, Journal of Contemporary Asia,

37(3), 364-379.

53. Aiello, Francesco, and Paola Cardamone. 2005. “R&D Spillovers and

Productivity Growth: Evidence from Italian Manufacturing Microdata”,

Applied Economics Letters, 12 (10), pp 625-631.

54. Allen N. Berger & Gregory F. Udell. 1998. “The economics of small

business finance: The roles of private equity and debt markets in the

financial growth cycle”, Journal of Banking & Finance, Volume 22,

Issues 6-8, August 1998, Pages 613-673, https://doi.org/10.1016/S0378-

4266(98)00038-7.

55. Baghana, R., Mohnen, P. 2009. “Effectiveness of R&D tax incentives in

small andlarge enterprises in Québec”, Small Bus. Econ., 33, pp 91-107.

56. Becker, B. and Hall, S.G. 2013. “Do R&D strategies in high-tech sectors

differ from those in low-tech sectors?, An alternative approach to testing

the pooling assumption”, Economic Change and Restructuring, 46: pp

138-202.

157

57. BenignoValdes. 1999. Economic Growth: Theory, Empirics and policy,

Edward Elgar, ISBN-13 : 978-1840640038.

58. Fabio Bertoni and Tereza Tykcova. 2015. “Does governmental venture

captital spur invention and innovation? Evidence from young European

biotech companies”. Research Policy, vol. 44, issues. 4, 925-935.

59. Bloch, C. 2005. “R&D investment and internal finance: The cash flow

effect”, Economics of Innovation and New Technology, 14: 213-223.

60. Bloom, N., Griffith, R., Van Reenen, J.. 2002. “Do R&D tax credits work:

evidencefrom a panel of countries 1979-1997”, Journal of Public

Economics, Vol 85, pp1-31.

61. Lee Bransletter. 2006. “Is foreign direct investment a channel of

knowledge spillovers? Evidence from Japan’s FDI in the United States”,

Journal of International Economics, vol. 68, issue. 2, pp. 325-344.

62. Bronwyn Hall & John VanReenan. 2000. “How effective are fiscal

incentives for R&D? A review of the evidence”, Research Policy, vol.

29, issue 4-5, 449-469.

63. Brown, J.R., Fazzari, S.M and Petersen, B.C. 2009. “Financing

innovation and growth: Cash flow, external equity, and the 1990s R&D

boom”, Journal of Finance, 64: pp 151-185.

64. Buiseret, T.J; Cameron, H.M.; Georghiou, L. 1995. “What difference

does it make? Additionality in the public support of R&D in large

firms”, International journal of technology management, ISSN : 0267-

5730.

65. Caballero, R. and Jaffe, A. 1993. How high are the giants’ shoulders: An

empirical assessment of knowledge spillovers and creative destruction in

a model of economic growth, In Blanchard, O. and Fischer, S. (Eds.)

NBER Macroeconomics Annual 8. Cambridge, MA: MIT Press.

66. Carpenter, R., Petersen, B. 2002b. “Is the growth of small firms

constrained by internal finance?”, The Review of Economics and

Statistics, vol. 84, issue 2, 298-309.

158

67. Caves, R.E. 1996. Multinational Enterprises and Economic Analysis,

Cambridge University Press, England.

68. Chamarik, Saneh, Goonatilake, Susantha. 1994. Technological

independence - the Asian experience, United Nations University Press,

Hong Kong.

69. Charles P. Himmelberg and Bruce Petersen. 1994. “R&D and Internal

Finance: A panel study of small firms in high-tech industries”, The

Review of Economics and Statistics, vol. 76, issue 1, 38-51.

70. Chirinko, R., Fazzari, S.M., Meyer, A.P. 1999. “How responsive is

business capitalformation to its user cost? An exploration with micro

data”, Journal of Public Economics, 74, pp 53-80.

71. Clemenz, G.. 1990. “International NC&PT competition and trade

policy”, Journal of International Economics, 28: pp 93-113.

72. Connelly LM. 2008. “Pilot studies”, Medsurg Nurs, 17(6): 411-2.

73. Congressional Research Service. 2019. China's Economic Rise: History,

Trends, Challenges, and Implications for the United States.

74. Crespi, G.. 2013. “Design and evaluation of fiscal incentives for business

innovation in Latin America: lessons learned and future developments”.

In book: Knowledge,Innovation and Internationalisation Essays in

Honour of Cesare Imbriani (Piergiuseppe Morone), ISBN 0-415-69311-

X, 171-193.

75. Cristina Chaminade and Bengt-Åke Lundvall. 2019. “Science,

Technology, and Innovation Policy: Old Patterns and New Challenges”,

Subject: Technology and Innovation Management, Online Publication,

Date: May 2019, DOI: 10.1093/acrefore/9780190224851.013.179.

76. CSIS. 2017. “Is China a global leader in research and development?”. <

https://chinapower.csis.org/china-innovation-global-leader/>.

77. Czarnitzki, D., Hanel, P., Rosa, J.M.. 2011. “Evaluating the impact of

R&D tax creditson innovation: a microeconometric study on Canadian

firms”, Res. Policy, 40,217-229.

159

78. Dal Hwan Lee, Zong-Tae Bae, Jinjoo Lee. 1991. “Performance and

adaptive roles of the government-supported research institute in South

Korea”, World Development, Vol. 19, Issue 10, Pages 1421-1440, ISSN

0305-750X, https://doi.org/10.1016/0305-750X(91)90084-U.

79. Dan Senor and Saul Singer. 2009. Start-up Nation: The story of Israel's

economic miracal, Twelve - Hachette Book Group, November 2009,

ISBN: 978-0-446-55831-0.

80. Daphne Getz and Itzhak Goldberg. 2016. “Best practices and lessons

learned in ICT sector innovation: A case study of Israel”, World

development report 2016 Digital Dividends: background paper.

81. David P, Hall B. 2000. “Heart of darkness: modeling public - private

funding interactions inside the R&D black box”, Research Policy, vol.

29, issue. 9, 1165-1183.

82. Paul David, Bronwyn Hall and Andrew A. Toole. 2000. “Is public R&D

a complement or substitute for private R&D? A review of the

econometric evidence”, Research Policy, vol. 29, issue. 4-5, pp. 497-529.

83. David Yin. 2017. “What makes Israel’s innovation ecosystem so

successful”, Forbes Asia <

https://www.forbes.com/sites/davidyin/2017/01/09/what-makes-israels-

innovation-ecosystem-so-successful/?sh=1b63c90270e4>, (09/01/2017).

84. Deog-Seong, Oh and Insup, Yeom. 2012. “Daedeok Innopolis in Korea:

From Science Park to Innovation Cluster”, World Technopolis Review,

vol. 2, no. 2, Apr 2012.

85. Dezan Shira & Associates. 2017. “Revisiting Tax Incentives for R&D

Activities in China”.

tax-incentives-for-rd-activities-in-china/>, (02/3/2017).

86. Dorfman, N.S. 1983. “The development of a regional high technology

economy”, Research Policy, 12: 299-316.

87. Driffield, N.. 2001. “The impact on domestic productivity of inward

investment in the UK”, Manchester School, 69: 103-119.

160

88. Driffield, N., Love J.H. and Menghinello, S.. 2010. “The multinational

enterprise as a source of international knowledge flows: Direct evidence

from Italy”, Journal of International Business Studies, 41: 350-359.

89. Dunning, J.. 1979. “Explaining patterns of international production: In

defence of the eclectic theory”, Oxford Bulletin of Economics and

Statistics, 41: 269-295.

90. Dunning, J.. 1988. “The eclectic paradigm of international production: A

restatement and some possible extensions”, Journal of International

Business Studies, 19: 1-31.

91. D-W. Sohn and M. Kenney. 2007. “Universities, Clusters, and

Innovation Systems: The Case of Seoul, Korea”, World

Development, (35) 6: 991-1004.

92. Erdar Gumus and Ferdi Celikay. 2015. “R&D expenditure and economic

growth: New empirical evidence”, Margin The Journal of Applied

Economic Research, 9(3): 205-217.

93. European Commission. 2003. Investing in Research: an Action Plan for

Europe, Directorate General for Research - EUR 20804 EN - COM

(2003) 226 final.

94. Feldman, M., Kelley, M.. 2006. “The ex ante assessment of knowledge

spillovers: government R&D policy, economic incentives and private

firm behavior”. Research Policy, 35, 1509 - 1521.

95. Ginarte, J.C. and Park, W.G.. 1997. “Determinants of Patent Rights: A

Cross-National Study”. Research Policy, 26, 283-301.

96. Gonzalez X. and Pazo C.. 2008. “Do subsidies stimulate private R&D

spending?”, Research Policy, Vol. 37, pp. 371-389.

97. Gonzalez X., Jaumandreu J. and Pazo C.. 2005. “Barriers to innovation

and subsidy effectiveness”, RAND Journal of Economics, vol. 36, no. 4,

pp. 930-950.

161

98. Raymond Gradus and Sjak Smulder. 1993. “The trade off between

environmental care and long-term growth - pollution in three prototype

growth models”, Journal of Economics, Vol. 58, No. 1, pp. 25-51.

99. Griffith, R., Redding, S. and Van Reenen, J.. 2000. “Mapping the two

faces of R&D: productivity growth in a panel of OECD industries”,

Centre for Economic Policy Research, Discussion Paper no. 2457.

100. Griffith, R., Harrison, R., and Van Reenen, J.. 2006. “How special is the

special relationship ? Using the impact of U.S. R&D spillovers on U.K.

firms as test of technology sourcing”, American Economic Review, vol.

96, no. 5, pp. 1859-1875.

101. Griliches, Zvi. 1992. “The Search for R&D Spillovers”, The

Scandinavian Journal of Economics, no 94, 19-47.

102. Grossman và Helpman. 1991. Innovation and Growth in the Global

Economy, Publisher: MIT Pr, ISBN: 9780262071369.

103. Grossman, Gene, and Elhanan Helpman. 1994. “Endogenous Innovation

in the Theory of Growth”, The Journal of Economic Perspectives, 8 (1):

23-44.

104. Guellec, D. and Van Pottelsberghe de la Potterie, B.. 2003. “The impact

of public R&D expenditure on business R&D”, Economics of Innovation

and New Technology, 12: 225-243.

105. Hall, B.. 2002. “The financing of research and development”, Oxford

Review of Economic Policy, 18, 35-51.

106. Hall, J.K., Daneke, G.A., & Lenox, M.J.. 2010. “Sustainable

development and entrepreneurship: Past contributions and future

directions”, Journal of Business Venturing, 25(5), 439-448.

107. Han Woo Park, Heung Deug Hong and Loet Leydesdorff. 2005. A

comparison of the knowledge-based innovation systems in the economies

of South Korea and the Netherlands using triple helix indicators,

Scientometrics.

162

108. Hanel, Petr. 2000. “R&D, Interindustry and International Technology

Spillovers and the Total Factor Productivity Growth of Manufacturing

Industries in Canada, 1974-1989”, Economic Systems

Research,12(3),345-361.

109. Harris, R., Trainor, M., Li, C.Q.. 2009. “Is a higher rate of R&D tax

credit a panacea forlow levels of R&D in disadvantaged regions”.

Research Policy, 38,192-205.

110. Hill, R.. 1998. “What sample size is “enough” in internet survey

research?”, Interpersonal Computing and Technology: An Electronic

Journal for the 21st Century, 6(3-4).

111. Hillier, D., Pindado, J., De Queiroz, V. and De La Torre, C.. 2011. “The

impact of country- level corporate governance on research and

development”, Journal of International Business Studies, 42: 76-98.

112. History. "China: Timeline".

(18/8/2019).

113. Hoffman, K., Milady, P., Bessant, J., Perren, L.. 1998. “Small firms,

R&D, technology and innovation in the UK: a literature review”,

Technovation, 19, 39 - 55.

114. Holger Gorg and Eric Strobl. 2007. “The effect of R&D subsidies on

private R&D”, Economica, 74(294):215-234.

115. Huang, C., Amorin, C., Spinoglio, M., Gouveia, B., Medina, A.. 2004.

“Organization,programme and structure: an analysis of the chinese

innovation policyframework”, R&D Manage, 34, 367-387.

116. Hulya Ulku. 2004. “R&D, Innovation, and Economic Growth: An

Emporical Analysis”, IMF Working Papers, November 2004.

117. International Monetary Fund. 2016. “Fiscal monitor: Acting now, Acting

together”, World Economic and Financial Surveys, 2016.

118. International Monetary Fund. "People's Republic of China".

(08/01/2020).

163

119. Israel Innovation Authority. 2017. "Promoting Innovation as Leverage

for Inclusive and Sustainable Ecnomic Growth".

leverage-inclusive-and-sustainable-economic-growth>.

120. Israel Innovation Authority. 2019. "Israeli High-Tech in 2019: Prosperity

Challenges". and

2019>.

121. Ivy Cheng. 2017. Fact Sheet: Innovation and technology development in

Israel, The Legislative Council Library, FS05/16-17.

122. Jaffe, A.B., & Jones, B.F.. 2015. The changing frontier: Rethinking

science and innovation policy, University of Chicago Press, Chicago.

123. Jaffe, A.B.. 1989. “Real effects of academic research”, American

Economic Review, 79: 957- 970.

124. Jewish Virtual Library. “Latest population statistics for Isreal”.

israel>, (21/2/2020).

125. Ji Woong Yoon. 2014. “Evolution of science and technology policy in

Korea”, The Korean Journal of Pilicy Studies, Vol. 29, No. 1, pp. 147-

172.

126. Jiwon Jung; Jai S. Mah. 2013. “R&D Policies of Korea and Their

Implications for Developing Countries”, Science, Technology & Society

18:2 (2013): 165-188.

127. Joel R. Campbell. 2013. “Becoming a techno-industrial power:Chinese

science and technology policy”, Issues in Technology Innovation, No.23,

pp.1-15.

128. Josef Bichler and Christian Schmidkonz. 2012. “The Chinese indigenous

innovation system and its impact on foreign enterprises”, Munich

Business School Working Paper, 2012-01.

164

129. Josh Lerner. 2002. “When bureaucrats meet entrepreneurs: The design of

effective "Public Venture Capital" programmes”, The Economic Journal,

Vol. 112, Issue. 477, Pages. F73-F84.

130. Kamien, M.I., Mueller, E. and Zang, I.. 1992. “Research joint ventures

and R&D cartels”, American Economic Review, 82: 1293-1306.

131. Kenneth Arrow. 1962. “Economic welfare and the allocation of

resources for invention”, A chapter in The Rate and Direction of

Inventive Activity: Economic and Social Factors, pp 609-626 from the

National Bureau of Economic Research, Princeton University Press.

132. Keun Lee and Chaisung Lim. 2001. “Technological regimes, catching-up

and leapfrogging: findings from the Korean industries”, Research Policy,

vol. 30, pp. 459-483.

133. Kevin Sylwester. 2001. “R&D and economic growth”, Knowledge,

Technology & Policy, 13: 71-84.

134. Kim, L.. 1997. Imitation to innovation: The dynamics of Korea’s

technological learning, MA: Harvard Business School Press,

Cambridge.

135. Klete. T.J.. Moen, J. and Griliches, Z.. 2000. “Do subsidies to

commercial R&D reduce market failures? Microeconometric evaluation

studies”, Research Policy, 29(4): 471-97.

136. Kokko, Ari & Gustavsson Tingvall, Patrik & Videnord, Josefin. 2015.

“The Growth Effects of R&D Spending in the EU: A Meta-

Analysis”, Ratio Working Papers 254, The Ratio Institute.

137. Krugman, P.. 1991. “Increasing returns and economic geography”,

Journal of Political Economy, 99: 483-499.

138. KIPO. 2005. 2005 Annual Report.

139. Lee, C.-Y.. 2011. “The differential effects of public R&D support on

firm R&D: theory and evidence from multi-country data”, Technovation,

31, 256-269.

165

140. Lim, Young-il. 1999. Technology and productivity: The Korean way of

learning and catching up, Cambridge and London: The MIT Press.

141. List of country. "Countries of the world ordered by land area".

,

(18/8/2019).

142. Lokshin, B., Mohnen, P.. 2012. “How effective are level-based R&D tax

credits? Evidence from the Netherlands”, Applied Economics, 44, 1-12.

143. Lundvall, B.-A., & Borrás, S.. 2005. “Science, technology and

innovation policy”. In book: The Oxford handbook of innovation, U.K.:

Oxford University Press, pp. 599- 631.

144. Macrotrends LLC. "South Korea GDP per Capita 1960-2020".

capita>, (20/02/2020).

145. Mah, Jai S.. 2007. “Industrial Policy and Economic Development:

Korea’s Experience”, Journal of Economic, Issues 41 (1): 77-92.

146. Mairesse, J., Mulkay, B.. 2004. “Une evaluation du crédit d´ıimpôt

recherche enFrance, 1980-1997”, Working Papers 2004-43, Center for

research in Economics and Statistics.

147. Malerba, F.. 2005. “How innovation differ across sectors and industries”,

In book: The Oxford Handbook of Innovation, Oxford University Press,

Oxford.

148. Mamoru Nagano. 2006. "R&D investment and the government's R&D

policies of electronics industries in Korea and Taiwan", Journal of Asian

Economics, 17(4):653-666.

149. Manuel Trajtenberg. 2002. "Government Support for Commercial R&D:

Lessons from the Israeli Experience", NBER Chapters, in: Innovation

Policy and the Economy, Volume 2, pages 79-134, National Bureau of

Economic Research, Inc.

166

150. Mark S. Freel. 2000. “Barriers to product innovation in small

manufacturing firms”, International Small Business Journal, 18(2): 60-

80.

151. Mark S. Freel. 2000. “Do small innovating firms outperform non-

innovators?”, Small Business Economics, 14, 195-210.

152. Min-Jeong Kim và Jai S. Mah. 2009. “China’s R&D policies and

technology-intensive industries”, Journal of Contemporary Asia, Vol.

39, No. 2, pp. 262-278.

153. Ministry of Economy and Industry (State of Israel). 2018. R&D Centers:

Investment Models in Israel.

154. Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China.

"Administrative Division System".

(18/8/2019).

155. Mu, Rongping. 2014. “Policy framework for intergrating all activities of

innovation in China”, Conference: American Association for the

Advancement of Science 2015 Annual Meeting.

156. Neaman Institute. 2013. Science, Technology and Innovation Indicators

in Israel: An Internatioal Comparison (Fourth edition).

157. Nelson, R.R.. 1986. “Institutions supporting technical advance in

industry”, American Economic Review, 76, Papers and Proceedings: 186-

189.

158. OECD .2004. “Financial and Human Resources Invested in Education”,

in Education at a Glance 2004: OECD Indicators. OECD Publishing,

Paris.

159. OECD. 2008. The Internationalisation of Business R&D: Evidence,

Impacts and Implications, Organization for Economic Cooperation and

Development, Paris.

160. OECD. 2008. OECD Reviews on Innovation Policy, China, OECD

Publishing, Paris.

167

161. OECD. 2010. Technological independence - The Asian experience,

Directorate for Science, Technology and Innovation.

162. OECD. 2010. Innovation in Firms: A Microeconomic Perspective,

OECD Publishing.

163. OECD. 2011. Education at a glance 2011, OECD indicators. Paris.

164. OECD. 2012. OECD Factbook 2011 - 2012: Economic, Environmental

and Social Statistics, OECD Publishing.

165. OECD. 2015. Frascati Manual 2015: Guidelines for Collecting and

Reporting Data on Research and Experimental Development, The

Measurement of Scientific, Technological and Innovation Activities,

OECD Publishing, Paris.

166. OECD. 2019. R&D Tax Incentives: China, 2018, Directorate for

Science, Technology and Innovation.

china.pdf>.

167. OECD. 2019. OECD Main Science and Technology Indicators, 2019

data release, OECD Directorate for Science, Technology and

Innovation.

168. Parisi, M.L., Sembenelli, A.. 2003. “Is private R&D spending sensitive

to its price? Evidence from Data for Italy”, Empirica, 30, 357-377.

169. Park, Sam Oak. 2000. “Innovation system, networks, and the

knowledge-based economy in Korea”, in book: Regions, Globalization,

and Knowledge-based Economy, pp. 328-48, Oxford University Press.

170. Paul M. Romer. 1990. “Endogenous Technological Change”, Journal of

Political Economy, vol. 98, no. 5, part 2.

171. Paul Westhead and David Storey. 1997. “Financial constraints on the

growth of high technology small firms in the United Kingdom”, Applied

Financial Economics, vol. 7, issue 2, 197-201.

172. Pavitt, K.. 1984. “Sectoral patterns of technical change: towards a

taxonomy and a theory”, Research Policy, 13, 343-373.

168

173. Pessoa, Argentino. 2010. “R&D and economic growth: How strong is

the link?”, Economic Letters, vol. 107(2), pages 152-154.

174. Rana Deljavan Anvari & Davoud Norouzi. 2016. “The impact of e-

commerce and R&D on economic development in some selected

countries”, Procedia-Social and Behavioral Sciences, 299: 354-362.

175. Richard Nelson. 1959. “The Simple Economics of Basic Scientific

Research”, Journal of Political Economy, 67, 297.

176. Rita Freimane & Signe Balina. 2016. “Research and development

expenditures and economic growth in the EU: A panel data analysis”,

Economics and Business, 29, 5-11.

177. Robert Cressy. 1996. “Are business startup debt-rationed?”, Economic

Journal, vol. 106, issue 438, 1252-70.

178. Sakakibara, Mariko & Cho, Dong Sung. 2002. “Cooperative R&D in

Japan and Korea: A comparison of industrial policy”, Research Policy,

vol. 31, pp. 673-692.

179. Schumpeter, J.A.. 1939. Business Cycles: A theoretical, Historical, and

Statistical Analysis of the Capitalist Process , McGraw - Hill Book

Company Inc., New York and London.

180. Schumpeter, J.A.. 1942. Capitalism, Socialism and Democracy,

Routledge, London, pp. 82 - 83.

181. Spencer, B.J. and Brander, J.A.. 1983. “International NC&PT rivalry and

industrial strategy”, Review of Economic Studies, 50: 707-722.

182. State Council of China. 2006. The national medium-and long-term

program for science and technology development (2006-2020).

183. State Council of China. 2015. Made in China 2025.

184. Steinmueller, Edward. 2010. “Economics of Technology Policy” in

Bronwyn Hall and Nathan Rosenberg (Eds.), Handbook of the

Economics of Innovation, volume 2, pp.1181-1218.

169

185. Sungchul Chung. 2010. “Innovation, Competitiveness, and growth:

Korean Experiences”, Annual World Bank Conference on Development

Economics 2010.

186. Svetlana Sokolov-Mladenović, Slobodan Cvetanović & Igor

Mladenović. 2016. “R&D expediture and economic growth: EU28

evidence for the period 2002-2012”, Economic research-Ekonomska

istraživanja, 29 (1), 1005-1020.

187. The World Bank/OECD. 2010. Science, Technology and Industry

Outlook 2010.

188. Thomson, R.. 2013. “Measures of R&D tax incentives for OECD

countries”, Review of Economics and Institutions, 4, 1-35.

189. Tsai, Kuen-Hung, and Jiann-Chyuan Wang. 2004. “R&D Productivity

and the Spillover Effects of High-tech Industry on the Traditional

Manufacturing Sector: The Case of Taiwan”, World Economy, 27 (10):

1555-1570.

190. Tuomas Takalo & Tanja Tanayama. 2010. “Adverse selection and

financing of innovation: is there a need for R&D subsidies?”, The

Journal of Technology Transfer, vol. 35(1), pages 16-41.

191. Uzi de Haan. 2011. "The Israel case of science and technology based

entrepreneurship: An exploration cluster". Science and Technology

Based Regional Entrepreneurship: Global Experience in Policy and

Program Development. 306-328.

192. V. K. Narayanan, George E. Pinches, Kathryn M. Kelm and Diane M.

Lander. 2000. “The influence of voluntarily disclosed qualitative

information”, Strategic Management Journal, 21: 707-722.

193. Veugelers, R. and Cassiman, B.. 2004. “Foreign subsidiaries as a

channel of international technology diffusion: Some direct firm level

evidence from Belgium”, European Economic Review, 48: 455-476.

194. William Nordhaus. 1969. “An economic theory of technological

change”, American Economic Review, vol. 59, issue 2, p. 18-28.

170

195. Wilson, D.J.. 2009. “Beggar thy neighbour? The in-state, out-of-state,

and aggregate effects of R&D tax credits”. Review of Economics and

Statistics. 91, 431-436.

196. WIPO. 2012. The Economics of Intellectual Property in the Repuplic of

Korea. WIPO Publication No. 1031(E). ISBN: 978-92-805-2155-9.

197. World Economics Forum. 2016. The Global Competitiveness Report

198. World Economics Forum. 2019. The Global Competitiveness Report

2016-2017.

2019.

171

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC SỐ 01. PHIẾU KHẢO SÁT

Kính gửi Quý vị,

Lời đầu tiên, xin được gửi tới Quý vị lời chào trân trọng và lời chúc sức

khỏe, thành công.

Tôi là Đỗ Thành Long, công tác tại Bộ Khoa học và Công nghệ. Hiện

tại, tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu về “Chính sách khuyến khích doanh

nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ của một số nước trên thế giới và

bài học đối với Việt Nam” và mong muốn tìm hiểu thực tiễn vấn đề này tại

doanh nghiệp của Quý vị để phục vụ cho nghiên cứu của mình. Kính mong

Quý vị dành chút thời gian để trả lời cho tôi một số câu hỏi dưới đây.

Cũng xin lưu ý rằng những câu trả lời của Quý vị là cơ sở để tôi đánh

giá vấn đề nghiên cứu nên rất mong nhận được câu trả lời chi tiết và trung

thực của Quý vị. Mọi thông tin liên quan sẽ chỉ phục vụ duy nhất cho mục

đích nghiên cứu đề tài và sẽ đƣợc bảo mật hoàn toàn.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của Quý vị!

____________________________

172

PHẦN 1: MỘT SỐ THÔNG TIN CUNG CẤP CHO KHẢO SÁT

Chính sách khuyến khích doanh nghiệp (DN) đầu tư cho khoa học và công

nghệ (KHCN) được chia thành 04 nhóm chính:

1. Các chính sách trọng cung: tập trung vào các chính sách hỗ trợ tài chính hoặc

cấp kinh phí trực tiếp cho doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động nghiên cứu và

phát triển (R&D).

- Tài trợ cho nghiên cứu (nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng).

- Tài trợ cho phát triển (phát triển công nghệ và phát triển sản phẩm mẫu).

2. Chính sách trọng cầu: các chính sách trọng cầu lại tập trung vào việc gia tăng

lợi nhuận thu được từ các sản phẩm và công nghệ mới.

- Tài trợ cho sản phẩm ra thị trường (tìm hiểu thị trường, sản xuất thực

nghiệm, ra mắt sản phẩm).

- Tài trợ cho chuyển giao công nghệ.

- Tài trợ cho thương mại hóa sản phẩm (phát triển, tiếp thị sản phẩm mới).

3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ:

- Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao.

- Phát triển hạ tầng KHCN (thiết lập và phát triển thị trường KHCN; hạ tầng

cơ sở thông tin; thiết lập cơ chế bảo vệ quyền SHTT).

4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia:

- Tăng cường nhận thức cho cá nhân, doanh nghiệp về KHCN và ĐMST, khởi

nghiệp.

- Chính sách liên kết các bên liên quan.

173

PHẦN 2: THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP

1.1. Loại hình doanh nghiệp?

Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam

Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

1.2. Quy mô doanh nghiệp?

Nhóm DN quy mô lớn đi đầu

Nhóm DN nhỏ và vừa

1.3. Lĩnh vực hoạt động?

Nhóm DN khoa học và công nghệ, DN công nghệ cao

Nhóm DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Khác

1.4. Tỷ lệ trích lập hàng năm cho Quỹ KHCN của doanh nghiệp?

Tính theo % thu nhập tính thuế của doanh nghiệp.

< 1%

1% ≤ Quỹ < 3%

3% ≤ Quỹ < 5%

≥ 5%

174

PHẦN 3: CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

3.1. Anh/chị vui lòng đánh giá về các chính sách dưới đây theo 03 cấp độ:

- Cấp độ 1: Biết hay không biết.

- Cấp độ 2: Biết thì doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng hay không thuộc đối

tượng áp dụng.

- Cấp độ 3: Thuộc đối tượng áp dụng thì khả năng áp dụng dễ hay khó.

- Cấp độ 4: Dễ áp dụng thì hiệu quả ở mức điểm mấy (từ 1 đến 5 tương ứng với

Không hiệu quả cho tới Rất hiệu quả).

Lưu ý: Nếu câu trả lời là “Không” ở cấp độ trước (1 hoặc 2) thì sẽ dừng đánh giá

ở cấp độ tiếp theo (2 và 3).

Biết

Hiệu quả áp dụng

TT

Thuộc đối tƣợng

Khả năng áp dụng

Chính sách khuyến khích DN đầu tƣ cho KHCN

C K C K Dễ Khó 1 2 3 4 5

I

Nhóm chính sách trọng cung

1 Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) / Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia

Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách trọng cung: .................................................................................................................... ........................................................................................................................................ ........................................................................................................................................

2 Các Chương trình KHCN quốc gia 3 Các ưu đãi về thuế 4 Ưu đãi tín dụng 5 Quỹ phát triển KHCN của DN 6 Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước

II Nhóm chính sách trọng cầu

7 Xúc tiến thương mại 8 Chính sách ưu tiên cho thương mại hóa kết quả nghiên cứu, sản phẩm của doanh nghiệp KHCN Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách trọng cầu: ...................................................................................................................... ........................................................................................................................................ ........................................................................................................................................

III Nhóm chính sách hỗ trợ

9 Phát triển nhân lực KHCN chất lượng

cao Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách hỗ

175

Biết

Hiệu quả áp dụng

TT

Thuộc đối tƣợng

Khả năng áp dụng

Chính sách khuyến khích DN đầu tƣ cho KHCN

C K C K Dễ Khó 1 2 3 4 5

trợ: ................................................................................................................................. ........................................................................................................................................ ........................................................................................................................................

IV Nhóm chính sách liên kết

10 Liên kết với viện, trường để tham gia các Chương trình KHCN quốc gia Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách liên kết: .......................................................................................................................... ........................................................................................................................................ ........................................................................................................................................

V Khác

Chính sách khác mà anh/chị biết (vui lòng ghi rõ) : …………………………………… Chính sách khác mà anh/chị biết (vui lòng ghi rõ) : …………………………………… Chính sách khác mà anh/chị biết (vui lòng ghi rõ) : ……………………………………

3.2. Anh/chị có đề xuất gì thêm về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu

tư cho KHCN?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

_______Trân trọng cảm ơn!________

176

PHỤ LỤC SỐ 02. DANH SÁCH CHUYÊN GIA

Mã số Giới tính

Công việc

F1

Nữ giới Công chức, đảm nhiệm vị trí quản lý nhà nước về KHCN

M2

Nam giới Công chức, đảm nhiệm vị trí quản lý nhà nước về KHCN

M3

Nam giới Lãnh đạo một Sở KHCN

M4

Nam giới Lãnh đạo Viện nghiên cứu KHCN thuộc Bộ, ngành

F5

Nữ giới Lãnh đạo Đơn vị Đại học công lập

F6

Nữ giới Lãnh đạo một Khoa thuộc Đơn vị Đại học công lập

M7

Nam giới Lãnh đạo Đơn vị Đại học ngoài công lập

F8

Nữ giới Lãnh đạo một Khoa thuộc Đơn vị Đại học ngoài công lập

F9

Nữ giới Lãnh đạo Doanh nghiệp KHCN

M10

Nam giới Lãnh đạo Doanh nghiệp khởi nghiệp

F11

Nữ giới Lãnh đạo Quỹ KHCN

F12

Nam giới Nhà nghiên cứu khoa học thuộc Đơn vị Đại học công lập

177