VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THÀNH LONG
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THÀNH LONG
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9.31.01.06
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn
2. PGS.TS. Đặng Thị Phƣơng Hoa
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu thu
thập, trích dẫn, xử lý từ các nguồn chính thức và riêng của tác giả. Các kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan. Nội
dung luận án không trùng lặp và chưa được công bố trong bất cứ công trình
của ai trước đó.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2020
Tác giả luận án
Đỗ Thành Long
i
LỜI CẢM ƠN
Luận án được hoàn thành tại Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Nguyễn
Quang Thuấn và PGS.TS. Đặng Thị Phương Hoa. Ngoài những chỉ dẫn về mặt
khoa học, các thầy cô còn là động lực lớn giúp tác giả tự tin và say mê nghiên
cứu. Tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và sự kính trọng đối với các thầy cô.
Tác giả cảm ơn lãnh đạo Khoa Kinh tế Quốc tế, Học viện Khoa học Xã
hội cùng các thầy cô giáo tham gia giảng dạy đã cung cấp những kiến thức cơ
bản, sâu sắc và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu thực hiện
luận án này.
Tác giả bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng chí lãnh đạo, các đồng nghiệp
nơi tác giả công tác đã tạo mọi điều kiện cho tác giả trong quá trình công tác,
học tập, nghiên cứu khoa học để hoàn thành luận án này.
Tác giả chân thành cảm ơn các doanh nghiệp đã cung cấp tài liệu, trả
lời phỏng vấn; Cảm ơn các bạn đồng nghiệp, bạn bè, người thân đã động viên,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình công tác, học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2020
Nghiên cứu sinh
Đỗ Thành Long
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH
SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ ......................................................................................... 11
1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho khoa học và
công nghệ .................................................................................................. 11
1.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và
công nghệ .................................................................................................. 14
1.3. Khoảng trống nghiên cứu cho luận án ............................................... 20
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ...... 23
2.1. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với tăng trƣởng kinh tế ....... 23
2.2. Vai trò của đầu tƣ từ khu vực doanh nghiệp cho khoa học và
công nghệ ........................................................................................................ 26
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến đầu tƣ cho hoạt động khoa học và
công nghệ của doanh nghiệp ........................................................................ 27
2.3.1. Đặc tính của mỗi doanh nghiệp và ngành công nghiệp .................. 27
2.3.2. Tính cạnh tranh ............................................................................... 28
2.3.3. Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ ................................................. 28
2.3.4. Vị trí và cơ hội tiếp cận nguồn tri thức ........................................... 31
2.3.5. Lan toả tri thức từ hoạt động nghiên cứu và phát triển nước
ngoài .......................................................................................................... 32
2.4. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và
công nghệ ........................................................................................................ 35
2.4.1. Chính sách trọng cung .................................................................... 35
2.4.2. Chính sách trọng cầu ....................................................................... 37
2.4.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ .................................................... 38
iii
2.4.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo
quốc gia ..................................................................................................... 43
Chƣơng 3: CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ
CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC, HÀN
QUỐC VÀ ISRAEL ...................................................................................... 45
3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc ..................................................................... 47
3.1.1. Bối cảnh quốc gia ............................................................................ 47
3.1.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ ....................................................................... 50
3.1.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu
tư cho khoa học công nghệ ....................................................................... 55
3.2. Kinh nghiệm Hàn Quốc ......................................................................... 66
3.2.1. Bối cảnh quốc gia ............................................................................ 66
3.2.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ ....................................................................... 69
3.2.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu
tư cho khoa học công nghệ ....................................................................... 72
3.3. Kinh nghiệm Israel ................................................................................. 84
3.3.1. Bối cảnh quốc gia ............................................................................ 84
3.3.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ ....................................................................... 86
3.3.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu
tư cho khoa học công nghệ ....................................................................... 89
3.4. Một số bài học chung rút ra từ kinh nghiệm của ba quốc gia ........... 99
Chƣơng 4: CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ
CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT
SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ................................................................. 106
4.1. Quan điểm và mục tiêu của Nhà nƣớc về thúc đẩy doanh nghiệp
đầu tƣ cho khoa học và công nghệ ............................................................. 106
iv
4.1.1. Hiện trạng hạ tầng và chính sách khoa học và công nghệ ............ 106
4.1.2. Quan điểm và mục tiêu ................................................................. 111
4.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và
công nghệ tại Việt Nam ............................................................................... 113
4.2.1. Chính sách trọng cung .................................................................. 113
4.2.2. Chính sách trọng cầu ..................................................................... 118
4.2.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ .................................................. 119
4.2.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo
quốc gia ................................................................................................... 122
4.3. Đánh giá chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học
và công nghệ tại Việt Nam .......................................................................... 123
4.3.1. So sánh Việt Nam và các quốc gia tham khảo .............................. 123
4.3.2. Một số đánh giá từ khảo sát thực tế doanh nghiệp ....................... 125
4.3.3. Một số kết quả đã đạt được ........................................................... 132
4.3.4. Một số hạn chế và nguyên nhân .................................................... 133
4.4. Một số bài học kinh nghiệm ................................................................ 135
4.4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................... 135
4.4.2. Một số bài học kinh nghiệm để xây dựng chính sách thúc đẩy
doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ ................................... 137
KẾT LUẬN .................................................................................................. 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 172
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
CNC
Công nghệ cao
CNH
Công nghiệp hóa
CNTT
Công nghệ thông tin
DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DNVVN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐMCN
Đổi mới công nghệ
ĐMST
Đổi mới sáng tạo
ETRI
Viện Nghiên cứu điện tử và viễn thông
Electronics and Telecommunications Research Institute
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Gross National Product
Tổng sản lượng quốc gia
GRI
Government Research Institute
Viện nghiên cứu công lập
HĐH
Hiện đại hóa
HIDZ
hoặc
Công nghệ thông tin và truyền thông
ICT CNTT&TT
Information Technology and Communication
IIA
Israel Innovation Authority
Cơ quan đổi mới Israel
IMF
International Moneytary Fund
Tổ chức tiền tệ thế giới
IPR
Intellectual Property Rights
Quyền sở hữu trí tuệ
KAIST
Korean Advanced Institute of Science and Technology
Viện Nghiên cứu cao cấp về khoa học và công nghệ Hàn Quốc
KIET
Korea Institute of Electronics Technology
Viện Nghiên cứu Công nghệ Điện tử Hàn Quốc
KIST
Korea Industrial Technology
Viện Khoa học và Công nghệ Hàn
High-tech Industrial Development Zone Khu phát triển công nghiệp công nghệ cao
vi
Từ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
Association
Quốc
KHCN
Science and Technology
Khoa học và công nghệ
Science, Technology and Innovation Policy
Chính sách khoa học và công nghệ sáng tạo
KT-XH
Kinh tế-xã hội
M&A
Merger & Acquisition
Sát nhập và Mua lại
NAFOSTED National Foundation for Science
and Technology Development
Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
NATIF
Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia
National Technology Innovation Fund
Research and Development
R&D hoặc NC&PT
Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ/hoặc Nghiên cứu và phát triển
Nghiên cứu sinh
NCS
NIS
National Innovation System
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
NSNN
Ngân sách nhà nước
OCS
Office of Chief Scientist
Văn phòng nhà khoa học trưởng
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Organization for Economic Co- operation and Development
QP-AN
Quốc phòng-An ninh
SEZ
Đặc khu kinh tế
Special Economic Zone
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TFP
Total Factor Productivity
Năng suất các yếu tố tổng hợp
USD
US Dollar
Đồng Đô la Mỹ
WEF
World Economic Forum
Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
KHCNST
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho khoa học và công nghệ
theo hướng tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm khoa học và
công nghệ. ..................................................................................... 31
Bảng 2.3. Khung phân tích cho luận án. ......................................................... 35
Bảng 3.1. So sánh một số đặc điểm của Việt Nam với Hàn Quốc, Trung
Quốc và Israel ............................................................................... 45
Bảng 3.2. Một số chính sách ưu đãi thuế để thúc đẩy các hoạt động liên
quan đến R&D của Hàn Quốc ...................................................... 75
Bảng 4.1. Nhân lực NC&PT qua các năm (người) ....................................... 108
Bảng 4.2. Nhân lực NC&PT theo khu vực thực hiện và chức năng năm 2017 . 108
Bảng 4.3. Tổ chức NC&PT chia theo quy mô nhân lực năm 2017 .............. 109
Bảng 4.4. Tổ chức NC&PT theo vùng địa lý năm 2017 ............................... 109
Bảng 4.5. Khảo sát DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN. .... 128
Bảng 4.6. Đề xuất của DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN . 129
viii
DANH MỤC HÌNH, HỘP
Hình 2.1. Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ............................ 30
Hình 2.2. Mức cân bằng của đầu tư NC&PT .................................................. 34
Hình 3.1. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Trung Quốc ............................... 49
Hình 3.2. Nguồn chính cho quỹ R&D Trung Quốc so với Nhật Bản và Mỹ ...... 50
Hình 3.3. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Hàn Quốc .................................. 67
Hình 3.4. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Iseral ......................................... 86
Hình 4.1. Thống kê các doanh nghiệp khảo sát ............................................ 127
Hộp 1: Doanh nghiệp lớn .............................................................................. 130
Hộp 2: Doanh nghiệp start-up ....................................................................... 131
ix
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã sớm xác
định khoa học và công nghệ (KHCN) là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất
nước. Hơn 30 năm đổi mới, KHCN nước ta đã có bước tiến dài trong xây
dựng và phát triển tiềm lực, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp
thiết thực vào sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), bảo đảm quốc phòng-an
ninh (QP-AN), cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống, đưa nước ta
từ một nước kém phát triển gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Tuy nhiên, so với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, KHCN nước ta phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng và vị trí, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ
thúc đẩy KT-XH và khắc phục được tình trạng tụt hậu so với khu vực và trên
thế giới. Một trong những nguyên nhân chính của thực trạng này là đầu tư cho
KHCN còn thấp so với mặt bằng của các quốc gia có nền khoa học tương đối
phát triển, trong đó phần nhiều vẫn dựa vào nguồn lực hạn chế của Ngân sách
nhà nước (NSNN).
Hoạt động KHCN có vai trò gián tiếp tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thông qua việc kích thích sự đổi mới và sáng tạo trong nội tại của một quốc
gia [116]. Các đổi mới công nghệ (ĐMCN) trong công nghiệp được hình thành
từ đầu tư cho hoạt động KHCN là động lực chính của tăng trưởng kinh tế,
trong khi các doanh nghiệp (DN) chỉ đầu tư cho hoạt động KHCN nếu ở đó có
cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận [102]. Do vậy, nếu lợi ích của việc đầu tư cho
hoạt động KHCN được đảm bảo thông qua các chính sách thúc đẩy đầu tư, DN
sẽ đầu tư nhiều hơn, quá trình ĐMCN được thúc đẩy, và kết quả cuối cùng là
tạo ra sự tăng trưởng về năng suất.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quốc gia nào có nền KHCN càng phát
triển thì tỉ trọng đầu tư cho KHCN của khu vực ngoài nhà nước so với NSNN
càng cao. NSNN chỉ tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phục vụ
lợi ích chung của quốc gia [187]. Ở các nước phát triển như Châu Âu, Hàn
1
Quốc, Nhật Bản, tỉ trọng này thường dao động từ 3:1 đến 5:1. Trung Quốc có
tỉ trọng 3:1 và có xu hướng tăng dần theo thời gian.
Tại Việt Nam cho đến nay NSNN vẫn là nguồn lực chính, chiếm 52% tổng
đầu tư xã hội cho KHCN [3]. Cần nhìn nhận rằng, dù được Nhà nước quan tâm
đến đâu thì nguồn lực của Nhà nước cũng rất hạn chế trong bối cảnh đất nước còn
gặp nhiều khó khăn như hiện nay, không thể so sánh với tiềm lực dồi dào của khu
vực ngoài Nhà nước, đặc biệt là của khối doanh nghiệp (DN). Song, thực tế các
DN Việt Nam chưa chú trọng đầu tư đúng mức cho hoạt động KHCN, nguyên
nhân là do chúng ta còn thiếu những chính sách khuyến khích phù hợp và thiếu
kinh nghiệm trong xây dựng mô hình phát triển của hệ thống KHCN.
Một số quốc gia có những đặc điểm tương đồng với Việt Nam, mặc dù
có xuất phát điểm không cao nhưng đã thành công nhờ các chính sách đầu tư
cho KHCN một cách đúng đắn như Hàn Quốc, Trung Quốc và Israel. Khi
nghiên cứu những nguyên nhân chính dẫn đến sự thành công của Trung Quốc,
Hàn Quốc và Israel, ta thấy một đặc điểm chung là họ đều đầu tư vào đội ngũ
nhân lực chất lượng cao cho KHCN; lựa chọn những lĩnh vực công nghệ phù
hợp để CNH và phát triển KHCN sâu vào lĩnh vực đó. Cụ thể: Hàn Quốc thì
phát triển các thành phố khoa học theo mô hình thung lũng silicon và đầu tư
cho những tập đoàn lớn để làm đầu tàu KHCN, từ đó gắn lợi ích tài chính với
phát triển KHCN để kích thích sự tăng trưởng. Trung Quốc thì hướng KHCN
tới đổi mới sáng tạo (ĐMST), tài trợ đa cấp độ, đa phương thức. Còn Israel thì
nâng cao tinh thần khởi nghiệp và lựa chọn phương thức sáp nhập và mua bán
(M&A) cùng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển. Đây là những
kinh nghiệm quý báu Việt Nam có thể nghiên cứu tham khảo để xây dựng
chính sách đầu tư phù hợp cho KHCN để thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH.
Nhằm đạt được kết quả thiết thực trong tăng trưởng kinh tế, vươn lên
thành quốc gia phát triển trong tương lai, việc xây dựng các chính sách hiệu
quả để khuyến khích các DN đầu tư cho KHCN là hết sức cần thiết và cấp
bách. Để làm được điều này, chúng ta cần tổng hợp đầy đủ những chính sách
khuyến khích DN đầu tư cho KHCN hiện có, rà soát những chính sách gì
2
đang phù hợp, chưa phù hợp hay còn thiếu; và rút ra những bài học kinh
nghiệm từ các quốc gia trên thế giới phù hợp với điều kiện và thực tiễn của
Việt Nam trong việc xây dựng và triển khai các chính sách khuyến khích DN
đầu tư cho KHCN.
Từ các phân tích trên, tác giả lựa chọn nội dung “Chính sách thúc đẩy
doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ của một số quốc gia và bài
học cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về ảnh hưởng của chính sách
thúc đẩy của Chính phủ đối với hoạt động KHCN và thực tiễn hiệu quả chính
sách của một số quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam, Luận án rút ra bài học
kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp phát triển chính sách thúc đẩy DN đầu
tư cho KHCN của Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:
(i) Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách thúc đẩy DN đầu tư
cho KHCN;
(ii) Luận giải vai trò của KHCN, DN đầu tư cho KHCN, chính sách
thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN. Từ đó, xây dựng được khung phân tích cho
luận án về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN;
(iii) Nghiên cứu điển hình các quốc gia Trung Quốc, Hàn Quốc và
Israel về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN;
(iv) Tìm hiểu thực trạng các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN
của Việt Nam. So sánh Việt Nam và các quốc gia đã lựa chọn nghiên cứu,
trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm phù hợp với điều kiện và xu
hướng phát triển, tình hình thực tiễn của Việt Nam trong các chính sách thúc
đẩy DN đầu tư cho KHCN.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các chính sách thúc đẩy DN đầu tư
cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel và Việt Nam.
3
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Luận án nghiên cứu các chính sách của Chính phủ Trung Quốc, Hàn
Quốc, Israel và Việt Nam trong việc thúc đẩy các DN đầu tư cho KHCN. Chính
sách có thể nằm trong các văn bản luật và dưới luật của các quốc gia. Đồng thời,
các nghiên cứu kinh điển từ các quốc gia trên thế giới về hiệu quả đầu tư của
KHCN trong tăng trưởng kinh tế cũng phù hợp với nghiên cứu của luận án.
Trong khuôn khổ của Luận án, khái niệm "hoạt động KHCN" được xác
định phạm vi đồng nhất với khái niệm "hoạt động nghiên cứu và phát triển"
(R&D).
Các văn bản luật và dưới luật về các chính sách thúc đẩy khác
(luật/chính sách về đất đai, an ninh quốc phòng,…) không nằm trong phạm vi
nghiên cứu của luận án;
Chính sách thúc đẩy các hoạt động khác của DN (nâng cao năng lực
cạnh tranh, năng lực quản trị DN, năng lực tài chính, …) không nằm trong
phạm vi nghiên cứu của luận án.
- Phạm vi về không gian:
Luận án tập trung nghiên cứu kinh nghiệm về chính sách thúc đẩy DN
đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel vì đây là ba quốc gia
tiêu biểu trong việc đạt được sự phát triển đột phá về KH-XH thông qua thúc
đẩy đầu tư cho KHCN.
Trong một số phân tích, luận án có sử dụng các dữ liệu thứ cấp của một
số quốc gia khác để có được cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
- Phạm vi thời gian:
Đối với các quốc gia tham khảo, phạm vi thời gian nghiên cứu trải dài
trong giai đoạn phát triển nhanh về KHCN của từng quốc gia.
Đối với Việt Nam, dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn
2018-2019.
- Phạm vi mẫu nghiên cứu:
Mẫu khảo sát là những DN có đầu tư cho KHCN (DN KHCN, DN
start-up về công nghệ, ...). Đây là những DN có sự quan tâm và nhu cầu đổi
4
mới công nghệ, đã từng đầu tư cho hoạt động KHCN và hiểu rõ nhất khó
khăn, vướng mắc khi thực hiện để cần Nhà nước hỗ trợ thông qua chính sách.
Tổng số lượng DN có số liệu sử dụng trong phân tích thực trạng là 103.
Hai trong số này sẽ được thực hiện hình thức điển cứu (case study), trong đó
01 DN là DNNN có quy mô lớn, tỷ lệ đầu tư cho KHCN cao - đại diện cho
đối tượng thành công về đầu tư cho KHCN, có thể gợi mở các ý tưởng mới
cho chính sách; 01 DN là start-up mới thành công trong năm 2019, đại diện
cho đối tượng nhỏ, khả năng tài chính eo hẹp, để tìm hiểu về các khó khăn và
mong muốn hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách.
4. Quy trình nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án,
nghiên cứu sinh tiến hành theo quy trình nghiên cứu sau.
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN
Trung Quốc
M Ệ I
C Ọ H
Hàn Quốc
I À B
H G N H N I
Một số bài học rút ra cho Việt Nam để thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN
K
Israel
Ợ R T Ụ H P H C Á S H N Í H C
T É K N Ê I L H C Á S H N Í H C
Việt Nam
U Ầ C G N Ọ R T H C Á S H N Í H C
G N U C G N Ọ R T H C Á S H N Í H C
Đánh giá thực trạng hệ thống chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN
Khảo sát bằng phiếu hỏi tới 120 doanh nghiệp có đầu tư cho KHCN
Phỏng vấn: các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, cán bộ/giám đốc DN có hoạt động liên quan tới KHCN
5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
(1) Phương pháp thu thập dữ liệu
* Thu thập dữ liệu thứ cấp
Nghiên cứu sinh (NCS) nghiên cứu đề tài luận án với việc nghiên cứu
các nguồn dữ liệu thứ cấp từ các công trình công bố có uy tín trong và ngoài
nước như các bài báo có chỉ số ISI, Scopus; Các bài hội thảo, các luận án tiến
sĩ; Các báo cáo, số liệu của Chính phủ và bộ ban ngành liên quan, ... Cũng
như website của các trang báo, tạp chí và tổ chức có uy tín.
Mục tiêu của việc nghiên cứu tài liệu là giúp NCS xây dựng được khung
phân tích cho luận án về những nhóm chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
KHCN gồm: Nhóm chính sách trọng cung, nhóm chính sách trọng cầu, nhóm
chính sách về các yếu tố phụ trợ, và nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ
thống ĐMST quốc gia.
Thu thập dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp sẽ được NCS thu thập bằng một số phương pháp sau:
a. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là phương pháp điều tra qua đánh giá của các chuyên gia
trong trong lĩnh vực đang quan tâm về vấn đề, sự kiện khoa học nào đó. Thực
chất đây là phương pháp sử dụng trí tuệ, khai thác ý kiến đánh giá của các
chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định một vấn đề, một sự kiện
khoa học để tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề, sự kiện đó.
Phương pháp phỏng vấn sâu được NCS sử dụng để thực hiện nội dung sau:
- Đánh giá, đưa ra ý kiến xây dựng khung phân tích của luận án về các
chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.
- Đánh giá, tư vấn hoàn thiện phiếu khảo sát.
NCS đã có những buổi làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp với các chuyên
gia để thu thập những thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
Các chuyên gia mà NCS tham vấn gồm giáo viên hướng dẫn; Các nhà
hoạch định chính sách; Các nhà nghiên cứu; Những cán bộ/giám đốc DN có
hoạt động chuyên môn liên quan tới KHCN. Số lượng chuyên gia theo
Connelly (2008) phải đảm bảo ít nhất là 10% mẫu nghiên cứu chính; Còn theo
6
Hill (1998) thì cần từ 10 đến 30 người. Do vậy, tác giả lựa chọn phỏng vấn 20
người. Danh sách chuyên gia được thống kê trong phụ lục số 02 của luận án.
b. Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu hỏi
Phương pháp “phỏng vấn” bằng phiếu hỏi (questionnare survey) là
phương pháp phỏng vấn viết, được thực hiện cùng lúc với nhiều người theo một
bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào
các ô tương ứng theo một quy ước nào đó. Đây là phương pháp nghiên cứu được
sử dụng rộng rãi và phổ biến trong các lĩnh vực nghiên cứu kinh tế xã hội.
Để kiểm định các giả thuyết nêu ra từ khung phân tích của luận án,
NCS đã thiết kế và phát một phiếu hỏi định lượng tới các DN khảo sát.
Khảo sát thử (pilot survey)
Trước khi phiếu được phát rộng rãi tới mẫu khảo sát, NCS đã phát cho
ba DN để đánh giá sơ bộ xem các câu hỏi đặt ra có dễ hiểu không, cần bổ sung
hoặc loại bỏ những câu hỏi nào. Đồng thời NCS cũng đã gửi phiếu hỏi tới các
chuyên gia, giảng viên về quản trị để tham vấn và hoàn thiện phiếu khảo sát.
- Mẫu khảo sát:
Các DN, phần lớn là DN có đầu tư cho KHCN. Số lượng phiếu ban đầu
gửi đi là khoảng 120 DN. Các DN cũng được đề nghị tiếp tục gửi phiếu khảo sát
đến các DN khác.
Kênh thu thập dữ liệu chính là thông qua danh sách các DN từ nguồn
Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các kênh Hiệp hội DN hoặc các
mối quan hệ của cá nhân NCS.
Nhằm đảm bảo tính bí mật của thông tin, việc thu thập dữ liệu qua tất
cả các kênh đều ưu tiên sử dụng bảng hỏi trực tuyến, giúp cho thông tin thu
thập được minh bạch, khách quan, nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc thiếu
dữ liệu trả lời. Tham khảo link bảng hỏi trực tuyến tại:
http://bit.ly/KhaoSatChinhSachKHCN.
- Người điền phiếu: Giám đốc DN hoặc Giám đốc/Trưởng phòng
KHCN. Mỗi DN được khuyến nghị chỉ trả lời 01 lần phiếu khảo sát nhằm
tránh sự trùng lặp.
7
- Thang đo: ngoài một số câu hỏi lựa chọn thì phiếu hỏi sử dụng thang
đo chính là thang Likert 5 bậc (từ 1 đến 5) cho đa số các câu hỏi. Trong đó, 1
tương ứng với “hoàn toàn không đồng ý” và 5 tương ứng “hoàn toàn đồng ý”.
Thang đo được kế thừa từ các nghiên cứu trước đây.
- Nội dung: (i) Giới thiệu chung về Phiếu khảo sát; Một số thông tin
cung cấp cho khảo sát; (ii) Thu thập thông tin chung về DN: Loại hình, quy
mô, tỷ lệ trích lập quỹ KHCN; (iii) Thu thập thông tin về chính sách thúc đẩy
DN đầu tư cho KHCN: Có biết về chính sách hay không; DN có áp dụng/được
áp dụng chính sách hay không; Chính sách áp dụng có hiệu quả ở mức độ nào;
(iv) Thu thập thông tin về các đề xuất theo từng nhóm chính sách.
Nội dung chi tiết của Phiếu khảo sát được trình bày trong Phụ lục 01.
c. Phương pháp điển cứu (case study)
Nghiên cứu điển cứu hay nghiên cứu điển hình là việc nghiên cứu dựa
trên những trường hợp (case study) đặc trưng cho nhóm các khách thể nghiên
cứu. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong ngành xã hội học với
mục tiêu cơ bản là tìm hiểu rõ về trường hợp nghiên cứu bằng cách theo dõi
sát sao và toàn diện trường hợp đã chọn trong một thời gian nhất định, tại môi
trường tự nhiên của nó. Kết quả nghiên cứu điển hình cho phép người nghiên
cứu đưa ra lời giải thích tại sao mọi việc xảy ra như đã xảy ra, thông qua đó
xác định các vấn đề quan trọng cần được tiếp tục nghiên cứu rộng rãi hơn
trong tương lai.
NCS lựa chọn hai DN và hai chuyên gia về chính sách thúc đẩy DN đầu
tư cho KHCN để tiến hành nghiên cứu sâu về các nội dung liên quan tới bốn
nhóm chính sách trong khung phân tích của luận án. Các DN và chuyên gia sẽ
đưa ra đánh giá về những vấn đề mà NCS nghiên cứu. Kết hợp với những dữ
liệu sơ cấp thu thập được qua phiếu khảo sát và các dữ liệu thứ cấp, NCS sẽ
đưa ra những đánh giá và kết luận về những vấn đề nghiên cứu của luận án.
8
(2) Phương pháp phân tích dữ liệu
Luận án sử dụng phương pháp phân tích qui luật, thống kê, tổng hợp, so
sánh và một số công cụ toán như Excel, trị trung bình để đánh giá một số nội
dung của khung phân tích.
NCS nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN ở
Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel và Việt Nam theo bốn nhóm: Chính sách trọng
cung, chính sách trọng cầu, chính sách về các yếu tố phụ trợ, chính sách liên kết.
Trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về chính sách thúc đẩy
DN đầu tư cho KHCN với khung phân tích gồm bốn nhóm: Nhóm chính sách
trọng cung, nhóm chính sách trọng cầu, nhóm chính sách về các yếu tố phụ
trợ, nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia.
Xác định được mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN theo hướng
tiếp cận dự án khởi nghiệp KHCN của DN. Chuỗi cung ứng sẽ bắt đầu từ ý
tưởng ĐMST, trải qua các giai đoạn khác nhau cho tới đầu ra cuối cùng là sản
phẩm được thương mại hóa trên thị trường. Các loại hình DN với các cấp độ
đầu tư cho KHCN khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau.
So sánh Việt Nam và ba quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Đánh giá
thành công và hạn chế trong chính sách của mỗi quốc gia. Nghiên cứu và khảo
sát thực trạng chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư KHCN của Việt Nam,
từ đó rút ra một số bài học trong xây dựng chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
KHCN trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục; Nội dung
chính của luận án được chia thành bốn chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách thúc đẩy
doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Nội dung: Tổng hợp một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học trong và ngoài nước về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của
9
các quốc gia trên thế giới và Việt Nam, xác định dư địa cho luận án phù hợp
với định hướng về đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Chương 2: Cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ.
Nội dung: Đưa ra vai trò của KHCN đối với tăng trưởng kinh tế của
quốc gia và đối với DN; Phân tích, luận giải các yếu tố tác động đến đầu tư
cho KHCN của DN; Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.
- Chương 3: Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và
công nghệ của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel.
Nội dung: Nghiên cứu bối cảnh quốc gia, quan điểm nhà nước và các
chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel.
- Chương 4: Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và
công nghệ của Việt Nam và những bài học rút ra từ các quốc gia trên thế giới.
Nội dung: Nghiên cứu thực trạng chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
KHCN của Việt Nam, từ đó đề xuất một số bài học về chính sách thúc đẩy
DN đầu tư cho KHCN dựa trên kinh nghiệm các quốc gia nêu trên.
10
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước về
các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN. Xét về mặt phương pháp,
những nghiên cứu này chia thành hai nhóm chính:
Nhóm thứ nhất là những nghiên cứu tổng hợp, phân tích về tất cả
những chính sách hiện có của một quốc gia, một địa phương cụ thể. Từ đó,
đưa ra những đánh giá và đề xuất những cải tiến;
Nhóm thứ hai là những nghiên cứu chuyên sâu về từng nhóm chính
sách như nhóm chính sách về tài chính, nhóm chính sách về nhân lực, v.v…
Để có cái nhìn toàn diện, tác giả đã nghiên cứu các công trình theo 02
lát cắt nội dung bao gồm: về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho
KHCN, trong đó nổi bật lên vai trò của chính sách Nhà nước và về các chính
sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.
1.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyết định đầu tƣ cho khoa học và công
nghệ
Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho hoạt động KHCN
của DN và ảnh hưởng của nó đã được xác định trong nhiều nghiên cứu, cả lý
thuyết và thực nghiệm. Trong một nghiên cứu gần đây, tác giả Becker (2013)
đã tổng hợp, phân tích các nghiên cứu này để vẽ nên bức tranh về sự hiểu biết
của chúng ta đối với vấn đề và thách thức cho các nghiên cứu trong tương lai.
Theo Becker, có 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức đầu tư cho KHCN của
DN, bao gồm:
(i) Đặc tính của mỗi DN và ngành công nghiệp: Tình hình tài chính nội bộ
ảnh hưởng đến đầu tư cho KHCN, mặc dù mức độ ảnh hưởng còn phụ thuộc vào
quy mô, tuổi của DN và từng quốc gia. Ở đâu nhà đầu tư cảm thấy an toàn hơn
sẽ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn cho các hoạt động rủi ro như KHCN [56];
11
(ii) Tính cạnh tranh: Sự cạnh tranh về thị phần có thể có các ảnh hưởng
khác biệt lên hoạt động KHCN của DN [56];
(iii) Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ: Các nghiên cứu kinh điển,
được hỗ trợ bởi các bằng chứng thực nghiệm đều cho rằng chính sách tài khóa
của chính phủ, cụ thể là tài trợ và các ưu đãi thuế, có tác động tích cực đến
mức đầu tư của DN cho KHCN [56];
(iv) Vị trí và cơ hội tiếp cận nguồn tri thức: Khoảng cách địa lý của DN
với nguồn tri thức là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động KHCN.
Sự tác động này được thực hiện thông qua ba yếu tố chính: khả năng tiếp
nhận tri thức lan toả từ các cơ sở nghiên cứu, hoạt động hợp tác nghiên cứu
chung và sự dồi dào của nguồn nhân lực chất lượng cao [56];
(v) Sự lan tỏa tri thức từ hoạt động KHCN nước ngoài: Các DN FDI
thường có trình độ công nghệ tiên tiến hơn các DN trong nước và có thể
chuyển giao công nghệ cho các DN ở nước sở tại. Ví dụ chi nhánh ở nước
ngoài của các tập đoàn đa quốc gia có thể nhận chuyển giao công nghệ, tri
thức từ công ty mẹ, sau đó chuyển giao cho các DN bản địa thông qua các
hoạt động trực tiếp như các hợp đồng nghiên cứu, hợp đồng cấp quyền hoặc
một cách gián tiếp qua hiệu ứng lan tỏa tri thức [56].
Tác giả Quan Minh Nhựt có các bài viết phân tích thực trạng và nhân tố
ảnh hưởng đến mức độ đầu tư KHCN vào sản xuất kinh doanh của các DN tại
Thành phố Cần Thơ trong lĩnh vực thương mại-dịch vụ (2014) và nông
nghiệp (2015). Kết quả khảo sát các DN cho thấy tỷ trọng đầu tư cho KHCN
trong tổng nguồn vốn của DN còn tương đối thấp và không hiệu quả. Theo tác
giả, có bốn yếu tố có ý nghĩa thống kê tác động đến quyết định đầu tư cho
KHCN của DN nông nghiệp là: Vốn chủ sở hữu, hiệu suất máy móc thiết bị,
lao động và số năm hoạt động của DN [36]; còn đối với DN thương mại-dịch
vụ có ba yếu tố tác động là: lợi nhuận, vốn chủ sở hữu và số năm hoạt động
của DN [37]. Tác giả Trần Ngọc Ca (2000) nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của nhân lực và bổ sung yếu tố thuận lợi của thị trường đối với sản phẩm là sự
khích lệ DN đầu tư cho hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu và phát
12
triển [13]. Theo Nguyễn Sỹ Lộc và cộng sự (2006), các yếu tố tác động trực
tiếp và gián tiếp đến đầu tư cho hoạt động KHCN của DN bao gồm nhóm yếu
tố về nhu cầu công nghệ và nhóm yếu tố về nguồn cung công nghệ [33], tuy
vậy các tác giả chưa nêu được tầm quan trọng của các yếu tố này đối với hoạt
động đổi mới công nghệ của DN.
Một số các công trình nghiên cứu khác trong nước cũng có các nội
dung đánh giá thực trạng công nghệ của các DN Việt Nam bao gồm trình độ
công nghệ, khả năng xuất khẩu và cạnh tranh của các DN công nghiệp, lực
lượng cán bộ KHCN của các DN công nghiệp với các nội dung qui mô cơ cấu
theo trình độ và sự phân bố theo lĩnh vực hoạt động KHCN của lực lượng
này, tình hình nghiên cứu khoa học và đổi mới KHCN của các DN công
nghiệp, mối quan hệ gia nghiên cứu KHCN với các yếu tố sản xuất kinh
doanh ([15], [23]).
Các nghiên cứu trên thế giới nhận định sâu sắc hơn về các trở ngại của
DN, đặc biệt là trở ngại tài chính đối với DN nhỏ. Lý do được Berger đưa ra
là cả ngân hàng và các nhà đầu tư mạo hiểm-những nhà đầu tư tư nhân truyền
thống vào các DN nhỏ-thường rất kén chọn khi tiến hành đầu tư, trong khi
bản thân DN lại rất khó được tiếp cận thường xuyên vào thị trường vốn. Tính
bất đối xứng thông tin và mức độ rủi ro cao là nguyên nhân khiến các DN nhỏ
gặp bất lợi trong việc thu hút vốn đầu tư [54]. Việc sử dụng vốn dựa trên
nguồn vốn nghiên cứu và phát triển càng làm mối quan ngại về tình trạng bất
đối xứng thông tin và gia tăng rủi ro trở nên trầm trọng. Nguồn lợi nhuận mơ
hồ, không ổn định, bất lợi trong nắm bắt thông tin và các nhà đầu tư không đủ
năng lực định giá các dự án ĐMST đã khiến cho các DN vừa và nhỏ
(DNVVN) khó tiếp cận nguồn vốn cho đổi mới [66]. Hơn nữa, tài sản ĐMST
không có chức năng như tài sản thế chấp, càng khiến ngân hàng thêm lo ngại
về những rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, khả năng các DNVVN sẽ bị hạn chế tín
dụng khi tiến hành các hoạt động R&D [69]. Thực tế, nghiên cứu thực
nghiệm cho thấy một phần đáng kể các DN nhỏ xem vấn đề tài chính/vốn đầu
tư như một trở ngại cho việc thực hiện đổi mới [113]. Định mức tín dụng
13
thường được tiến hành cho các DN thâm dụng kỹ thuật nói riêng ([131],
[171]) và các DN đổi mới nói chung [151]. Đối mặt với trở ngại về tài chính
cho các dự án ĐMST, các DN có khả năng phải từ bỏ hoặc thu nhỏ quy mô
của những dự án này [94], từ đó cản trở phát triển việc làm, doanh thu, xuất
khẩu và phúc lợi kinh tế.
1.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ
Nhiều nghiên cứu ([175], [131], [135]) đã chỉ ra rằng do các thất bại
của thị trường, đầu tư từ khu vực tư nhân cho KHCN thường thấp hơn
ngưỡng tối ưu của xã hội. Bên cạnh đó, năng lực ĐMST của các DN phụ
thuộc vào hệ thống thể chế mà tại đó DN hoạt động. Do đó, vai trò của nhà
nước và công cụ chính sách là đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư
từ khu vực DN cho hoạt động KHCN.
Từ năm 1995, Buisseret đã đưa ra nhận định sự hỗ trợ của Chính phủ
có thể gây ra hiệu ứng bổ sung hành vi; Nó có thể thay đổi hành vi của một
DN nhỏ, hay tác động vào hành vi của các DN khác lên các DNVVN trong
vấn đề đầu tư cho KHCN [64]. Narayanan (2000) cũng đồng ý rằng những
động thái liên quan đến các cơ quan Chính phủ như cấp bằng sáng chế hay
trao trợ cấp, có thể đóng vai trò như là một tín hiệu thông tin tích cực về DN
gửi đến các nhà đầu tư [192]. Takalo và Tanayama (2010) đề xuất một mô
hình lý thuyết trong đó cho thấy trợ cấp công vào R&D có thể tạo ra những
dấu hiệu tích cực cho các nhà đầu tư trên thị trường và giảm thiểu các trở ngại
tài chính. Việc nhận được trợ cấp còn chứa thông tin giả định rằng quyết định
của nhà nước không hoàn toàn là ngẫu nhiên, các cơ quan cấp kinh phí có thể
được định hướng để sàng lọc và lựa chọn các dự án tốt hơn các nhà đầu tư
trên thị trường. Thêm vào đó, Chính phủ là cơ quan tập trung nhận được
nhiều nguồn thông tin, từ đó có cái nhìn tổng quan chính xác hơn về tất cả các
lĩnh vực, có thể có lợi thế về mặt thông tin hơn các nhà đầu tư tư nhân [190].
Lerner (2002) cho rằng cũng là chính đáng khi các chuyên gia của Chính phủ
có thể vượt qua những trở ngại về mặt thông tin trong khi các nhà đầu tư nhân
thì không thể [129].
14
Về tác động của chính sách trong việc thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN,
Nguyễn Việt Hòa và các cộng sự đã xác định những chính sách được DN
quan tâm, những chính sách DN ít quan tâm, từ đó đưa ra phương thức tác
động của cơ chế, chính sách công và các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy
DN đầu tư cho KHCN.
Tác giả Hoàng Xuân Long (2011) đã nghiên cứu về chính sách của địa
phương nhằm thúc đẩy DN hoạt động KHCN trên địa bàn. Qua đó khái quát
hóa những xu hướng ảnh hưởng tới chính sách thúc đẩy, hỗ trợ DN do địa
phương ban hành; Đồng thời đề xuất các giải pháp xây dựng chính sách thúc
đẩy, hỗ trợ DN hoạt động KHCN của địa phương.
Nghiên cứu sâu hơn vào chính sách thúc đẩy DN đầu tư vào R&D có
thể thấy hiện diện các nhóm chính sách: hỗ trợ tài chính trực tiếp, ưu đãi thuế,
phát triển nhân lực KHCN, đầu tư phát triển hạ tầng KHCN, chính sách liên
kết các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia.
Hỗ trợ tài chính trực tiếp
Để giải quyết vấn đề trở ngại tài chính cho các dự án ĐMST của DN,
nhiều nước đã chi ra một lượng lớn công quỹ đề giảm thiểu nợ và chênh lệch
vốn cho dự án đổi mới của các DN nhỏ. Một loạt những chính sách như các
khoản vay, bảo lãnh vốn vay và tài trợ nghiên cứu đã được thực thi ([177],
[93]). Ngân sách chính phủ cần phải tạo ra các hiệu ứng lan tỏa, nhằm tăng
cường cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài và công bằng ngân sách. Feldman và
Kelley (2006) cũng xác nhận rằng trợ cấp nhận được vào hoạt động R&D sẽ
thúc đẩy ngân sách từ các nguồn lực khác.
Tác giả Lê Xuân Bá và các cộng sự (2008) đã nghiên cứu chính sách
huy động các nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ (ĐMCN) của DN,
theo đó có thể chia làm ba loại chính sách: Hỗ trợ trực tiếp cho DN đầu tư
ĐMCN; Gián tiếp thúc đẩy DN bỏ vốn đầu tư ĐMCN và huy động các nguồn
vốn xã hội hóa khác. Từ đó, đề xuất thực hiện chương trình quốc gia hỗ trợ
các DNVVN nâng cao năng lực đầu tư ĐMCN, bởi các DNVVN thường khó
khăn trong tiếp cận nguồn vốn đầu tư.
15
Ngoài ra còn một số nghiên cứu về chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp
như: “Chính sách KHCN trong bối cảnh 4.0” [14], “Nghiên cứu các hình thức
đầu tư tài chính cho DN KHCN” (của Hoàng Văn Tuyên, “Nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn việc khuyến khích DN trích Quỹ phát triển KHCN” (của
Trần Xuân Đích).
Ƣu đãi thuế
Theo Hall và Van Reenen (2000), Chính sách ưu đãi thuế cho hoạt
động R&D là phần thuế mà DN có thể yêu cầu giảm đi nếu như họ tham gia
vào các hoạt động R&D, nhờ đó thúc đẩy DN đầu tư vào lĩnh vực này. Chính
sách ưu đãi thuế thường có ảnh hưởng đối với tất cả các DN trong nền kinh tế,
vì thế các DN tư nhân cần phải đánh giá để lựa chọn và xác định loại dự án
mà họ muốn đăng ký. Khác với việc lựa chọn các dự án có lợi ích xã hội cao
làm tăng tỷ lệ lợi nhuận như các chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp, các
chính sách ưu đãi về thuế này sẽ làm giảm chi phí biên của các hoạt động
R&D [62]. Hiện nay, chính sách ưu đãi thuế là một trong những công cụ
chính sách hỗ trợ cho hoạt động R&D phổ biến nhất. Hơn 20 quốc gia thuộc
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đang thúc đẩy đầu tư tư nhân
cho R&D thông qua hình thức này, bao gồm cả các quốc gia đang phát triển
như Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi [162].
Mặc dù các quốc gia phát triển đã thi hành các chính sách ưu đãi thuế
cho hoạt động R&D kể từ những năm 1960, nhưng có rất ít nghiên cứu được
công bố về việc đánh giá hiệu quả của những chính sách đó trong việc thúc
đẩy hoạt động sáng tạo tại các DN. Tuy nhiên, từ những năm 1990 trở đi, các
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng ưu đãi thuế của Chính phủ Hoa Kỳ cho
các hoạt động R&D trên thực tế có hiệu quả đối với việc thúc đẩy đầu tư cho
hoạt động nghiên cứu sáng tạo [60]. Các kết quả thu được không giống nhau,
do tại một số quốc gia, các chính sách ưu đãi thuế không có hiệu quả đối với
hoạt động R&D [70], trong khi một số quốc gia khác lại cho thấy hiệu quả
tích cực [60]. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu gần đây hơn lại cho thấy
16
rằng chính sách ưu đãi thuế có hiệu quả trong việc thúc đẩy lĩnh vực kinh tế
tư nhân đầu tư cho R&D như ở Italy [168], Pháp [146] và Canada [77].
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách ưu đãi
thuế đầu tư cho R&D của DN, nhưng các nghiên cứu này đều tập trung vào
các quốc gia phát triển, với hệ thống nghiên cứu sáng tạo đã đạt trình độ cao.
Các nghiên cứu này đều cho thấy hiệu quả tích cực của chính sách ưu đãi thuế
cho đầu tư R&D của DN ([146], [55], [195], [142]). Nghiên cứu đầu tiên
trong lĩnh vực này cho các quốc gia kém phát triển hơn là của Harris (2009),
khi tác giả này tập trung nghiên cứu hiệu quả của chính sách ưu đãi thuế đối
với hoạt động R&D tại Bắc Ai len. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động
R&D có tương quan với sự thay đổi của chi phí vốn của DN, nhưng ảnh
hưởng này thay đổi tương đối chậm theo thời gian [109]. Một nghiên cứu
khác của Lee (2011) đã so sánh ảnh hưởng của các chính sách này tại một số
các quốc gia như Canada, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Ấn Độ.
Một điểm quan trọng nhưng chưa được chú ý nhiều trong các nghiên
cứu là ảnh hưởng của chính sách ưu đãi thuế đến đầu tư R&D của các DN sẽ
khác nhau tùy thuộc vào từng nền kinh tế của mỗi quốc gia [188]. Ngoài ra,
các DN hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau cũng sẽ thể hiện sự khác biệt
về chiến lược phát triển và đầu tư cho R&D ([172], [147]). Các DN dựa chủ
yếu vào các hoạt động R&D thường sẽ tập trung vào các ngành công nghiệp
có trình độ kỹ thuật cao, trong khi các DN khác sẽ không lựa chọn sử dụng
các hoạt động R&D làm chiến lược ưu tiên để tạo ra hoặc áp dụng các công
nghệ mới.
Bên cạnh đó, dù lý do cơ bản của việc thi hành những chính sách ưu đãi
thuế cho hoạt động R&D đã khá rõ ràng, nhưng hiệu quả của những chính
sách này không hoàn toàn coi là hiển nhiên. Các DN tư nhân thường sử dụng
ưu đãi thuế để thực hiện những dự án có lợi nhuận cá nhân cao, khiến cho
việc đầu tư của các DN này tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn, như vậy
hiệu quả của chính sách không đạt như mong muốn ([81], [77]). Một vấn đề
khác đối với chính sách ưu đãi thuế cho hoạt động R&D, đặc biệt là khi được
17
thực hiện dựa trên khối lượng của các hoạt động R&D, là chính sách này sẽ
áp dụng cho cả các dự án R&D cận biên (marginal) và dưới biên
(inframagirnal); Nhưng do các chính sách dưới biên luôn được thực hiện ở bất
kỳ hoàn cảnh nào, nên hiệu quả thường không được thể hiện rõ [74]. Cuối
cùng, cần phải lưu ý rằng nếu có những yếu tố giới hạn như thiếu hụt nguồn
nhân lực, hoặc khó tiếp cận cơ sở hạ tầng công nghệ, thì việc đầu tư cho một
thiết bị đơn lẻ là không đủ để đạt được mục đích tăng đầu tư cho R&D [58].
Tuy nhiên, chính sách ưu đãi thuế lại có khía cạnh khá tích cực, tức là để có
thể nhận được ưu đãi thuế, trước tiên DN phải thực hiện các đầu tư được miễn
thuế, sau đó phải chứng minh được việc đầu tư này có lợi nhuận.
Phát triển nhân lực KHCN
Romer (1990) đã đưa ra một mô hình, trong đó tăng trưởng dựa trên kết
quả R&D, thể hiện trong những thay đổi công nghệ mà các công ty sử dụng
để tối đa hóa lợi nhuận. Trong mô hình của Romer, có bốn nhân tố cơ bản của
sản xuất: vốn vật chất, lao động, nguồn nhân lực và công nghệ. Mô hình này,
hay theo cách mô tả của Valdes (1999) sau này thì tăng trưởng rõ rệt hơn với tỷ lệ
lớn nguồn nhân lực nằm trong lĩnh vực R&D. Mặc dù vậy, theo mô hình của
Romer thì R&D là một sản phẩm có đặc thù riêng và chỉ thúc đẩy nền kinh tế có
đặc điểm độc quyền và không đả động gì đến mô hình kinh tế thương mại tự do
mà thế giới gần đây vẫn theo đuổi. Tuy nhiên, rõ ràng, trong điều kiện cạnh tranh
hoàn hảo, các công ty có thể sử dụng các kết quả R&D miễn phí, dẫn đến việc
giảm thiểu sự hào hứng của các nhà khoa học trong việc tham gia vào việc nghiên
cứu. Mặc dù vậy, quan điểm về việc R&D là một trong những nhân tố chính thúc
đẩy nền kinh tế theo mô hình của Romer vẫn được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa
học khác sau đó.
Phạm Xuân Đà (2017) trong một nghiên cứu về chính sách phát triển
nguồn nhân lực KHCN đã giới thiệu kinh nghiệm của một số quốc gia phát
triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Tấn Kiệt (2013) cũng nhận ra
tầm quan trọng của phát triển nhân lựa KHCN trong các hoạt động R&D
thông qua nghiên cứu về kinh nghiệm quản lý KHCN thông qua các quỹ tại
18
Hoa Kỳ. Cùng với nhận định tính hiệu quả của một số chính sách phát triển
nhân lực KHCN của Tấn Kiệt, nghiên cứu của Thanh Nhàn (2014) cho thấy
chính sách này cũng được áp dụng ở một số nước Nam mỹ như Brazil,
Argentina, Venezuela. Nhìn chung, các quốc gia đều hướng tới phát triển
nhân lực KHCN thông qua sử dụng các chính sách đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao; hạn chế chảy máu chất xám; cho phép các nhà khoa học phát
huy tính chủ động, sáng tạo; tăng tính tự chủ về tài chính và tăng cường hợp
tác của các tổ chức KHCN với DN.
Về chính sách phát triển nhân lực KHCN của Việt Nam, theo Trần Đắc
Hiến (2016), nhân lực nói chung, nhân lực KHCN nói riêng luôn được Đảng,
Nhà nước quan tâm cả về chất và lượng. Nhìn tổng thể, số lượng nhân lực
KHCN của nước ta không phải ít so với quy mô dân số cũng như so với các
nước trong khu vực, thậm chí số người có trình độ sau đại học khá lớn, nhưng
chất lượng còn nhiều bất cập. Thực trạng nêu trên có cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân là thiếu chính sách cần thiết để
đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và khai thác hiệu quả năng lực của đội ngũ nhân
lực KHCN. Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN, đáp
ứng sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện hiện nay, cần
thiết phải có chính sách phù hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
KHCN một cách bài bản.
Đỗ Phú Hải (2014) đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa
học ở Việt Nam hiện còn bất cập từ khâu tuyển dụng, đào tạo, cho tới sử
dụng, đãi ngộ. Điều đó cản trở phát triển những nhà khoa học đầu ngành,
những tập thể khoa học mạnh, ngăn cản việc đạt được mục tiêu đưa Việt Nam
thành nước có nền KHCN đạt trình độ phát triển của nhóm nước dẫn đầu
ASEAN. Nhân lực KHCN ngày nay đã trở thành nhân tố quyết định tới việc
thực hiện thành công các mục tiêu KT-XH cả trung và dài hạn. Trên bình diện
quốc gia, việc thiếu đội ngũ cán bộ KHCN giỏi còn trở thành lực cản đối với
tiến trình đi tới những mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
19
Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đối mới sáng tạo
Kamien (1992) cho rằng bên cạnh khả năng tiếp cận với nguồn tri thức,
các DN cũng được hưởng lợi thông qua các hoạt động nghiên cứu chung với
các trường đại học. Sự bù đắp lẫn nhau về năng lực nghiên cứu giúp DN vượt
qua rào cản về chi phí và thời gian trong việc phát triển công nghệ và sản
phẩm mới, trong khi các trường đại học có thể được hưởng lợi từ hoạt động
thương mại hoá công nghệ [130].
Do đó các quốc gia muốn phát triển R&D đều hướng tới việc cải thiện
năng lực nghiên cứu của hệ thống các trường đại học, viện nghiên cứu và thúc
đẩy sự liên kết giữa các trung tâm nghiên cứu này với hoạt động R&D của
khu vực DN.
1.3. Khoảng trống nghiên cứu cho luận án
Những nghiên cứu trong và ngoài nước về chính sách thúc đẩy DN đầu
tư cho KHCN trong Chương này mang lại giá trị tham khảo tốt cho luận án,
đặc biệt trong việc định hình nhóm chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
KHCN mà Việt Nam có thể áp dụng vào công tác xây dựng và triển khai.
Những nghiên cứu lý luận về các vấn đề cơ bản trong KHCN, R&D, ĐMST
cũng là nguồn căn cứ tốt khi luận án định hướng tiếp cận theo chuỗi cung ứng
các sản phẩm KHCN.
Tuy nhiên, thực trạng đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ của các quốc gia trên thế giới cho thấy không có mô hình chung cho tất cả
các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia chưa có nền tảng phát triển KHCN. Các
nghiên cứu chính sách của Việt Nam chỉ phân tích trên một số phương diện,
chưa tìm được các quốc gia tương đồng và chưa đánh giá được sự phù hợp của
chính sách nếu áp dụng vào thực tế nước ta. Đây là vấn đề mà các nhà kinh tế
của Việt Nam đã và đang bàn luận khá sâu và chưa có giải pháp tối ưu, đặc biệt
là chính sách thúc đẩy đầu tư từ khu vực DN.
Quan điểm tiếp cận nghiên cứu của luận án là phân tích, tổng hợp về các
chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN từ các quốc gia, đặc biệt là của
Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel. Nghiên cứu và khảo sát thực nghiệm về các
20
chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN hiện có của Việt Nam. Từ đó, đề
xuất một số bài học kinh nghiệm phù hợp theo từng nhóm chính sách.
21
Tiểu kết chƣơng 1
Tổng quan một số nghiên cứu về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở một số nước trên
thế giới như: Mỹ, Nam Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel,... cũng
như của Việt Nam. Các nghiên cứu cho thấy những góc nhìn khác nhau về
các chính sách có ảnh hưởng tới việc đầu tư vào KHCN của khu vực DN. Dư
địa của nghiên cứu được xác định là quan điểm tổng hợp về các chính sách
thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN chứ không chỉ tập trung vào một hay một vài
chính sách cụ thể. Luận án nghiên cứu các chính sách theo mô hình chuỗi
cung ứng sản phẩm KHCN bắt đầu từ ý tưởng ĐMST, trải qua các giai đoạn
khác nhau cho tới đầu ra cuối cùng là sản phẩm được thương mại hóa trên thị
trường; Các chính sách này được chia thành các nhóm. Việc đánh giá hiệu
quả công tác xây dựng và triển khai các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
KHCN dựa trên hai góc độ là từ phía người làm chính sách và từ phía DN. Từ
đó, luận án sẽ tập trung vào những chính sách còn thiếu hoặc yếu ở từng giai
đoạn, kết hợp với những học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia được nghiên
cứu để đưa ra những đề xuất chính sách phù hợp với điều kiện và thực tiễn
của Việt Nam.
22
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
2.1. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với tăng trƣởng kinh tế
Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành để tính toán tác động
của hoạt động KHCN đối với tăng trưởng ở cả 3 cấp độ: doanh nghiệp, ngành
công nghiệp và quốc gia/vùng.
Ở cấp độ DN, tỉ suất hoàn vốn có thể được đo lường thông qua tác động
của khoản đầu tư cho hoạt động R&D đối với sự tăng trưởng năng suất của
chính công ty đó. Theo tính toán của Griliches (1992), bằng việc sử dụng các
số liệu ở cấp độ DN của Mỹ, độ co giãn của đầu ra, được định nghĩa bằng
phần trăm thay đổi của đầu ra chia cho phần trăm thay đổi của đầu vào, ước
tính là khoảng 0,07. Điều đó có nghĩa với mỗi 10% tăng thêm của chi phí cho
hoạt động R&D, sản lượng đầu ra sẽ tăng thêm 0.7%. Nói cách khác, tỉ suất
hoàn vốn đối với hoạt động R&D của DN là khoảng 27% [101].
Các nghiên cứu khác ở cấp độ DN từ Canada, Đài Loan, Ý cũng được
thực hiện tương tự. Trong khi đó, Hall và cộng sự (2010) tổng hợp từ các
nghiên cứu trước đó, ước tính độ co giãn đầu ra đối với hoạt động R&D ở cấp
độ DN dao động từ 0,01 đến 0,25, nhưng tập trung quanh khoảng 0,08. Độ co
giãn này tương đương với tỉ suất hoàn vốn thông thường trong khoảng 20-30%,
trong đó một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 75% [106]. Tính toán này
khá sát với ước lượng từ nghiên cứu của Griliches nói trên.
Ở cấp độ ngành công nghiệp và quốc gia, tỉ suất hoàn vốn xã hội (social
rate of return) thường được ước tính thông qua đo lường tác động của hoạt
động R&D của một DN đối với các DN khác. Các DN khác này có thể không
hoạt động cùng ngành hoặc địa bàn với DN có hoạt động R&D. Tổng kết các
nghiên cứu về vấn đề này, Griliches (1992) đã phát biểu rằng các nghiên cứu
đều có chung một luận điểm: hiệu ứng lan toả tri thức có tồn tại, mức độ của
nó khá lớn, và tỉ suất hoàn vốn xã hội cao hơn đáng kể so với tỉ lệ của đối với
23
từng DN. Khi một ý tưởng khoa học được sáng tạo ra, nó rất dễ được bắt
chước bởi các DN khác, mặc dù việc bảo hộ sáng chế và độ trễ trong phổ biến
tri thức mới cho phép người phát minh hưởng lợi từ sáng tạo của mình. Việc
sao chép ý tưởng cũng tốn kém do mất nhiều thời gian và công sức để giải
mã. Điều đó cho thấy hoạt động R&D không chỉ đóng vai trò thúc đẩy sáng
tạo công nghệ mới mà còn rất quan trọng trong việc triển khai các công nghệ
hiện có [101].
Griffith, Redding và Van Reenen (2000) cung cấp một khuôn khổ thực
nghiệm trong đó tỉ suất hoàn vốn đối với hoạt động R&D được cấu thành từ
tác động lên năng suất thông qua sáng tạo và tác động thông qua nâng cao
năng lực bắt chước công nghệ. Điều đáng lưu ý là yếu tố thứ 2 đặc biệt quan
trọng đối với các DN, các ngành công nghiệp và các quốc gia đi sau trong
cuộc đua công nghệ. Các quốc gia càng ở phía sau đường biên tiên phong về
công nghệ càng có cơ hội lớn trong việc tăng chỉ số năng suất các yếu tố tổng
hợp (Total Factor Productivity - TFP) thông qua chuyển giao công nghệ từ
các quốc gia phát triển hơn [99].
Trên thực tế, theo báo cáo của Ulku (2004), thông qua việc sử dụng
một vài kỹ thuật dữ liệu cùng với số liệu về chi tiêu cho hoạt động R&D, tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), đầu tư, dân số, và xuất nhập khẩu tại 20 quốc gia
trong khối OECD và 10 quốc gia khác nằm ngoài khối OECD trong giai đoạn
từ 1981 đến 1997, đã phát hiện thấy sự đổi mới đến từ các hoạt động R&D có
tác động tích cực lên đầu ra của đầu ra ở cả các nước phát triển và đang phát
triển. Cụ thể hơn, theo Hulya Ulku, cứ 1% tăng lên trong chỉ số sáng tạo có
thể dẫn đến mức tăng trưởng khoảng 0,05% ở cả các nước OECD và các nước
không thuộc OECD trong khi cứ 1% tăng lên về chi tiêu R&D hàng năm của
Chính phủ sẽ làm tăng chỉ số sáng tạo lên khoảng 0,2% [116]. Hay nói cách
khác, báo cáo này đã chỉ ra rằng những hoạt động KHCN đã gián tiếp tác
động thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua việc kích thích sự đổi mới và
sáng tạo trong nội tại của một quốc gia. Theo quy tắc bắc cầu, kết quả báo cáo
của Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF) chỉ ra rằng cứ 1% tăng lên về chi tiêu
24
KHCN hàng năm của Chính phủ sẽ mang lại tầm 0,01% GDP. Gần đây hơn,
trong một bài báo đăng trên tạp chí Thủ tục - Khoa học Xã hội và Hành vi số
229 (2016), Rana Deljavan Anvari và Davoud Norouzi đã sử dụng phương
pháp bình phương nhỏ tổng quát để điều tra tác động của R&D và ba biến số
khác về phát triển kinh tế ở 21 quốc gia bao gồm cả những quốc gia phát triển
và đang phát triển tại Châu Âu trong giai đoạn từ 2005 đến 2013. Theo đó,
R&D cùng với thương mại điện tử được xác nhận là có ảnh hưởng tích cực
trực tiếp đến GDP bình quân đầu người trong quãng thời gian này. Kết quả
cho thấy cứ mỗi phần trăm tăng lên trong chi tiêu R&D có thể sẽ mang lại
tăng trưởng 0,0168% của GDP bình quân đầu người [174]. Kết luận này
chênh lệch không quá nhiều với kết luận của báo cáo về mối liên hệ giữa đổi
mới công nghệ được tạo ra trong các lĩnh vực R&D và tăng trưởng kinh tế của
IMF tế năm 2004 đã nói ở trên. Cũng năm 2016, tại một bài báo cáo khác
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 29 do Svetlana Sokolov-Mladenović,
Slobodan Cvetanović, và Igor Mladenović nghiên cứu về ảnh hưởng của chi
tiêu R&D lên tăng trưởng kinh tế trong khối EU28 trong thập niên 2002-2012
cũng đưa ra kết luận tích cực cho mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Theo
Svetlana Sokolov-Mladenović, Slobodan Cvetanović, và Igor Mladenović,
việc tăng chi tiêu cho R&D theo tỷ lệ với GDP lên 1% sẽ làm tăng tốc độ tăng
trưởng GDP thực lên 2,2% [186]. Ngoài hai công trình nghiên cứu này, còn
nhiều bài báo khác cũng ủng hộ tầm quan trọng của hoạt động R&D vào tăng
trưởng kinh tế và các mặt khác của cả nền kinh tế như công trình nghiên cứu
của Sylwester (2001) với 20 quốc gia OECD vào năm 2001. Theo nghiên cứu
này, mặc dù mối liên hệ giữa mức chi tiêu R&D và tốc độ phát triển kinh tế
không đồng bộ xuyên suốt các quốc gia, nếu chỉ tính riêng các quốc gia trong
khối G7 thì kết quả lại hoàn toàn khác. Còn nhiều báo cáo nghiên cứu khác
ủng hộ quan điểm hoạt động R&D thúc đẩy sáng tạo và tăng trưởng kinh tế
như Argentino Pessoa (2010), Kokko, Tingvall và Videnord (2015), Gumus
và Celikay (2015), và Freimane và Balina (2016).
25
2.2. Vai trò của đầu tư từ khu vực doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ
DN đầu tư cho KHCN được hiểu là quá trình DN sử dụng các nguồn
lực về tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để tiến hành
các hoạt động KHCN nhằm tạo ra những sản phẩm mới, công nghệ mới, hay
những quy trình mới góp phần tăng năng suất lao động, mang lại lợi nhuận
cho DN và phát triển kinh tế đất nước.
Đầu tư bài bản cho nghiên cứu các ứng dụng KHCN mới là chiến lược
đã giúp nhiều DN tạo bước đột phá trong ĐMCN, sản phẩm, xây dựng thương
hiệu, quy trình sản xuất, củng cố năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng.
Hầu hết các tiến bộ công nghệ đều đỏi hỏi sự đầu tư có chủ đích, ở một
giai đoạn nào đó, của DN đang tìm kiếm lợi nhuận [103]. Do vậy, các đổi mới
công nghệ trong công nghiệp được hình thành từ đầu tư cho hoạt động KHCN
là động lực chính của tăng trưởng kinh tế và cần sự đầu tư lớn các nguồn lực để
có thể gặt hái được lợi ích từ sự phát triển của các ý tưởng khoa học.
Các nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm đều khẳng định vai trò
quan trọng của hoạt động KHCN đối với sự tăng trưởng kinh tế ở cả ba cấp
độ: doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Thêm nữa, các nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng tỉ suất hoàn vốn tính chung cho xã hội cao hơn đáng kể so với tỉ suất
hoàn vốn của từng DN. Trong khi đó, các DN, với bản chất tìm kiếm lợi
nhuận, quyết định mức đầu tư cho KHCN dựa trên tỉ suất hoàn vốn của hoạt
động này. Vì tỉ suất hoàn vốn này thấp hơn mức chung xã hội được hưởng lợi,
mức độ đầu tư của DN cho KHCN đang thấp hơn nhiều so với mức tối ưu.
Với hiệu quả kinh tế của hoạt động KHCN, đây là khoảng trống (hoặc thất bại
của thị trường) mà các chính phủ cần can thiệp để đạt mức tối ưu, trong đó
cân bằng được lợi ích của DN và xã hội từ hoạt động đầu tư cho KHCN. Nếu
lấy con số khiêm tốn nhất trong các ước tính nêu trên, giả sử tỉ suất hoàn vốn
xã hội đối với hoạt động KHCN là 30% và tỉ suất hoàn vốn riêng của DN là
7-14%. Như vậy, để đạt mức tối ưu, cần tăng mức đầu tư cho KHCN lên hai
26
đến bốn lần so với mức chúng ta đang đầu tư hiện nay để đạt mức tối ưu trong
tăng trưởng.
Chính nhờ vào những nghiên cứu này mà càng ngày các quốc gia phát
triển, đang phát triển và có thu nhập trung bình, hay những quốc gia có thu
nhập thấp đều đang chú tâm vào nghiên cứu và phát triển. Trên thực tế, từ
năm 2000 đến năm 2013, chi tiêu R&D tính theo phần trăm GDP, số lượng nhà
nghiên cứu, bằng sáng chế, cũng như tài liệu khoa học công bố tại tất cả các
nước đều đang theo xu hướng tăng lên [117]. Đạt được điều này không thể
không kể đến sự tập trung vào chính sách thúc đẩy R&D của chính phủ trên
toàn cầu.
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến đầu tƣ cho hoạt động khoa học và công
nghệ của doanh nghiệp
Theo Becker (2013), có 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức đầu tư cho
R&D của DN. Các yếu tố sẽ được phân tích cụ thể sau đây.
2.3.1. Đặc tính của mỗi doanh nghiệp và ngành công nghiệp
Nhà kinh tế chính trị kinh điển Schumpeter từ rất sớm đã đưa ra cái
nhìn về sự ảnh hưởng của tình hình tài chính nội bộ (được thể hiện chủ yếu
qua dòng tiền và doanh thu đến đầu tư cho R&D). Nhận định này được ủng
hộ bởi nhiều nghiên cứu thực nghiệm, mặc dù mức độ ảnh hưởng còn phụ
thuộc vào quy mô, tuổi của DN và từng quốc gia. Theo đó, các DN nhỏ và
non trẻ sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tình hình tài chính nội bộ khi quyết
định đầu tư cho R&D ([59], [105], [63]). Điều này khá dễ hiểu vì các DN nhỏ
và còn non trẻ thường khó tiếp cận với các nguồn tài chính bên ngoài, do vậy
phải phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn tài chính nội bộ khi quyết định tài trợ
cho hoạt động R&D. Độ “nhạy cảm” với “sức khoẻ tài chính” của DN còn
khác nhau giữa các quốc gia. Nghiên cứu của Hillier, Pindado, De Queiroz và
De La Torre (2011) với mẫu gồm chín quốc gia Châu Âu, Nhật Bản và Hoa
Kỳ cho thấy hoạt động R&D của DN ít nhạy cảm với dòng tiền hơn ở các
quốc gia có năng lực quản trị DN tốt hơn, đặc biệt trong việc bảo vệ lợi ích
của các nhà đầu tư.
27
2.3.2. Tính cạnh tranh
Các lý thuyết kinh tế cho rằng sự cạnh tranh về thị phần có thể có hai
ảnh hưởng khác biệt lên hoạt động R&D của DN. Lập luận thứ nhất, chủ yếu
được ủng hộ bởi những nhà kinh tế theo mô hình tăng trưởng Schumpeter, cho
rằng đối với các DN đã có vị trí ổn định trên thị trường, đặc biệt những DN
đang nắm giữ thị phần lớn, sự cạnh tranh hoặc tỉ lệ bị bắt chước cao sẽ làm
giảm động lực để đầu tư cho hoạt động R&D vì chúng làm giảm “phần
thưởng” dành cho những sáng tạo mới của DN ([170], [102], [50], [65]).
Ngược lại với lập luận này là quan điểm cho rằng hoạt động R&D có
thể được sử dụng bởi các DN như là yếu tố chiến lược trong cuộc chiến dành
thị phần. Nghiên cứu của Spencer và Brander (1983) cho thấy các DN trong
nước có xu hướng đầu tư mạnh mẽ hơn cho R&D khi phải đối mặt với cạnh
tranh từ các DN đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Clemenz (1990) cho rằng
đầu tư cho R&D không phải là một chiến lược hiệu quả trong các ngành công
nghiệp có tính cạnh tranh thấp vì “phần thưởng” thiếu rõ ràng.
Các quan điểm lý thuyết trái ngược nhau đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu
thực nghiệm về vấn đề này. Một nghiên cứu năm 2005 được thực hiện bởi
Aghion, Bloom, Blundell, Griffith và Howitt đã xem xét và phân tích cả hai
giả thuyết, sử dụng số liệu từ các ngành công nghiệp sản xuất của Anh. Kết
quả là mối liên hệ giữa mức độ cạnh tranh và chỉ số ĐMST được biểu diễn
như một hình chữ U ngược. Khi thị trường còn chưa cạnh tranh cao độ, các
DN nào vượt lên trước các đối thủ cạnh tranh trước sẽ có lợi thế rất lớn trong
việc nắm giữ thị phần. Do đó, các DN có nhiều động lực để đầu tư hơn cho
R&D trong giai đoạn này. Ngược lại, trong một thị trường có tính cạnh tranh
cao, tạo ra một sự độc quyền về công nghệ và sản phẩm sẽ khó hơn rất nhiều.
Lợi thế biên cho hoạt động R&D giảm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ đầu
tư cho hoạt động R&D [51].
2.3.3. Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ
Chính sách KHCN hiện nay cũng được gọi là chính sách KHCN sáng
tạo (KHCNST) [75]. Người ta thường sử dụng thuật ngữ chính sách
28
KHCNST như một loại chính sách, nhưng cũng có thể coi đó là ba loại “ý
tưởng” khác nhau về chính sách - chính sách khoa học, chính sách công nghệ
và chính sách đổi mới [143]. Mỗi loại có đặc điểm riêng biệt:
Chính sách khoa học tập trung vào việc thúc đẩy sản xuất tri thức khoa
học liên quan đến việc phân bổ nguồn lực giữa các hoạt động khoa học khác
nhau. Chính sách khoa học phục vụ các mục tiêu khác nhau từ sự tò mò thuần
túy về hiểu thế giới đến các mục tiêu quân sự cụ thể như bom nguyên tử
[122]. Chính sách khoa học đôi khi dựa trên một mô hình tuyến tính trong đó
những nỗ lực nghiên cứu sẽ tự động chuyển ít nhiều thành kết quả KT-XH.
Chính sách công nghệ là tập trung vào việc thúc đẩy sự phát triển và sử
dụng các công nghệ cụ thể, nó được coi là có tầm quan trọng chiến lược đối với
đất nước. Chính sách công nghệ dựa trên giả định rằng có những công nghệ chiến
lược cụ thể có tác động lớn đến nền kinh tế và các mục tiêu xã hội, nó tập trung
vào sự phát triển và cải tiến của các công nghệ đó hoặc áp dụng rộng rãi hơn.
Chính sách đổi mới là sự kết hợp chính sách KHCN, nhằm can thiệp vào
quá trình đổi mới toàn bộ từ khoa học (thăm dò) đến ứng dụng vào các công
nghệ cụ thể, giới thiệu ra thị trường và phổ biến rộng rãi. Chính sách đổi mới
không chỉ chú ý đến nội dung KHCN mà còn cả khung thể chế và những thay
đổi rộng hơn cần thiết cho những đổi mới được đưa vào thị trường và sử dụng.
Chính sách còn có thể được hiểu là hành động chủ ý từ các Chính phủ
trong nền kinh tế với mục đích đạt được mục tiêu thông qua việc kích thích
những thay đổi trong hành vi của các cá nhân và tổ chức. Khi nói đến các
chính sách KHCNST, mục đích là ảnh hưởng đến tốc độ và hướng của các
quy trình trong KHCNST.
Theo hướng tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN thì những chính
sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCNST ngoài việc chia thành bốn nhóm:
trọng cung, trọng cầu, hỗ trợ, liên kết [184], có thể tham khảo mô hình chính
sách hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST do Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF)
giới thiệu trong Chương trình đào tạo về Hệ sinh thái khởi nghiệp năm 2019.
29
Hình 2.1. Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Nguồn: NATIF (2019)
Từ hình 2.1 cho thấy, căn cứ vào quy trình phát triển công nghệ có thể
chia thành bốn giai đoạn cơ bản:
Giai đoạn 1. Nghiên cứu, gồm 2 quy trình chính là: nghiên cứu cơ bản;
nghiên cứu ứng dụng.
Giai đoạn 2. Thực nghiệm, gồm 3 quy trình chính là: phát triển công
nghệ; triển khai thực nghiệm; sản xuất thực nghiệm.
Giai đoạn 3. Chuyển giao, gồm 3 quy trình chính là: chuyển giao công
nghệ; phát triển sản phẩm mới; tiếp thị sản phẩm.
Giai đoạn 4. Tăng trưởng, gồm 2 quy trình chính là: tăng trưởng bền
vững; hoàn thiện, cải tiến sản phẩm.
30
Bảng 2.1. Chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho khoa học và công nghệ theo
hƣớng tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm khoa học và công nghệ.
Nghiên cứu
Thực nghiệm
Chuyển giao
Tăng trưởng
Quy
B1.
B2.
B3.
B4.
B5.
B6.
B7.
B8.
B9.
B10.
trình
Nghiê
Nghiê
Phát
Triển
Sản
Chuyển
Phát
Tiếp
Tăng
Hoàn
phát
n cứu
n cứu
triển
khai
xuất
giao
triển
thị sản
trưởn
thiện,
triển
cơ bản
ứng
công
thực
thực
công
sản
phẩm
g bền
cải tiến
công
dụng
nghệ
nghiệ
nghiệ
nghệ
phẩm
vững
sản
nghệ
m
m
mới
phẩm
Chứng
Phát
Sản
Chuẩn
Phát
Thươn
Cải tiến công
Quy
minh ý
triển
phẩm
hóa
triển
g mại
nghệ, duy trì
trình
tưởng,
sản
ra thị
công
sản
hóa
sản phẩm mới
phát
mô
phẩm
trường
nghệ
phẩm
sản
triển
hình
mẫu
phẩm
sản
phẩm
Chính sách trọng cung
Chính sách trọng cầu
Chính
sách
Chính sách về các yếu tố phụ trợ
thúc
Chính sách liên kết
đẩy
Nguồn: Steinmueller (2010), NATIF (2019) và tác giả tổng hợp (2019)
Trong bốn giai đoạn này, nguồn vốn nhà nước được đầu tư vào ba giai
đoạn 1, 2 và 3 (hình 2.1). Giai đoạn bốn là sau khi sản phẩm được thương mại
hóa, sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng và hoàn thiện. Xét về tính chất, giai
đoạn 1, 2 thể hiện bản chất của những chính sách trọng cung, còn giai đoạn 3
thể hiện bản chất của những chính sách trọng cầu. Ngoài ra các chính sách về
các yếu tố phụ trợ (nhân lực KHCN chất lượng cao, hạ tầng KHCN); Các
chính sách liên kết giữa các bên sẽ xuyên suốt trong các quy trình từ đầu tiên
tới cuối cùng của chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN. Có thể tích hợp những
quy trình, chính sách này ở bảng 2.1.
31
2.3.4. Vị trí và cơ hội tiếp cận nguồn tri thức
Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động R&D của DN là
khoảng cách địa lý giữa nó với các nguồn của tri thức. Nhà kinh tế học đạt
giải Nobel Paul Krugman là người đã đặt nền móng cho lý thuyết về vai trò
của địa lý đối với ĐMST vào năm 1991 khi cho rằng các quốc gia có thể phát
triển nội sinh thành các vùng lõi công nghiệp và các vùng ngoại biên nông
nghiệp.
Vai trò của vị trí địa lý càng quan trọng hơn đối với các DN trong lĩnh
vực công nghệ cao. Do vậy các DN thường có xu hướng tìm kiếm trụ sở gần
các cơ sở nghiên cứu lớn [86]. Điều này giải thích cho tầm quan trọng của Đại
học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đối với sự hình thành của
Đại lộ 128 hay của Đại học Stanford với sự hình thành của Thung lũng
Silicon. Liên quan đến yếu tố này, Nelson (1986) cho rằng các trường đại học
hiếm khi tự nó tạo ra công nghệ mới, mà có tác động nhiều hơn trong việc hỗ
trợ hoạt động R&D của DN trở nên hiệu quả hơn. Một nghiên cứu nổi tiếng
khác của Jaffe (1989) cung cấp các bằng chứng cho thấy ảnh hưởng tích cực
của các trường đại học đến chi tiêu R&D của DN tại các bang của Hoa Kỳ,
bang nào có khả năng cải thiện hệ thống nghiên cứu trong các trường đại học
đều nâng cao đáng kể trình độ sáng tạo của mình thông qua việc thu hút hoạt
động R&D của DN [123].
Bên cạnh khả năng tiếp cận với nguồn tri thức, các DN cũng được
hưởng lợi thông qua các hoạt đông nghiên cứu chung với các trường đại học
[130]. Sự bù đắp lẫn nhau về năng lực nghiên cứu giúp DN vượt qua rào cản
về chi phí và thời gian trong việc phát triển công nghệ và sản phẩm mới, trong
khi các trường đại học có thể được hưởng lợi từ hoạt động thương mại hoá
công nghệ [130].
2.3.5. Lan toả tri thức từ hoạt động nghiên cứu và phát triển nước ngoài
Lý thuyết chiết trung về các DN đa quốc gia cho rằng các DN FDI
thường có trình độ công nghệ tiên tiến hơn các DN trong nước và có thể
chuyển giao công nghệ cho các DN ở nước sở tại ([89], [90], [67]). Cơ sở của
32
lập luận này là chi nhánh ở nước ngoài của các tập đoàn đa quốc gia có thể
nhận chuyển giao công nghệ, tri thức từ công ty mẹ, sau đó chuyển giao cho
các DN bản địa thông qua các hoạt động trực tiếp như các hợp đồng nghiên
cứu, hợp đồng cấp quyền hoặc một cách gián tiếp qua hiệu ứng lan tỏa tri thức.
Tuy vậy, các nghiên cứu thực nghiệm, dù không nhiều, đều cho thấy
không có tác động rõ ràng của mức đầu tư cho R&D của các DN FDI lên đầu tư
R&D của các DN trong nước ([193], [88], [87]). Điều này được các tác giả lý
giải là do các DN trong nước có thể được hưởng lợi nhiều hơn từ hiệu ứng lan
toả tri thức tạo ra bởi các DN nước ngoài hơn là tự thực hiện hoạt động R&D.
Đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, nghiên cứu của Driffield,
Love và Menghinello (2010) với các DN Italia thậm chí còn chỉ ra rằng
những DN đầu tư nước ngoài có lợi nhuận cao nhất là những DN biết cách
bảo vệ tốt nhất sự “rò rỉ” tri thức từ công ty mẹ sang các công ty trong nước
[88]. Như vậy, kỳ vọng các hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ diễn ra cùng
với nguồn đầu tư nước ngoài là không có cơ sở. Đối với các thị trường có trình
độ công nghệ cao như Hoa Kỳ, nơi có nguồn tri thức dồi dào từ các công ty bản
địa, nhiều DN nước ngoài thậm chí còn đặt chi nhánh tại đây để “hút” tri thức
công nghệ về cho tập đoàn mẹ ([100], [61]).
Để mô hình hoá ảnh hưởng của các nhân tố đã nêu ở trên lên quyết định
đầu tư cho R&D, David, Hall và Toole (2000) đã đề xuất một giản đồ tuy đơn
giản mà rất hữu ích. Nếu mặc định rằng trong 1 giai đoạn nhất định, mỗi công
ty có 1 tập hợp các dự án khả thi, thì hàm MRR, là 1 đường dốc xuống, sẽ
tượng trưng cho tỉ lệ lợi nhuận biên từ vốn đầu tư vào R&D của tất cả các dự
án khả thi theo thứ thự từ lớn đến bé. Các tác giả này cũng cho rằng công ty
có thể tự tính tỷ lệ lợi nhuận dự kiến cho từng dự án, và sử dụng các tỷ lệ này
để xếp hạng các dự án theo thứ tự giảm dần. Vì vậy, khi đầu tư vào R&D tăng
lên, công ty sẽ lần lượt bắt đầu thực hiện các dự án với tỷ lệ lợi nhuận dự kiến
thấp hơn [82] (Hình 2.2).
33
Hình 2.2. Mức cân bằng của đầu tƣ R&D
MRR: tỉ lệ lợi nhuận biên; MCC: chi phí cận biên
Chính sách công có thể góp phần thúc đẩy nỗ lực của các công ty tư
nhân, thông qua tăng tỷ lệ lợi nhuận kì vọng, tức là đường MRR di chuyển
sang bên phải, hoặc thông qua giảm chi phí đầu tư của công ty, tức là đường
MCC dịch chuyển sang bên phải. Mức độ ảnh hưởng của đầu tư công vào chi
tiêu tư nhân cho R&D phụ thuộc vào độ dốc của 2 đường MRR và MCC, vì
thế mức độ linh hoạt của 2 hàm này sẽ quyết định kết quả cuối cùng của chính
sách công nghệ [82].
Đường MRR dự kiến không chỉ phụ thuộc vào khối lượng các nguồn
lực đã đầu tư vào hoạt động R&D, mà còn phụ thuộc vào một chuỗi các biến
số như là cơ hội cải tiến công nghệ đi kèm với các hoạt động của công ty, nhu
cầu dự kiến, và các điều kiện nội bộ để sử dụng các kết quả nghiên cứu. Hàm
chi phí cận biên cũng phụ thuộc vào khối lượng nguồn lực đã sử dụng, và một
vec-tơ các biến khác bao gồm chính sách hỗ trợ chính phủ, mà chính sách này
lại có ảnh hưởng tác động lên chi phí đầu tư của công ty; các điều kiện kinh tế
vĩ mô và tình trạng của thị trường vốn ảnh hưởng đến chi phí thu thập vốn nội
bộ và bên ngoài, cũng như sự sẵn có của nguồn vốn mạo hiểm [82].
34
2.4. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ
Đứng trên quan điểm của DN là tổ chức tìm kiếm lợi nhuận thông qua
việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ của mình, để thúc đẩy các hoạt động đầu
tư cho R&D của các DN, các chính sách cần hướng trực tiếp đến việc hỗ trợ
tài chính cho DN, thúc đẩy đầu tư và thực hiện các hoạt động liên quan đến
R&D mà không sợ rủi ro.
Căn cứ vào những chính sách cụ thể theo khái niệm mà Steinmueller
(2010) đã nêu, NCS xây dựng khung phân tích cho luận án như Bảng 2.3.
- Tài trợ trực tiếp cho nghiên cứu (cơ bản và ứng dụng); Chính sách
- Tài trợ cho phát triển (công nghệ, sản phẩm mẫu) thông trọng cung
qua các ưu đãi thuế.
- Tài trợ cho sản phẩm ra thị trường (tìm hiểu thị trường, Chính sách
sản xuất thực nghiệm, ra mắt sẳn phẩm); trọng cầu
- Tài trợ cho chuyển giao công nghệ;
- Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao; Chính sách
- Phát triển hạ tầng cho KHCN. về các yếu tố
phụ trợ
- Liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia Chính sách
liên kết
Bảng 2.3. Khung phân tích chính sách cho luận án.
Nguồn: Steinmueller (2010) và tác giả (2019)
Từng nhóm chính sách cụ thể trong khung được trình bày sau đây.
2.4.1. Chính sách trọng cung
Các chính sách trọng cung tập trung vào các chính sách hỗ trợ tài chính
hoặc cấp kinh phí trực tiếp cho DN để thực hiện các hoạt động R&D, và nhờ
đó, đường MCC dịch chuyển về phía bên phải, tức là chi phí đầu tư của DN
sẽ được giảm xuống. Nội hàm của chính sách trọng cung là tạo ra sự khuyến
khích các DN mở rộng sản xuất thông qua miễn giảm thuế, tăng cường đầu tư
35
cho nghiên cứu và phát triển để nâng cao năng lực sản xuất, giảm chi phí và
giá cả hàng hóa.
( 1) Tài trợ cho nghiên cứu
Các nghiên cứu đều cho thấy tài trợ trực tiếp đặc biệt hữu ích với các
DN nhỏ - những tổ chức vốn phải phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn lực tài
chính bên ngoài. Gonzalez, Jaumandreu và Pazo (2005) đã tìm hiểu cách thức
ra quyết định đầu tư cho R&D của các DN khi được hỗ trợ một phần kinh phí
từ chính phủ. Trong một nghiên cứu khác Gonzalez và Pazo (2008) cũng nhận
thấy, tương tự như với các DN nhỏ, nguồn tài trợ cho hoạt động R&D thường
hiệu quả hơn đối với các DN trong các lĩnh vực công nghệ thấp, điều mà theo
các tác giả có thể do hiệu ứng kích thích. Nghiên cứu của Becker và Hall
(2013) cũng có các kết quả tương tự.
Một số công trình nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa quy mô
khoản tài trợ và hoạt động R&D của DN được biểu diễn dưới dạng hình chữ
U ngược. Guellec và Van Pottelsberghe de la Potterie (2003) cho rằng khoản
tài trợ sẽ có tác dụng kích thích lớn nhất nếu chiếm từ 4-11% tổng kinh phí
cho dự án được tài trợ. Các mức tài trợ trên 20% không những không kích
thích DN đầu tư thêm cho R&D mà còn có tác động ngược do các DN sẽ sử
dụng nguồn tài trợ thay thế cho vốn tự có để thực hiện hoạt động R&D [104].
Kết luận này được củng cố thêm bởi nghiên cứu của Gorg và Strobl (2007).
Từ quan điểm chính sách, hiệu ứng bất tuyến tính nói trên cho thấy với bất kỳ
nguồn ngân sách nào, tài trợ ở mức độ vừa phải cho một số lượng lớn dự án
sẽ tốt hơn cung cấp một lượng lớn tài chính cho một nhóm nhỏ DN.
(2) Tài trợ cho phát triển (ưu đãi thuế)
Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng chính sách cho phát triển, mà cụ thể là
ưu đãi thuế có tác động tích cực đến mức chi tiêu cho R&D của DN [60]. Mặc
dù vậy, độ đàn hồi của ưu đãi thuế đối với đầu tư cho R&D không hoàn toàn
giống nhau giữa các nghiên cứu mà phụ thuộc vào số liệu đầu vào, phương pháp
và mô hình tính toán [56].
36
Một kết luận đáng chú ý là các chính sách ưu đãi thuế có tác dụng
mạnh trong việc thúc đẩy chi tiêu R&D trong ngắn hạn, trong khi đó các
khoản tài trợ tài chính trực tiếp phát huy hiệu quả trong trung và dài hạn [82].
Điều này được lý giải bởi bản chất khác biệt của hai hình thức hỗ trợ. Ưu đãi
thuế không giới hạn nội dung dự án, vì vậy các DN có xu hướng triển khai
những dự án R&D mang lại lợi ích lớn hơn trong ngắn hạn. Trong khi đó, tài trợ
tài chính chỉ được trao cho những dự án do chính phủ chọn, thường là những dự
án có tầm nhìn dài hạn và mở ra các cơ hội mới trong tương lai, qua đó thúc đẩy
DN dùng nguồn vốn tự có để triển khai các giai đoạn sau của dự án.
Kết luận này, một mặt ủng hộ các cơ chế hỗ trợ tài chính trực tiếp của
Chính phủ. Mặt khác khuyến nghị rằng các nguồn lực tài chính hữu hạn nên
ưu tiên dành cho các DN nhỏ, vì rõ ràng các DN lớn có thể tự triển khai hoạt
động R&D mà không cần đến nguồn hỗ trợ bên ngoài. Cũng có các bằng
chứng cho thấy cả hai công cụ chính sách sẽ phát huy hiệu quả tốt hơn nếu
được phối hợp cùng nhau trong triển khai. Điều đáng lưu ý là hỗ trợ tài chính
trực tiếp từ chính phủ không phải là một hàm tuyến tính với mức độ đầu tư
cho R&D của DN, mà giống một hình chữ U ngược. Điều này có nghĩa là
mức độ hỗ trợ quá ít hoặc quá nhiều đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư
nhân cho R&D. Mặc dù vậy, cho đến nay có rất ít nghiên cứu chỉ rõ được
mức độ ảnh hưởng tương đối của hai công cụ này cũng như mức độ tối ưu của
mỗi công cụ trong việc thúc đẩy DN đầu tư cho R&D.
2.4.2. Chính sách trọng cầu
Chính sách trọng cầu, theo Steinmueller (2010) tập trung vào việc gia
tăng lợi nhuận thu được từ các sản phẩm và công nghệ mới bằng cách giảm
giá thành của các sản phẩm, nhờ đó làm tăng số lượng sản phẩm được bán ra.
Do vậy, chính sách này thường khuyến khích ở cuối giai đoạn sản xuất thực
nghiệm để chuẩn bị sản phẩm ra mắt thị trường cho tới tiếp thị, thương mại
hóa sản phẩm. Theo cách tiếp cận chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN, thì
những chính sách trọng cầu được chia thành ba loại chính là:
37
Chính sách tài trợ cho sản phẩm ra thị trường (tìm hiểu thị trường, sản
xuất thực nghiệm, ra mắt sản phẩm);
Chính sách tài trợ cho chuyển giao công nghệ;
Chính sách tài trợ cho thương mại hóa sản phẩm (phát triển sản phẩm
mới, tiếp thị sản phẩm).
2.4.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ
Các chính sách về các yếu tố phụ trợ bao gồm những chính sách nhằm
gia tăng lượng cán bộ có trình độ cao, cũng như cải thiện hạ tầng KHCN, bao
gồm tăng cường năng lực về công nghệ thông tin (CNTT), nhờ đó làm giảm
chi phí R&D cho DN.
(1) Chính sách về nhân lực cho khoa học và công nghệ
Theo cuốn Cẩm nang FRASCATI-Hướng dẫn thống kê R&D của Tổ
chức Hợp tác và phát triển kinh tế, nhân lực R&D bao gồm những người trực
tiếp tham gia vào hoạt động R&D hoặc trực tiếp hỗ trợ hoạt động R&D [165].
Nhân lực R&D được chia thành ba nhóm:
Nhóm 1: Nhà nghiên cứu khoa học (nhà nghiên cứu/nhà khoa học/kỹ
sư nghiên cứu) là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp có trình độ từ cao
đẳng trở lên hoặc không có văn bằng chính thức, song họ vẫn thường xuyên
làm các công việc tương đương như nhà nghiên cứu/nhà khoa học, tham gia
vào quá trình tạo ra tri thức, sản phẩm và quy trình mới, tạo ra phương pháp
và hệ thống mới.
Nhóm 2: Nhân viên kỹ thuật và tương đương bao gồm những người thực
hiện các công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ thuật trong những
lĩnh vực của KHCN. Họ tham gia vào R&D bằng việc thực hiện những nhiệm
vụ khoa học và kỹ thuật có áp dụng những khái niệm và phương pháp vận hành
dưới sự giám sát của các nhà nghiên cứu khoa học nhóm 1.
Nhóm 3: Nhân viên phụ trợ trực tiếp R&D gồm nhân viên hành chính
văn phòng tham gia vào các dự án R&D; những người làm việc liên quan đến
nhân sự, tài chính và hành chính trực tiếp phục vụ công việc R&D của các tổ
38
chức R&D. Quan hệ giữa nhân lực KHCN và nhân lực R&D là quan hệ bao
hàm: nhân lực R&D là một bộ phận của nhân lực KHCN
Nhật Bản đã trở thành nước thu hút nhân lực KHCN từ khắp nơi trên thế
giới nhờ các chính sách như thuê chuyên gia tư vấn nước ngoài, đào tạo kỹ sư
Nhật Bản ở ngoại quốc [22]. Chính phủ Nhật Bản cũng khuyến khích thay thế
nhập khẩu nhân lực chất lượng cao bằng kỹ sư nội địa thông qua việc cử sinh
viên đi nước ngoài học tập, đồng thời tăng cường đào tạo kỹ sư bậc trung trong
nước. Tại Hàn Quốc, đội ngũ cán bộ trí thức được hình thành từ ba nguồn chủ
yếu: Nhà nước; trường, viện, trung tâm nghiên cứu; và các tập đoàn kinh tế. Sự
ra đời của Viện KHCN Hàn Quốc (KIST) với các chính sách mạnh bạo đã thu
hút nhân tài từ khắp thế giới và Hàn Quốc trở thành quốc gia CNH thành công
nhất. Nước này có nhiều chính sách khuyến khích các trường đại học tăng
cường R&D, tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế đi sâu nghiên cứu và ứng
dụng các thành tựu KHCN vào phát triển kinh tế, đáp ứng trực tiếp các nhu cầu
của thị trường. Còn Trung Quốc đang cải cách thể chế hóa khoa học và xây
dựng hệ thống nhà nước sáng tạo, bao gồm việc hoàn thiện cơ chế phát triển
nhân tài, khuyến khích nhà khoa học tích cực sáng tạo, thu hút các nhà khoa
học Hoa kiều về nước làm việc với mức lương cao, ... Nhờ đó, đến 2012, tỷ lệ
người làm R&D ở quốc gia này đã đạt mức 43/10.000 dân [22].
Hoa Kỳ không tổ chức theo cấp hành chính mà được tổ chức thành các
cơ quan nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu và công ty. Nhà
nước đóng vai trò tư vấn hỗ trợ, không trực tiếp quản lý hoạt động KHCN.
Hoạt động KHCN và đào tạo nguồn nhân lực luôn gắn liền với nhau. Các cơ
quan nghiên cứu KHCN không những cho phép các nhà khoa học phát huy
tính chủ động, sáng tạo trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh, mà còn gắn quyền lợi và trách nhiệm với nhà khoa học và tập thể
nghiên cứu do nhà khoa học đứng đầu. Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ cho thấy đối
tượng thụ hưởng hỗ trợ thông qua quỹ phải là các DN hoặc các viện, tổ chức
nghiên cứu hoạt động theo hình thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
Ngoài ra, trong hoạt động KHCN, Hoa Kỳ cũng hỗ trợ những cách thức phổ
39
biến để du nhập tri thức KHCN từ bên ngoài vào như: Các hoạt động mậu
dịch quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, cấp giấy phép công nghệ, di cư nhân
lực KHCN [29].
Chính sách này cũng được áp dụng ở một số nước Nam mỹ như Brazil,
Argentina, Venezuela [35]. Argentina tăng cường các mạng lưới liên kết và
mở rộng sự hợp tác công - tư. Một trong những hình thức mạng lưới liên kết
là hợp tác với các viện nghiên cứu lớn trên thế giới. Brazil xóa bỏ tình trạng
quan liêu và chú trọng vào chất lượng nghiên cứu khoa học. Brazil đã giải
quyết vấn đề này bằng cách thay đổi cơ chế chính sách ở tầm quốc gia nhằm
tạo điều kiện cho các nhà khoa học tập trung vào việc phát huy khả năng của
họ hơn là mất thời gian vào những thủ tục hành chính; tập trung nguồn lực
bền vững vào giáo dục và khoa học. Peru đặt mục tiêu nhanh chóng tăng
cường năng lực nghiên cứu. Sau nhiều năm không được quan tâm, Hội đồng
Khoa học, công nghệ và đổi mới công nghệ Quốc gia (CONCYTEC) của Peru
bất ngờ được tăng ngân sách lên 20 lần chỉ trong vòng 18 tháng, đạt gần 110
triệu đô la và sẽ còn tiếp tục phát triển với tốc độ tương tự. Venezuela tôn
trọng khoa học và nhà khoa học. Điều cấp bách mà Venezuela làm là khôi
phục tinh thần tôn trọng khoa học và cấp kinh phí vào hướng nghiên cứu cơ
bản để ngăn chặn nạn chảy máu chất xám, tiến tới đảo ngược xu hướng này.
(2) Chính sách về hạ tầng khoa học và công nghệ
Chính sách về hạ tầng KHCN nhằm giúp thiết lập nền tảng và xây dựng
môi trường hỗ trợ phát triển hoạt động R&D. Hạ tầng KHCN bao gồm các
sàn giao dịch công nghệ (giúp phát triển thị trường KHCN), các trung tâm tri
thức, hạ tầng cơ sở thông tin, hạ tầng CNTT, các cơ chế bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ,…
Sàn giao dịch công nghệ là các trung tâm dịch vụ kết nối, hỗ trợ cả bên
tạo ra công nghệ và bên sử dụng công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững trên nền tảng ĐMST. Sàn giao dịch
công nghệ được xem là tổ chức quan trọng, có vai trò cốt lõi trong phát triển
thị trường KHCN, đồng thời là nền tảng cho các hoạt động tư vấn, môi giới,
40
xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ, .... Thực tế cho thấy, Sàn
giao dịch công nghệ góp phần tăng tỷ trọng giao dịch công nghệ của quốc gia,
tạo môi trường hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực
KHCN quốc gia, phục vụ phát triển KT-XH của đất nước, góp phần bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức tham
gia thị trường công nghệ. Đồng thời, giúp cơ quan quản lý nắm bắt được các
số liệu về giao dịch công nghệ; kiểm soát, chọn lọc được công nghệ tốt, loại
bỏ các công nghệ lạc hậu.
Các kết quả nghiên cứu về vai trò của khả năng tiếp cận các các trung
tâm tri thức tới hoạt động R&D của DN cho thấy các chính phủ có thể thúc
đẩy đầu tư cho R&D bằng cách cải thiện năng lực nghiên cứu của hệ thống
các trường đại học, viện nghiên cứu và thúc đẩy sự liên kết giữa các trung tâm
nghiên cứu này với hoạt động R&D của khu vực DN. Đồng thời, việc hình
thành các cụm công nghệ tập trung (technology cluster) theo từng lĩnh vực
công nghệ công nghiệp sẽ rất hữu ích trong việc thúc đẩy hoạt động R&D và
nâng cao trình độ công nghệ.
Việc xây dựng và vận hành các cơ sở thông tin KHCN chuyên ngành
một cách hiệu quả sẽ giúp tiếp thu sáng chế, phát minh công nghệ mới, tham
khảo thông tin, tri thức chuyên môn hiện đại trong lĩnh vực tương ứng, đồng
thời giúp kết nối các chuyên gia KHCN nhằm phục vụ đắc lực trong quá trình
tìm tòi và sáng tạo. Theo tác giả Đào Tiến Khoa (2016), tùy vào trình độ phát
triển KHCN mà các quốc gia trên thế giới cũng có những cách tiếp cận khác
nhau đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin KHCN trực tuyến của
mình [31]. Thí dụ, trong lĩnh vực khoa học hạt nhân, các quốc gia đã và đang
phát triển điện hạt nhân cũng như những ứng dụng bức xạ hạt nhân trong y tế,
công nghiệp và nông nghiệp,… đều đặt việc xây dựng cơ sở dữ liệu hạt nhân
là một trong những việc đầu tiên phải làm. Hiện nay ở Hoa Kỳ, ngoài một
Trung tâm Dữ liệu hạt nhân quốc gia ở Brookhaven, còn có chương trình dữ
liệu hạt nhân của chính phủ liên bang đặt dưới sự giám sát của Bộ trưởng Bộ
Năng lượng nhằm luôn duy trì khả năng tiên phong của nền KHCN hạt nhân
41
Hoa Kỳ; các quốc gia có nền KHCN hạt nhân phát triển ở châu Á như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… đều có cơ sở dữ liệu hạt nhân của riêng mình.
Những cơ sở dữ liệu hạt nhân quốc gia này được kết nối chặt chẽ trong mạng
lưới của Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA, giúp phục vụ việc phát
triển KHCN hạt nhân toàn cầu [31].
Để thúc đẩy các hoạt động đầu tư cho R&D, bên cạnh những chính
sách hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động R&D, cần có những chính sách để bảo hộ
cho sản phẩm của hoạt động nghiên cứu, cũng như nâng cao tính cạnh tranh
của các DN. Theo các lý thuyết kinh tế thông thường, việc bảo hộ tài sản trí
tuệ thông qua hệ thống luật SHTT, bao gồm các sáng chế, có thể hạn chế mức
độ và phạm vi sử dụng của sản phẩm nghiên cứu trong 1 thời gian ngắn
(chính là thời gian được bảo hộ), nhưng lại đem lại nhiều lợi ích về dài hạn
cho xã hội, do nó thúc đẩy hoạt động sáng tạo [194]. Độ mạnh hệ thống sáng
chế của mỗi quốc gia được đánh giá dựa trên một phương pháp được công
nhận rộng rãi bởi Ginarte và Park. Phương pháp này được phát triển dựa trên
hệ thống SHTT của 110 quốc gia trong khoảng 30 năm (từ 1960-1990) [95].
Chỉ số để đánh giá hệ thống sáng chế mạnh hay yếu bao gồm 05 yếu tố: (i)
mức độ bao phủ của hệ thống (tức là các dạng sáng chế có khả năng được bảo
hộ); (ii) thành viên của các hiệp ước quốc tế; (iii) thời hạn bảo hộ; (iv) cơ chế
thực thi; và (v) các điều khoản hạn chế (ví dụ như li-xăng bắt buộc khi một
sáng chế được bảo hộ không được triển khai trên thực tế) [95].
Bên cạnh đó, CNTT cho KHCN cũng là một trong các biện pháp thiết lập
hạ tầng phát triển KHCN. Việc ứng dụng CNTT cho KHCN, đặc biệt là trong
công tác quản lý, giúp tinh giản thủ tục hành chính, tăng quyền nhiều hơn cho
nhà khoa học và đơn vị chủ trì là một chính sách cần được quan tâm, nhất là
trong cuộc cách mạng 4.0 như hiện nay. Theo chuyên gia Tạ Hải Tùng (2017),
cần nhấn mạnh yếu tố tăng cường ứng dụng CNTT trong mọi khâu của hoạt
động quản lý KHCN: Từ xét duyệt đề tài/dự án, giám sát triển khai cũng như
công khai cơ sở dữ liệu các đề tài/dự án, cơ sở dữ liệu các tổ chức chủ trì, và nhà
42
khoa học. Đây là cách để tăng cường hiệu quả quản lý, hướng tới công khai,
minh bạch, tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của nền KHCN [44].
2.4.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Chính sách liên kết là những chính sách nhằm tạo ra sự liên kết giữa
các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN, đặc biệt là môi
trường kết hợp giữa các tổ chức nghiên cứu và các DN. Một trong những
chính sách này có thể kể đến vai trò của Hiệp hội Doanh nghiệp KHCN. Hiệp
hội sẽ là cầu nối giúp chuyển giao kết quả nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào
sản xuất kinh doanh, nâng cao giá trị sản phẩm phục vụ đời sống.
Một trong những chính sách liên kết hiệu quả là tạo cơ chế thuận lợi cho
việc thành lập các quỹ tư nhân tài trợ cho các sản phẩm KHCN với ưu thế về
hiệu quả, sáng tạo và linh hoạt. Ví dụ điển hình cho loại hình quỹ này ở Việt
Nam là Quỹ đổi mới sáng tạo KHCN (VinIF) và Quỹ tài trợ nghiên cứu ứng
dụng (VinTech Fund) của Tập đoàn Vingroup; Nhóm DN qui mô lớn đi đầu và
cũng là nhóm DN có đầu tư cao cho KHCN như: Viettel, FPT, Trường Hải,...[6].
Cuối cùng, nhưng là yếu tố tiên quyết, xuyên suốt và quan trọng đối với
các vấn đề chính sách thúc đẩy nói chung và vấn đề chính sách liên kết nói
riêng, đó chính là vai trò của Nhà nước. Nhà nước không chỉ định hình trong
chiến lược, kế hoạch phát triển KHCN mà còn phải dẫn dắt, tạo “sân chơi” với
những cơ chế chính sánh phù hợp để thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.
43
Tiểu kết chƣơng 2
Chương 2 nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy DN đầu tư
cho KHCN. Luận giải vai trò của KHCN là nguồn lực mạnh mẽ, là động lực
then chốt giúp tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và bền vững. Đầu tư cho
KHCN cũng là chiến lược giúp nhiều DN tạo bước đột phát trong đổi mới
công nghệ, đổi mới sản phẩm, xây dựng thương hiệu, quy trình sản xuất, củng
cố năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng của doanh nghiệp. Phân tích
và luận giải các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ của khu vực DN. Trên cơ sở đó luận giải cách các
Chính phủ có thể làm để thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN thông qua hệ thống
chính sách. Sự can thiệp của Chính phủ cùng với các tác động tích cực đến
hoạt động R&D góp phần tạo ra chính sách tài khóa hiệu quả. Các chính sách
thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Chính phủ được chia thành bốn nhóm là
chính sách trọng cung, chính sách trọng cầu, chính sách về các yếu tố phụ trợ,
và chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Tương ứng với từng giai đoạn cụ thể của chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN.
Đây là cơ sở lý luận của khung phân tích mà NCS sẽ sử dụng để nghiên cứu
các kinh nghiệm quốc tế của một số nước trong Chương 3, và sau đó tiến
hành đánh giá thực trạng chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Việt
Nam và đưa ra những bài học phù hợp với điều kiện và thực tiễn của Việt
Nam ở Chương 4.
Một phần kết quả này đã được công bố trong công trình (2-Danh mục
công trình liên quan đến luận án).
44
Chƣơng 3
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ
CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC,
HÀN QUỐC VÀ ISRAEL
Trong luận án này, NCS lựa chọn ba quốc gia là Trung Quốc, Hàn
Quốc và Israel để nghiên cứu kinh nghiệm về các chính sách thúc đẩy DN đầu
tư cho KHCN. Việc lựa chọn này trước tiên dựa vào những thành tựu về phát
triển KHCN mà ba quốc gia đã đạt được trong những năm qua, sau đó là căn
cứ vào đặc điểm tương đồng giữa Việt Nam với mỗi quốc gia để tiến hành so
sánh, từ đó rút ra được những bài học phù hợp với tình hình thực tế và điều
kiện phát triển KHCN của Việt Nam.
Bảng 3.1. So sánh một số đặc điểm của Việt Nam với Trung Quốc,
Hàn Quốc và Israel
Đặc điểm Việt Nam
Trung Quốc
Hàn Quốc
Israel
Châu Á
Châu Á
Châu Á
Châu Á
1975
5.000 năm phát triển 1961
1948
Vùng địa lý Năm độc lập
Chính trị XHCN
Cộng hòa nhân dân (kinh tế XHCN)
Dân chủ đại nghị (TBCN)
Diện tích
- 9.596.961 km² - Lớn thứ 2 thế giới
- 331.210 km² - 3/4 là đồi núi
- 20,000 km2 - 60% sa mạc
về đất
Cộng hòa nhân dân (TBCN) - 100.210 km² - 30% đất thấp, còn lại là vùng cao và ngọn núi
Dân số
1,405 tỷ (2019)
51,47 triệu (2019) 9,11 triệu (2019)
97,84 triệu (2019)
- Kinh
tế
tế
- Nước kinh tế
phát triển
Kinh tế
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Nền kinh tế lớn
thị trường, hỗn hợp, tự do, ít có sự can thiệp của Chính phủ
thị Kinh định trường hướng xã hội chủ nghĩa
thứ 2 Thế giới
- Thứ 21 về cạnh tranh quốc gia (2016)
- Kinh tế phát triển
- USD 7,510 - Thứ 121 thế
GDP 2018
- USD 18,110 - Thứ 73 thế giới
- USD 41,351 - Thứ 29 thế giới
- USD 37,972 - Thứ 34 thế giới
giới
“Do
Con người
Người Thái” Châu Á
Chỉ số phát triển con của Trung người Quốc thuộc nhóm các nước cao, đứng
Chỉ số phát triển con người của Hàn Quốc đạt loại rất cao, đứng thứ
Thứ 4 thế giới về nhân lực kỹ năng cao; Thông minh thế giới; nhất
45
Đặc điểm Việt Nam
Trung Quốc
Hàn Quốc
Israel
thứ 85/189 quốc gia năm 2019
23/189 quốc gia năm 2019)
Phổ cập PTTH toàn dân
coi
Giáo dục
Cải cách
Tốt thứ 3 thế giới
Rất được trọng
lượng Chất kém so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
Công nghiệp hóa
Đang trong quá trình CNH
Khoa học và kỹ thuật
Dẫn về đầu nghiên cứu khoa học
- CNH năm 2000 - Từng dẫn đầu thế giới với nhiều phát minh quan trọng
2 đến 4,5% (2000-2017)
- Khoảng
- Cao nhất
0,45%-1,4%
% GDP cho KHCN
Khoảng 0,8 đến 1,8% (2000-2017)
thế giới năm 2013, 2015, 2017
Khoảng 4 đến 4,5%; hầu như cao nhất thế giới trong suốt giai đoạn 2000-2016.
6,8 (2013)
11 (2012)
64,2 (2013)
140 (2011) cao nhất thế giới
Tỷ lệ nhà khoa học /10 nghìn lao động
:
63
% giữa NSNN /Doanh nghiệp
2 : 86 (2015) (11%:trường ĐH 1%:cơ sở tư nhân phi lợi nhuận)
23,9 : 76,1 (2017)
25 : 75 (2015)
- Gắn chính
- M&A với các FDI của Mỹ - Nhân lực chất
sách kinh tế, KHCN với ĐMST
- Nguồn nhân lực - Lĩnh vực công nghiệp phù hợp lớn
lượng cao
- Chất lượng đào tạo
- Tập đoàn (Chaebols)
trường, viện
Nguyên nhân phát triển
- Tài
lung
- IIA (OCS) hỗ trợ các dự án chuẩn
- Tinh thần khởi
trợ “đa cấp độ”, “đa phương thức”
- Innopolis (thung silicon châu Á) - Lợi ích tài chính
nghiệp cao
27,3 (2015) (1%:trườngĐH 3%:nước ngoài 5,5%: khác) Trước kia chủ yếu dựa vào tài thác khai nguyên. Trong giai đoạn 2011-2020, lượng chất tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao được đọng nâng lên rõ rệt. trưởng Tăng từng tế kinh bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và ĐMST
Nguồn: Tác giả tổng hợp (2019)
Bảng 3.1 cho thấy một số điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước
so sánh.
46
3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc
3.1.1. Bối cảnh quốc gia
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới với số dân trên 1,405 tỷ
người. Với diện tích là 9.596.961 km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích
lục địa lớn thứ 2 trên thế giới và có tổng diện tích lớn thứ 3 trên thế giới
[141]. Về mặt bộ máy hành chính, Trung Quốc có 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô
thị trực thuộc và 2 đặc khu hành chính là Hồng Kông và Ma Cao [154].
Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế
tập, còn gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ ở lưu vực Hoàng Hà.
Từ năm 221 trước công nguyên, khi nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để
hình thành một đế quốc Trung Hoa thống nhất, quốc gia này đã trải qua các
lần mở rộng, đứt đoạn và cải cách. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ triều đại
phong kiến cuối cùng của Trung Quốc là nhà Thanh vào năm 1911 và cầm
quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật
Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản đánh bại Quốc
dân Đảng và thiết lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh vào
ngày 1 tháng 10 năm 1949 [154].
Từ khi thành lập vào năm 1949 cho đến cuối năm 1978, nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa có một kinh tế kế hoạch tập trung theo kiểu Liên Xô. Kể
từ khi bắt đầu tự do hóa kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc nằm trong số các
nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, dựa ở mức độ lớn vào tăng
trưởng do đầu tư và xuất khẩu. Trong gần 30 năm từ năm 1978, GDP của
Trung Quốc đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim ngạch
thương mại tăng hơn 100 lần. Vào năm 1992, Trung Quốc vẫn còn xếp thứ 133
thế giới về GDP bình quân đầu người, với hơn một nửa dân số sống dưới mức
2 USD/ngày, nhưng dự kiến tới năm 2022, Trung Quốc sẽ tăng 69 bậc (lên
hạng 64 thế giới) trong xếp hạng về GDP bình quân đầu người, và chỉ còn chưa
đầy 2% dân số Trung Quốc sống dưới chuẩn nghèo của thế giới [73].
Tới năm 2000, Trung Quốc đã hoàn thành công nghiệp hóa, và bắt đầu
chuyển từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng việc nghiên cứu tạo ra
47
các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, tạo ra một cơ sở vững chắc để giải quyết
việc biến Trung Quốc từ một “công xưởng của thế giới” thành một “nhà máy của
tri thức”. Sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc được Ngân hàng Thế giới mô tả
là “sự mở rộng bền vững nhanh nhất của một nền kinh tế lớn trong lịch sử”.
Theo IMF, tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc
trong giai đoạn 2001-2010 là 10,5%. Trong giai đoạn 2007-2011, tăng trưởng
kinh tế của Trung Quốc tương đương với tổng tăng trưởng của các quốc
gia G7. Tính đến năm 2019, kinh tế Trung Quốc lớn thứ hai thế giới xét theo
GDP danh nghĩa, tổng giá trị khoảng 14.172 tỉ USD theo Quỹ Tiền tệ Quốc
tế. Nếu xét về GDP theo sức mua tương đương, Trung Quốc đạt 27.449 tỷ
USD vào năm 2019 [118].
Chính sách KHCN của Trung Quốc đã trải qua bốn giai đoạn kể từ khi
thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949 [127]. Giai đoạn đầu,
từ 1949 đến 1959, KHCN tập trung hỗ trợ sự phát triển của ngành công nghiệp
nặng giống như mô hình Xô-viết cũ; Giai đoạn hai, từ 1960 cho đến khi kết thúc
Cách mạng Văn hóa năm 1976, kinh tế Trung Quốc bị đình trệ và các đề tài
nghiên cứu KHCN nhuộm màu lý thuyết. Ở giai đoạn ba, công cuộc cải cách do
Đặng Tiểu Bình phát động và kế tiếp bởi Giang Trạch Dân cho đến năm 2001,
Nhà nước tập trung vào việc xây dựng các cơ sở nghiên cứu độc lập và từng
bước chuyển sang các nghiên cứu định hướng thị trường, tạo ra sản phẩm cụ thể.
Giai đoạn bốn bắt đầu từ năm 2002, thời điểm chính sách của Trung Quốc tăng
cường một cách mạnh mẽ sự hậu thuẫn cho công nghiệp công nghệ cao (CNC),
cùng với sự hỗ trợ phát triển cho một nền công nghiệp xanh còn non trẻ [73].
Những năm đầu thế kỷ XXI (2002-2012) là giai đoạn bùng nổ của xuất
khẩu các sản phẩm được sản xuất từ Trung Quốc, nhất là sau khi nước này gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), xuất khẩu CNC cũng tăng rõ rệt.
Trung Quốc hiện nay thường được gọi là “công xưởng của thế giới”. Khu vực tư
nhân và bán tư nhân đã giành được vị trí dẫn đầu trong hoạt động ĐMCN, với sự
tài trợ từ nước ngoài cũng như sự hỗ trợ của Chính phủ cho các dự án KHCN.
Các tổ chức nghiên cứu được chính phủ hỗ trợ lan rộng khắp đất nước. Những
48
cơ sở hàng đầu về ĐMCN ở các trung tâm lớn, đặc biệt là ở Bắc Kinh, Thượng Hải
và Quảng Châu, đã được chuyển giao hoàn toàn cho các DN tư nhân.
Đầu tư vào KHCN của Trung Quốc đã tăng đều qua các năm, từ dưới
1% GDP năm 2000 hiện đã lên tới con số 2,145% vào năm 2017 (Hình 3.1).
Hình 3.1. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Trung Quốc
Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm (2019)
Mức đầu tư cho KHCN những năm trở lại đây của Trung Quốc đã đạt
tới mức kỷ lục 262,55 nghìn tỷ USD năm 2017; đứng thứ 2 trên toàn thế giới
chỉ sau Mỹ.
49
Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm [76]
Hình 3.2. Nguồn chính cho quỹ R&D Trung Quốc so với Nhật Bản và Mỹ
Đầu tư R&D của các DN tăng 40 lần lên 1,2 nghìn tỷ nhân dân tệ từ
năm 1995 đến năm 2016, trong khi quỹ R&D của chính phủ lại có dấu hiệu
suy giảm khi chỉ tăng 12,8 lần lên khoảng 320 tỷ nhân dân tệ. Từ năm 2000
đến năm 2016, tỷ lệ R&D được tài trợ bởi chính phủ đã giảm từ 33,4% xuống
còn 20%. Điều này đặt Trung Quốc ở mức tương đương với Hoa Kỳ (25,1%)
và Hàn Quốc (22,7%), nhưng thấp hơn đáng kể so với Nga (68,2%) và
Mexico (67,4%). Tuy nhiên, xu hướng này có thể sớm thay đổi khi Bắc Kinh
hành động để thực hiện các chính sách nhằm tăng cường đổi mới.
3.1.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho
khoa học và công nghệ
Chính phủ Trung Quốc coi phát triển KHCN là động lực chính của phát
triển bền vững và hy vọng sẽ bứt phá tạo ra một nền kinh tế lấy đổi mới, sáng tạo
làm trung tâm vào những năm 2020. Chính phủ rất coi trọng việc cải cách hệ
thống KHCN và xây dựng Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS), coi đây là
định hướng có tầm quan trọng đặc biệt nhằm tạo ra một nền khoa học hiện đại và
một cơ sở hạ tầng công nghệ vững mạnh. Trong số các nhiệm vụ quan trọng nhất
50
đã xác định có việc xây dựng các tổ chức nghiên cứu KHCN và thiết kế những
chính sách quan trọng để dẫn dắt, thúc đẩy các nỗ lực R&D và củng cố mối quan
hệ chặt chẽ giữa khu vực DN và các tổ chức nghiên cứu KHCN [127].
Kế hoạch phát triển KHCN trung và dài hạn của Trung Quốc giai đoạn
2006-2020 do Bộ Khoa học và Công nghệ và Văn phòng quốc vụ viện
(MOST và SC) xây dựng năm 2006 đã đánh giá rằng, kể từ khi đưa ra chính
sách cải cách và mở cửa, công cuộc cải cách hệ thống KHCN của Trung Quốc
đã có những bước đột phá quan trọng và có những bước tiến đáng kể vì nó đã
định vị chặt chẽ việc tạo liên kết mạnh mẽ giữa KHCN với nền kinh tế, nhằm
mục đích tăng cường ĐMCN, chuyển giao và CNH các thành tựu KHCN;
nhấn mạnh việc tái cơ cấu và chuyển đổi cơ chế, đồng thời áp dụng một loạt
các biện pháp cải cách mạnh mẽ [182].
Tuy nhiên, hệ thống KHCN tại thời điểm 2006 của Trung Quốc vẫn
chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường và yêu cầu cao hơn về
phát triển kinh tế và KHCN. Trước hết, các DN Trung Quốc vẫn chưa thực sự
trở thành tác nhân chính trong ĐMCN vì khả năng đổi mới của họ chưa tốt.
Thứ hai, lĩnh vực KHCN vẫn còn bị ngăn cách, dẫn đến sự phân tán, trùng
lặp. Các nỗ lực và hiệu suất tổng thể chưa cao. Khả năng đổi mới của KHCN
trong lĩnh vực hàng hóa công cộng được cho là yếu. Thứ ba, quản lý KHCN ở
cấp vĩ mô chưa được phối hợp chặt chẽ, nhất là mô hình phân bổ và hệ thống
phân bổ nguồn lực KHCN chưa đáp ứng được nhu cầu mới cho sự phát triển
KHCN. Thứ tư, cơ chế khen thưởng nhân sự xuất sắc, khuyến khích các hoạt
động đổi mới và tiên phong vẫn chưa hoàn thành. Những vấn đề này đã làm tổn
hại đến việc xây dựng năng lực đổi mới của quốc gia [127].
Trước tình hình đó, định hướng của Chính phủ để tăng cường cải cách
hệ thống KHCN xác định là: Tập trung vào hiệu quả phân phối nguồn lực
KHCN và hội nhập toàn diện, tạo bước đột phá trong ĐMCN. Tập trung vào
hệ thống DN có sự tích hợp của công nghiệp, học thuật và nghiên cứu, để thúc
đẩy mạnh mẽ việc xây dựng toàn diện một NIS đặc sắc Trung Quốc và tăng
cường khả năng đổi mới bản địa của quốc gia [182].
51
Tiến trình cải cách hệ thống KHCN của Trung Quốc thực hiện các
nhiệm vụ chính sau:
(1) Hỗ trợ, thúc đẩy các DN trở thành tác nhân chính trong ĐMCN
Cạnh tranh thị trường là một động lực quan trọng đằng sau ĐMCN,
trong khi ĐMCN lại là con đường cuối cùng để nâng cao khả năng cạnh tranh
của DN. Cùng với cải cách sâu rộng và mở cửa, các DN Trung Quốc đang
đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong ĐMCN. Để tăng cường đáng kể
động lực và sức sống của ĐMCN ở cấp độ DN, Chính phủ cần phải cung cấp các
điều kiện thuận lợi hơn, cho các hoạt động R&D. Cụ thể là:
- Để các chính sách kinh tế và KHCN đóng vai trò định hướng cho
phép các DN trở thành nhà chi tiêu R&D chính. Nỗ lực phải được đẩy nhanh
để tạo ra môi trường thống nhất, cởi mở, cạnh tranh có trật tự cho nền kinh tế
thị trường bằng các chính sách tài khóa, thuế và tiền tệ để các DN, đặc biệt là
các DN lớn, được khuyến khích tăng chi tiêu R&D và thiết lập R&D của riêng
DN của họ. Các phòng thí nghiệm kỹ thuật quốc gia và trung tâm kỹ thuật
ngành cần được thành lập tại các viện nghiên cứu hoặc các DN lớn, có khả
năng R&D công nghệ hùng mạnh, phối hợp với các trường đại học, viện
nghiên cứu. Khuyến khích các tập đoàn ĐMCN thuộc nhiều hình thức khác
nhau do các DN khởi xướng, phối hợp với các trường đại học và viện nghiên
cứu với mục đích nâng cao năng lực ĐMCN [182].
- Cải cách phương thức của các chương trình KHCN để cho phép các
DN thực hiện các nhiệm vụ R&D cấp quốc gia. Các chương trình KHCN
quốc gia sẽ phản ánh nhiều hơn các nhu cầu công nghệ chính về KHCN và
thu hút nhiều DN tham gia vào các chương trình đó. Trong các lĩnh vực có
triển vọng ứng dụng thị trường rõ rệt, cần thiết lập một cơ chế do DN lãnh
đạo với sự tham gia của các trường đại học và viện nghiên cứu [182].
- Hoàn thiện cơ chế chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện cho việc
tích hợp và ứng dụng các công nghệ công nghiệp. Thiết lập và hoàn thiện cơ
chế thúc đẩy liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và hệ thống giao dịch
SHTT. Phát triển mạnh mẽ các loại tổ chức dịch vụ trung gian KHCN để đáp
52
ứng nhu cầu của DN, tạo điều kiện cho dòng chảy kiến thức và chuyển giao
công nghệ giữa các DN, và giữa các DN với các trường đại học và viện
nghiên cứu. Các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và trung tâm kỹ thuật
(nghiên cứu công nghệ) là nơi tiếp cận dễ dàng hơn đối với các DN [182].
- Đẩy nhanh việc thành lập một hệ thống DN hiện đại để tăng cường
động lực bẩm sinh cho DN ĐMCN. Nâng cao năng lực ĐMCN sẽ được coi là
chỉ số quan trọng trong việc đo lường hiệu quả hoạt động của các DN nhà nước
(DNNN) trong khi phân phối dựa trên yếu tố công nghệ là một phần quan trọng
của cải cách quyền sở hữu dành cho ngành công nghiệp CNC. Bám sát chủ
trương chuyển đổi các viện R&D theo định hướng ứng dụng thành DN và làm
sâu sắc thêm cải cách quyền sở hữu tại các viện đó. Điều này sẽ không chỉ dẫn
đến một hệ thống quản lý được cải thiện và thiết lập một cơ chế khuyến khích
hợp lý và hiệu quả, mà còn cho phép các viện R&D chuyển đổi đóng vai trò
chính trong công nghiệp hóa CNC và ĐMCN ngành [182].
- Tạo môi trường đổi mới thuận lợi để thúc đẩy các hoạt động đổi mới
tại các DNVVN. Vì DNVVN, đặc biệt DNVVN dựa trên công nghệ, thường
rất sáng tạo nhưng lại yếu kém trong đầu tư mạo hiểm, do vậy cần tạo môi
trường chính sách thuận lợi hơn cho các DN đó bằng cách soạn thảo và xây
dựng luật và chính sách ưu đãi, đặc biệt là trong bối cảnh tiếp cận thị trường
và chống lại thị trường cạnh tranh không lành mạnh. Phát triển mạnh mẽ một
hệ thống đầu tư và tài trợ KHCN, cơ chế đầu tư mạo hiểm và nhanh chóng
xây dựng các cơ quan dịch vụ trung gian của KHCN để phục vụ nhu cầu
ĐMCN tại các DNVVN [182].
(2) Thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng một NIS với đặc điểm của Trung Quốc
Mục tiêu tăng cường cải cách hệ thống KHCN là thúc đẩy và tăng
cường xây dựng NIS. NIS là một hệ thống công lập do Chính phủ lãnh đạo,
phát huy đầy đủ vai trò cơ bản của thị trường trong việc phân bổ nguồn lực,
trong khi cho phép những tác nhân tham gia đổi mới khác nhau tạo ra các liên
kết chặt chẽ và tương tác với nhau. Việc xây dựng NIS đặc sắc Trung Quốc sẽ
theo định hướng cơ bản là thiết lập hệ thống ĐMCN do DN lãnh đạo với sự
53
kết hợp giữa các DN, trường đại học và viện nghiên cứu, đây sẽ là điểm đột
phá cho việc xây dựng toàn diện công cuộc đổi mới quốc gia. Chỉ khi một hệ
thống như vậy được dẫn dắt bởi các DN, nó mới có thể đảm bảo định hướng
thị trường cho ĐMCN và kết hợp hiệu quả các thế mạnh nghiên cứu đa dạng
hóa công nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chỉ khi các DN,
trường đại học và viện nghiên cứu làm việc cùng nhau, các nguồn lực KHCN
mới có thể được phân bổ một cách hiệu quả, sức sống của các viện nghiên cứu
mới được kích hoạt và DN mới có được khả năng duy trì sự đổi mới. Mặc dù cải
thiện mạnh mẽ khả năng ĐMCN của các DN là trung tâm, nhưng bắt buộc phải
thiết lập cơ chế mới cho phép các viện nghiên cứu và trường đại học cung cấp
dịch vụ phù hợp với nhu cầu của các hoạt động ĐMCN [182].
Hiện nay, một làn sóng cách mạng công nghệ và công nghiệp mới đang
phù hợp với sự chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc và
định hình lại cấu trúc phân công lao động quốc tế. Chính phủ cho rằng Trung
Quốc phải nắm bắt cơ hội lịch sử này để thực hiện chiến lược tái tạo năng lực
sản xuất của quốc gia, củng cố kế hoạch và triển khai mạnh mẽ về phía trước
theo yêu cầu của chiến lược toàn diện “Four Four” (xã hội thịnh vượng; cải
cách chính sách; quy định pháp luật; kỷ cương kỷ luật). Chính phủ hạ quyết
tâm đưa Trung Quốc trở thành nhà lãnh đạo sản xuất toàn cầu trước thời điểm
kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, điều này sẽ
đặt nền tảng cho việc thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” nhằm làm trẻ hóa đất
nước Trung Quốc. “Made in China 2025” đã và đang là kim chỉ nam cho
chiến lược sản xuất của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Chính phủ khẳng định quan điểm có tính chiến lược về hỗ trợ và cung
cấp, gồm: Cải cách cơ chế thể chế; Môi trường thị trường công bằng; Chính
sách hỗ trợ tài chính; Chính sách tài khóa và thuế; Hệ thống đào tạo tài năng
đa cấp độ; Chính sách DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ; Mở cửa cho sản xuất; Hệ
thống tổ chức và thực hiện [183].
Chính phủ cũng xác định quan điểm đổi mới bản địa trong bối cảnh
Trung Quốc hiện nay. Thuật ngữ đổi mới bản địa chủ yếu liên quan đến chính
54
sách đổi mới của Trung Quốc. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi với sự ra
đời của Chương trình trung hạn và dài hạn phát triển KHCN quốc gia (2006-
2020) vào đầu năm 2006, trong đó chủ yếu tập trung vào mục tiêu đưa Trung
Quốc thành một cường quốc về KHCN bằng cách cải thiện khả năng tạo ra sự
đổi mới bản địa (còn gọi là đổi mới nội sinh, đổi mới độc lập hay đổi mới
trong nước). Thúc đẩy đổi mới bản địa là nội dung cốt lõi của cải cách kinh tế
Trung Quốc trong tương lai và có ảnh hưởng lớn đến các sáng kiến phát triển
kinh tế trung hạn. Nó không chỉ đề cao đổi mới trên nguyên bản, thực sự mới,
đổi mới độc lập mà còn tích hợp, kết hợp các công nghệ hiện có thông qua đổi
mới theo một cách thức mới và đồng hóa, cải tiến công nghệ nhập khẩu. Bộ
Khoa học và Công nghệ Trung Quốc (MOST) hợp tác với Ủy ban Cải cách và
Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC) đã ban hành một văn bản vào năm
2006 trong đó xác định các sản phẩm được coi là đổi mới bản địa với các
thuộc tính: được phát triển chủ yếu bởi các DN trong nước; sở hữu trong nước
quyền SHTT; bước nhảy vọt về công nghệ so với các sản phẩm hiện có [128].
3.1.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ
Từ năm 2001-2006, các chính sách phát triển R&D của Trung Quốc tập
trung vào việc phát triển kinh tế thông qua việc phát triển KHCN, sáng tạo,
công nghệ cao, và thương mại hóa các sản phẩm của hoạt động R&D. Vào
cuối những năm 1990, nguồn kinh phí bắt đầu được mở rộng từ phía chính
phủ hỗ trợ sang dần phía các DN không thuộc chính phủ, và các DN tư nhân
trở thành người được hưởng lợi nhiều từ các chính sách phát triển R&D này
của Trung Quốc. Từ giữa những năm 1980 và cuối những năm 1990, các
chương trình nghiên cứu KHCN chính của Trung Quốc vẫn được điều hành
bởi Bộ Khoa học và Công nghệ nước này, ví dụ như Chương trình Công nghệ
quan trọng, hoặc Chương trình Công nghệ cao Quốc gia ([115], [160]). Trong
những năm tiếp theo, không có sự thay đổi đáng kể nào về chính sách KHCN
quốc gia của Trung Quốc và các chương trình nghiên cứu khoa học. Chỉ sau
năm 2006, Chính phủ Trung Quốc mới bắt đầu đưa ra những kế hoạch rất
55
quyết liệt để thúc đẩy các hoạt động R&D thông qua nhiều cách thức khác
nhau, được thể hiện rõ nhất qua “Chiến lược Quốc gia Phát triển Khoa học và
Công nghệ trung và dài hạn (2006-2020)”. Đây được coi là bước chuyển biến
đáng kể đối với các chính sách phát triển KHCN của nước này.
Mục tiêu được đặt ra của chương trình này là chi phí cho hoạt động
R&D trên tổng GDP của nước này đến năm 2020 phải cao hơn 2,5% [182].
Với thực tế là hơn 70% tổng chi phí của đất nước này đến từ các DN, chính
phủ Trung Quốc đã thi hành rất nhiều các chính sách hỗ trợ tài chính cho các
hoạt động R&D, bao gồm việc giảm thuế cho các DN đã được công nhận là
DN công nghệ cao, ưu đãi để mời chào nhân tài, và khấu hao thiết bị. Một
trong những điểm quan trọng nhất trong chính sách phát triển R&D của Trung
quốc là các ưu đãi “đa cấp độ và đa phương thức”. Theo Chiến lược Quốc gia
Phát triển Khoa học và Công nghệ trung và dài hạn (2006-2020), chính phủ
Trung Quốc nhấn mạnh đến vai trò của các cơ quan chính phủ ở các cấp độ
khác nhau.
KHCN đóng vai trò quản trị trong chiến lược xây dựng "Quốc gia sáng
tạo" của Trung Quốc. Mục tiêu là đến năm 2020 Trung Quốc sẽ trở thành
quốc gia sáng tạo, đứng khoảng thứ 15 về chỉ số sáng tạo KHCN trên bảng
xếp hạng của Tổ chức SHTT Thế giới (WIPO). Sáng tạo KHCN cũng có
Chiến lược 3 bước, đó là đến năm 2020 trở thành quốc gia sáng tạo, vào
khoảng năm 2035, đi đầu trong các quốc gia sáng tạo, đến năm 2050 trở thành
cường quốc KHCN trên thế giới [182].
Vào năm 2015, Bắc Kinh đã cho ra mắt “Made in China 2025”, một kế
hoạch tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ trong các ngành
công nghiệp chính. Là một phần của sự thúc đẩy này, 901 quỹ hướng dẫn của
chính phủ đã được đưa ra với mục tiêu huy động được 347 tỷ đô la để giúp
giảm bớt gánh nặng tài trợ cho R&D cho các công ty Trung Quốc. Việc giảm
thuế tự do cũng đang được cung cấp cho các công ty để tiếp tục thúc đẩy đầu
tư vào R&D [183].
56
Trung Quốc thực hiện các chính sách và biện pháp thúc đẩy doanh
nghiệp đầu tư cho KHCN thông qua các Chương trình, áp dụng các bước để
xây dựng Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia bằng cách ban hành các chính
sách và luật trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế dựa trên ĐMST. Các chính
sách và biện pháp được thực hiện có lợi nhất cho việc tăng cường khả năng
đổi mới của DN bản địa, thúc đẩy sự sáng tạo của cán bộ KHCN, tận dụng
triệt để các nguồn lực KHCN cả trong và ngoài nước, hỗ trợ phát triển KT-
XH. Đến năm 2002, Trung Quốc đã ban hành hơn 500 khuyến nghị chính
sách về khoa học, công nghệ và ĐMST trong đó chính sách thuế chiếm
khoảng 25% tổng số các chính sách và luật liên quan tới KHCN [155].
3.1.3.1. Chính sách trọng cung
“Chiến lược Quốc gia Phát triển Khoa học và Công nghệ trung và dài
hạn (2006-2020)” thúc đẩy các DN tăng chi tiêu R&D và tăng cường năng lực
đổi mới công nghệ thông qua một số chính sách: Đẩy nhanh việc áp thuế giá
trị gia tăng dựa trên tiêu dùng và thực hiện thanh toán công nghiệp cho mua
sắm thiết bị được ưu tiên bằng thuế giá trị gia tăng được khấu trừ; Thực hiện
một loạt các chính sách nghỉ lễ về thuế, nâng cao mức độ khuyến khích các
chính sách, bao gồm khấu trừ trước thuế đối với chi phí R&D của DN công
nghệ cao; khuyến khích các DN thành lập các quỹ đặc biệt dành cho các hoạt
động R&D; DN được phép đẩy nhanh khấu hao các dụng cụ và thiết bị được
sử dụng trong hoạt động R&D; Ban hành chính sách thuế kỳ nghỉ để mua sắm
các dụng cụ và thiết bị khoa học tiên tiến [182].
Cải cách phương thức của các chương trình KHCN để cho phép các
DN thực hiện các nhiệm vụ R&D quốc gia cũng là một chính sách quan trọng.
Các chương trình KHCN quốc gia phản ánh nhiều hơn các nhu cầu công
nghiệp chính cho KHCN, và thu hút nhiều DN tham gia vào các chương trình
đó. Trong các lĩnh vực triển vọng ứng dụng thị trường rõ ràng, Trung Quốc
thiết lập một cơ chế do DN lãnh đạo với sự tham gia của các trường đại học
và viện nghiên cứu [182].
57
Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc tăng cường trao đổi nước ngoài và hỗ
trợ gây quỹ cho các DN thành lập cơ sở R&D ở nước ngoài, và cung cấp dịch
vụ tiện lợi và chất lượng cho các DN Trung Quốc đầu tư vào nước ngoài. Thực
hiện Luật về thúc đẩy DN nhỏ và vừa và hỗ trợ thành lập nhiều loại hình
DNVVN để tận dụng tối đa sức sống của họ trong đổi mới công nghệ. Khuyến
khích và hỗ trợ SEM khởi xướng các nỗ lực R&D hợp tác dưới hình thức liên
doanh hoặc ký gửi bằng cách cung cấp hỗ trợ chính sách cho việc thương mại
hóa các thành tựu đổi mới [182].
Chương trình “Made in China 2025” đưa ra các chính sách hỗ trợ tài
chính, chính sách tài khoá và thuế. Về hỗ trợ tài chính, Chính phủ mở rộng
các kênh tài chính sản xuất và giảm chi phí tài chính; khuyến khích Ngân
hàng phát triển Trung Quốc tăng các khoản vay cho các DN sản xuất; Hỗ trợ
các DN sản xuất đủ điều kiện tìm kiếm nguồn tài chính từ thị trường vốn
trong và ngoài nước và phát hành các công cụ tài trợ nợ khác nhau; Tăng
cường hỗ trợ cho các DN sản xuất thực hiện thăm dò tài nguyên ở nước
ngoài; tài trợ nợ và tài trợ vốn theo các điều kiện tiên quyết về rủi ro có thể
kiểm soát và kinh doanh bền vững;…[183]. Về chính sách tài khoá và thuế,
sử dụng quan hệ đối tác công tư (PPP) để phân bổ vốn xã hội cho các dự án
lớn, nâng cấp công nghệ và cơ sở hạ tầng sản xuất chính; đổi mới cách hỗ trợ
của quỹ tài chính bằng cách chuyển đổi từ trợ cấp xây dựng sang trợ cấp hoạt
động từng bước; thực hiện chính sách thúc đẩy, giảm rủi ro đầu tư vào sản
xuất lô số 0; thực hiện các chính sách thuế theo hướng chuyển đổi sản xuất,
thúc đẩy cải cách thuế giá trị gia tăng và hoàn thiện các phương pháp tính
toán và kiểm toán chi phí nghiên cứu để giảm gánh nặng thuế cho DN sản
xuất;…[183].
Đối với các DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ, Trung Quốc thực hiện và hoàn
thiện các chính sách ưu đãi tài chính và thuế để hỗ trợ các DN nhỏ và siêu nhỏ
và tối ưu hóa các quỹ đặc biệt cho các DNVVN; khuyến khích các ngân hàng
thương mại phát triển dịch vụ tài chính chuyên biệt cho các DN nhỏ và siêu
nhỏ, như hệ thống bảo lãnh cho thuê và các sản phẩm tài chính sáng tạo; xây
58
dựng và hoàn thiện nền tảng khởi nghiệp cho các DNVVN và các quỹ đầu tư
kinh doanh trực tiếp để đầu tư vào các DN nhỏ và siêu nhỏ;… [183].
Trung Quốc cung cấp khoản trợ cấp thuế R&D với mức giảm ấn định
đối với các DN lớn là 50%, ưu đãi đặc biệt 75% dành cho các DNVVN (bắt
đầu từ năm 2017). Trong trường hợp nghĩa vụ thuế chưa đủ, các khoản tín
dụng chưa sử dụng có thể kéo dài tiếp 5 năm, hoặc 10 năm đối với DNVVN
cũng như DN CNC và mới (High and new technology enterprises- HNTEs).
Trong trường hợp R&D được thầu lại, khoản giảm thuế được giới hạn đến
80% các chi phí được chấp nhận trên một dự án [166].
Liên quan đến hỗ trợ thuế nhập khẩu thiết bị, Trung Quốc đã cho phép
nhập khẩu miễn thuế các thiết bị nghiên cứu KHCN của các tổ chức nghiên cứu
khoa học, tổ chức phát triển công nghệ và trường học. Việc nhập khẩu nghiên
cứu khoa học, phát triển công nghệ khoa học và đồ dùng dạy học mà các nhà
cung cấp trong nước không thể sản xuất hoặc không thể đáp ứng các yêu cầu
về hiệu suất, được miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT nhập khẩu. Ngoài ra,
sách giảng dạy, tài liệu nghiên cứu khoa học có liên quan được nhập khẩu bởi
các viện nghiên cứu khoa học và trường học, được miễn thuế nhập khẩu [85].
Vì mức độ của các công nghệ bản địa của Trung Quốc vẫn còn thấp,
vốn FDI là một kênh quan trọng để tiếp cận với công nghệ tiên tiến nước
ngoài. Chính phủ Trung Quốc đã thiết kế kế hoạch của mình để thúc đẩy các
ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao dựa trên vốn đầu tư nước ngoài và
do đó, đã cố gắng thu hút vốn FDI. Trung Quốc cung cấp lợi ích về thuế và
thành lập các đặc khu kinh tế (Special Economic Zone- SEZ) và các khu khoa
học, như Khu phát triển kinh tế và kỹ thuật (Economic and Technological
Development Zone- ETDZ) và khu phát triển công nghiệp công nghệ cao
(High-tech Industrial Development Zone- HIDZ), cũng như mở cửa ven biển
thành phố và khu vực. Họ cũng cung cấp các hướng dẫn có hệ thống để
chuyển các nguồn vốn FDI vào các ngành công nghiệp mục tiêu. Để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ đã cung cấp mức thuế suất ưu đãi 15% và
24% cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Thuế thu nhập dành cho
59
DN có đầu tư nước ngoài và DN nước ngoài. Nhìn chung, thuế suất ưu đãi
24% đã được áp dụng cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ 15% đã
được áp dụng cho các DN công nghệ cao trong HIDZs và lợi nhuận phát sinh
từ xuất khẩu của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào SEZs [152]. Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động sản xuất. được thiết
lập để hoạt động trong hơn 10 năm, đã được miễn thuế trong hai năm kể từ
ngày đầu tiên thực hiện quy trình. Trong ba năm sau đó, đã giảm 50% tiền
thuế thu nhập. Các công ty trong nước chỉ có thể được hưởng các khoản giảm
thuế và ngày lễ này khi chúng được thành lập tại HIDZs hoặc ở các khu vực
kém phát triển phía tây [152].
Quỹ đổi mới và Quỹ xúc tiến KHCN do Chính phủ Trung Quốc quản lý
thực hiện hoạt động kích thích sự đổi mới trong KHCN. Nguồn kinh phí do 2
Quỹ trên quản lý đã tiếp tục tăng từ 6,3 tỷ nhân dân tệ năm 1978 lên 15,4 tỷ
nhân dân tệ năm 1990, lên 64,3 tỷ nhând ân tệ năm 1997 và lên tới 124,4 tỷ
nhân dân tệ năm 2004 [152]. Trung Quốc đã thành lập Quỹ phát triển công
nghệ cho các DNVVN từ hai nguồn vốn chính: Bộ Tài chính và Ngân hàng
Nhà nước, chỉ hỗ trợ các DN ở giai đoạn sản xuất thử nghiệm. Trung Quốc
khuyến khích thành lập các Quỹ đầu tư mạo hiểm (chủ yếu của các nhà đầu tư
nước ngoài) để đầu tư vào các dự án công nghệ có triển vọng; thành lập Quỹ phát
triển sáng chế để đầu tư nghiên cứu, hoàn thiện sáng chế. DN nào nếu dành lợi
nhuận trước thuế để mua công nghệ thì sẽ được nhà nước miễn thuế thu nhập DN
cho phần kinh phí đó. Hằng năm, DN được trích 5% doanh thu (không tính thuế)
để nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ [39].
3.1.3.2. Chính sách trọng cầu
Trung Quốc hoàn thiện cơ chế chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện
cho việc tích hợp và ứng dụng các công nghệ công nghiệp; Thiết lập và hoàn
thiện cơ chế thúc đẩy liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống giao dịch
IPR; Phát triển mạnh mẽ các loại tổ chức dịch vụ trung gian KHCN để đáp
ứng nhu cầu của DN, tạo điều kiện cho dòng chảy kiến thức và chuyển giao
60
công nghệ giữa các DN, và giữa các DN với các trường đại học và viện
nghiên cứu [182].
Với chiến lược đổi mới bản địa, Chính phủ xây dựng các quy định thực
thi Luật mua sắm Chính phủ để khuyến khích và bảo vệ sự đổi mới của người
bản địa. Thiết lập một cơ chế phối hợp để mua sắm chính phủ các sản phẩm
sáng tạo bản địa. Chính phủ thực hiện chính sách mua đầu tiên đối với các sản
phẩm và thiết bị công nghệ cao được sản xuất trong nước có quyền sở hữu trí
tuệ độc quyền; Cung cấp hỗ trợ chính sách cho các DN trong việc mua sắm
thiết bị công nghệ cao trong nước; Phát triển các tiêu chuẩn công nghệ có liên
quan thông qua mua sắm chính phủ [182].
3.1.3.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ
i) Chinh sách về nhân lực KHCN
Sau năm 1990, đã dấy lên việc thực hiện các giải pháp liên quan tới vấn
đề tái tạo và gia tăng nguồn nhân lực. Từ năm 1998, hoạch định chính sách
của Trung Quốc đã chuyển sự quan tâm vào Hệ thống Đổi mới Quốc gia và
nền kinh tế tri thức. Nhà nước khuyến khích các DN tuyển dụng và nuôi
dưỡng nhân sự KHCN có trình độ cao, với sự hỗ trợ chính sách tương ứng.
Khuyến khích và hướng dẫn nhân viên KHCN tại các viện nghiên cứu và
trường đại học làm việc về đổi mới hoặc tạo ra các DN KHCN của riêng họ.
Nhân viên KHCN tại các viện nghiên cứu và trường đại học được phép nhận
thêm việc làm để phát triển công nghệ tại các DN; khuyến khích sinh viên tốt
nghiệp đại học làm việc cho các công ty; khuyến khích các DN nuôi dưỡng
các tài năng công nghệ, phối hợp với các trường đại học và viện nghiên cứu.
Tài năng kỹ thuật tầm cỡ cao có thể được nuôi dưỡng thông qua nhiều kênh
và phương thức đa dạng. Các DN công nghệ cao thuộc sở hữu nhà nước được
phép đưa ra một loạt các chính sách thúc đẩy, bao gồm các lựa chọn thực tế
để vinh danh các kỹ thuật viên và nhân viên quản lý có trình độ cao; Hỗ trợ
các DN để thu hút và tuyển dụng các nhà khoa học và kỹ sư nước ngoài [182].
Chương trình “Made in China 2025” thiết lập hệ thống đào tạo tài năng
đa cấp độ, theo đó: Tăng cường đào tạo nhân sự chuyên môn, kỹ thuật, quản
61
lý và hành chính và hệ thống phát triển tài năng; Triển khai Dự án xúc tiến
chất lượng cho các nhân viên quản lý và điều hành DN và Dự án đào tạo Yin
He để giúp các DNVVN nuôi dưỡng các doanh nhân và nhân viên quản lý cấp
cao; Tập trung vào các nhân viên kỹ thuật và chuyên môn cấp cao và có nhu
cầu cao bằng cách thực hiện Dự án cải thiện nhân sự tri thức; Tăng số lượng
kỹ sư sản xuất tiên tiến bằng cách xây dựng các trung tâm đào tạo kỹ thuật và
đổi mới trong các trường đại học; Khuyến khích hợp tác giữa các DN và
trường học để đào tạo các nhà nghiên cứu, kỹ thuật viên và các chuyên gia
liên ngành cần thiết cho sản xuất; Tăng cường dự báo nhu cầu nhân sự công
nghiệp, tăng cường cơ sở dữ liệu nhân sự và xây dựng hệ thống đánh giá nhân
tài công nghiệp và nền tảng phân phối thông tin; Xây dựng và hoàn thiện các
tổ chức dịch vụ nhân sự sản xuất và cải thiện các cơ chế điều chỉnh việc
chuyển giao nhân sự giữa các công ty; Chọn các chuyên gia và sinh viên trẻ
tài năng, đặc biệt là những người có nền tảng chuyên môn và kỹ thuật, ra
nước ngoài học tập và đào tạo, đồng thời xây dựng các cơ sở đào tạo quốc tế
tại Trung Quốc;… [183].
Ngoài ra, cải cách giáo dục đại học được chú trọng, các biện pháp điều
chỉnh đã được tiến hành để thực hiện nhiệm vụ đầy tham vọng là tái tạo hệ
thống giáo dục và phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Trung Quốc đã tiến
hành hàng loạt cải cách để hiện đại hóa và tiếp sinh lực cho hệ thống giáo
dục. Trung Quốc đã áp dụng ưu tiên cao cho hệ thống giáo dục ở cấp tiểu học,
đại học và đào tạo nghề. Để thay đổi nguồn nhân lực, Trung Quốc đã chú ý
đến việc tạo ra, mở rộng và đặt mục tiêu hướng tới sự xuất sắc quốc tế trong
những lĩnh vực quan trọng tại trường đại học được lựa chọn và hình thành các
trường đại học đẳng cấp quốc tế. Các sáng kiến này cũng được thực hiện để
thu hút nguồn nhân lực có tay nghề hồi hương tham gia vào các trường đại
học và tổ chức nghiên cứu, làm gia tăng kỹ năng, mở rộng số lượng những
người có trình độ tiến sĩ,…. Cuộc cải cách đã nhận được nhiều kết quả: tăng
số lượng người đăng ký vào chương trình giáo dục đại học từ 5 triệu lên 23
triệu người, số người tham gia trong độ tuổi 18-22 tăng từ 10% lên 22%, mở
62
rộng số lượng các tổ chức giáo dục đại học từ 1.054 năm 1995 lên 1.731 năm
2004 và tăng số lượng nghiên cứu viên lên 77% từ năm 1995 đến 2004.
Những nỗ lực này đã đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 2 trong xếp hạng thế giới
chỉ sau Hoa Kỳ [160].
ii) Chính sách về hạ tầng KHCN
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sản phẩm R&D giữa
người tạo sản phẩm (tổ chức R&D) và người sử dụng sản phẩm (DN), gần
đây Trung Quốc đã có những đổi mới trong chuyển giao công nghệ; tư vấn
công nghệ; và dịch vụ công nghệ như thiết kế, chế tạo,… ([182], [183]). Một
số chính sách cụ thể gồm:
- Phát triển thị trường KHCN và thúc đẩy phát triển các tổ chức trung
gian: Trung Quốc xây dựng mô hình phát triển thị trường KHCN thông qua
các Trung tâm dịch vụ KHCN thuộc Hiệp hội Thị trường công nghệ; Sàn giao
dịch công nghệ Thượng Hải; Trung tâm Sức sản xuất Quảng Đông. Bên cạnh
đó, Trung Quốc cũng rất quan tâm việc phát triển hệ thống các tổ chức trung
gian, môi giới nhằm tạo quan hệ, kết nối cung-cầu. Hệ thống các cơ quan
trung gian này bao gồm các đơn vị sự nghiệp của nhà nước; các đơn vị thuộc
các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; các tổ chức tư nhân.
- Hoàn thiện cơ chế chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện cho việc
tích hợp và ứng dụng các công nghệ. Thiết lập và hoàn thiện cơ chế thúc đẩy
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống giao dịch IPR. Phát triển mạnh
mẽ các loại tổ chức dịch vụ trung gian KHCN để đáp ứng nhu cầu của DN,
tạo điều kiện cho dòng chảy kiến thức và chuyển giao công nghệ giữa các
DN, và giữa các DN với các trường đại học và viện nghiên cứu. Các phòng
thí nghiệm trọng điểm quốc gia và trung tâm kỹ thuật (nghiên cứu công nghệ)
sẽ được tiếp cận dễ dàng hơn cho các DN [182].
- Chiến lược quyền sở hữu trí tuệ và chiến lược tiêu chuẩn công nghệ.
Tăng cường nhận thức IPR trong khi cho phép các DN, viện nghiên cứu và
trường đại học chú trọng hơn và tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đưa
ra phạm vi rộng lớn cho vai trò quan trọng của các hiệp hội công nghiệp trong
63
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thiết lập và hoàn thiện hệ thống trình độ chuyên
môn việc làm và hệ thống tín dụng công cộng có lợi cho việc bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ [182].
- Xây dựng các khu công nghệ, trung tâm KHCN tập trung:
Các phòng thí nghiệm kỹ thuật quốc gia và trung tâm kỹ thuật ngành
được thành lập tại các viện nghiên cứu hoặc các DN lớn sở hữu khả năng
nghiên cứu và phát triển công nghệ khá mạnh, phối hợp với các trường đại học
và viện nghiên cứu. Khuyến khích các tập đoàn đổi mới công nghệ thuộc nhiều
hình thức khác nhau do các DN khởi xướng, phối hợp với các trường đại học
và viện nghiên cứu, cho mục đích nâng cao năng lực đổi mới công nghệ [182].
Tối ưu hóa môi trường cho CNH CNC và nâng cao năng lực của các cơ
sở CNH CNC, bao gồm cả các khu công nghiệp CNC quốc gia, bằng cách xây
dựng các chính sách thuận lợi không chỉ cho sự phát triển của các khu CNC
cấp quốc gia mà còn giúp thúc đẩy sự phát triển của các khu vực lân cận.
Thiết lập nền tảng thông tin cho trao đổi công nghệ và thông tin thương mại,
và cung cấp hỗ trợ chính sách cho phát triển kỹ thuật và dịch vụ liên quan
thông qua các dịch vụ trung gian của KHCN, bao gồm công viên KHCN đại
học, vườn ươm DN KHCN, trung tâm xúc tiến năng suất và trung tâm chuyển
giao công nghệ [182].
Một sáng kiến hỗ trợ quan trọng khác là việc phát triển công viên khoa
học, khu công nghiệp CNC và trung tâm hợp tác nghiên cứu giữa trường đại
học và ngành công nghiệp, việc phối hợp cùng phát triển công nghệ và quan
hệ đối tác cùng hợp tác. Xác định những yêu cầu kỹ năng mới không chỉ cung
cấp kỹ năng mà còn nhắm tới các ngành nghề phù hợp để tạo ra các kỹ năng
được coi là xác thực nhất cho Trung Quốc. Xây dựng các tổ chức mới nhằm
đáp ứng những thách thức của công nghệ mới xuất hiện trong các viện, trường
và ngành công nghiệp cũng là một nhân tố rất quan trọng. Quá trình này bao
gồm cả việc phá bỏ những cấu trúc cũ và hình thành một cấu trúc mới. Ngoài
việc thúc đẩy các nhóm công nghệ cụ thể và các chương trình hỗ trợ khác
nhằm giúp ngành công nghiệp trong nước, Trung Quốc thúc đẩy xây dựng các
64
tiêu chuẩn riêng của mình như: đạo luật Bayh-Dole cho Trung Quốc, chính
sách ĐMST bản địa của Trung Quốc.
- Xây dựng hệ thống dịch vụ thông tin và phổ biến công nghệ:
Xây dựng hệ thống dịch vụ tích hợp cho DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ bằng
cách hoàn thiện mạng lưới nền tảng dịch vụ công cho DN vừa, nhỏ và siêu
nhỏ; xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin để cung cấp cho các DNVVN các dịch
vụ chuyên biệt liên quan đến khởi nghiệp, đổi mới, tài chính, tư vấn, đào tạo
và tuyển dụng [183].
Tăng cường hỗ trợ cho việc phổ biến công nghệ nông nghiệp thông qua
việc thiết lập các cơ chế mới để phổ biến các công nghệ phù hợp tiên tiến đến
các vùng nông thôn [182].
3.1.3.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Nhằm huy động nhiều nguồn lực, Trung Quốc đã đặt mục tiêu tới sự
thay đổi không chỉ về thành tố đổi mới như các viện nghiên cứu hay tổ chức
giáo dục, đào tạo mà còn củng cố môi trường ĐMST. Đồng thời, các nguồn lực
này đã định hình cốt lõi của chính sách KHCN và ĐMST của Trung Quốc.
Hệ sinh thái cho ĐMST được tăng cường, bao gồm cơ sở hạ tầng tổ
chức như các trường đại học và viện nghiên cứu, nhà cung cấp dịch vụ trung
gian và mối quan hệ giữa các tổ chức này. Trung Quốc có nhiều viện nghiên
cứu, trường đại học và xưởng sản xuất trước khi tiến hành cải cách nhưng hệ
thống này trước đây đã bị quá tải từ trước đó, do thiếu sự liên kết giữa các
thành tố đổi mới, thiếu các dịch vụ hỗ trợ trung gian và việc chuyển từ nghiên
cứu sang ứng dụng còn yếu. Cả viện nghiên cứu cũng như trường đại học đều
rất cần được chuyển đổi. Việc chuyển đổi các tổ chức này đã được hỗ trợ
bằng các chính sách nhằm xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ chuyển đổi. Những
sáng kiến như xây dựng công viên khoa học, cơ hội tài trợ, thiết lập dịch vụ
trung gian,… đã giúp hình thành liên kết và cải thiện hệ sinh thái cho ĐMST.
Hiện nay, việc xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia đặc sắc Trung Quốc nhấn
mạnh yếu tố xây dựng hệ thống đổi mới công nghệ do DN lãnh đạo với sự kết
hợp giữa các DN, trường đại học và viện nghiên cứu, đây là điểm đột phá cho
65
việc xây dựng toàn diện sự đổi mới quốc gia. Chỉ khi một hệ thống như vậy
được dẫn dắt bởi các DN, nó có thể đảm bảo định hướng thị trường đổi mới
công nghệ và kết hợp hiệu quả các thế mạnh nghiên cứu đa dạng hóa công
nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chỉ khi các DN, trường đại
học và viện nghiên cứu làm việc cùng nhau, các nguồn lực KHCN mới có thể
được phân bổ một cách hiệu quả, sức sống của các viện nghiên cứu mới được
kích hoạt và DN có được khả năng duy trì sự đổi mới. Mặc dù cải thiện mạnh
mẽ khả năng đổi mới công nghệ của các DN, nhưng bắt buộc phải thiết lập cơ
chế mới cho phép các viện nghiên cứu và trường đại học cung cấp dịch vụ phù
hợp với nhu cầu của các hoạt động đổi mới công nghệ [182].
3.2. Kinh nghiệm Hàn Quốc
3.2.1. Bối cảnh quốc gia
Hàn Quốc đạt được sự phát triển kinh tế phi thường trong nửa thế kỷ
qua, chuyển mình từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế thâm dụng
công nghệ. Là quốc gia nghèo trong thập niên 1960, nhưng Hàn Quốc đã
nhanh chóng học hỏi, thích nghi và tạo ra các công nghệ tiên tiến cần thiết
cho sự chuyển đổi thành công của nền kinh tế [126]. Tổng sản phẩm quốc dân
bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD năm 1960 lên gần 33.500 USD
năm 2018 [144]. Các tác nhân chủ yếu trong sự phát triển kinh tế nhanh
chóng này là chính phủ, các học viện và các DN tư nhân. Điều quan trọng là
chính phủ đã thực thi chính sách nhập khẩu công nghệ và tài trợ cho các
nhóm R&D trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, và điều đó đã mở
đường cho sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ của Hàn Quốc sau đó [126].
Hàn Quốc là một mô hình rất thành công về tiến bộ kinh tế và phát
triển xã hội thông qua sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống R&D đã góp
phần to lớn vào thành công này thông qua việc mua lại các công nghệ chiến
lược từ nước ngoài và xây dựng năng lực công nghệ quốc gia. Về đầu vào hệ
thống R&D, tổng chi phí R&D tại Hàn Quốc liên tục tăng lên (trừ giai đoạn
khủng hoảng tài chính 1997-1999) và chiếm khoảng 3,5% GDP. Chính phủ
Hàn Quốc đã dần tăng kinh phí dành cho các hoạt động R&D kể từ khi bắt
66
đầu quá trình CNH những năm 1960, tăng từ 1,2 tỷ won năm 1963 lên 10,5 tỷ
won năm 1970. Năm 1980, kinh phí này đã tăng gấp 19 lần chỉ trong 1 thập
kỷ, đạt 211,7 tỷ won (chiếm 0,58% GDP) [126]. Nếu xét theo tỷ lệ trên GDP
dành cho R&D của Chính phủ Hàn Quốc trong vòng gần 20 năm qua (từ năm
2000 đến năm 2017), chúng ta cũng chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh mẽ
từ mức 2,18% ở đầu kỳ lên tới mức 4,553% ở cuối kỳ, đạt tỷ lệ cao nhất so
với các nước trên thế giới vào năm 2017, tỷ lệ này của Hàn Quốc đã vượt qua
Israel để vươn lên đứng đầu thế giới với 4,553% GDP dành cho hoạt động
R&D (Hình 3.3).
Hình 3.3. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Hàn Quốc
Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm (2019)
Cùng với việc kinh phí dành cho R&D tăng rất nhanh kể từ khi tái thiết
nền kinh tế từ năm 1960, phần đóng góp cho kinh phí R&D giữa khu vực
công và khu vực tư nhân cũng thay đổi nhiều trong giai đoạn này và càng
ngày tỷ lệ kinh phí dành cho R&D của khu vực tư nhân ngày càng vượt trội
so với khu vực công. Chính phủ chi phối nguồn chi tiêu R&D trước 1980, sau
đó, khu vực tư nhân liên tục mở rộng đóng góp, chiếm 70-80% chi phí R&D
so với mức 20-30% của chính phủ. Về thực hiện R&D (trong tổng chi phí
R&D) các DN chi tiêu khoảng 80%, các viện nghiên cứu công lập khoảng
67
10% và các trường đại học khoảng 10%. Các DN lớn luôn dẫn đầu về đầu tư
R&D trong khu vực tư nhân, đầu tư R&D của các DNVVN đã tăng nhẹ từ
năm 1990. Các công ty liên doanh đầu tư số tiền tương đương với các
DNVVN vào R&D trong những năm đầu thế kỷ XXI [126].
Sự phát triển của hệ thống R&D tại Hàn Quốc có thể được chia thành
hai giai đoạn [126]:(i) giai đoạn 1 là từ năm 1960 đến đầu nững năm 1980,
trong giai đoạn này Chính phủ đóng vai trò chủ yếu; và (ii) giai đoạn 2 là từ
những năm 1990 đến nay, với vai trò chủ đạo là các khu vực tư nhân. Trong
giai đoạn đầu tiên, Chính phủ ghi dấu ấn của mình lên các khu vực tư nhân để
nâng cấp và cải tiến khả năng nghiên cứu công nghệ trong các khu vực này,
bằng cách xây dựng các viện nghiên cứu công cần thiết và đầu tư cho lĩnh vực
giáo dục và R&D. Trong giai đoạn sau, các công ty tư nhân, các tập đoàn lớn
như các Chaebols đóng vai trò dẫn dắt NIS. Tuy nhiên, ngay cả trong giai
đoạn sau, Chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng của mình trong việc củng cố
hệ thống R&D quốc gia. Chính phủ tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ giữa ba thành
phần chính: chính phủ, trường Đại học/Viện nghiên cứu và các DN tư nhân để
đạt được khả năng hiệp lực của quá trình đầu tư, và cung cấp những ưu đãi về
thuế và tài chính cho những DN hoạt động trong các ngành công nghiệp liên
quan đến công nghệ.
Có thể thấy mô hình phát triển của hệ thống R&D tại Hàn Quốc đã
mang lại hiệu quả to lớn, dựa trên việc mở rộng liên tục nguồn đầu tư của quỹ
R&D và nguồn nhân lực cũng như đa dạng hóa những tác nhân thực hiện hoạt
động R&D như các viện nghiên cứu của DN, các viện nghiên cứu của chính
phủ (GRI) và các trường đại học. Hệ thống R&D đã thích nghi và biến đổi
thành công, đáp ứng những thay đổi trong điều kiện và nhu cầu KT-XH trong
quá trình tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế đất nước, cung cấp các
công nghệ phù hợp cho phát triển công nghiệp. Sự can thiệp có tính chiến
lược của chính phủ cũng là một tác nhân quan trọng cho việc chuyển đổi hệ
thống R&D thành công trong suốt 5 thập kỷ qua. Khung hành chính KHCN
của chính phủ cũng tiếp tục phát triển để đảm bảo sự phối hợp thành công
68
giữa các cơ quan phụ trách R&D của các bộ, ngành khác nhau chịu trách
nhiệm cho việc mở rộng liên tục đầu tư R&D và các tác nhân thực hiện R&D
[91]. Sự mở rộng liên tục của nền kinh tế dựa trên xuất khẩu và định hướng
cho các Chaebol (tập đoàn lớn) được hưởng các điều kiện thị trường toàn cầu
thuận lợi trong quá trình tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc của động lực cho sự
vận hành của hệ thống R&D tại Hàn Quốc [91]. Chính phủ đã thúc đẩy phát
triển KHCN bằng các dự án nghiên cứu lớn của quốc gia. Những dự án này
được mở rộng vào những năm 1990 với kế hoạch cho các dự án quốc gia tiên
tiến (HAN), hay còn gọi là các dự án của G7, với mục đích thúc đẩy Hàn
Quốc tiến vào hàng ngũ nhóm bảy quốc gia hàng đầu thế giới. Ủy ban Kế
hoạch G7 của Hàn Quốc đã chọn các dự án theo tiêu chí về mức độ phát triển
của các ngành công nghiệp chiến lược [145].
Sự phát triển của hệ thống R&D của Hàn Quốc được xem như một mô
hình thành công nổi tiếng của hệ thống KHCN để công nghiệp hóa các nước
đang phát triển. Mô hình này cũng đã được giới thiệu như trường hợp chuẩn
của các hệ thống quản trị công nghiệp KHCN (STI) tinh hoa nhất trong số các
quốc gia OECD. Tương lai hệ thống R&D của Hàn Quốc hiện đang được xem
xét để tái cấu trúc hoặc điều chỉnh cho nó hiệu quả hơn, đóng góp tốt hơn cho
phát triển KT-XH. Vấn đề hiện tại của hệ thống gồm sự phối hợp của các bộ,
ngành và các tổ chức R&D, mở rộng nghiên cứu cơ bản chiến lược, nâng cao
nguồn nhân lực R&D, chuyên môn hóa GRI, nâng cao năng lực các viện
nghiên cứu của DN và kích hoạt quan hệ đối tác công tư giữa các GRI, các
trường đại học và viện nghiên cứu của DN.
3.2.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho
khoa học và công nghệ
Trong những năm 1960, Hàn Quốc phụ thuộc hoàn toàn vào các nước
tiên tiến về cơ sở sản xuất và công nghệ. Các nguồn chính để nhập khẩu công
nghệ là Hoa Kỳ và Cộng hòa Liên bang Đức. Năm 1965, một thỏa thuận Hàn
Quốc-Nhật Bản đã dẫn đến các quan hệ ngoại giao được kết nối lại và Hàn
Quốc đã giành được quyền yêu cầu bồi thường từ Nhật Bản. Kết quả là có
69
một dòng vốn đáng kể trong 10 năm từ Nhật Bản, bắt đầu từ năm 1966, khiến
Nhật Bản trở thành nguồn cung cấp công nghệ chính cho Hàn Quốc với số
lượng nhập khẩu công nghệ tăng lên rất mạnh mẽ [68]. Quan điểm thiết kế
chính sách KHCN trong những năm 1970 là tập trung vào sự thích ứng và cải
tiến các công nghệ nhập khẩu và thiết lập các hệ thống R&D tư nhân. Trong
giai đoạn này, đầu tư chung của dòng vốn trong và ngoài nước đã được thúc
đẩy, gắn với sự xem xét, đánh giá về hiệu quả lan truyền của nó đối với công
nghệ trong nước. Nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài hóa ra lại không thực sự
hiệu quả trong việc phổ biến công nghệ nước ngoài. Do đó, chính phủ ban
hành luật về đầu tư vốn nước ngoài, trong đó bổ sung một số hạn chế về các
điều khoản và điều kiện đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi khuyến khích
nhập khẩu công nghệ [68].
Sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất
trong những năm 1970 đã nhanh chóng làm tăng nhu cầu về công nghệ tiên
tiến của nước ngoài. Dự trữ ngoại hối của Hàn Quốc đã tăng đáng kể từ giữa
những năm 1970 và chính phủ nhận ra rằng, để tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ
hơn nữa, cần phải chuyển trọng tâm sự lãnh đạo của mình trong phát triển
kinh tế và công nghệ sang các ngành công nghiệp. Những yếu tố này, cùng
với xu hướng tự do hóa thương mại và đầu tư nước ngoài, buộc chính phủ
Hàn Quốc từng bước thực hiện chính sách tự do hóa công nghệ và nhập khẩu
vốn. Nhờ đó, những năm 1980, đất nước này đã có bước tiến khác hướng tới
mục tiêu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. Trong thành tựu của quá
trình thực hiện mục tiêu này, KHCN đã đóng một vai trò tích cực, dẫn đầu,
thay vì hỗ trợ, cho tăng trưởng kinh tế. Những chính sách hỗ trợ đáng kể được
dành cho giáo dục đại học, khoa học cơ bản cũng như ứng dụng, và nghiên
cứu về khoa học cơ bản của các trường đại học [126].
Chính phủ Hàn Quốc xác định mục tiêu dài hạn của KHCN phải phù
hợp với mục tiêu phát triển quốc gia. Mục tiêu phát triển quốc gia được tuyên
bố là đạt được thứ hạng ngang bằng với các nước phát triển, phấn đấu đứng
thứ 15 của thế giới về tổng sản phẩm quốc gia (GNP) và đứng thứ 10 thế giới
70
về khối lượng thương mại [68]. Để bù đắp cho nguồn tài nguyên thiên nhiên ít
ỏi của đất nước, mục tiêu cần thiết cho KHCN là trở thành không gian đổi
mới, sáng tạo, lọt vào top 10 thế giới trong lĩnh vực công nghệ công nghiệp.
Do hạn chế về nguồn lực sẵn có, các khu vực ưu tiên cần được thiết lập thông
qua việc xem xét, đánh giá nhu cầu quốc gia và lợi thế so sánh. Với quan
điểm xác định vai trò của KHCN là dẫn dắt sự phát triển của quốc gia và hỗ
trợ các nhu cầu phát triển KT-XH, từ đó các chính sách được thiết kế theo
hướng cơ bản này, bao gồm nhân lực, đầu tư, hệ thống R&D quốc gia, hệ
thống thông tin công nghệ, cơ chế hỗ trợ tài chính và thuế, tạo ra một thị
trường cho các sản phẩm công nghệ mới, tăng cường công nghệ cho DN nhỏ,
hình thành các khu vực R&D, xây dựng văn hóa xã hội theo định hướng công
nghệ, và quốc tế hóa KHCN và hợp tác quốc tế. Trên cơ sở đó, xác định mục
tiêu phát triển nguồn nhân lực, nhất là các nhà khoa học và kỹ sư cho R&D,
tăng ngân sách và thúc đẩy đầu tư vào R&D, trong đó chính phủ và khu vực
công sẽ chịu trách nhiệm cho 30-40% của tổng số, và khu vực tư nhân cho
60-70% còn lại, với các công cụ chính sách kích thích sẽ được cải thiện [68].
Ưu tiên hàng đầu trong đầu tư R&D sẽ được dành cho các lĩnh vực có lợi
nhuận kỳ vọng cao, tính liên kết và tính hướng ngoại cao, tính tất yếu và khả
năng thành công cũng như lợi ích công cộng cao [68].
Để phân chia hoạt động R&D một cách hiệu quả, các DN công nghiệp
sẽ đầu tư cho các công nghệ công nghiệp, trong khi các viện quốc gia và công
lập chịu trách nhiệm về nghiên cứu ứng dụng và các dự án quốc gia có rủi ro
cao và hợp tác với bên ngoài, còn các trường đại học tập trung cho nghiên cứu
cơ bản và phát triển nhân lực, cũng như hợp tác với các viện và các ngành
công nghiệp. Để tích hợp giáo dục và nghiên cứu, đặc biệt là trong các lĩnh
vực điều khiển máy móc bằng máy tính, các cơ sở R&D được xây dựng ở
nhiều khu vực khác nhau để tạo thành một mạng lưới. Phát triển công nghệ ở
cấp khu vực đã góp phần quan trọng vào sự phát triển cân bằng của Hàn
Quốc. Trong thế kỷ XXI, các ngành công nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát triển
mạnh mẽ để tạo thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, bởi vì cấu trúc
71
kinh tế sẽ thay đổi thành một trong những “nền kinh tế đa dạng” thay vì “nền
kinh tế có quy mô”. Do đó, các hệ thống hỗ trợ liên quan đến tài chính, thuế,
thông tin và các biện pháp mua sắm công sẽ được đặc biệt dành cho việc tăng
cường công nghệ cho các ngành công nghiệp nhỏ và vừa [68].
3.2.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ
Chính phủ hỗ trợ hiện đại hóa và nâng cấp công nghệ của các ngành
công nghiệp trong nước bằng cách dần dần thúc đẩy việc tạo ra các khả năng
KHCN trong nước và bằng cách hỗ trợ học tập. Trong giai đoạn đầu tiên,
chính phủ tập trung vào kỹ thuật đảo ngược và học hỏi từ thực tiễn tốt nhất
nước ngoài; từ những năm 1970, họ đã đầu tư vào việc thành lập các viện
nghiên cứu của chính phủ để ủng hộ sự phát triển của năng lực trong nước. Từ
những năm 1980, chính phủ đã tiến hành R&D và thúc đẩy khu vực tư nhân
đầu tư vào R&D. Đến thập niên 1990, các chaebols (tập đoàn Hàn Quốc), đã
cam kết cao đối với R&D và chính phủ đã mở rộng hỗn hợp chính sách cho
R&D để bao gồm hỗ trợ kinh doanh mạo hiểm phù hợp với nhu cầu gia tăng
từ khu vực tư nhân [164].
Chính phủ là nguồn chi tiêu R&D chi phối trước năm 1980. Kể từ đó,
khu vực tư nhân tiếp tục mở rộng đóng góp, đăng ký 76% tổng chi phí R&D
trong năm 2006 so với 24% của chính phủ. Tuy nhiên, trong năm 2009, tỷ lệ
khu vực chính phủ và tư nhân là 29:71, cho thấy chính phủ đang tăng đầu tư
R&D để thúc đẩy chi tiêu R&D nhiều hơn [91]. Vai trò của các trường đại
học trong nghiên cứu cơ bản trở nên quan trọng hơn và các mối liên kết học
thuật trong ngành được khuyến khích. Khu vực tư nhân nhận ra sự cần thiết
phải phát triển các công nghệ cần thiết cho các ngành công nghiệp tri thức
trong tương lai và hướng công việc của các viện nghiên cứu của họ theo
hướng này. Nó cũng bắt đầu làm việc với GRI và các trường đại học trong
quan hệ đối tác chiến lược để phát triển cơ sở công nghệ trong nước và tham
gia Hệ thống đổi mới quốc gia (NIS) [91].
72
Năm 1981, Luật Xúc tiến Phát triển Công nghệ năm 1972 đã được sửa
đổi để thúc đẩy thành lập các DNVVN và phòng thí nghiệm của các DN lớn,
dẫn đến việc mở rộng nhanh chóng chi tiêu R&D tư nhân. Do các ưu đãi về
thuế và tài chính, việc thực thi Luật đã thúc đẩy các DN kinh doanh tài trợ cho
các hoạt động R&D của chính họ một cách độc lập và cùng với các viện nghiên
cứu công lập. Không chỉ chi phí R & D của tư nhân mà của cả các viện nghiên
cứu do chính phủ tài trợ cũng tăng mạnh do hai nhóm dự án chính của quốc
gia: Các Dự án của Chính phủ và Các Dự án chung của Chính phủ-DN [126].
Hàn Quốc đã cho thấy một mô hình rất thành công về tiến bộ kinh tế và
phát triển xã hội thông qua sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống R&D của
quốc gia đã góp phần vào thành công này thông qua việc mua lại chiến lược
công nghệ nước ngoài và quy trình xây dựng năng lực quốc gia. Hệ thống
R&D phản ánh nhu cầu kinh tế xã hội của đất nước liên tục thay đổi trong nền
kinh tế toàn cầu, với chính phủ thực hiện vai trò chính là quản lý tăng tốc và
tạo điều kiện cho R&D đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
3.2.3.1. Chính sách trọng cung
Để giảm chi phí R&D cho các DN tư nhân, Chính phủ đã thành lập
Quỹ Dự trữ cho R&D vào năm 1973, bắt đầu miễn thuế và áp dụng tỷ giá
thấp khi mua thiết bị phục vụ cho các hoạt động R&D vào năm 1976 [126].
Trong những năm đầu của thập kỷ 80, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu chuyển
sự chú ý sang hệ thống sáng tạo định hướng bởi khu vực tư nhân, và việc phát
triển các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao. Trong năm 1981, Luật
Thúc đẩy Phát triển Công nghệ ban hành lần đầu vào năm 1972 đã được sửa
đổi để ủng hộ cho việc thành lập các DNVVN, cùng với các phòng thí nghiệm
thuộc các DN lớn, đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng của chi phí cho R&D
trong khu vực tư nhân [148]. Nhờ những hỗ trợ về thuế và tài chính, việc thực
thi Luật này đã thúc đẩy các DN bỏ kinh phí thực hiện các hoạt động R&D
theo các hình thức độc lập hoặc kết hợp với các viện nghiên cứu công lập. Chi
phí cho R&D của khu vực tư nhân cùng với chi phí cho R&D của các Viện
73
nghiên cứu công lập tăng nhanh chóng nhờ hai dự án quốc gia chính: Dự án
của Chính phủ và Dự án Kết hợp giữa Chính phủ và DN [68].
Bắt đầu từ giữa những năm 1980, khu vực tư nhân đóng vai trò chủ yếu
trong NIS, trong khi Chính phủ bắt đầu chuyển dịch dần sang vai trò hỗ trợ
cho các hoạt động R&D và đóng vai trò kết nối các thành tố tham gia hệ
thống này để phù hợp với môi trường kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi. Trước
tiên, Hàn Quốc đã mất vị thế cạnh tranh về các ngành công nghiệp dựa trên
nguồn nhân công giá rẻ, khi chi phí nhân công tăng trưởng với tốc độ trung
bình khoảng 5,8% vào những năm 1960 và 7,5% vào những năm 1970. Thứ
hai, các quốc gia phát triển như Nhật Bản ngày càng hạn chế việc chuyển giao
công nghệ cho Hàn Quốc, do các công ty Hàn Quốc đang ngày càng thâm
nhập sâu vào các lĩnh vực mà Nhật Bản đang chiếm ưu thế [134]. Do những
thay đổi trong môi trường kinh doanh quốc tế, Chính phủ Hàn Quốc cần phải
đề xuất những thay đổi về chính sách phát triển kinh tế, chủ yếu hướng đến
nền kinh tế thị trường thay vì nền kinh tế được định hướng và can thiệp bởi
chính phủ và phát triển những ngành công nghiệp đã có từ lâu đời.
Vì vậy, rất nhiều những loại ưu đãi về thuế đã bắt đầu được thực thi vào
những năm 1980, cho thấy nỗ lực của Chính phủ Hàn Quốc trong việc chuyển
giao vai trò lãnh đạo trong việc phát triển công nghệ của mình sang các công
ty tư nhân; ví dụ như việc loại bỏ các giới hạn trên trong các ưu đãi về thuế khi
sử dụng Quỹ Dự phòng cho R&D; miễn thuế cho các hoạt động R&D và đào
tạo; miễn thuế thuê đất ở địa phương khi xây dựng các Viện nghiên cứu R&D
vào năm 1981; giảm nghĩa vụ thuế đối với nhập khẩu thiết bị R&D vào năm
1982; và tín dụng thuế đối với những hoạt động phát triển nguồn nhân lực vào
năm 1986. Cùng với những chính sách hỗ trợ về thuế cho các hoạt động R&D,
việc giảm tỷ lệ thuế lợi tức từ 40% vào năm 1980 xuống 30% vào năm 1988
cũng đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động R&D của mình [126].
74
Bảng 3.2. Một số chính sách ƣu đãi thuế để thúc đẩy các hoạt động liên quan đến R&D của Hàn Quốc
Giai đoạn
Thúc đẩy việc thành lập vốn mạo hiểm
Thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ
Thúc đẩy việc thƣơng mại hóa R&D
1960 Miễn
thuế hoặc giảm phần trả cho việc khẩu nhập công nghệ
1970 Miễn
thuế hoặc giảm doanh thu từ các hoạt động R&D (1975)
Miễn thuế và tỷ suất khấu hao xã hội đối với các tài sản từ công nghệ mới được thương mại hóa (1973);
Miễn thuế thu nhập đối với các dịch vụ thuật tư vấn kỹ (1975)
1980 Miễn thuế thu nhập cho các nhà nghiên cứu và kỹ sư nước ngoài (1980)
Hệ thống quỹ dự trữ cho các suất đầu tư bị mất vào các DN có vốn đầu tư mạo hiểm (1980);
Ưu đãi thuế đặc biệt cho các DN vừa và nhỏ hoạt động liên đến R&D quan (1985)
Loại bỏ phần tăng vốn từ phần doanh thu bị đánh thuế đối với các DN có vốn đầu tư mạo hiểm (1982)
Miễn thuế đặc biệt đối với các mẫu thử để thí thực hiện trong các nghiệm nghiên cứu
2000 Miễn thuế đối với các sáng chế lên đến 50% doanh thu từ việc có được chuyển nhượng quyền sở hữu
Miễn thuế địa phương đối với việc sử dụng tài sản tại địa phương cho các Viện nghiên cứu; Giảm thuế cho việc đầu tư trang thiết bị trong các phòng thí nghiệm phục vụ cho nghiên cứu
Nguồn: Jiwon và cộng sự [126]
Tín dụng thuế đối với những suất đầu tư cho cơ sở hạ tầng liên quan
đến R&D và sự phát triển nguồn nhân lực được đưa ra vào những năm 1990.
75
Tuy nhiên, do quá trình toàn cầu hóa diễn ra trong những năm này, cùng với
sự trưởng thành của hệ thống WTO, khiến cho Chính phủ Hàn Quốc phải tiếp
tục việc bãi bỏ các chế định [134]. Vì thế, một số chương trình ưu đãi thuế
được triển khai trong thời kì CNH trước đó đã phải bãi bỏ. Bảng 3.2 thể hiện
các loại hình ưu đãi thuế khác nhau được đưa ra bởi Chính phủ để thúc đẩy
các hoạt động liên quan đến R&D.
Trong những năm 2000, chính sách ưu đãi thuế cho sự phát triển các
hoạt động liên quan đến R&D và nguồn nhân lực lại bắt đầu được tái khởi
động. Một số ví dụ cho các chính sách này bao gồm việc miễn giảm thuế thu
nhập từ việc chuyển giao công nghệ, ưu đãi thuế cho các DNVVN mới thành
lập, và tín dụng thuế đối với việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng để phát triển công
nghệ và nguồn nhân lực. Để có thể hưởng các ưu đãi này, các công ty đã mua
bản quyền sáng chế sẽ được miễn thuế lên tới 3% (7% đối với trường hợp
DNVVN) trên tổng hợp đồng, và 3% chi phí mua lại sẽ được miễn giảm trong
trường hợp máy móc, thiết bị, việc cài đặt hệ thống quản lý thông tin và hệ
thống bảo vệ an toàn thông tin. Chính phủ đã bắt đầu hỗ trợ cho các DNVVN
từ những năm 1970, nên các DN này đã nhận được các ưu đãi về thuế, bao
gồm việc giảm thuế thu nhập hoặc thuế lợi tức của các DNVVN nằm ngoài
Seoul, lên tới 50% trong 4 năm kể từ khi thành lập, và thuế địa phương bao
gồm việc giảm thuế tài sản 50% trong 5 năm [126].
3.2.3.2. Chính sách trọng cầu
Tuy có nhiều thành tựu và tiến bộ nhanh chóng trong R&D, Hàn Quốc
vẫn có một chặng đường dài phía trước về thương mại công nghệ, vì Hàn
Quốc đã phải đối mặt với những thiếu sót trong lĩnh vực này trong mọi ngành
công nghiệp. Dù quy mô có tăng lên, lượng giao dịch công nghệ của Hàn
Quốc vẫn thấp hơn nhiều so với các nước phát triển khác, như Mỹ, Đức và
Nhật Bản. Lượng giao dịch công nghệ của Hàn Quốc trong năm 2008 so với
các quốc gia này lần lượt là 1/17.8, 1/11.8 và 1/3.3 ([159], [161]).
Ngành công nghiệp cho thấy thâm hụt lớn nhất trong thương mại công
nghệ là điện tử, mặc dù nó ghi nhận lượng xuất khẩu công nghệ lớn nhất,
76
chiếm 68,5% tất cả xuất khẩu công nghệ. Điện tử chiếm khoảng một nửa tổng
thâm hụt thương mại công nghệ của Hàn Quốc trong suốt những năm 2000.
Ngành công nghiệp máy móc là ngành xuất khẩu công nghệ lớn thứ hai, với
tỷ lệ 20%. Mặc dù ngành công nghiệp điện tử đã dẫn đầu xuất khẩu công
nghệ, nhưng nó nhập khẩu một lượng lớn công nghệ từ nước ngoài, chiếm
58,4% tổng lượng nhập khẩu công nghệ trong năm 2009 ([159], [161]). Ngay
cả khi giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp điện tử là tương đối đáng kể so
với các ngành công nghiệp khác, lượng xuất khẩu công nghệ tuyệt đối vẫn
chậm hơn so với nhập khẩu công nghệ.
Chính sách trọng cầu của Hàn Quốc hướng tới tăng cường xuất khẩu
sản phẩm công nghệ. Bên cạnh thương mại công nghệ, định hướng chính sách
R&D của Hàn Quốc có thể liên quan đến xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng
công nghệ. Các chính sách R&D của Hàn Quốc đã thực sự góp phần phát
triển các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ của Hàn Quốc kể từ giữa
những năm 1980. Ngành công nghiệp CNTT phát triển theo cách này bắt đầu
dẫn đầu xuất khẩu Hàn Quốc từ những năm 1990. Cùng với ô tô, các sản
phẩm CNTT như bán dẫn, màn hình tinh thể lỏng (LCD) và thiết bị cầm tay
dẫn đầu xuất khẩu Hàn Quốc hiện nay [126].
3.2.3.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ
* Chính sách phát triển nhân lực KHCN
Tại Hàn Quốc, Luật Giáo dục đã được ban hành vào năm 1949, khiến
giáo dục tiểu học bắt buộc và ngân sách dành cho học phí ngày càng tăng sau
Chiến tranh Triều Tiên [140]. Ngoài ra, giáo dục trung học cơ sở trở thành bắt
buộc vào năm 1985 và dần dần mở rộng cho tất cả học sinh cấp hai ở Hàn
Quốc vào năm 2004. Hiện tại, Hàn Quốc là một trong những nước có tỷ lệ cao
nhất về dân số theo học các trường cao đẳng [163]. Bên cạnh đó, khuyến
khích giáo dục đại học, xây dựng nguồn nhân lực thông qua chương trình đào
tạo nghề cũng là một phần trong nỗ lực của Chính phủ. Là một quốc gia theo
đuổi công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu, Chính phủ lấy một số chương
trình quản lý nguồn nhân lực từ đào tạo nghề đến các trường kỹ thuật trung
77
học trong những năm 1960 và 1970 [126]. Đặc biệt, Luật Dạy nghề ban hành
năm 1967 cho phép Chính phủ xây dựng 26 trường dạy nghề công cộng và đã
đào tạo hơn 350.000 người, chia sẻ khoảng 3% lực lượng lao động vào năm
1986. Cấp trợ cấp cho các công ty tư nhân liên quan đến các chương trình đào
tạo tại nhà máy cũng tạo điều kiện thực hiện các kỹ năng cần thiết cụ thể cho
từng ngành [126]. Trong những năm 1980, các trường cao đẳng kỹ thuật hai
năm và các trường đại học bốn năm sẽ đào tạo những công nhân và kỹ thuật
viên lành nghề để tăng nguồn cung lao động cần thiết cho các ngành công
nghiệp thâm dụng công nghệ [134]. Chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu
Cao cấp về Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (Korean Advanced Institute of
Science and Technology- KAIST) vào năm 1971 với sự hỗ trợ tài chính đầy
đủ cho ngân sách hoạt động để tạo ra những thạc sĩ và tiến sĩ về khoa học và
kỹ thuật [140]. Nhiều nhà khoa học và kỹ sư nam trẻ tuổi đã được trao đặc
quyền miễn nghĩa vụ quân sự, kéo dài đến hai năm [145]. Các cơ hội học
bổng cũng được cung cấp cho sinh viên đại học và sau đại học để thu hút sinh
viên tài năng vào lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. Với nỗ lực của Chính phủ, số
lượng các nhà nghiên cứu đã tăng trưởng một cách đều đặn.
* Chính sách phát triển hạ tầng KHCN
- Phát triển các trung tâm tri thức
Chính phủ Hàn Quốc còn thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Hàn
Quốc (KIST), là viện nghiên cứu đa lĩnh vực đầu tiên tại Hàn Quốc vào năm
1966, và nó bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1969. Với vai trò là viện nghiên
cứu công lập đầu tiên, KIST đóng vai trò tiên phong trong việc phát triển công
nghệ trong lĩnh vực ô to, điện tử, cơ khí, đóng tàu, lọc hóa dầu, sản xuất thép,
các kim loại không phải sắt, và các công nghệ có thể xuất khẩu khác. KIST tạo
ra nhiều lợi ích cho phép cung cấp thông tin và công nghệ đã có đến những nhà
nghiên cứu R&D có kinh nghiệm cũng như cho nền công nghiệp [78].
Ngoài ra, KIST cũng là hạt nhân trong hệ thống R&D Quốc gia của
Hàn Quốc, và đóng vai trò như là một mô hình nền móng cơ bản bằng cách
cung cấp các nghiên cứu đánh giá tính khả thi của công nghệ, đặc biệt là cho
78
ngành công nghiệp hoá chất và ngành công nghiệp nặng trong những năm
1970. Nhận thức được các hạn chế của ngành công nghiệp dựa chủ yếu vào
nguồn nhân công, và với tình hình giá nhân công ngày càng tăng, Chính phủ
Hàn Quốc mạnh mẽ tiến hành phát triển các ngành công nghiệp nặng và công
nghiệp hoá chất đem lại giá trị cao hơn từ năm 1973. Quá trình này được tiếp
tục tiến hành cho đến cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 [145].
Một số ngành công nghiệp nặng chính được quan tâm là ngành công nghiệp
sản xuất gang thép, cơ khí, đóng tàu, điện tử, hóa dầu và các kim loại không
phải sắt. Ngay sau khi thành lập KIST, Bộ Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc
cũng được thành lập vào năm 1967 [140]. Trong suốt thời kỳ này, việc nội địa
hóa công nghệ nhập khẩu và nghiên cứu đảo ngược là những chính sách về
KHCN chính của Hàn Quốc.
Mặc dù KIST đóng vai trò chính trong việc tiến hành các hoạt động
nghiên cứu R&D cho đến giữa những năm 1970, nhưng một Viện nghiên cứu
đơn độc khó có thể đáp ứng được số lượng rất lớn các nhu cầu nghiên cứu từ
các ngành công nghiệp đang phát triển. Vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã ban
hành một đạo luật để thúc đẩy việc thành lập các Viện nghiên cứu đặc biệt
được Chính phủ hỗ trợ, cho phép cung cấp các giải pháp công nghệ cho từng
ngành công nghiệp cụ thể vào năm 1974, và thành lập các viện nghiên cứu
công lập trong những năm 1970 [68]. Một số Viện nghiên cứu công lập đã
được thành lập và phát triển sau khi đạo luật này được ban hành: Viện Nghiên
cứu Cao cấp về Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KAIST) được thành lập
vào năm 1971, đã góp phần đào tạo rất nhiều các nhà khoa học trẻ và tài năng;
Viện Nghiên cứu về An toàn Hạt nhân Hàn Quốc (Korea Institute of Nuclear
Safety- KINS); Viện Nghiên cứu về Nhân sâm và Thuốc lá Hàn Quốc, Viện
Nghiên cứu về Hoạch định và Đánh giá Công nghệ Hàn Quốc; cùng với các
Viện nghiên cứu khác.
Để hỗ trợ cho các ngành công nghiệp khác nhau thuộc lĩnh vực công
nghiệp nặng và hóa chất, Chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu Máy móc
và Vật liệu Hàn Quốc, Viện Hóa học và Viện Nghiên cứu Đóng tàu Hàn Quốc
79
trong giữa những năm 1970 ([78], [84]), ngay sau khi ban hành Kế hoạch
Thúc đẩy Công nghiệp Nặng và Hóa chất. Các Viện nghiên cứu công lập này
cung cấp các công nghệ cho các ngành công nghiệp nặng và hóa chất, làm cơ
sở cho việc trở thành các ngành công nghiệp xuất khẩu hàng đầu của Hàn
Quốc trong những thập kỷ sau.
Trong những năm 1980, các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến như
các linh kiện điện tử, máy tính, chất bán dẫn, các máy móc và ô tô phát triển
mạnh mẽ trong giai đoạn này. Viện Nghiên cứu Công nghệ Điện tử Hàn Quốc
(Korea Institute of Electronics Technology- KIET) được thành lập vào năm
1976 đóng vai trò là một viện nghiên cứu hoàn toàn dành cho việc phát triển
các công nghệ liên quan đến ngành công nghiệp điện tử. KIET tham gia vào tất
cả các cuộc thương lượng nhập khẩu công nghệ giữa các DN Hàn Quốc và các
DN nước ngoài, và cung cấp cho các nhu cầu của các khu vực tư nhân [126].
Viện Nghiên cứu điện tử và viễn thông (ETRI) được thành lập năm
1985 do sáp nhập KIET và Viện Nghiên cứu Công nghệ Điện tử và Viễn
thông Hàn Quốc (KETRI). ETRI trở thành một công cụ đắc lực cho ngành
công nghiệp điện tử và viễn thông, và đã thực hiện rất nhiều dự án quốc gia,
phát triển các công nghệ mới để thúc đẩy các ngành công nghiệp CNC [52].
Có thể nói, các Viện nghiên cứu của Chính phủ đa phần là khơi mào, hoạch
định và điều phối các nghiên cứu mục tiêu bằng cách quản lý các công nghệ
nhập khẩu, thúc đẩy việc chuyển giao, quản lý các tư vấn nước ngoài, cũng
như tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao và được đào tạo để có thể đáp ứng
được nhu cầu về con người khi quá trình CNH diễn ra.
- Tăng cường hệ thống sở hữu trí tuệ để đảm bảo cạnh tranh
Cũng giống như các quốc gia phát triển khác, Hàn Quốc rất chú trọng
đến việc phát triển và cải tiến hệ thống bảo hộ sáng chế của mình. Hệ thống
bảo hộ sáng chế của Hàn Quốc được thành lập từ năm 1946, và đã được thay
đổi 16 lần kể từ thời điểm đó. Sự thay đổi đáng kể nhất về chính sách bảo hộ
sáng chế của Hàn Quốc là lần thay đổi vào năm 1986, khi chính phủ nước này
mong muốn xây dựng một hệ thống bảo hộ sáng chế mạnh và có hiệu quả hơn
80
để phù hợp với các hệ thống tại các quốc gia phát triển [196]. Bên cạnh đó,
nhu cầu bảo hộ sáng chế tại Hàn Quốc cũng tăng cùng với sự phát triển kinh
tế và công nghệ của nước này. Tại thời điểm đó, nền công nghiệp đang dần
chuyển dịch để đạt được sự phát triển kinh tế bền vững, và do đó chính phủ
Hàn Quốc muốn thúc đẩy hoạt động đầu tư cho R&D thông qua hệ thống bảo
hộ sáng chế. Số lượng bằng sáng chế trong nước và nước ngoài được cấp tại
Hàn Quốc tăng lên đáng kể, đặc biệt là sau lần sửa đổi Luật SHTT vào các
năm 1988 và 1994. Ví dụ, số lượng bằng sáng chế được cấp tại Hoa Kỳ cho
các DN Hàn Quốc năm 1963 là bằng 0, cấp năm 1970 là 3, tăng lên đến 8 vào
năm 1980, và từ 225 bằng sáng chế vào năm 1990 đến 3.944 bằng sáng chế
được cấp vào năm 2003 [196]. Theo một khảo sát của Cơ quan sáng chế Hàn
Quốc (Korean Intellectual Property Office- KIPO) vào năm 2005, tại cùng
thời điểm có tới 8.552 công ty Hàn Quốc nộp đơn đăng ký tại cơ quan này,
cho thấy việc tăng số lượng sáng chế cũng đi kèm với số lượng công ty mong
muốn được bảo hộ quyền sở hữu cho các nghiên cứu của mình [138].
3.2.3.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
- Chính sách hợp tác R&D
Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng và triển khai chính sách hợp tác R&D
cùng với chuỗi các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm ở giai đoạn những năm
60. Đầu tiên, chính phủ Hàn Quốc thiết lập liên danh công nghiệp để kết hợp
các DN với chính phủ. Việc hợp tác R&D thông qua liên danh công nghiệp đã
trở thành kênh truyền tải kiến thức chính cho đến bây giờ. Vì các doanh
nghiệp Hàn Quốc không có đủ các nguồn tài nguyên cũng như khả năng kĩ
thuật để thực hiện chính sách hợp tác R&D một cách triệt để, chính vì vậy
chính phủ Hàn Quốc đã tập trung thiết lập liên danh công nghiệp nhằm mục
đích cung cấp đẩy đủ thông tin tới các doanh nghiệp và giới thiệu các DN câu
chuyện mà các nước tiên tiến đã thực hiên được ([185], [125]). Thứ hai, chính
phủ Hàn Quốc thực hiện triệt để chính sách hợp tác R&D cho phép các doanh
nghiệp Hàn Quốc tham gia vào các dự án hợp tác R&D của chính phủ thông
qua các chương trình hợp tác R&D quốc gia có quy mô lớn vào những năm
81
80. Chính phủ Hàn Quốc cũng tham khảo và học tập theo hệ thống chính sách
hợp tác R&D của Nhật bản, đất nước được coi là có những đường hướng
chính sách đúng đắn như các nước phát triển khác. Vì khá gần với Nhật Bản
về mặt địa lý và lịch sử, Hàn Quốc đã nhanh chóng áp dụng vào chính sách
hợp tác R&D của mình dựa trên hệ thống chính sách của Nhật Bản [178].
- Phát huy vai trò của các tập đoàn lớn- Chaebols
Trong quá trình phát triển của Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và
tăng trưởng kinh tế tại Hàn Quốc, các Chaebols- thuật ngữ chỉ các xí nghiệp
tập đoàn lớn của Hàn Quốc- đã nổi bật lên trong sự tăng trưởng công nghiệp
thần kỳ của Hàn Quốc ([134], [132]). Mặc dù thực tế có thể đúng là các
Chaebols của Hàn Quốc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tăng
trưởng kinh tế và sau đó, nhưng Chính phủ Hàn Quốc cũng góp phần quan
trọng trong việc tạo ra các nhà nghiên cứu có trình độ và kinh nghiệm, cùng
với thiết lập và duy trì các viện và trung tâm nghiên cứu ngay cả trong những
thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, sớm hơn rất nhiều so với các công ty tư
nhân, ví dụ như các Chaebols, bắt đầu tiến hành các hoạt động R&D bằng
chính kinh phí của mình trong những năm 1980 [134].
- Thành lập các Innopolis
Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu xây dựng “Thung lũng Silicon của Châu
Á” với mục tiêu tạo ra các công viên khoa học, được gọi tên là Innopolis,
khởi công vào năm 1979. Thuật ngữ này được tạo ra bằng cách ghép hai từ
"innovation" (nghĩa là “sáng tạo”) và “polis” (nghĩa là “thành phố”). Vào năm
1992, hầu hết cơ sở hạ tầng của Khu Nghiên cứu Daedeok gần như đã được
hoàn chỉnh. Tổng số cơ sở nghiên cứu thuộc Daedeok Innopolis tăng từ 742
đơn vị vào năm 2005 đến 1266 vào năm 2010, tức là tăng tới khoảng 70% chỉ
trong 5 năm. Bên cạnh đó, việc gia tăng số lượng các công ty tư nhân cùng
với số lượng các viện nghiên cứu công lập và các viện nghiên cứu phi lợi
nhuận cũng đáng để ghi nhận. Mặc dù Chính phủ xây dựng nên Daedeok
Innopolis và thành lập các viện nghiên cứu công lập trong khu vực này,
nhưng vài năm sau các công ty tư nhân cũng bắt đầu thiết lập các phòng thí
82
nghiệm R&D của riêng họ để đạt được lợi ích từ việc phối hợp với các Viện
nghiên cứu công lập này [84].
Vào năm 2011, các innopolis tại Gwangju và Daegu cũng được thiết kế
để kích thích sự phát triển trên toàn quốc đối với việc nghiên cứu công nghệ và
thúc đẩy sự kết hợp với các công ty lân cận. Các Innopolis tại các thành phố chính
của Hàn Quốc được kỳ vọng là sẽ đóng góp cho sự phát triển cân bằng của đất
nước đi kèm với những sáng tạo và thương mại hóa đối với các công nghệ có sẵn.
Tính đến tháng 8 năm 2012, lần lượt 382 và 198 đơn vị nghiên cứu (bao gồm các
tổ chức thuộc Chính phủ, các viện nghiên cứu công lập, trường Đại học và các
công ty tư nhân) đã được thành lập tại Gwangju và Daegu [126].
Chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng liên kết NIS với các đầu mối công
nghệ tại các khu vực. Mỗi khu vực được đề xuất phát triển một loại công nghệ
cụ thể, thúc đẩy mối quan hệ giữa các đơn vị nghiên cứu tại từng khu vực với
công nghệ đó, và tạo ra sự phát triển. Ví dụ như khu vực Chungcheong có
Daedeok Innopolis sẽ tập trung phát triển các công nghệ thông tin mới như cơ
điện tử, các công nghệ pin công nghệ cao, trong khi tại khu vực Honam, thuộc
vùng tây nam của Bán đảo Triều Tiên, nơi đặt Gwangju Innopolis, lại tập
trung phát triển các ứng dụng thông tin, ngành công nghiệp ô tô và đóng tàu.
Khu vực Dae-kyung có Daegu Innopolis lại tập trung phát triển các ngành năng
lượng xanh, dược liệu thảo mộc, và phát triển văn hóa và du lịch. Thông qua
việc xây dựng hệ thống hợp tác giữa NIS và các đầu mối công nghệ tại các vùng,
và cùng với việc chuyên môn hóa công nghệ tại mỗi khu vực, Chính phủ Hàn
Quốc đã phân bố công nghệ cân bằng với sự phát triển kinh tế [126].
Vai trò của các trường đại học trong nghiên cứu cơ bản trở nên quan
trọng hơn và các mối liên kết học thuật trong các ngành được khuyến khích.
Khu vực tư nhân nhận ra yêu cầu tất yếu phải phát triển các công nghệ cần
thiết cho các ngành công nghiệp tri thức trong tương lai và hướng công việc
của các viện nghiên cứu của họ theo hướng này. Các DN tư nhân cũng bắt đầu
làm việc với GRI và các trường đại học trong quan hệ đối tác chiến lược để phát
triển cơ sở công nghệ trong nước và tham gia Hệ thống đổi mới quốc gia (NIS).
83
3.3. Kinh nghiệm Israel
3.3.1. Bối cảnh quốc gia
Israel là quốc gia nhỏ tại Trung Đông với dân số khoảng 9,2 triệu người
(năm 2020), là quốc gia duy nhất trên thế giới mà người Do Thái chiếm đa số
(khoảng 73,9%) [124]. Năm 1949, Israel là một thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Sau cuộc chiến tranh giành độc lập vào năm 1948, Israel là một quốc
gia nghèo. Nền kinh tế của quốc gia này bị kiệt quệ do chi phí cho chiến
tranh, cơ sở hạ tầng, đường xá bị phá hủy, sự ra đi của các kỹ sư người Anh,
những người vận hành phần lớn các tài sản quan trọng của quốc gia (các nhà
máy lọc dầu, cảng biển và sân bay), đồng thời phải đối mặt với một thách
thức khổng lồ khi hàng triệu người tị nạn Do Thái trở về từ châu Âu và các
quốc gia A rập [191]. Ngài David Ben Gurion - thủ tướng đầu tiên của Israel,
đã đưa ra định hướng phát triển trong tương lai của quốc gia mình bằng cách
quyết định đặt KHCN là ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Ngay sau khi chiến
tranh kết thúc, ông đã yêu cầu Quân đội thành lập “Ban Chỉ huy Khoa học”
(Science Command), có trách nhiệm duy trì các ưu thế về công nghệ của
Israel so với các kẻ địch của nước này. Ban Chỉ huy này sau đó đã trở thành
một bộ phận của Bộ Quốc phòng Israel, và được gọi tắt là RAFAEL. Bộ phận
này sau đó đã trở thành một công ty quốc doanh vào đầu những năm 2000.
Công nghệ được “chảy” (spillover) ra từ RAFAEL bắt đầu từ những năm
1960, khi các nhà khoa học và kỹ sư được đào tạo bởi RAFAEL rời khỏi cơ
quan này và bắt đầu xây dựng các DN riêng, chủ yếu trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication
Technology- ICT). Một số công ty vẫn đang vận hành thành công trong lĩnh
vực này cho đến tận bây giờ, ví dụ như Elbit System [191].
Kinh tế ổn định nhưng năng động, nghiên cứu học thuật cấp cao, văn
hóa sáng tạo sâu rộng, cũng như hệ sinh thái của Israel là các yếu tố làm cho
Israel trở nên lý tưởng cho nỗ lực R&D trong tất cả các lĩnh vực và tất cả các
ngành công nghiệp, tạo được sự hấp dẫn cho các công ty đa quốc gia [153].
Theo thống kê của OECD năm 2019, chi tiêu của Israel cho R&D tính theo
84
phần trăm GDP là đều đạt ở mức cao nhất thế giới trong suốt giai đoạn 2008-
2018. Năm 2018, chi tiêu cho R&D đạt 4,545% GDP, cao hơn nhiều so với
mức trung bình 2,372% của OECD [167]. Những đặc điểm nổi bật của cộng
đồng nghiên cứu Israel đã tạo thành động cơ đằng sau nền công nghiệp R&D
của nước này [153]:
- Đứng thứ nhất thế giới về số lượng nhà nghiên cứu trên một triệu dân
(2018).
- Đứng thứ nhất thế giới về số lượng kỹ sư trên đầu người (2017).
- Đứng thứ nhất thế giới chi tiêu cho R&D tính theo phần trăm GDP
(2018).
- Đứng thứ hai thế giới về khả năng đầu tư mạo hiểm (2018).
- Đứng thứ ba thế giới về đổi mới (2017).
- Đứng thứ ba thế giới về chất lượng của các viện nghiên cứu khoa học
(2017).
- Đứng thứ ba thế giới về chi tiêu của DN cho R&D (2018).
Sau hơn bốn thập kỷ phát triển, Israel đã trở thành một trong những quốc
gia công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới và là trung tâm đổi mới toàn cầu.
Israel đứng thứ 2 về đổi mới trong số 138 nền kinh tế được nêu trong Báo cáo
cạnh tranh toàn cầu của WEF (World Economic Forum) năm 2016-2017, xếp
thứ 24 trong số 128 nền kinh tế trong Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2016 [197].
Israel là “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 2.000 công ty khởi nghiệp và chỉ đứng
sau Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ về số lượng công ty khởi nghiệp.
T Israel là “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 2.000 công ty khởi nghiệp
và chKHCN, trong slà “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 2.000 công ty khởi
nghiệp và chỉ đứng sau Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ về số lượng công ty
khởi nghiệp. đa qug slà “ Theo số liệu của Tổ chức OECD, tỷ lệ % GPD đầu
tư cho R&D của Iseral luôn dẫn đầu thế giới với mức từ 4-4,5% trong suốt
gần 20 năm từ 2000 đến 2017, ngoại trừ một số năm như 2013, 2015, 2017
đứng sau tỷ lệ của Hàn Quốc (Hình 3.4). Trị số tuyệt đối về tổng chi phí cho
85
R&D của Israel vào năm 2016 là khoảng 13,526 tỷ USD và đạt gần 16 tỷ
USD năm 2017, nằm trong nhóm thứ 3 thế giới về giá trị đầu tư cho KHCN.
Hình 3.4. Tỷ lệ % GDP dành cho R&D của Iseral
Nguồn: https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm (2019)
Tính theo sự đóng góp về kinh tế của các hoạt động R&D, hoạt động
xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Israel năm 2019 tiếp tục tăng
trưởng và đạt mức kỷ lục của mọi thời đại là 45,8 tỷ USD (tăng 12% so với
năm 2018), chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu của Israel. Phần lớn sự tăng
trưởng trong xuất khẩu CNC bắt nguồn từ xuất khẩu phần mềm và R&D,
chiếm 63% xuất khẩu CNC và tăng khoảng 14% kể từ năm 2018, lên tới 28,8
tỷ USD [120].
3.3.2. Quan điểm của nhà nước về việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho
khoa học và công nghệ
Mục tiêu của chính phủ Israel là định vị Israel nằm ở vị trí cốt lõi của
nền kinh tế tri thức [79]. Vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế
của Israel đã được thể hiện một cách xuất sắc thông qua sự can thiệp hợp lý
và hiệu quả của chính phủ vào việc thiết lập năng lực của Israel trong công
nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT). Nhiều nhà nghiên cứu đồng
thuận cao trong đánh giá về vai trò chính của chính phủ trong sự xuất hiện và
phát triển của các ngành CNC năng động của Israel, trong đó ngành
CNTT&TT là một phần quan trọng [80]. Nghiên cứu điển hình về lĩnh vực
86
CNTT&TT của Israel cho thấy vai trò quan trọng của chính phủ đối với sự
nổi lên của Israel như một cường quốc về CNTT&TT bằng cách đặt nền
móng cho công nghiệp tư nhân để hỗ trợ đổi mới và thông qua đầu tư lớn vào
xây dựng nguồn nhân lực. Tài sản chiến lược chính là nguồn nhân lực và chất
lượng nguồn nhân lực là điều cần thiết nhất cho đổi mới và tăng trưởng kinh
tế. Hệ thống giáo dục đại học của Israel, hầu hết được chính phủ hỗ trợ, đã
đóng góp rất lớn vào thành công của Israel trong lĩnh vực CNC [80].
Các chủ trương, quan điểm của Chính phủ đã mang lại sự phát triển
đáng kinh ngạc của ngành CNTT cũng như toàn bộ ngành công nghiệp CNC
của Israel. Từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, Israel đã tận
dụng tối đa sự đầu tư lớn vào công nghệ quân sự và quốc phòng, trình độ học
vấn cao, những người nhập cư lành nghề đến từ Nga, cũng như văn hóa đổi
mới để phát triển ngành CNTT và đưa đất nước trở thành “Quốc gia khởi
nghiệp” [80]. Hệ sinh thái CNTT của Israel từng bước được xây dựng ở khu
vực Tel Aviv và Haifa, cả hai đều gần với các cơ sở nghiên cứu hàn lâm hàng
đầu: Technion- Viện Công nghệ Israel và Đại học Tel Aviv. Các DN trong hệ
sinh thái này được định hướng xuất khẩu. Các DN CNTT rất khó phát triển vì
ở rất xa khách hàng của họ ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Vì vậy, giải pháp là
chuyển tiếp thị và trụ sở ra khỏi Israel và thiết lập các hoạt động gần với
khách hàng của họ. Tuy nhiên, R&D vẫn ở lại Israel để tận dụng nguồn vốn
nhân lực. Khi ngành CNTT phát triển, các công ty đa quốc gia tìm kiếm công
nghệ đổi mới đã mua các công ty khởi nghiệp nhỏ và thành lập các trung tâm
R&D địa phương. Ngày nay có 298 công ty đa quốc gia đặt các trung tâm
R&D tại Israel, như IBM, Intel, Apple, Cisco, Motorola và Microsoft [80].
Ở Israel, ba động lực chính đằng sau cộng đồng CNC là các trường đại
học mạnh, một cộng đồng khởi nghiệp sôi động và khả năng tiếp cận vốn
[80]. Một quan điểm được chính phủ Israel kiên trì theo đuổi là, sự đổi mới và
sự lan tỏa kiến thức làm nền tảng cho nó, chính là nguồn động lực chủ yếu
cho tăng trưởng kinh tế. Chính phủ Israel cũng xác lập một quan điểm mang
tính hành động, đó là tập trung hoàn thiện hệ thống đổi mới, phát triển cơ sở
hạ tầng, đầu tư vào R&D và tạo ra giá trị kinh tế. Chính phủ đã thành lập Cơ
87
quan đổi mới quốc gia với sứ mệnh thúc đẩy đổi mới như là đòn bẩy cho tăng
trưởng kinh tế bền vững. Như vậy, đặt ra một nhiệm vụ kép: bảo tồn và tăng
cường các tài sản đổi mới và tận dụng các tài sản này tốt hơn theo hướng mở
rộng ảnh hưởng tài chính đối với nền kinh tế nói chung. Tầm nhìn của chính
phủ Israel là tăng số lượng lớn các DN trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh
tế, do đó sẽ phải áp dụng chiến lược ĐMCN, sử dụng nó để phát triển lợi thế
cạnh tranh và sử dụng lao động với mức lương và năng suất cao. Quan điểm
chiến lược của chính phủ là dựa trên ba cấp độ: cơ sở hạ tầng, công nghệ và
giá trị kinh tế. Quan điểm này tạo ra một sự thay đổi trong chính sách đổi mới
ở Israel là tập trung chủ yếu khuyến khích các quy trình R&D và tạo ra giá trị
công nghệ [119].
- Cấp độ hành động đầu tiên: Cơ sở hạ tầng đổi mới [119]
Cấp độ đầu tiên chuyển sang phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng cần
thiết để tạo ra công nghệ và hệ thống đổi mới, và dự kiến sẽ chiếm một phần
quan trọng hơn trong chính sách đổi mới của chính phủ so với trước đây. Cấp
độ này được xây dựng trên hai trụ cột: Trụ cột thứ nhất tập trung bồi dưỡng
nguồn nhân lực lành nghề - trung tâm lợi thế của nền kinh tế Israel và là nền
tảng cho tất cả các hoạt động R&D và đổi mới. Trụ cột thứ hai tập trung vào
đầu tư cho cơ sở hạ tầng nghiên cứu nhằm tạo ra các công nghệ tiên tiến.
- Cấp độ hành động thứ hai: Đầu tư R&D [119]
Cấp độ thứ hai bao gồm giải quyết các thất bại của thị trường trong đầu
tư R&D, và đặc biệt, bắc cầu cho “các thung lũng chết” đã ngăn cản các DN
có tiềm năng tiếp cận thị trường, đồng thời tham gia rủi ro để thúc đẩy các
DN chấp nhận rủi ro công nghệ lớn hơn. Cho đến nay, hoạt động này vẫn là
cốt lõi của sự hỗ trợ từ chính phủ cho đổi mới ở Israel. Nó tiếp tục tạo thành
một cấp trung tâm trong chiến lược của Cơ quan đổi mới quốc gia, tuy nhiên
nếu trước đây mục tiêu chính của nó là tăng phạm vi R&D trong ngành công
nghiệp Israel, thì ngày nay nó hướng tới tầm quan trọng lớn hơn là tăng
cường chất lượng R&D, ảnh hưởng thị trường và khả năng thúc đẩy năng lực
cạnh tranh của DN.
- Cấp độ hành động thứ ba: Nắm bắt giá trị kinh tế [119]
88
Cấp độ thứ ba, có liên quan đến lĩnh vực CNTT&TT, tập trung vào
nắm bắt giá trị kinh tế, thúc đẩy các DN tăng giá trị kinh tế do cốt lõi của sự
đổi mới. Hai hướng hoạt động chính ở cấp độ này là thúc đẩy phát triển các
DN hoàn chỉnh ở Israel thông qua phát triển cơ sở hạ tầng tài chính và tạo ra
các động lực cho các tập đoàn đa quốc gia mở rộng phạm vi hoạt động của họ
ở Israel. Hướng hoạt động tiếp theo ở cấp độ này liên quan đến thúc đẩy hoạt
động của các DN Israel sáng tạo trên thị trường toàn cầu. Tập trung xây dựng
cầu nối tới các thị trường mới nổi, tăng cường hợp tác với các nước hàng đầu
châu Âu, Mỹ và phương Đông.
3.3.3. Các chính sách được sử dụng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư
cho khoa học và công nghệ
Đối với Israel, nguyên tắc trung lập chi phối các chương trình hỗ trợ
chính, đảm bảo rằng các nguồn lực được phân bổ đáp ứng với các tín hiệu thị
trường thay vì những chỉ thị quan liêu [149]. Chính phủ đã đưa ra một loạt
các chương trình đổi mới vượt ra ngoài các khoản trợ cấp R&D thông thường
như: “Yozma”, quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ tài trợ đã khởi động thị
trường đầu tư mạo hiểm đang phát triển mạnh ở Israel; chương trình “Vườn
ươm”, đáp ứng những cơ hội mở ra bởi sự di cư hàng loạt của các nhà khoa
học và công nhân lành nghề từ Liên Xô cũ; chương trình “Magnet”, được
thiết kế để hỗ trợ các dự án chung của các DN và viện nghiên cứu,… Lĩnh
vực CNC ở Israel đã phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng kể từ giữa những
năm 1980. Số bằng sáng chế của Mỹ cấp cho các nhà phát minh của Israel đã
tăng gấp 3 lần kể từ năm 1985, xuất khẩu CNC của Israel đã tăng gấp 8 lần
trong thập kỷ qua. Sự phát triển quan trọng tiếp theo là việc thông qua Luật
thúc đẩy R&D công nghiệp (Luật R&D) năm 1984. Đây là bộ luật chính để
xác định các thông số chính sách của chính phủ đối với R&D công nghiệp kể
từ đó. Mục tiêu là tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp định hướng
xuất khẩu, dựa trên cơ sở khoa học, có khả năng tạo việc làm và cải thiện cán
cân thanh toán quốc gia [149]. Như vậy, cốt lõi của Luật R&D là một chương
trình thúc đẩy và biện pháp hỗ trợ tài chính mà các DN, dù là tập đoàn lớn
hay DN nhỏ, đều được hưởng sau khi đáp ứng một số tiêu chí đủ điều kiện.
89
3.3.3.1. Chính sách trọng cung
Khởi nguồn của những hỗ trợ của chính phủ cho hoạt động R&D tại
Israel được bắt nguồn từ năm 1968 thông qua việc thành lập Văn phòng của
các nhà khoa học lớn (Office of the Chief Scientist - OCS) trực thuộc Bộ
Công nghiệp và Thương mại, với nhiệm vụ là hỗ trợ các dự án R&D được
thực hiện bởi các DN tư nhân. Kể từ đó, các cơ quan phát triển của Israel đã
bắt tay vào phát triển một ngành công nghiệp dựa trên nền tảng khoa học tại
địa phương, được định nghĩa là các hoạt động R&D sản phẩm mới. Để thực
hiện mục tiêu đã nêu này, cơ quan phát triển công nghiệp chính của Israel là
OCS đã thực hiện một loạt chính sách tuân thủ một nguyên tắc - tối đa hóa
các hoạt động R&D công nghiệp. Do đó, trong khi các nhà phát triển muộn
khác tập trung hầu hết các nỗ lực của họ vào sản xuất công nghiệp, Israel đã
từ bỏ sản xuất để tiến hành đổi mới [79].
Các công ty với quy mô lớn hoặc nhỏ nếu đáp ứng được một số quy
định nêu trong các văn bản pháp luật sẽ nhận được các khoản kinh phí hỗ trợ
phù hợp để phát triển các sản phẩm sáng tạo định hướng xuất khẩu. OCS hỗ
trợ tới tối đa 50% tổng chi phí của dự án R&D đối với các công ty lớn, và tới
66% tổng chi phí R&D của các công ty start-up, thông qua rất nhiều các
chương trình hỗ trợ khác nhau [149]. Các chương trình chính do OCS hỗ trợ
bao gồm: (i) “Magnet”, chương trình thúc đẩy các nghiên cứu tổng thể tiền
cạnh tranh (pre-competitive generic research) được thực hiện bởi các nhóm
liên doanh; (ii) chương trình ươm mầm công nghệ; (iii) các chương trình
khác, liên quan đến các hợp tác nghiên cứu R&D song phương và đa phương.
Đây là chương trình hỗ trợ lớn nhất, và việc điều hành chương trình này
là hoạt động chính của OCS [149]. Chương trình này được thực hiện như sau:
các DN đạt yêu cầu sẽ nộp hồ sơ xin hỗ trợ kinh phí cho các dự án R&D cụ
thể. Các hồ sơ này sẽ được xem xét bởi một Hội đồng khoa học, và nếu được
chấp thuận (khoảng 70%), DN sẽ được hỗ trợ tối đa là 50% tổng kinh phí từ
NSNN cho dự án. Khi thành công, DN sẽ phải hoàn trả kinh phí như sau: 3%
doanh thu từ việc bán sản phẩm trong 3 năm đầu tiên; 4% trong 3 năm tiếp theo
và 5% kể từ năm thứ 7 trở đi, tương ứng với phần kinh phí nhà nước đã cấp.
90
Ngoài ra, DN nhận hỗ trợ cũng phải tuân thủ các điều kiện: (i) dự án nghiên
cứu này chỉ được thực hiện bởi chính DN; (ii) các sản phẩm tạo ra từ dự án
phải được sản xuất tại Israel; (iii) các kiến thức (know-how) thu được từ dự án
sẽ không được phép chuyển giao cho bên thứ ba [149].
Hội đồng khoa học, đứng đầu bởi một nhà khoa học lớn (Chief
Scientist), có trách nhiệm trong việc xác định các điều kiện để cấp kinh phí hỗ
trợ (theo các quy định nêu tại Luật năm 1985), và rà soát đánh giá các hồ sơ
nộp để lựa chọn những DN phù hợp. Hội đồng này gồm cả những thành viên
thuộc Chính phủ và các đại diện bên ngoài Chính phủ, nhưng chủ yếu thành
viên là các chuyên gia ở bên ngoài chịu trách nhiệm rà soát hồ sơ [149].
Chính phủ sẽ hỗ trợ tối đa đến 50% tổng chi phí cho hoạt động R&D
thuộc các dự án “dẫn đến các kiến thức, quá trình hoặc hệ thống để tạo ra một
sản phẩm/quy trình mới, hoặc là để cải thiện đáng kể những sản phẩm/quy trình
đã có”. Theo một chương trình khác, chính phủ sẽ hỗ trợ 30% chi phí cho hoạt
động R&D thuộc các dự án dẫn đến sự cải tiến các sản phẩm đang có sẵn trong
đời sống, và 20% cho các sản phẩm thuộc lĩnh vực quân sự. Các công ty start-
up sẽ được hỗ trợ đến 2/3 chi phí cho hoạt động R&D, với mức tối đa là
250.000 USD/năm trong vòng 02 năm. Các sản phẩm thuộc lĩnh vực quân sự
nhưng hướng đến thị trường xuất khẩu sẽ được hỗ trợ lên tới 30% [149].
Israel cũng có những chính sách dài hạn để thúc đẩy sự phát triển của
các ngành công nghiệp tại các khu vực ngoại ô. Theo đó, đối với những vùng
phát triển kém nhất, kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động R&D sẽ được tăng thêm
10%, tức là các dự án phục vụ cho đời sống sinh hoạt sẽ được hỗ trợ tối đa là
60%, còn các dự án phục vụ cho quốc phòng sẽ được hỗ trợ tối đa 40% [149].
- Chương trình “Magnet”
Mặc dù có sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực công nghệ cao từ
cuối những năm 1960, các lĩnh vực công nghiệp tại Israel bị phân mảnh tương
đối lớn, và các công ty công nghiệp của nước này quá nhỏ để có thể chịu được
các khoản chi phí quá cao để phát triển các công nghệ mới trong các lĩnh vực
mới. Ngoài ra, chính phủ Israel cũng thúc đẩy việc thành lập các đại học
nghiên cứu đẳng cấp quốc tế, nhưng các trường đại học này lại hoạt động
91
tương đối cô lập khỏi sự phát triển và nhu cầu của các ngành công nghiệp
xung quanh, và do đó một phần tiềm năng kinh tế lớn nằm trong nguồn nhân
lực chất lượng cao và trong các nghiên cứu của các trường đại học thường
không thể được tận dụng ([149], [80]).
Trước tình trạng như vậy, OCS thành lập chương trình “Magnet” vào
năm 1993, để hỗ trợ cho việc thành lập các liên doanh bao gồm các công ty
hoạt động trong các ngành công nghiệp và các viện nghiên cứu để phát triển
các công nghệ tổng quát, tiền cạnh tranh (Pre-Competivtive Technology). Các
liên doanh này sẽ nhận được một khoản hỗ trợ cho hoạt động R&D trong
nhiều năm (thường là từ 3-5 năm) với phần kinh phí được hỗ trợ lên tới 66%
tổng kinh phí dành cho hoạt động R&D của dự án, mà không có yêu cầu về
việc bồi hoàn [149]. Liên doanh này cần phải bao gồm số lượng nhiều nhất có
thể nhóm các thành viên hoạt động trong cùng lĩnh vực công nghiệp, kết hợp
với các viện nghiên cứu thực hiện các nghiên cứu khoa học liên quan đến các
mục tiêu kỹ thuật của dự án.
Để tránh khỏi những tranh cãi liên quan đến mức độ tin tưởng lẫn nhau,
các thành viên của liên doanh phải đồng ý cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ
được tạo ra từ dự án này cho bất kỳ bên thứ ba nào quan tâm, với chi phí được
xác định không dựa trên sự độc quyền. Cùng với việc thúc đẩy các công nghệ
tiền cạnh tranh, sự hỗ trợ cho liên doanh sẽ ngừng lại khi dự án đạt được mức
độ thử nghiệm quy mô pilot. Điều đó có nghĩa là các hoạt động R&D tiếp
theo cần thiết để thương mại hóa sản phẩm sẽ không được hỗ trợ bởi Magnet,
nhưng các công ty thành viên có thể tiếp tục đăng ký nhận hỗ trợ từ OCS cho
các nghiên cứu này. Ngược lại so với các hỗ trợ của OCS cho các dự án R&D
trong công nghiệp, chương trình Magnet hoạt động dựa trên nền tảng cạnh
tranh, tức là nó được mở ra cho bất kỳ số lượng các đề xuất thành lập liên
doanh mới nào, và nó chỉ lựa chọn các liên doanh nào dựa trên một hệ thống
xếp hạng các liên doanh [149].
- Chương trình ươm mầm
Các tổ chức ươm mầm công nghệ là các tổ chức hỗ trợ tạo ra một cơ
hội cho các DN mới, ít kinh nghiệm có thể phát triển các ý tưởng công nghệ
92
sáng tạo của họ và thiết lập nền tảng kinh doanh mới dựa trên việc thương
mại hóa các ý tưởng này [121]. Chương trình được đưa ra từ đầu những năm
1990, khi làm sóng di cư từ các quốc gia Xô Viết lên tới đỉnh điểm. Rất nhiều
người trong số di dân là các nhà khoa học và các chuyên gia, đi tới Israel tạo
ra một nguồn nhân lực có giá trị cực lớn, đem theo nhiều ý tưởng về các sản
phẩm sáng tạo. Tuy nhiên, họ lại thiếu các điều kiện cần thiết để có thể thành
công về mặt thương mại, từ ngôn ngữ, các yêu cầu trong hoạt động thương
mại tại các quốc gia phương tây, cho đến các kĩ năng quản lý và tiếp cận
nguồn vốn. Mặc dù chương trình này hướng đến những người dân di trú,
nhưng nó cũng mở ra cho tất cả công dân Israel [121].
Mục tiêu của các tổ chức ươm mầm là để hỗ trợ các DN mới thành lập
tại các giai đoạn đầu tiên của DN dựa trên công nghệ, và giúp cho các DN này
có thể thực thi các ý tưởng và tạo ra các dự án kinh doanh mới. Tiền đề là các
tổ chức ươm mầm công nghệ phải nâng cao một cách đáng kể triển vọng của
DN trong việc thu hút vốn đầu tư ở các giai đoạn tiếp theo, tìm kiếm các đối
tác chiến lược, và phát triển hoạt động kinh doanh dựa trên tự thân của chính
họ. Đương nhiên giai đoạn khởi đầu này rất nhiều rủi ro, và thực tế là đầu
những năm 1990 không có nguồn lực về tài chính nào tại Israel hỗ trợ cho các
công ty thuộc loại hình này. Từ giữa những năm 1990, bắt đầu có sự gia tăng
về số lượng vốn đầu tư mạo hiểm, và do đó mục tiêu chia sẻ rủi ro của
chương trình này không nổi bật như thời điểm ban đầu của nó [121].
Mỗi một tổ chức ươm mầm công nghệ được thiết kế sao cho nó có khả
năng xử lý cùng lúc 10 - 15 dự án, và hỗ trợ cho các dự án trong những lĩnh
vực sau: xác định khả năng công nghệ và thị trường của ý tưởng; đưa ra kế
hoạch cho hoạt động R&D và tổ chức nhóm nghiên cứu; thu hút vốn và chuẩn
bị cho việc đưa ra thị trường; cung cấp các dịch vụ về quản trị và văn thư; đưa
ra các khuyến nghị cho việc duy trì, thực hành, kế toán và pháp luật [121].
Để được thông qua, các dự án phải hướng đến việc phát triển các ý tưởng
sáng tạo với tiềm năng xuất khẩu. Nhóm R&D thường bao gồm khoảng 3-6
người, và dự án triển khai trong quá trình “ươm mầm” tối đa là 02 năm. Kỳ
vọng của chương trình này là cho đến cuối giai đoạn ươm mầm, DN sẽ hình
93
thành nên được một mô hình và kế hoạch kinh doanh vững chắc, và dự án có
thể thu hút được những nguồn vốn đầu tư khác và/hoặc sự tham gia của một
đối tác chiến lược. Kinh phí cho mỗi dự án là khoảng 150.000 USD/năm, và
hầu hết là thực hiện trong hai năm. Cũng như các chương trình khác của OCS,
sản phẩm của dự án phải được sản xuất tại Israel, và nếu thành công thì DN
phải hoàn trả một khoản chi phí thông qua các “đặc quyền” về buôn bán [121].
Tính từ lúc khởi đầu của chương trình là năm 1991, cho đến cuối năm
1998, chương trình ươm mầm công nghệ đã hỗ trợ cho gần 700 dự án, với
khoảng 900 chuyên gia tham dự, 70% trong số đó là những người nhập cư, tất
cả đều có bằng cấp cao. Tỷ lệ thành công của các dự án lên tới khoảng 50%,
tức là một nửa dự án trong số được hỗ trợ có thể tự thân tiếp tục phát triển.
Trong số các dự án còn lại, có khoảng 200 dự án đã thu hút được các khoản
đầu tư thêm, từ khoảng 50.000 USD cho tới vài triệu USD. Các lĩnh vực được
hỗ trợ bao gồm: điện tử (27%); phần mềm (20%); thiết bị y tế (17%); Hóa học
(27%); khác (9%) [121].
Năm 1977, Tổ chức Hợp tác R&D trong công nghiệp song phương
Israel - Hoa Kỳ (Bi-national Industrial R&D Foundation - BIRD) được thành
lập với nguồn vốn 110 triệu USD được sử dụng để hỗ trợ các dự án phối hợp
phi quân sự giữa các công ty Israel và các công ty Hoa Kỳ, với điều kiện là
khi dự án thành công thì các công ty tham gia phải hoàn trả một khoản tiền
nhất định. Tổ chức này đã rất thành công trong việc đưa ngành công nghệ của
Israel thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực thị trường
tài chính. Bên cạnh đó, Tổ chức này còn tạo ra sân chơi trong môi trường
quốc tế cho các công ty công nghệ cao Israel.
Về ưu đãi thuế, thuế suất thuế DN được áp dụng ở mức 6% đối với các
DN có doanh thu hợp nhất trên 10 tỷ NIS (tương đương 3 tỷ USD), 12% đối
với các DN khác (7,5% nếu DN được thành lập trong khu vực ưu tiên quốc
gia) với cam kết ổn định lãi suất trong ít nhất 10 năm. Các DN định vị ở hầu
hết các khu vực ngoại vi cũng nhận được 2 năm miễn thuế lợi nhuận và 5 năm
giảm trách nhiệm thuế. Ngoài ra, có một cơ chế ưu đãi đặc biệt dành cho các
DN công nghệ với điều kiện DN phải đầu tư ít nhất 7% thu nhập vào R&D và
94
đạt được ít nhất một trong ba yêu cầu: Ít nhất 20% lực lượng lao động được
sử dụng trong R&D; Đầu tư vốn mạo hiểm trước đây đã được thực hiện trong
DN; Tăng trưởng trung bình hằng năm trong ba năm liền đạt 25% theo doanh
số hoặc tổng số nhân viên [153].
Ngoài ưu đãi về thuế cho các DN R&D, Israel còn ban hành Luật Thiên
thần năm 2010, sửa đổi năm 2016, cung cấp lợi ích thuế cho các nhà đầu tư
duy nhất đầu tư vào các công ty Israel trong giai đoạn R&D ban đầu (hạt
giống). Mục tiêu của Luật là tăng nguồn tài chính có sẵn cho các công ty
chuyên sâu về R&D giai đoạn đầu của Israel [153].
3.3.3.2. Chính sách trọng cầu
Ở Israel, Chương trình MAGNETON hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ
học viện sang công nghiệp. Chương trình này dành cho các công ty công
nghiệp của Israel muốn nhận các công nghệ mới từ các học viện và cho các
nhóm nghiên cứu học thuật được phê duyệt muốn tiến hành nghiên cứu ứng
dụng mới hợp tác với một công ty có liên quan. Những người tham gia đủ
điều kiện sẽ nhận được khoản tài trợ lên tới 66% ngân sách được phê duyệt.
Không có khoản thanh toán tiền bản quyền nào là bắt buộc [153].
Một chương trình quan trọng của chính phủ là Yozma (có nghĩa là
“sáng kiến” theo tiếng Do Thái), được mô tả bởi báo cáo OECD năm 2010 là
“chương trình thành công và nguyên bản nhất trong lịch sử đổi mới tương đối
dài của Israel”. Được thành lập vào năm 1993, Yozma đã đầu tư khoảng 80
triệu đô la cho 40% cổ phần trong mười quỹ đầu tư mạo hiểm mới. Để thu hút
thêm các nhà đầu tư nước ngoài, chương trình đã cung cấp cho họ bảo hiểm
với 80% rủi ro giảm giá và cho họ lựa chọn mua cổ phần của chính phủ với
giá chiết khấu trong vòng năm năm (sau đó được thực hiện trong tám quỹ).
Để giảm thiểu rủi ro, các quỹ được yêu cầu phối hợp nhiều khoản đầu tư của
họ. Yozma cũng thành lập quỹ 20 triệu đô la của riêng mình để đầu tư trực
tiếp vào các công ty nhỏ. Trong số 15 công ty danh mục đầu tư của nó, chín
công ty đã được công khai hoặc được mua lại. Yozma là chất xúc tác cho
ngành đầu tư mạo hiểm Israel. Nó cung cấp tài trợ giai đoạn đầu rất cần thiết
cho các công ty Israel để đưa sản phẩm của họ ra thị trường. Trong những
95
năm 1990, các khoản đầu tư vốn mạo hiểm đã tăng 60 lần từ 58 triệu đô la lên
3,3 tỷ đô la, với các công ty danh mục đầu tư tăng từ 100 lên 800. Đến năm
1999, Israel chỉ đứng sau Hoa Kỳ về vốn cổ phần tư nhân với tỷ lệ GDP và
70% tăng trưởng của nó đến từ liên doanh công nghệ cao [83].
3.3.3.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ
* Chính sách phát triển nhân lực KHCN
Năm 1967, Israel phải chịu lệnh cấm vận vũ khí, nhưng đó lại là một cơ
hội để nền KHCN nước này tăng tốc rất nhanh. Được dẫn dắt bởi các ngành
công nghiệp công nghệ cao phục vụ cho quốc phòng, số lượng các nhà khoa
học và kỹ sư tăng lên gần 5 lần từ năm 1968 đến năm 1984. Cùng thời điểm
này, tổng số lượng người lao động trong các ngành công nghiệp chỉ tăng 50%
[98]. Để đáp ứng cho các nhu cầu về nhân lực ngày càng tăng, nhiều trường
đại học được thành lập mới, trong khi các trường đại học về khoa học và kỹ
thuật cũ được mở rộng. Theo báo cáo năm 2013 của Viện Nghiên cứu chính
sách quốc gia Neaman, 45% dân số trong độ tuổi lao động của Israel đã đi học
đại học (năm 2019), một trong những tỷ lệ cao nhất trong số các nước OECD;
Trong năm 2008/2009, 8.700 sinh viên lấy bằng khoa học và kỹ thuật; Đội
ngũ giảng dạy và nghiên cứu của Israel bao gồm 9.740 người tại các trường
đại học và 3.530 người ở các trường cao đẳng (năm 2010/2011) [156].
Để đảm bảo cho nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho các hoạt
động R&D, từ năm 1995, Israel đã trở thành quốc gia đầu tư cho giáo dục
nhiều nhất trong số các quốc gia OECD, với 10,3%GDP đầu tư cho giáo dục
(Hoa Kỳ đầu tư 7,2%; Anh đầu tư 5,5%) [158] và tiếp tục duy trì ở mức cao
so với mức trung bình chung của các nước OECD (năm 2015 Israel đầu tư
vào giáo dục 6,0%GDP so với mức trung bình chung của các nước OECD là
5,0% [159]). Chính phủ Israel nhận thức được rằng khu vực công không thể
đầu tư quá nhiều cho nghiên cứu cơ bản do các rủi ro thất bại quá lớn, trong
khi mức độ sở hữu các kết quả nghiên cứu lại tương đối thấp. Do đó, các
nghiên cứu của các trường đại học và các nghiên cứu tiền cạnh tranh sẽ được
Chính phủ hỗ trợ, ví dụ như các chương trình được cấp bởi OCS như đã trình
bày ở trên. Bên cạnh đó, tại các trường Đại học của Israel đều có Văn phòng
96
Chuyển giao Công nghệ (Technology Transfer Offices). Văn phòng này có
trách nhiệm trong việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu của trường Đại
học cho các DN. Tuy nhiên, các trường Đại học của Israel cũng nhận thức rõ
được là việc chuyển giao công nghệ thông qua việc bán li-xăng chỉ chiếm một
phần nhỏ trong số các nghiên cứu có thể triển khai trong thực tế. Vì vậy, các
trường Đại học tại Israel khuyến khích tinh thần khởi nghiệp của các sinh viên
thông qua hàng loạt các hoạt động, ví dụ như các khóa học về khởi nghiệp,
lập kế hoạch kinh doanh, hoặc các câu lạc bộ khởi nghiệp. Hiện nay có
khoảng 20% các nhà sáng lập của các công ty khởi nghiệp tại Israel là các nhà
DN đã hơn một lần khởi nghiệp. Việc rời bỏ các công ty sau khi bị mua lại và
chuyển sang một công ty khởi nghiệp mới cũng là một hiện tượng thông
thường tại quốc gia này, do các kỹ sư và các nhà khoa học tại đây có đầy đủ
kiến thức và kỹ năng về công nghệ.
* Chính sách phát triển hạ tầng KHCN
Trong các quốc gia nghiên cứu, việc xây dựng những chính sách phát
triển hạ tầng KHCN, đặc biệt là hạ tầng CNTT cho KHCN nổi bật nhất là tại
Israel. Do địa thế quốc gia không cho phép thành lập các khu công nghệ tập
trung, Israel tập trung phát triển CNTT làm hạ tầng KHCN để phục vụ kết
nối, chia sẻ tri thức. Bên cạnh việc phát triển làm hạ tầng của KHCN, CNTT
còn là sản phẩm chủ lực trong ĐMST và phát triển KHCN. Trong lịch sử cận
đại, rất ít quốc gia phát triển muộn lại đạt được thành công rực rỡ với ngành
công nghiệp CNTT. Israel là một ngoại lệ và người ta lập luận rằng chính lợi
thế cạnh tranh về R&D đã giúp Israel phát triển vượt bậc trong ngành CNTT.
Lợi thế cạnh tranh trong R&D này tồn tại trong tất cả các ngành công nghiệp
CNTT và khoa học đời sống, và thúc đẩy ngành công nghệ cao của Israel
thành công trước tiên về phần cứng và sau đó là phần mềm. Do đó, trái ngược
với mô hình tăng trưởng công nghiệp theo các lý thuyết phát triển muộn,
Israel đã không theo mô hình của một sự tiến hóa từ công nghệ thấp sang
công nghiệp công nghệ cao, từng bước xây dựng năng lực và dựa vào bắt
chước công nghệ nước ngoài. Thay vào đó, Israel trực tiếp bước vào giai
đoạn cao nhất của ngành công nghệ cao tiên tiến nhất, chỉ tập trung vào tăng
97
cường R&D công nghiệp hay chính sách phát triển một hệ thống công nghiệp
dựa trên nền tảng khoa học, giống như những gì chúng ta thấy ở Israel ngày
nay, tạo ra một sự khác biệt rõ rệt với lịch sử của các nước công nghiệp khác.
Do đó, hệ thống đổi mới của Israel, mặc dù không được xây dựng trực tiếp
bởi những nỗ lực của chính phủ, nhưng cũng được hỗ trợ rất nhiều trong sự
phát triển của đất nước.
3.3.3.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Mặc dù ảnh hưởng của nguồn vốn FDI và sự kết hợp với các công ty đa
quốc gia đến quyết định đầu tư cho R&D tại các quốc gia khác nhau không
thống nhất, nhưng tại Israel, các yếu tố này lại là những nhân tố chính đóng
góp vào các hoạt động R&D chung cho cả đất nước. Không giống như một số
quốc gia khác, Israel luôn mở cửa đối với nguồn vốn FDI này. Vào những
năm đầu của thập niên 70, Israel đã thành công trong việc thu hút đầu tư cho
R&D và sản xuất từ các công ty có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, như Intel và
Motorola. Tuy nhiên, khoảng thời gian sau đó cho đến những năm 1990, dòng
vốn từ các công ty đa quốc gia bị hạn chế do tình hình bất ổn chính trị và sự
chiếm ưu thế của các công ty bản địa (hầu hết là có liên quan đến quân đội).
Kể từ sau những năm 1990, nhiều công ty nước ngoài đã mua lại các công ty
khởi nghiệp của Israel như là một cầu nối để bước vào quốc gia này. Trong
khoảng thời gian từ năm 1995 - 2005, đã có 566 công ty được đăng ký trên cơ
sở dữ liệu của Quỹ Đầu tư mạo hiểm Israel, và 63% trong số đó đã được mua
lại hoặc sáp nhập, và 37% được cổ phần hóa [191]. Đa số các công ty mua lại
đều là các công ty nước ngoài. Nguồn vốn FDI đổ vào Israel không phải do
chi phí nhân công thấp hoặc thị trường lớn như các quốc gia khác, mà do trình
độ R&D và những công nghệ mới chính là những lý do thu hút các công ty
nước ngoài. Ví dụ như Microsoft Israel đã phát triển lên tới 500 kỹ sư chỉ qua
10 thương vụ mua lại, hoặc IBM đã thuê hơn 2000 kỹ sư chỉ qua 11 thương
vụ mua lại [191].
Ngoài ra, thông qua OCS, chính phủ Israel cũng triển khai những
chương trình hợp tác giữa các công ty lớn trên thế giới và các đơn vị nghiên
cứu tại Israel. MATIMOP, một tổ chức chính phủ phi lợi nhuận, hoạt động
98
dưới danh nghĩa của OCS để thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về R&D.
Tổ chức này sử dụng nguồn kinh phí của Israel và bốn quốc gia (Hoa Kỳ,
Canada, Singapore và Hàn Quốc) để cấp tiền cho các dự án R&D kết hợp, mà
có thể phát triển lên quy mô lớn hơn. Chương trình này cùng với BIRD đóng
vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng R&D của các công ty thuộc
Israel với các yếu tố khác của các công ty nước ngoài để tạo ra mối quan hệ
có lợi cho cả hai bên [191].
3.4. Một số bài học chung rút ra từ kinh nghiệm của ba quốc gia
Từ những nội dung phân tích chi tiết ở trên, có thể đánh giá một số vấn đề
về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN ở các quốc gia đã nghiên cứu.
(1) Hàn Quốc
Kể từ khi bắt đầu công nghiệp hóa, các nỗ lực thúc đẩy R&D của Chính
phủ Hàn Quốc đã đi kèm với tăng trưởng kinh tế đáng chú ý. Là một quốc gia
đã trải qua thành công kinh tế mạnh mẽ và đã thay đổi từ một quốc gia phụ
thuộc nhiều vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, gần như không
có cơ sở sản xuất ngay sau chiến tranh Triều Tiên vào đầu những năm 1960,
Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về thâm dụng vốn và
công nghệ các ngành công nghiệp. kinh nghiệm của Hàn Quốc có thể cung
cấp một số bài học ý nghĩa cho các nước đang phát triển đang theo đuổi các
chính sách xúc tiến R&D và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Đầu tiên, Chính phủ Hàn Quốc đã coi nguồn nhân lực là một yếu tố
quan trọng trong R&D. Điều này phù hợp với lý thuyết tăng trưởng kinh tế
nội sinh của Romer (1990), Grossman và Helpman (1991), Aghion và Howitt
(1992) và những nhà khoa học khác, nói rằng sự gia tăng mức độ tài nguyên
dành cho R&D sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Không có tài
nguyên thiên nhiên thiết yếu hoặc trình độ công nghệ tiên tiến để phát triển
kinh tế, Chính phủ Hàn Quốc nhận ra cần phải có nhiều kỹ sư và nhà khoa
học lớn. Về mặt này, họ đã thành lập các tổ chức học thuật chuyên ngành
KHCN như KAIST năm 1971, Viện KHCN Gwangju năm 1993 và Viện
KHCN Daegu Gyeongbuk vào năm 2003. KAIST được thành lập dưới sự tài
trợ của chính phủ và ban đầu được biên chế bởi một số giảng viên khoa học
99
và kỹ thuật Hàn Quốc được đào tạo ở các nước tiên tiến, chủ yếu là Hoa Kỳ.
Những học giả trở lại đã dẫn đến sự phát triển công nghệ hiện tại của Hàn
Quốc. Do đó, thành lập các tổ chức học thuật chuyên ngành khoa học và kỹ
thuật, thu hút các nhà khoa học tài năng và các kỹ sư để xây dựng nền tảng
của hệ thống R&D là rất cần thiết cho các nước đang phát triển đang theo
đuổi phát triển kinh tế dựa trên công nghệ.
Thứ hai, Chính phủ Hàn Quốc không chỉ giáo dục các nhà khoa học trẻ
và thu hút các học giả từ nước ngoài, mà còn thành lập nhiều viện nghiên cứu,
trong đó các nhà khoa học và kỹ sư có thể nghiên cứu và thực hiện các chính
sách R&D. Bắt đầu với KIST trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Chính
phủ Hàn Quốc đã thành lập các viện nghiên cứu phát triển các công nghệ bản
địa tiên tiến và hợp tác với các chủ thể khác trong R&D. Các nước đang phát
triển cũng cần xây dựng các viện nghiên cứu chuyên ngành dành cho việc
phân tích và triển khai các hoạt động R&D để đạt được sự phát triển công
nghệ một cách hiệu quả. Ngoài ra, như trường hợp ở Hàn Quốc, các viện
nghiên cứu đặc thù của ngành cần được thành lập để nhắm đến mục tiêu phát
triển các ngành công nghiệp. Như đã thấy trong lịch sử, Hàn Quốc thành lập
và thúc đẩy các viện nghiên cứu như KIST và KAIST trong hơn hai thập kỷ để
tạo ra năng lực KHCN trong chuyển giao công nghệ cho các ngành công nghiệp,
nguồn nhân lực và hợp tác giữa các chủ thể kinh tế, không có lối tắt nào trong việc
phát triển bản địa năng lực KHCN của các nước đang phát triển.
Thứ ba, sự hợp tác hiệu quả giữa Chính phủ và khu vực tư nhân cũng
rất quan trọng. Ở các nước phát triển, nói chung, khu vực tư nhân chịu tỷ lệ
chi cho R&D lớn hơn. Do đó, thành lập các viện nghiên cứu công cộng sẽ
không đảm bảo các hoạt động R&D bền vững. Thay vào đó, các viện nghiên
cứu công cộng cần hỗ trợ khu vực tư nhân, đó là những gì Chính phủ Hàn
Quốc đảm nhận trong giai đoạn sau của NIS. Trong giai đoạn đầu, chính phủ
cần phải bắt đầu phát triển công nghệ, trong khi ở giai đoạn sau, chính phủ
cần làm cầu nối giữa các khu vực tư nhân, giữa các trường đại học và DN và
giữa các viện công và tư nhân để tăng cường NIS.
100
Thứ tư, lợi ích tài chính, như ưu đãi thuế cho các hoạt động R&D, là
cần thiết để thúc đẩy các viện và công ty chấp nhận rủi ro và đầu tư vào R&D.
Chính phủ Hàn Quốc đã cung cấp các lợi ích về thuế trong những năm 1970
đến 1980, đặc biệt là để phát triển các ngành công nghiệp thâm dụng vốn giá
trị gia tăng. Hàn Quốc cũng cấp ưu đãi thuế cho các ngành công nghiệp công
nghệ trong những năm 1990 đến 2000. Chính phủ cần cung cấp các ưu đãi
cho các công ty để thúc đẩy họ sớm bắt đầu hoạt động kinh doanh, đặc biệt là
các DNVVN, phải chịu rủi ro khi đầu tư vào các hoạt động R&D. Một số nhà
phê bình cho rằng Chính phủ Hàn Quốc quá bảo vệ và ít định hướng thị
trường trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, tuy nhiên, sự phát triển
kinh tế của Hàn Quốc cho thấy tầm quan trọng của việc cung cấp các khuyến
khích phù hợp để thúc đẩy các hoạt động R&D. Sau khi đã nhận được ưu đãi
từ Chính phủ, khu vực tư nhân đã theo đuổi các hoạt động R&D một cách tích
cực và tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn thông qua sự hợp tác tích cực giữa
Chính phủ và khu vực tư nhân.
Thứ năm, việc xây dựng các thành phố sáng tạo cung cấp một bài học
quan trọng khác cho các nước đang phát triển. Dự án innopolis của Hàn Quốc
nhắm đến hai điều: hợp tác giữa các viện nghiên cứu công cộng, các trường
đại học và các công ty tư nhân và cân bằng phát triển kinh tế và công nghệ
trên toàn quốc. Để giảm các vấn đề bất bình đẳng khu vực và tăng cường tăng
trưởng kinh tế trong quá trình thúc đẩy các hoạt động R&D, các nước đang
phát triển có thể xem xét các dự án như xây dựng các khu khoa học hoặc khu
phát triển công nghệ tương tự như ở Hàn Quốc để phát triển công nghệ bản
địa và tạo điều kiện giao tiếp giữa các bên tham gia trong R&D .
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các nước đang phát triển
cần phải hiểu được lợi thế so sánh thay đổi và hướng sự chú ý của các chính
sách R&D đi trước một bước. Với lao động giá rẻ trong những năm 1960,
Chính phủ Hàn Quốc đã phát triển ngành công nghiệp lao động. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế Hàn Quốc trở nên thua kém Trung Quốc và một số nước Đông
Nam Á về mức lương [140], Chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng thay đổi
chính sách công nghiệp để thúc đẩy các ngành công nghiệp nặng và hóa chất
101
bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước tiên tiến. Để tiếp tục hỗ trợ sự
phát triển, Chính phủ đã thành lập các viện nghiên cứu liên quan vào những
năm 1970. Phản ánh sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp sang các ngành công
nghiệp công nghệ, trong những năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc đã chuyển
trọng tâm của chính sách công nghiệp từ định hướng theo ngành sang hỗ trợ
theo định hướng R&D [145].
Do đó, khởi xướng và thực thi các chính sách công phù hợp về KHCN
bao gồm luật pháp và cơ chế thực thi phù hợp với môi trường xã hội cũng là
một bài học có ý nghĩa mà các nước đang phát triển cần phải nghiên cứu.
Ngay cả khi Hàn Quốc phải đối mặt với một con đường dài phía trước liên
quan đến phát triển công nghệ, hệ thống R&D của họ đã chuyển đổi thành
công từ bắt chước sang đổi mới. Do đó, sẽ rất hữu ích cho các nước đang phát
triển cân nhắc chính sách R&D của mình để tìm cách phát triển các ngành
công nghiệp thâm dụng công nghệ giá trị gia tăng.
(2) Trung Quốc
Qua việc nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN
của Trung Quốc, có thể thấy, một cách từ từ và có hệ thống, quốc gia này đã
thu hẹp khoảng cách khoa học với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Trung
Quốc đã vượt lên trong một số nhóm công nghệ cụ thể. Trung Quốc có thể đạt
được không chỉ đơn thuần nhờ vào phát triển R&D mà còn do đã chú trọng
vào chế tạo và tạo điều kiện nhằm khuyến khích học hỏi và nâng cao trình độ.
Một trong những khía cạnh khác trong quy trình thể chế hóa các chính sách của
Trung Quốc là việc phối hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế, KHCN và ĐMST.
Thành công của Trung Quốc nằm ở việc xây dựng cở sở hạ tầng vật chất cùng
với sự chuyển đổi cần có trong các thành tố nằm giữa tri thức và đã thành công
trong việc cân bằng mối liên kết giữa các thành tố của hệ thống ĐMST. Kế
hoạch ĐMST của Trung Quốc thể hiện sự chú trọng vào chuyên môn hóa và
mục tiêu đạt được các mốc kết quả trung và dài hạn.
Tìm hiểu rõ nguyên nhân phát triển năng động của KHCN Trung Quốc
đã cho thấy Trung Quốc đặt sự phát triển muốn hướng tới và huy động nguồn
102
lực tương xứng, phát triển liên tục các chính sách cùng với công cụ khả thi và
thi hành nghiêm túc, với ý chí chấp nhận thất bại và nỗ lực điều chỉnh chúng.
(3) Israel
Nền KHCN Israel đã đạt được những thành tựu cực kỳ đáng nể trong
những năm qua, giai đoạn mà nhiều học giả đã gọi là “giai đoạn Anh hùng”
của Israel, nhờ đó đã xây dựng đất nước Israel thành một trong những quốc
gia đứng đầu thế giới về tiềm lực kinh tế, quốc phòng và khoa học. Để đạt
được những thành tựu này, Chính phủ Israel, với một hệ tư tưởng xuyên suốt
lấy KHCN làm trung tâm, đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của Israel
(bốn Tổng thống đầu tiên của Israel là những nhà khoa học hoặc hàn lâm rất
nổi tiếng). Thông qua việc xây dựng Tổ chức OCS với nhiều chương trình hỗ
trợ R&D khác nhau, chính phủ Israel đã mở ra một cơ hội mới cho sự phát
triển của nền KHCN nước này. Tổ chức này không chỉ đóng vai trò như là
một nguồn kinh phí chủ yếu cho những nghiên cứu của các DN KHCN Israel,
mà còn thúc đẩy quá trình đầu tư cho hoạt động R&D của các DN và các quỹ
đầu tư mạo hiểm. Các quốc gia khác cũng có thể học tập mô hình này để tạo
ra các quỹ đầu tư công cho các hoạt động R&D trước khi nguồn kinh phí từ
khu vực tư nhân đầu tư cho R&D đạt đến một ngưỡng nhất định, với điều
kiện tiên quyết là có lực lượng các nhà khoa học và kỹ sư có trình độ cao.
Bên cạnh đó, Israel cũng là một quốc gia của những người nhập cư, là
những người có xu hướng chấp nhận rủi ro và có tinh thần khởi nghiệp cao.
Nhờ đó, khả năng nghiên cứu và hấp thụ công nghệ của quốc gia này cũng ở
mức cao trên thế giới, cũng như thu hút được nhiều các công ty, tập đoàn đa
quốc gia đầu tư để có thể sử dụng được lượng chất xám khổng lồ tại đây.
Những yếu tố đó kết hợp lại với nhau để đem lại một thương hiệu độc nhất
trên thế giới cho Israel: “Quốc gia khởi nghiệp”.
Các chuyên gia Israel cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành
một quốc gia phát triển giống như những gì mà người Israel đã từng làm. Một
số nội dung mà Việt Nam có thể học hỏi được như :
- Thứ nhất, Việt Nam nên đẩy mạnh giáo dục, cần tập trung xây dựng
các trường đại học, qui mô không lớn nhưng tiên tiến về các mặt: điều kiện
103
vật chất - kỹ thuật, nội dung đào tạo - nghiên cứu, và tổ chức - quản trị.
- Thứ hai, chiến lược can thiệp của chính phủ, giống như Israel đã thực
hiện đầu tư chiến lược vào công nghệ để tạo ra lợi thế cho quốc gia.
- Thứ ba, làm cho tinh thần khởi nghiệp được phổ biến rộng khắp.
- Thứ tư, đẩy mạnh giao thương với các nước láng giềng.
- Thứ năm, nâng cao chất lượng và hiệu quả của đầu tư nước ngoài.
- Thứ sáu, đặt ra chuẩn mực cao, chẳng hạn mỗi năm phải tăng ba bậc
trong năng lực tranh toàn cầu, bằng cách tăng cường giáo dục và công nghệ
đẳng cấp thế giới, cải thiện cơ sở hạ tầng, thu hút FDI chất lượng cao, tạo điều
kiện cho DN CNC.
- Thứ bảy, tận dụng lợi thế chi phí thấp của sản xuất song song với
sáng tạo CNC.
Rõ ràng có rất nhiều yếu tố để Việt Nam có thể trở thành một quốc gia
khởi nghiệp giống như Israel, đó là con người Việt Nam thông minh, Chính
phủ năng động và luôn luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho kinh tế, DN phát
triển. Hơn nữa, Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới,
tham gia hàng loạt các FTA quan trọng sẽ giúp cho dòng vốn FDI chảy vào
Việt Nam ngày một nhiều. Điều này sẽ sớm đưa Việt Nam trở thành điểm
nóng, thành một trung tâm khởi nghiệp cho các công ty trong nay mai.
104
Tiểu kết chƣơng 3
Chương 3 nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho
KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel. Cả ba quốc gia này đều xây
dựng một hệ tư tưởng xuyên suốt lấy KHCN làm trung tâm, đóng vai trò
quyết định cho sự phát triển KT-XH. Các nước này đã xây dựng hành lang
pháp lý thông thoáng, đồng bộ, bảo đảm quyền SHTT, đảm bảo quyền lợi và
tính cạnh tranh cho DN. Hàn Quốc và Israel đưa ra nhiều chương trình hỗ trợ
R&D khác nhau như phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy chuyển giao công
nghệ, đầu tư phát triển và thương mại hóa công nghệ, .... Các nỗ lực này có
những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động đầu tư cho R&D của khu vực DN.
Bằng một cách từ từ và có hệ thống, Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách
khoa học với các nước phát triển. Thành công của Trung Quốc nằm ở việc
xây dựng cơ sở hạ tầng cùng với sự chuyển đổi cần có trong các thành tố nằm
giữa tri thức và đã thành công trong việc cân bằng mối liên kết giữa các thành
tố của hệ thống ĐMST
Từ các nghiên cứu chung trên thế giới và nghiên cứu về thành công của
Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel có thể khẳng định một số luận điểm chung
quan trọng trong chính sách của các quốc gia này như là bài học kinh nghiệm
tốt cho Việt Nam.
(1) Vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân
đối với sự phát triển KHCN;
(2) Các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng quan trọng trong việc
thu hút đầu tư từ khu vực DN cho hoạt động nghiên cứu và triển khai;
(3) Nhân lực chất lượng cao là chìa khóa của sự thành công;
(4) Những vấn đề về thương mại hóa công nghệ, ĐMST, quyền SHTT,
nền tảng CNTT cần được chú trọng nhiều hơn, đặc biệt trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 hiện nay.
Một phần các kết quả này đã được công bố trong các công trình (1, 3, 4
- Danh mục công trình liên quan đến luận án).
105
Chƣơng 4
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP
ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
4.1. Quan điểm và mục tiêu của Nhà nƣớc về thúc đẩy doanh nghiệp đầu
tƣ cho khoa học và công nghệ
4.1.1. Hiện trạng hạ tầng và chính sách khoa học và công nghệ
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới rất đáng ghi
nhận. Đổi mới kinh tế và chính trị năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế,
nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế
giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu
người tăng 2,7 lần, đạt mức tăng trưởng 7,08% năm 2018 và 7,02% năm 2019
[43]. Dữ liệu của tổng cục thống kê năm 2019 cho thấy các DN trong các
ngành ứng dụng KHCN cao như nhóm ngành thông tin và truyền thông; hoạt
động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; hoạt động chuyên môn, KHCN có
hiệu suất đầu tư tốt, mang lại giá trị gia tăng cao hơn các nhóm ngành khác.
Tại báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 (GCI 4.0), Diễn
đàn Kinh tế Thế giới đã đưa ra đánh giá năng lực cạnh tranh của 141 nền kinh
tế dựa trên cách tiếp cận của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, theo đó, Việt
Nam đứng thứ 67, được đánh giá là quốc gia có điểm số được cải thiện nhiều
nhất trên toàn cầu [197]. Tuy nhiên, về năng lực ĐMST, theo báo cáo trên,
Việt Nam chỉ đạt 37 điểm, đứng thứ 76/141 nền kinh tế.
Về đóng góp của KHCN vào tăng trưởng kinh tế, theo tính toán của
Viện Năng suất Việt Nam, đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) vào
tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 44,46%,
cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011 - 2015. Điều
này cho thấy dưới tác động của tổng hợp các nhân tố, trong đó có KHCN, các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (vốn và lao động) đã được sử dụng hiệu
quả hơn.
106
Về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), chỉ số ĐMST của Việt Nam
đã liên tục được cải thiện. từ vị trí 71 năm 2014, đến năm 2019, Việt Nam
vươn lên giữ vị trí 42. Năm 2020 là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam giữ vị trí
này, đứng đầu trong nhóm 29 quốc gia cùng mức thu nhập (WIPO, 2020).
Nhóm chỉ số đầu vào tạo thuận lợi cho ĐMST tiếp tục tăng là minh chứng
cho việc Việt Nam tiếp tục duy trì sự đầu tư của nhà nước, cũng như các DN
cho khoa học công nghệ và ĐMST, tạo môi trường thuận lợi như thể chế,
trình độ kinh doanh, tín dụng tiếp tục ở mức cao.
* Về hạ tầng KHCN
Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, tính đến hết năm 2019 có
758.610 DN đang hoạt động, trong đó DN ngoài nhà nước chiếm 96,23%.
Theo trình độ công nghệ, năm 2018 số DN nhóm ngành công nghệ cao tăng
từ 5.182 DN năm 2010 lên 11.834 DN năm 2018, nhưng cũng chỉ chiếm
12,24% tổng số các DN kinh doanh ngành chế biến, chế tạo [43].
Một loạt các khu công nghệ cao tại các thành phố lớn đã được xây dựng
như Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh, Khu công nghệ cao Đà Nẵng, Khu
công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) và thường xuyên được đầu tư xây dựng,
nâng cấp mới cơ sở vật chất. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra quyết định thành
lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, được xây dựng tại Khu công nghệ
cao Hòa Lạc. Tháng 4/2019, Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật
(IoT Innovation Hub), dự án hợp tác với công ty Ericsson (Thụy Điển) đã
được ra mắt tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, cho thấy quyết tâm của Chính
phủ trong việc nắm bắt cơ hội, thách thức mới trong các xu hướng mới nhất
về số hóa, kết nối vạn vật của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hoạt
động R&D thường tập trung ở các DN có hoạt động sản xuất sản phẩm CNC,
DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc DN trong khu CNC. Tuy
nhiên, việc triển khai không được đồng đều và chưa đạt được hiệu quả như
mong muốn, chưa tăng được giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hạn chế trong liên kết giữa hoạt động R&D, ươm tạo của khu CNC
107
với viện - trường, DN chưa được thiết lập một cách hiệu quả, còn rời rạc;
chưa có sự nối kết hoạt động công nghệ cao trong và ngoài khu CNC.
Điều tra NC&PT năm 2017 do Cục thông tin KHCN Quốc gia công bố
[4] cho thấy đặc điểm của một số nhân tố NC&PT như sau:
- Việt Nam có 172.683 người tham gia các hoạt động NC&PT (Bảng
4.1). Số lượng cán bộ nghiên cứu trong các tổ chức giáo dục đại học giảm từ
53,18% năm 2011 xuống 47,26% năm 2017 (Bảng 4.2)
Bảng 4.1. Nhân lực NC&PT qua các năm (ngƣời)
Nhân lực theo chức năng
2011
2013
2015
2017
Cán bộ nghiên cứu
105.230
128.997
131.045
136.070
Cán bộ kỹ thuật
9.781
12.799
11.522
11.066
Cán bộ hỗ trợ
19.770
22.948
24.179
25.547
Tổng số
134.781
164.744
167.746
172.683
Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin và công nghệ Quốc gia
Bảng 4.2. Nhân lực NC&PT theo khu vực thực hiện và chức năng năm 2017
Khu vực thực hiện
Tổng số Cán bộ
Cán bộ
Cán bộ
nghiên
kỹ
hỗ trợ
cứu
thuật
Tổ chức NC&PT
34.197
26.681
2.406
5.110
Tổ chức giáo dục đại học, cao đẳng,
88.481
69.095
2.981
16.405
học viện
Tổ chức dịch vụ KHCN
3.229
2.331
442
456
Đơn vị hành chính, sự nghiệp
20.584
14.949
3.148
2.487
Doanh nghiệp
26.192
23.014
2.089
1.089
Tổng số
172.683
136.070
11.066
25.547
Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia
- Cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ tăng 4.373 người trong thời gian
2011-2017; Tỉ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học trong tổng số cán
bộ nghiên cứu đã tăng từ 43,8% (năm 2011) lên 52,7% (năm 2017).
108
- Năm 2017 cả nước có 687 tổ chức NC&PT với các qui mô khác nhau,
số tổ chức NC&PT có qui mô dưới 30 người chiếm 54%, trong khi tổ chức
NC&PT có qui mô nhân lực trên 100 người chỉ chiếm 15%. Điều này cho thấy
số tổ chức NC&PT của Việt Nam tuy nhiều nhưng quy mô nhỏ (Bảng 4.3).
Bảng 4.3. Tổ chức NC&PT chia theo qui mô nhân lực năm 2017
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Qui mô
Dưới 30 người
371
54,00
Từ 30 đến dưới 50 người
118
17,18
Từ 50 đến dưới 10 người
97
14,12
Trên 100 người
101
14,70
Tổng
687
100
Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin và công nghệ Quốc gia
- Theo phân bố địa lý ta thấy, hai phần ba số tổ chức này tập trung tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, vùng Tây Bắc chỉ chiếm 1,3% (Bảng 4.4).
Bảng 4.4. Tổ chức NC&PT theo vùng địa lý năm 2017
Số lƣợng ổ chức NC&PT ( tỉ lệ %)
Vùng
1.Hà Nội
329 - (47,89)
2.TP. Hồ Chí Minh
131 - (19,07)
3.Đồng bằng sông Hồng (trừ Hà Nội)
24 - (3,49)
4.Tây Bắc
9 - (1,31)
5.Đông Bắc
29 - (4,22)
6.Bắc Trung Bộ
49 - (7,13)
7.Nam Trung Bộ
29 - (4,22)
8.Tây Nguyên
23 - (3,35)
9.Đồng Nam Bộ (trừ TP. Hồ Chí Minh)
28 - (4,08)
10.Đồng bằng sông Cửu Long
36 - (5,24)
Tổng số
687 - (100)
Nguồn: Điều tra NC&PT, Cục Thông tin và công nghệ Quốc gia
109
- Các tổ chức trên nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực: Khoa học kỹ thuật và
công nghệ 195 (chiếm 28,38%); Khoa học Xã hội 165 (chiếm 24,02%); Khoa
học Nông nghiệp 154 (chiếm (22,42%); Khoa học Tự nhiên chiếm 13,97%;
Khoa học nhân văn chiếm 4,66%; Khoa học y, dược chiếm 6,55% [4].
* Về chính sách KHCN
Là một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam hiện đã có nhiều cơ chế,
chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN nhằm đẩy mạnh xã hội hóa, huy
động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực từ khu vực DN cho đầu tư phát
triển KHCN theo Chiến lược Phát triển KHCN giai đoạn 2011 - 2020. Đầu tư
cho KHCN trong những năm qua đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong
đóng góp của xã hội, nhất là từ khu vực DN. Nếu như trong khoảng 10 năm
trước đây, kinh phí hoạt động KHCN chủ yếu dựa vào NSNN (khoảng 70-
80% tổng đầu tư cho KHCN), thì đến nay đầu tư cho KHCN từ NSNN và từ
DN đã tương đối cân bằng với tỉ lệ tương ứng là 52% và 48% (năm 2018) [4].
Các DN, các tập đoàn lớn quan tâm nhiều hơn đến đầu tư cho KHCN;
DNVVN bước đầu đã có sự quan tâm và đầu tư cho KHCN; DN khởi nghiệp
ĐMST của Việt Nam đã có bước trưởng thành mạnh mẽ, tiếp cận, cạnh tranh
được với các DN khởi nghiệp ĐMST quốc tế [7]. Tuy nhiên, ngoại trừ một số
DN lớn, đặc biệt DN hoạt động trong lĩnh vực CNTT, còn tuyệt đại đa số DN
không quan tâm nhiều đến đầu tư cho lĩnh vực này. Hoạt động R&D thường
tập trung ở các DN trong khu CNC, hoặc các DN có hoạt động sản xuất sản
phẩm CNC, DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Liên kết giữa hoạt
động R&D, ươm tạo của Khu CNC với viện - trường, DN chưa được thiết lập
một cách hiệu quả; Chưa có sự nối kết hoạt động CNC trong và ngoài Khu
CNC. Các DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta còn hạn chế về
trình độ công nghệ. Những hạn chế này có liên quan tới tiềm lực CNC nói
chung và hoạt động R&D của DN trong khu công nghiệp, khu chế xuất nói
riêng. Đến nay, số DN thành lập Quỹ KHCN cũng như tỷ lệ vốn được sử
dụng so với số vốn đã trích lập Quỹ còn khiêm tốn. Theo thống kê, đầu tư cho
KHCN của khối DN hiện nay chỉ bằng 1/2 đầu tư từ NSNN [28].
110
Trong những năm qua, NSNN đầu tư cho hoạt động KHCN duy trì vào
khoảng 2% tổng chi hàng năm, xấp xỉ 0,5% GDP (bao gồm cả chi cho an
ninh, quốc phòng và chi dự phòng quốc gia) [3]. Tỷ lệ 2% tổng chi NSNN là
một tỉ lệ khá cao, không thua kém các nước có nền KHCN phát triển như Mỹ,
Nhật bản, Châu Âu. Tuy nhiên, do giá trị tuyệt đối của GDP Việt Nam không
lớn nên số tiền tương ứng cho đầu tư KHCN còn khá ít. Thêm vào đó, thực tế
trong suốt 20 năm qua chưa năm nào đạt 2%, thường chỉ đạt 1,5 - 1,7% tổng
chi NSNN. Dự toán NSNN năm 2018 được Quốc hội thông qua đã quyết định
tăng chi cho KHCN 8% so với năm 2017, nhưng chi cho KHCN vẫn chưa đạt
2% như mong muốn [30]. Đây là một con số còn rất khiêm tốn so với các
quốc gia tiên tiến về KHCN với tỷ lệ đầu tư xã hội cho KHCN luôn đạt 3-4%
GDP, thậm chí lên tới 4-5% như Iseral, Hàn Quốc [166].
Việc ra mắt của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia năm 2008 và Quỹ
Đổi mới công nghệ quốc gia năm 2011 đã đánh dấu sự hình thành một mô
hình mới trong quản lý tài chính KHCN, góp phần đa dạng hoá các kênh đầu
tư. Tuy nhiên, cơ chế Quỹ từ NSNN còn nhiều bất cập chưa thể giải quyết và
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart), Sự kiện kết nối cung cầu công
nghệ (Techdemo) và Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo (Techfest) được tổ chức
hàng năm đã góp phần kết nối giữa các bên cung, cầu công nghệ, thúc đẩy thị
trường KHCN và hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam. Các Tech là
cầu nối cho các DN, nhà khoa học/nhà đầu tư trao đổi, giao lưu, tìm hiểu nhu
cầu thực tế và tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh. Các Tech giúp tìm ra con
đường hiệu quả để đưa KHCN vào cuộc sống và đến gần hơn với người dân.
4.1.2. Quan điểm và mục tiêu
Nghị quyết Hội nghị TW 6 khóa XI của Đảng tháng 10/2012 khẳng
định: “KHCN là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước”. Với mục tiêu tổng quát là: “Phát triển mạnh
mẽ KHCN, làm cho KHCN thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng,
111
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; Bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”. Kết luận 50-KL/TW ngày
30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW 6,
khóa XI về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế khẳng
định: “Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết đã đạt được những kết
quả quan trọng. Tiềm lực KHCN quốc gia được tăng cường. ĐMST và khởi
nghiệp sáng tạo được thúc đẩy, lan tỏa trong xã hội. Thị trường KHCN bước
đầu phát triển. Hợp tác quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng
cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao. KHCN đã đóng góp quan trọng cho tăng
trưởng và sự cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm QP-AN, góp phần phòng
chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển
bền vững”. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp để phát triển toàn diện
KHCN trong giai đoạn tới là: “Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về
đầu tư, tài chính và DN, bảo đảm đồng bộ các qui định pháp luật về KHCN;
tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế, phương thức quản lý tổ chức, hoạt động
KHCN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Đổi mới hệ thống sáng
tạo quốc gia theo hướng lấy DN làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên
cứu là chủ thể nghiên cứu chủ yếu, là yếu tố “lõi” của hệ thống khoa học
quốc gia.”
Với quan điểm lấy DN làm trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia
được đặt ra thống nhất trong cả hệ thống chính trị, việc rà soát và củng cố
hiệu quả của hệ thống chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN là việc làm
vô cùng cấp thiết.
112
4.2. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và công
nghệ tại Việt Nam
Để phát triển thị trường KHCN, đặc biệt là DN KHCN, Chính phủ đã
ban hành nhiều chính sách thúc đẩy thông qua Luật KHCN năm 2013, Luật
công nghệ cao 2013, Luật chuyển giao công nghệ 2017, các văn bản dưới luật
(Nghị định số 95/2014/NĐ-CP [19], Nghị định số 13/2019/NĐ-CP [17],
Thông tư số 83/2016/TT-BTC [12],…), Chương trình Phát triển thị trường
KHCN đến năm 2020 [48], Chương trình Hỗ trợ phát triển DN KHCN và tổ
chức KHCN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm [47],…
nhằm ưu đãi, hỗ trợ DN KHCN như: miễn giảm thuế thu nhập cá nhân; Miễn
giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; ưu đãi tín dụng cho DN KHCN thực hiện
hoạt động R&D; hỗ trợ tài chính cho hoạt động R&D đề hình thành sản phẩm
thương mại hoá;…
Sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động R&D của DN thông qua các
cơ chế, chính sách hỗ trợ đều hướng đến mục đích tối đa hoá tổng số lợi ích
chung cho xã hội do tác động lan tỏa của tri thức KHCN được DN mang lại từ
các giải pháp công nghệ mới. Sự tác động của chính phủ thông qua nhiều
công cụ trong đó công cụ hỗ trợ về tài chính được xem là hữu hiệu nhằm thúc
đẩy hoạt động R&D của DN, khắc phục hiện tượng DN đầu tư cho hoạt động
R&D thấp hơn ngưỡng đầu tư mà xã hội mong muốn. Nhà nước đã thúc đẩy
hoạt động R&D thông qua hệ thống chính sách xuyên suốt về KHCN, với xương
sống chính là các Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Các công cụ
chính sách hiện đang được sử dụng để thúc đẩy hoạt động này được chia thành
bốn nhóm bao gồm:
4.2.1. Chính sách trọng cung
(1) Chính sách tài trợ trực tiếp
- Quỹ phát triển KHCN quốc gia (NAFOSTED) được thành lập theo
Nghị định số 122/2003/NĐ-CP của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động
từ tháng 3/2008. Quỹ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có chức năng
tài trợ, cho vay để thực hiện nhiệm vụ KHCN do tổ chức, cá nhân đề xuất.
113
Việc ra đời và đi vào hoạt động của NAFOSTED được đánh giá là một
dấu ấn quan trọng trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý KHCN, được cộng
đồng các nhà khoa học đánh giá là bước đột phá trong đổi mới cơ chế quản lý
KHCN ở nước ta. Hằng năm, NAFOSTED tài trợ trên 300 nhiệm vụ KHCN
với hàng nghìn lượt nhà khoa học tham gia. Ngoài việc giải quyết các vấn đề
đặt ra, các nhiệm vụ KHCN, Quỹ này góp phần tạo ra một lượng lớn các sản
phẩm khoa học, trong đó số lượng công trình công bố ISI là sản phẩm từ các
đề tài nghiên cứu do NAFOSTED tài trợ được duy trì, chiếm 20-25% công bố
ISI tính cho Việt Nam và ước tính chiếm trên 50% số công trình công bố ISI
được tài trợ từ NSNN [38].
- Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia là tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt
động không vì mục đích lợi nhuận, có chức năng cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi
suất vay, bảo lãnh để vay vốn, hỗ trợ vốn cho các tổ chức, cá nhân và DN
thực hiện nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ.
Thành lập từ năm 2011 với tôn chỉ hoạt động "là người bạn của doanh
nghiệp", Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ tài chính
cho các tổ chức, cá nhân và DN ĐMCN thông qua các hình thức cho vay ưu đãi,
hỗ trợ tài chính, hỗ trợ vốn vay. Tuy nhiên đến nay hành lang pháp lý cho các
hoạt động của Quỹ này vẫn chưa được hoàn thiện để thực hiện được trọn vẹn các
chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt là đối với hoạt động cho vay và bảo lãnh vốn vay.
- Hỗ trợ tài chính trực tiếp thông qua các Chương trình KHCN quốc gia:
Vốn Ngân sách cho KHCN được xem là một trong những biện pháp
quan trọng nhất thể hiện nỗ lực của nhà nước đối với KHCN nói chung và
hoạt động R&D của DN nói riêng. Nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước có
tính chất châm ngòi, thu hút các nguồn vốn khác. Các Chương trình quốc gia
đang được triển khai với mục tiêu lấy DN làm trung tâm, đầu tư có trọng tâm,
trọng điểm, đầu tư tới ngưỡng để có thể thúc đẩy các DN đầu tư vào KHCN,
đặc biệt là các Chương trình: Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia,
Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Chương trình phát triển sản
phẩm quốc gia, Chương trình hỗ trợ phát triển DN KHCN và tổ chức KHCN
114
công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Chương trình phát triển
thị trường và DN KHCN, Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc
gia đến năm 2025. Các nhiệm vụ thuộc các Chương trình được triển khai
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần quan trọng phát triển KT-XH của
các địa phương và các ngành kinh tế. Phần lớn các nhiệm vụ được thực hiện
theo hình thức DN chủ trì kết hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học và
các chuyên gia công nghệ để phát triển sản phẩm dưới sự hỗ trợ của nhà
nước. Sự gắn kết này đã góp phần thúc đẩy ĐMST tại các DN và đẩy mạnh
ứng dụng kết quả NC&PT công nghệ trong thực tiễn đời sống KH-XH.
Thực tế tổng kết giai đoạn đến 2020 cho thấy, các Chương trình quốc
gia đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như hàng trăm công nghệ, quy
trình công nghệ được hấp thu và làm chủ, hàng chục bằng sáng chế, giải pháp
hữu ích được đăng ký bảo hộ, năng suất lao động trung bình tăng gấp 5,4 lần,
sau đổi mới công nghệ, sản phẩm đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường
trong nước và tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nước ngoài, doanh thu của
các DN tăng lên gấp khoảng 3 lần, lợi nhuận tăng khoảng 2,4 lần so với trước.
Tuy vậy, vì nhiều lý do, phần lớn các Chương trình không đạt được các mục
tiêu đã đề ra, các nội dung triển khai chưa đi vào chiều sâu, chưa tạo được sự
lan toả, chưa thu hút được nhiều DN tham gia.
(2) Chính sách tài trợ gián tiếp (ưu đãi về thuế, miễn giảm tiền thuê, ưu
đãi tín dụng,...)
Để thúc đẩy khu vực tư nhân đầu tư cho hoạt động R&D, nhà nước đã
dùng chính sách thuế thông qua các điều khoản trong các luật: Luật KHCN
năm 2013, Luật đầu tư 2014, Luật công nghệ cao 2013, Luật chuyển giao
công nghệ, Luật thuế thu nhập DN, Luật thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, Luật
thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn dưới luật có liên quan để hỗ trợ
DN khi đầu tư cho KHCN. Cụ thể:
- Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: Nghị định số 218/2013/NĐ-
CP quy định việc áp thuế suất ưu đãi 10% (bằng ½ thuế suất thu nhập DN
thông thường) trong thời hạn 15 năm, miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế
115
phải nộp trong 09 năm tiếp theo đối với một số khoản thu nhập của DN đầu tư
cho KHCN [17].
- Ưu đã thuế nhập khẩu: Thông tư số 83/2016/TT-BTC và Nghị định
118/2015/NĐ-CP quy định đối với DN công nghệ cao, DN KHCN, tổ chức
KHCN theo quy định của pháp luật về công nghệ cao và pháp luật về KHCN
được áp dụng ưu đãi về thuế nhập khẩu tuỳ thuộc vào điều kiện về ngành
nghề, địa bàn, quy mô vốn đầu tư hoặc sử dụng lao động của từng dụ án đầu
tư cụ thể [12],[20].
- Ưu đã thuế sử dụng đất phi nông nghiệp: Thông tư số 83/2016/TT-
BTC quy định đối với DN công nghệ cao, DN KHCN, tổ chức KHCN theo
quy định của pháp luật về công nghệ cao và pháp luật về KHCN được áp
dụng ưu đãi về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tùy thuộc vào điều kiện về
ngành nghề, địa bàn, quy mô vốn đầu tư hoặc sử dụng lao động của từng dự
án đầu tư cụ thể [12].
- Ưu đãi thuế giá trị gia tăng: Thông tư số 219/2013/TT-BTC quy định
máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt
động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ thuộc loại trong nước chưa
sản xuất được nhập khẩu là đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng [8].
- Miễn thuế thu nhập: Thông tư số 78/2014/TT-BTC, Thông tư số
151/2014/TT-BTC, Thông tư số 95/2015/TT-BTC quy định việc miễn thuế
thu nhập đối với: Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ theo quy định của pháp luật về KHCN được miễn
thuế trong thời gian thực hiện hợp đồng nhưng tối đa không quá 03 năm kể từ
ngày bắt đầu có doanh thu từ thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ; Thu nhập từ bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu
tiên áp dụng ở Việt Nam theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ
Khoa học và Công nghệ được miễn thuế tối đa không quá 05 năm kể từ ngày
có doanh thu từ bán sản phẩm; Thu nhập từ bán sản phẩm sản xuất thử
nghiệm trong thời gian sản xuất thử nghiệm theo quy định của pháp luật; Thu
116
nhập từ chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ
chức, cá nhân ở địa bàn có điều kiện KH-XH đặc biệt khó khăn [9][10][11].
- Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước, miễn lệ phí trước bạ: Nghị định số
số 46/2014/NĐ-CP quy định đối với đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học
của DN KHCN nếu đáp ứng được các điều kiện liên quan (nếu có) bao gồm:
đất xây dựng phòng thí nghiệm, đất xây dựng cơ sở ươm tạo công nghệ và
ươm tạo DN KHCN, đất xây dựng cơ sở thực nghiệm, đất xây dựng cơ sở sản
xuất thử nghiệm. Đối với các khu công nghệ cao, ưu đãi về tiền thuê đất được
quy định cụ thể trong văn bản quy định cơ chế ưu đãi của từng khu [18]. Nghị
định số 13/2019/NĐ-CP quy định DN KHCN được miễn lệ phí trước bạ khi
đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật về
lệ phí trước bạ [21].
- Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp: Nghị định số 218/2013/NĐ-
CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp: DN được thành lập, hoạt động theo quy
định của pháp luật Việt Nam được trích tối đa 10% trên thu nhập tính thuế
hàng năm để lập Quỹ phát triển KHCN của DN (Nghị định số 122/2003/NĐ-
CP [16]). Chế độ Quỹ KHCN được xem là một chính sách quan trọng thúc
đẩy hoạt động R&D trong DN, đồng thời thúc đẩy tối đa đầu tư của DN cho
hoạt động KHCN [17].
- Ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp KHCN thực hiện hoạt động nghiên
cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản xuất kinh doanh: được vay vốn tín
dụng đầu tư của Nhà nước; cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất vay
và bảo lãnh để vay vốn (Nghị định số 13/2019/NĐ-CP). Ngoài ra, các
Chương trình KHCN lớn như Chương trình quốc gia phát triển công nghệ
cao, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình phát triển sản
phẩm quốc gia đều có nội dung hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các DN hoạt động
KHCN thuộc đối tượng hỗ trợ của các Chương trình [21].
- Không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN,
117
cơ sở nghiên cứu KHCN của nhà nước để thực hiện các hoạt động nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm sản
phẩm mới, ươm tạo DN KHCN [21].
4.2.2. Chính sách trọng cầu
(1) Xúc tiến thương mại:
Năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra Chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia (Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg), theo đó, Chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia được xây dựng với mục tiêu tăng cường
hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước,
thương mại miền núi, biên giới và hải đảo; Hỗ trợ công tác quy hoạch và vận
hành hạ tầng thương mại; Góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh
của cộng đồng DN; Gắn kết các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và du
lịch [46]. Cụ thể:
- Nội dung xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu: Hỗ trợ một phần
chi phí thực hiện thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ
liệu các thị trường xuất khẩu trọng điểm theo ngành hàng; Hỗ trợ kinh phí thuê
chuyên gia trong và ngoài nước để tư vấn phát triển sản phẩm phát triển xuất
khẩu, thâm nhập thị trường nước ngoài; Hỗ trợ đào tạo nâng cao nghiệp vụ xúc
tiến thương mại; Hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ triển lãm thương mại;…[46].
- Nội dung xúc tiến thương mại thị trường trong nước: Hỗ trợ chi phí
tham gia triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm của DN đến người tiêu dùng;
Hỗ trợ chi phí điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường trong nước, nghiên
cứu phát triển hệ thống phân phối, cơ sở hạ tầng thương mại; Hỗ trợ đào tạo,
tập huấn về kỹ năng kinh doanh, tổ chức mạng lưới bán lẻ;… [46].
Ngoài ra, các DN đã thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển sản
phẩm quốc gia được ưu tiên tham gia các đề án xúc tiến thương mại sản phẩm
quốc gia, phát triển thị trường sản phẩm quốc gia và phát triển công nghiệp hỗ
trợ phục vụ phát triển sản phẩm quốc gia theo quy định tại Thông tư số
10/2014/TT-BCT [2].
118
(2) Chính sách ưu tiên cho thương mại hóa kết quả nghiên cứu, sản
phẩm của doanh nghiệp KHCN:
Nghị định số 13/2019/NĐ-CP quy định doanh nghiệp KHCN được:
- Ưu tiên trong việc xác lập quyền SHTT, công nhận, đăng ký lưu hành sản
phẩm hình thành từ kết quả KHCN để phát triển sản phẩm mới [21].
- Sử dụng Quỹ phát triển KHCN của DN để thương mại hóa kết quả
KHCN; Ưu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thương mại hóa kết quả KHCN, tài
sản trí tuệ của Nhà nước [21].
- Ưu tiên xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm hình
thành từ kết quả KHCN của DN KHCN trong trường hợp sản phẩm thuộc
danh mục sản phẩm nhóm 2 khi chưa có quy chuẩn kỹ thuật tương ứng [21].
4.2.3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ
(1) Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ
Phát triển nguồn nhân lực R&D cho DN có hoạt động KHCN nói chung
và hoạt động CNC nói riêng là hết sức cần thiết, là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của nhằm thực hiện chính sách của Nhà nước đối với hoạt động
CNC quy định tại Luật công nghệ cao, Luật KHCN và các văn bản có những
quy định chi tiết về hoạt động và các biện pháp khuyến khích của cá nhân
hoạt động KHCN, phát triển nguồn nhân lực KHCN. Chính sách phát triển
nhân lực công nghệ cao của Việt Nam nhận định: đào tạo nhân lực công nghệ
cao phải gắn với thực tiễn, nhiệm vụ ứng dụng, phát triển công nghệ cao đáp
ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo đảm về số lượng,
chất lượng và cơ cấu nhân lực công nghệ cao; sử dụng hiệu quả và đãi ngộ thỏa
đáng. Nhân lực công nghệ cao được đào tạo đồng bộ về cơ cấu, trình độ bao
gồm nhà khoa học, nghiên cứu viên, chuyên gia công nghệ, cán bộ quản lý, kỹ
thuật viên, công nhân kỹ thuật. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá
nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia phát triển nhân lực công
nghệ cao; dành ngân sách, các nguồn lực, áp dụng mức ưu đãi cao nhất theo quy
định của pháp luật để phát triển nhân lực công nghệ cao [40][41].
119
Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực KHCN ở trong nước và nước ngoài bằng NSNN (Đề án
2395) thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2025. Đây là đề án nhằm góp phần
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kiến thức, kỹ năng quản lý, nghiên
cứu, tiếp thu, làm chủ, phát triển công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại của đội
ngũ nhân lực KHCN, hình thành lực lượng chuyên gia KHCN trình độ cao,
đáp ứng yêu cầu phát triển KH-XH của đất nước thông qua các khóa đào tạo,
bồi dưỡng trong và ngoài nước đối với chuyên gia KHCN; nhóm nghiên cứu;
bồi dưỡng sau tiến sĩ và bồi dưỡng nhân lực quản lý KHCN [49].
Công tác đào tạo nguồn nhân lực R&D cũng được lồng ghép trong nội
dung của các chương trình KHCN quốc gia. Cụ thể như trong Chương trình
phát triển sản phẩm quốc gia triển khai nội dung hỗ trợ hợp tác nghiên cứu,
trao đổi chuyên gia để giải quyết những vấn đề KHCN phức tạp ở trình độ
quốc tế, đẩy nhanh việc hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh đủ năng lực
tiếp thu, làm chủ và sáng tạo công nghệ. Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao có nội dung đào tạo và huy động được đội ngũ nhân lực CNC
thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình. Các nhiệm vụ KHCN theo Nghị
định thư, các nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu song phương và đa phương về
KHCN mang tính chiến lược được đưa vào triển khai nhằm đẩy mạnh hợp tác
nghiên cứu, chuyển giao các thành tựu KHCN tiên tiến của các đối tác trên thế
giới, góp phần nâng cao trình độ KHCN của các ngành, lĩnh vực và phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao.
Chính sách đào tạo nhân lực KHCN ở Việt Nam không phải mới thực
hiện, nhưng còn nhiều khó khăn, hạn chế như: chưa có sự gắn kết nhu cầu giữa
các cơ sở giáo dục, đào tạo với doanh nghiệp trong việc triển khai đào tạo nhân
lực KHCN; DN KHCN, DN CNC chưa dành đủ nguồn lực cho việc đào tạo,
nâng cao trình độ nhân lực; cơ chế tài chính cho công tác đào tạo nhân lực
KHCN, đặc biệt là nhân lực CNC còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được hạ tầng
phục vụ công tác đào tạo.
120
(2) Các chính sách phát triển hạ tầng KHCN
Luật KHCN năm 2013 quy định những nội dung nhằm thúc đẩy ứng
dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy hoạt động
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý sản xuất và ĐMST như quy định đầu tư từ
NSNN cho KHCN; quy định đầu tư của DN, tổ chức và cá nhân vào KHCN
thông qua các ưu đãi về thuế, tín dụng, sử dụng trang thiết bị phục vụ nghiên
cứu tại các cơ sở do Nhà nước trang bị; Xây dựng hạ tầng phục vụ phát triển
KHCN, phát triển CNC, xây dựng và phát triển thị trường KHCN [41].
Luật công nghệ cao quy định: DN thành lập mới từ dự án đầu tư sản
xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNC được khuyến khích phát triển,
được hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đất đai, thuế nhập
khẩu; DN hoạt động tại Việt Nam sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản
phẩm CNC được khuyến khích phát triển, ưu tiên xét chọn tham gia dự án có
sử dụng vốn NSNN [40].
Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 cũng đã có những biện pháp
thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường KHCN như: DN được
sử dụng quỹ phát triển KHCN của DN để đầu tư, đối ứng vốn, nhận vốn đối
ứng đầu tư cho đổi mới công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KHCN,
khởi nghiệp sáng tạo; Quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền khác phát sinh từ
kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đối tượng sở hữu trí tuệ
có thể xác định được giá trị là quyền tài sản để bảo đảm cho giao dịch vay
vốn đầu tư cho các dự án KHCN; DN đầu tư cho cơ sở vật chất - kỹ thuật hoạt
động giải mã công nghệ, tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải mã công nghệ
được hưởng các ưu đãi; .... Ngoài ra, tổ chức chợ công nghệ, hội chợ công
nghệ, triển lãm công nghệ, điểm kết nối cung cầu công nghệ, sàn giao dịch
công nghệ, trung tâm giao dịch công nghệ là nơi trưng bày, giới thiệu,
mua, bán công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ; hỗ trợ DN, tổ chức, cá
nhân có công nghệ mới được tạo ra trong nước công bố, trình diễn, giới thiệu
công nghệ, tham gia chợ, hội chợ công nghệ trong nước, ngoài nước; Tổ chức
thiết lập các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ [42]. Bên cạnh đó, các
121
văn bản hướng dẫn thi hành luật đang từng bước được ban hành để đưa các
quy định của Luật vào cuộc sống.
Trên thực tế, các tổ chức dịch vụ tư vấn, giám định, thẩm định, đánh
giá, ươm tạo, môi giới chuyển giao công nghệ được thúc đẩy hình thành và
phát triển thông qua nội dung của các Chương trình, Đề án phát triển thị
trường KHCN, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST,… Trung tâm Hỗ trợ khởi
nghiệp sáng tạo quốc gia đã được Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập năm
2019 với chức năng chính là tư vấn, hỗ trợ các thành phần trong hệ sinh thái
khởi nghiệp sáng tạo kết nối, chia sẻ nguồn lực, tài nguyên; tổ chức các sự
kiện ĐMST nhằm tìm kiếm, tạo lập các DN khởi nghiệp.
Đến hết năm 2019, đã có 18 sàn giao dịch công nghệ và thiết bị được
hình thành; 50 vườn ươm công nghệ và trên 200 tổ chức đại diện sở hữu công
nghiệp đang hoạt động. Mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển giao
tiến bộ KHCN phục vụ phát triển KH-XH ở 63 tỉnh, thành phố được đầu tư
nâng cấp [3].
Các hoạt động kết nối giữa các bên cung, cầu công nghệ được đẩy
mạnh thông qua các sự kiện kết nối, hội chợ công nghệ, triển lãm quốc tế về
công nghệ hàng năm (Techdemo, Techmart, Techfest, ...).
4.2.4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Chính sách liên kết được Chính phủ Việt Nam thực hiện thông qua các
nhiệm vụ của một số Chương trình KHCN quốc gia theo hướng tăng cường
liên kết, bổ trợ lẫn nhau, nâng cao chuỗi giá trị của các sản phẩm chủ lực quốc
gia. Đặc biệt ba Chương trình: Chương trình quốc gia phát triển công nghệ
cao, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình đổi mới công
nghệ quốc gia đã thu hút được các đơn vị có năng lực tham gia thực hiện triển
khai 170 nhiệm vụ, trong đó 60% số nhiệm vụ do DN trực tiếp là đơn vị chủ
trì. Phần lớn các nhiệm vụ được thực hiện theo hình thức DN chủ trì kết hợp
với các viện nghiên cứu, trường đại học; được triển khai trên hơn 30 tỉnh
thành, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần quan trọng phát triển KH-
XH của các địa phương và các ngành kinh tế. Các nhiệm vụ được triển khai
122
đã góp phần tạo ra sự kết nối giữa DN, viện nghiên cứu, trường đại học và
nhà nước. 65% số nhiệm vụ có sự phối hợp nghiên cứu của DN và viện,
trường, huy động được hơn 500 chuyên gia từ các các tổ chức nghiên cứu
tham gia trực tiếp vào các hoạt động của nhiệm vụ. Riêng đối với các nhiệm
vụ trên lĩnh vực nông nghiệp, hàng ngàn nhân lực địa phương đã được đào tạo
công nghệ và cam kết lâu dài tham gia vào chuỗi cung ứng [4].
Ví dụ, Chương trình hỗ trợ DN KHCN và tổ chức KHCN công lập thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592) có mục tiêu thúc
đẩy, hỗ trợ hình thành và phát triển DN KHCN, huy động các nguồn lực xã
hội để phát triển DN KHCN nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc triển khai
ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản
xuất, kinh doanh, đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm hàng hóa là kết quả
của hoạt động KHCN, phát triển thị trường KHCN, góp phần phát triển KT-
XH của đất nước.
Đưa vào thực hiện từ năm 2015, Chương trình 592 đã triển khai được một
số nhiệm vụ nghiên cứu chính sách, đề xuất giải pháp phát triển DN KHCN và
một số nhiệm vụ phát triển DN KHCN thông qua việc triển khai ứng dụng các
kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất trong các lĩnh
vực: công nghệ sinh học, công nghệ môi trường, nông nghiệp, y dược, ….
4.3. Đánh giá chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học và
công nghệ tại Việt Nam
4.3.1. So sánh Việt Nam và các quốc gia tham khảo
Chương 3 đã trình bày bối cảnh, quan điểm, chính sách phát triển
KHCN, trong đó có chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung
Quốc, Hàn Quốc và Israel. Cả ba quốc gia này đều có một số đặc điểm chung
như sau:
Đều là các quốc gia châu Á chậm phát triển cho đến những năm 1960
của thế kỷ XX. Trung Quốc giành độc lập năm 1949, Israel năm 1948 và Hàn
Quốc giành độc lập sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953. Cơ sở
hạ tầng thấp kém, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn, chính quyền
123
non trẻ, thể chế chưa hoàn thiện, …. Đó là những gì mà cả ba quốc gia này
phải đối mặt vào những năm 1950-1960 của thế kỷ trước.
Vào những năm 1960 cả ba quốc gia đều có nền sản xuất lạc hậu, công
nghiệp chưa có nền tảng vững chắc, trình độ công nghệ thấp kém, giáo dục và
khoa học chưa phát triển, trong đó cả ba tác nhân quan trọng nhất thực hiện
R&D của mỗi quốc gia là trường đại học, viện nghiên cứu và DN đều chưa
phát triển. Đầu tư cho KHCN ít ỏi và chủ yếu từ ngân sách eo hẹp của nhà
nước. Đầu tư của DN cho KHCN gần như là con số không.
Cả ba quốc gia đều ở vào giai đoạn khởi đầu của trào lưu ĐMCN trên
thế giới trên cơ sở bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (vào cuối
những năm 1970), đó chính là công cuộc CNH diễn ra phổ biến trên phạm vi
toàn cầu với sự kế thừa thành quả của quá trình cơ khí hóa, điện khí hóa và
bắt đầu chuyển đổi sang thời kỳ tự động hóa. Đồng thời, cũng đang ở vào thời
kỳ dân số vàng của mỗi quốc gia. Thực tiễn cho thấy thành công có tính đột
phá ở các quốc gia hầu hết đều gắn với việc khai thác triệt để những cơ hội
mà làn sóng cách mạng công nghiệp mang lại và những lợi thế của thời kỳ
dân số vàng.
Ba quốc gia đều đạt thành công ở mức độ khác nhau về sự phát triển
bứt phá kinh tế sau 4-5 thập kỷ tiến hành công cuộc CNH đất nước dựa trên
động lực KHCN và thành công cả trên phương diện hoàn thiện thể chế kinh
tế, tăng cường cho R&D và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trung Quốc
với dân số trên 1,4 tỷ người đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới
với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong mấy thập kỷ, và trở thành nước chủ
công trong nhóm các nền kinh tế mới nổi BRICS. Hàn Quốc đã được thừa
nhận là một “con hổ châu Á” với nhiều thành tựu kinh tế và KHCN đẳng cấp
hàng đầu thế giới, còn được gọi là những “Kỳ tích sông Hàn”. Israel trở thành
“Quốc gia khởi nghiệp”, dẫn đầu thế giới về trào lưu đổi mới, sáng tạo dựa
trên công nghệ, kỹ thuật cao, trở thành biểu tượng về sự vươn lên từ nghèo
khó nhờ khai thác nguồn nhân lực giàu tri thức, chất xám.
124
Ba quốc gia đều đã có nền kinh tế thị trường với những điều kiện tự do
căn bản cho phát triển đất nước, đây cũng là điểm tương đồng với Việt Nam.
Bên cạnh những đặc điểm chung nêu trên, mỗi quốc gia lại có những
đặc điểm riêng, khác biệt, những đặc điểm đó cũng ảnh hưởng nhất định đến
con đường và chính sách phát triển của mỗi quốc gia.
Trung Quốc giành độc lập dân tộc bằng một cuộc đấu tranh cách mạng
giải phóng dân tộc và lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, xây dựng
nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và phát triển một nền kinh tế thị
trường đặc sắc Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Theo đó, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều tiết của nền
kinh tế, mặc dù kinh tế tư nhân sau này cũng được khuyến khích phát triển.
Hàn Quốc độc lập sau chiến tranh Triều Tiên và đi theo con đường Tư
bản chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường với sự đề cao vai trò điều hành,
dẫn dắt của Chính phủ, quan tâm sớm đến phát triển công nghiệp và lấy
KHCN làm động lực thực sự cho phát triển kinh tế.
Israel giành độc lập sau chiến tranh và xung đột sắc tộc, để lại một đất
nước với cơ sở hạ tầng lạc hậu và các mối đe dọa vũ lực thường trực. Quốc
gia này đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế theo mô hình thị trường tự
do, chọn đột phá vào công nghệ, đổi mới, sáng tạo và DN tư nhân để tạo bước
nhảy vọt về chất trong phát triển kinh tế.
Mức độ thành công của mỗi nước đều rất lớn, nhưng có khác nhau về
mức độ và cũng đều đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi. Sự khác biệt này,
ngoài nguyên nhân khách quan do tác động của tình hình kinh tế thế giới, còn
phụ thuộc vào tư duy, nhận thức, quan điểm và chủ trương, chính sách cụ thể
của mỗi nước ở từng giai đoạn phát triển.
Kết quả so sánh trên sẽ là một trong những căn cứ cho NCS khi đưa ra
những đề xuất về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho R&D của Việt Nam.
4.3.2. Một số đánh giá từ khảo sát thực tế doanh nghiệp
Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến 31/12/2018, Việt
Nam có 3.590 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN, trong đó 1.629 tổ chức công
125
lập và 1.961 tổ chức ngoài công lập. Ngoài ra, có khoảng 2.000 DN đạt điều
kiện DN KHCN trong các lĩnh vực: CNTT, sản xuất phần mềm, DN trong các
khu CNC, DN sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích chưa đăng ký để cấp giấy
chứng nhận DN KHCN [4].
Đến hết năm 2019, Việt Nam có 480 DN được cấp giấy chứng nhận DN
KHCN (tăng 14% so với năm 2018), có 39 tổ chức được cấp giấy chứng nhận
DN CNC và 24 tổ chức, DN được cấp giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng
công nghệ cao [4]. Tổng doanh thu năm 2018 của 165 DN KHCN được khảo
sát đạt hơn 160.000 tỷ đồng, trong đó 151 DN có doanh thu từ sản phẩm KHCN
với tổng giá trị đạt 8.672,8 tỷ đồng (chiếm 5,4% tổng doanh thu); 147 DN có lãi
với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2018 đạt 5.215,2 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi
nhuận trước thuế của sản phẩm KHCN đạt 724,9 tỷ đồng/131 DN [4].
Với số lượng DN đang ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và
chất lượng, những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN trở nên ý nghĩa
hơn so với việc đầu tư tiền thuần túy cho nghiên cứu khoa học. Để nhìn nhận
thực tế về những chính sách thúc đẩy này, NCS tiến hành thu thập một số
thông tin từ phía DN thông qua hình thức khảo sát bằng phiếu hỏi. Các hình
thức thu thập được NCS sử dụng là: Phỏng vấn trực tiếp, gửi phiếu qua email,
qua link bảng hỏi online. Để tránh sự trùng lặp giữa các bên thu thập dữ liệu,
DN tham gia khảo sát sẽ được xác định rằng họ chưa trả lời phiếu hỏi này qua
bất kỳ kênh thông tin nào, kể cả online hay offline. Sau gần một năm thực
hiện, số lượng phiếu từ các kênh được thu thập lại. Số lượng phiếu gửi đi là
120 phiếu, thu về được 103 phiếu hợp lệ dùng được cho phân tích.
(1) Kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi
Các DN được thống kê mô tả theo bốn đặc điểm: Loại hình DN, Quy mô
DN, Lĩnh vực hoạt động và Tỷ lệ trích lập hàng năm cho Quỹ KHCN của DN.
Dữ liệu thống kê (hình 4.1) cho thấy, số DN trả lời khảo sát: 103. Trong
đó, DN Nhà nước: 9; DN tư nhân: 88; DN FDI: 6; DN quy mô lớn đi đầu: 5;
DNVVN: 98; DN KHCN hay DN CNC: 52; DN khởi nghiệp ĐMST: 18.
DN có tỷ lệ trích quỹ KHCN hàng năm đạt từ 5% trở lên (tính theo tỷ lệ
của thu nhập tính thuế DN): 3; từ 3% đến dưới 5%: 15; từ 1% đến dưới 3%:
126
10; còn lại có tới 75 DN (chiếm 72,8%) trích dưới 1% cho quỹ này. Qua số
liệu khảo sát cho thấy: Số DN trích lập quỹ từ 3% trở lên khá nhiều (18 DN),
trong đó ngoài 9 DN Nhà nước phải trích tối thiểu 3% theo quy định của Luật
120
3
N/A Quỹ ≥ 5%
100
0 6
15
33
80
10
DN FDI DN Lĩnh vực khác 3% ≤ Quỹ < 5%
18
60
98
88
40
75
DN tư nhân VN Quy mô DNVVN DN khởi nghiệp, ĐMST 1% ≤ Quỹ < 3%
52
20
9
5
DN Nhà nước VN Quy mô DN Lớn DN KH&CN, DN CNC Quỹ < 1%
0
Quy mô
Loại hình
Lĩnh vực Quỹ KHCN
KHCN, còn có 9 DN đạt tỷ lệ lý tưởng này.
Hình 4.1. Thống kê các doanh nghiệp khảo sát
Nguồn: NCS tổng hợp (2019)
Các DN khảo sát được hỏi về các chính sách thúc đẩy của Chính phủ
theo bốn cấp độ: Có biết đến chính sách đó hay không? Nếu có biết thì có
thuộc đối tượng áp dụng của chính sách hay không? Nếu thuộc đối tượng áp
dụng thì khả năng áp dụng chính sách tại DN là dễ hay khó? Chính sách áp
dụng đạt hiệu quả ở mức nào? Cấp độ 1 là câu hỏi bắt buộc để đánh giá về
tình hình DN nắm bắt về các chính sách như thế nào. Cấp độ 2, 3, 4 là không
bắt buộc đối với từng chính sách do có thể DN chưa biết hoặc chưa áp dụng
chính sách nào đó tính tới thời điểm trả lời khảo sát.
Số lượng chính sách được chi tiết hóa từ khung phân tích ở bảng 4.5
dựa trên những thống kê thực tế của Việt Nam và tham vấn ý kiến chuyên gia.
Tổng số 10 cụm chính sách được chia thành bốn nhóm. Kết quả đánh giá các
chính sách được trình bày ở bảng 4.5.
127
Bảng 4.5. Khảo sát DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN.
Thuộc
Chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho
Áp
Hiệu
TT
Biết
đối
KHCN
dụng
quả
tƣợng
I
Nhóm chính sách trọng cung
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc
1
gia (Nafosted) / Quỹ Đổi mới công nghệ
70
40
13
3,2
quốc gia
2
Các Chương trình KHCN quốc gia
70
52
40
4,1
3
Các ưu đãi về thuế
70
52
52
2,8
4
Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp
72
52
52
2,9
5
Ưu đãi tín dụng
60
52
10
4,6
6 Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước
52
52
30
3,0
II Nhóm chính sách trọng cầu
7
90
Xúc tiến thương mại
90
70
3,8
Chính sách ưu tiên cho thương mại hóa kết
8
quả nghiên cứu, sản phẩm của doanh nghiệp
60
34
20
2,5
KHCN
III Nhóm chính sách hỗ trợ
9
Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao
60
52
30
4,0
IV Nhóm chính sách liên kết
Liên kết với viện, trường để tham gia các
10
47
47
24
3,8
Chương trình KHCN quốc gia
Nguồn: Thống kê dữ liệu khảo sát (2019)
Kết quả khảo sát cho thấy
Cấp độ 1: Có trên 50% DN khảo sát biết đến những chính sách thúc
đẩy DN đầu tư cho KHCN nhưng không đồng đều đối với từng cụm chính
sách. Mặc dù tỷ lệ chưa được cao nhưng các DN đã phần nào quan tâm tới
việc áp dụng KHCN và tìm hiểu những ưu đãi dành cho hoạt động sản xuất
kinh doanh sản phẩm KHCN.
Cấp độ 2: Phần lớn các DN có đủ điều kiện làm đối tượng của chính
sách là các DN KHCN, DN CNC; một phần nhỏ là DN khởi nghiệp ĐMST do
tham gia vào Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia.
128
Cấp độ 3: Có 6/10 nhóm chính sách được đánh giá là dễ áp dụng (trên
50% các DN đã vượt qua cấp độ 2 áp dụng) nằm đều ở cả 4 nhóm chính sách
trọng cung, trọng cầu, hỗ trợ và liên kết. Phần còn lại các chính sách chỉ được
áp dụng trong phạm vi hẹp đặc biệt chính sách về ưu đãi tín dụng, Quỹ Đổi
mới công nghệ quốc gia ít được các DN thấy có khả năng áp dụng.
Cấp độ 4: Đa phần các DN đều đánh giá chính sách đạt mức hiệu quả
trung bình khá (mức điểm từ 3 đến dưới 4). Ba chính sách được ghi nhận mức
điểm cao (trên 4) là Các Chương trình KHCN quốc gia, Chính sách ưu đãi tín
dụng và Chính sách phát triển nhân lực KHCN. Ở đây xuất hiện một nghịch lý
là chính sách liên quan đến ưu đãi tín dụng được coi là khó để áp dụng (tham
gia) nhưng lại có thể mang lại hiệu quả cao nếu được thực thi. Hai chính sách
được đánh giá có hiệu quả không cao (mức điểm dưới 3) là ưu đãi thuế (mặc dù
phổ cập và dễ áp dụng) và chính sách thương mại hoá. Có một bất ngờ là chính
sách đã được Luật hóa, được mọi DN biết đến và áp dụng lại chỉ đạt hiệu quả ở
mức thấp gần nhất (2,9 điểm) - đó là chính sách về trích lập quỹ KHCN trong
DN. Điều này cho thấy rằng việc áp dụng các chính sách không phải lúc nào
cũng mang lại hiệu quả mà DN mong muốn trong đầu tư KHCN.
Những số liệu từ khảo sát mang lại một góc độ chủ quan, từ trong chính
DN nhìn nhận sự tác động của những chính sách lên hoạt động sản xuất, kinh
doanh và tái đầu tư cho KHCN như thế nào để nâng cao hiệu quả cho DN, từ
đó một số DN khảo sát đã đề xuất những nội dung nổi cộm trong chính sách
để góp phần nâng cao hiệu quả của những khuyến khích này.
Nội dung chủ yếu mà các DN có đề xuất được trình bày ở bảng 4.6
Bảng 4.6. Đề xuất của DN về các chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN
TT Chính sách thúc đẩy DN đầu tƣ cho KHCN Đề cập
1. Quỹ đầu tư cho khởi nghiệp, ĐMST 50/103
2. Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp 61/103
3. Nhân lực KHCN 65/103
Nguồn: Thống kê dữ liệu khảo sát (2019)
4. Thương mại hóa các sản phẩm KHCN 75/103
129
Vấn đề thương mại hóa sản phẩm KHCN được các DN quan tâm nhiều
nhất với 75/103 ý kiến. Các ý kiến đề cập tới việc tạo sàn thương mại cho sản
phẩm KHCN hoặc tìm đầu ra, thậm chí là tìm người đặt hàng ngay từ những
nghiên cứu ban đầu.
Về vấn đề quỹ và nhân sự KHCN, các DN cho rằng cần nâng cao năng
lực “thực” của đội ngũ nhân sự làm nghiên cứu khoa học để những sản phẩm
đầu ra được thị trường đón nhận tốt hơn, sử dụng nguồn quỹ KHCN của chính
DN được hiệu quả hơn (1/2 phiếu khảo sát có đề xuất). Đề xuất này cho thấy,
DN không ngại trích lập cho quỹ KHCN nhưng vấn đề sử dụng quỹ hiệu quả và
mang lại nhiều giá trị từ những nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới
là vấn đề mà DN quan tâm.
(2) Kết quả từ nghiên cứu doanh nghiệp điển hình
Nghiên cứu điển hình được thực hiện trên hai DN với hai đặc điểm
tương đối khác nhau. Một là DNNN, có quy mô lớn, tỷ lệ đầu tư cho KHCN
cao. DN còn lại là một start-up mới thành công trong năm 2019. Việc nghiên
cứu về chính sách cũng đưa ra theo những điểm nổi bật, sự thành công của
mỗi DN chứ không giàn trải cho tất cả bốn nhóm chính sách. Một vài kết quả
bước đầu thu về trong hộp 1 và hộp 2 dưới đây.
Hộp 1: Doanh nghiệp lớn
Có thể nâng mức trần trích quỹ cho KHCN lên hơn 10%
Đối với chính sách về trích lập quỹ KHCN của DN tối thiểu 3% và tối đa 10%
(với DNNN), DN này cho rằng có thể nới rộng mức trần trong việc trích lập
quỹ KHCN của DN lên trên 10% vì thực tế bản thân DN có khả năng trích cao
hơn và cũng có nhu cầu sử dụng mức đầu tư nhiều hơn cho những R&D mới.
Mức trích lập tối đa cần được quy định cao hơn hoặc cho DN tự quyết định,
miễn sao đảm bảo chi đúng, chi hiệu quả nguồn quỹ này.
Thương mại hóa trong chính cách làm của mình
Thay vì bao cấp hay đầu tư cho các hoạt động R&D, hãy đặt hàng hoặc cho vay
đối với những hoạt động này. Khoản vay không lãi, có thời hạn và kết quả là
những nghiên cứu sẽ được ứng dụng trong thực tiễn thị trường.
130
Nguồn nhân lực KHCN out-sourcing
Có hai điều quan trọng đối trong R&D, đó là vốn và con người. Nếu vốn có thể
tích lũy từ các nguồn tài trợ bên ngoài hoặc nguồn trích lập bên trong DN, thì
nhân lực cũng vậy. Khi nguồn lực con người cho KHCN của DN không đủ,
hãy sử dụng những nguồn lực tốt hơn của xã hội - đó chính là những nhà khoa
học từ các Trường, Viện, cơ sở nghiên cứu.
Nguồn: Phỏng vấn doanh nghiệp (2019)
Đối với DN start-up, đây là DN quy mô nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực
CNC, mới bước chân vào thị trường từ 2 năm trước. Những chia sẻ của DN
về các chính sách thúc đẩy thực sự là một bài học tốt cho những mô hình
start-up tương tự có thể học hỏi theo. Ghi nhận trong hộp thứ 2 dưới đây.
Hộp 2: Doanh nghiệp start-up
Hãy định hướng vào quỹ đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần
Là một start-up, lại là start-up công nghệ, phải nghĩ khác, làm khác để tạo ra sản
phẩm thuyết phục được những nhà đầu tư. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khó
khăn nhất, nên start-up cần các quỹ mạo hiểm, các nhà đầu tư thiên thần.
Không thể tách rời nền tảng CNTT và cách mạng 4.0
Trong giai đoạn hiện nay, start-up nói chung và start-up công nghệ nói riêng
không thể tách rời với nền tảng CNTT và cuộc cách mạng 4.0. DN cần biết tận
dụng những chính sách phát triển hạ tầng CNTT cho KHCN của nhà nước để
tìm kiếm những hướng đi cho riêng mình, không chỉ trong phát triển sản phẩm
KHCN mà còn trong cả quá trình nghiên cứu khách hàng, đưa sản phẩm ra thị
trường. Đó là kinh nghiệm thành công của chính DN sau 02 năm R&D.
Nguồn: Phỏng vấn doanh nghiệp (2019)
Như vậy có thể thấy, thúc đẩy các DN đầu tư cho KHCN, hướng tới các
DN khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam giai đoạn hiện nay đang ở trong trạng
thái “trăm hoa đua nở” với rất nhiều các chính sách khuyến khích khác nhau
từ giai đoạn đầu hình thành ý tưởng KHCN cho tới các giai đoạn nghiên cứu
và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, chuyển giao và thương mại
hóa sản phẩm. Đánh giá thực trạng vấn đề này cùng với việc so sánh những
131
chính sách và cách làm tương tự ở các quốc gia trên thế giới (đã nghiên cứu
trong chương 3) sẽ là cơ sở để rút ra được những bài học kinh nghiệm phù
hợp cho Việt Nam.
4.3.3. Một số kết quả đã đạt được
Kết hợp những kết quả phân tích, đánh giá từ dữ liệu thứ cấp và dữ liệu
sơ cấp, có thể nhận thấy một số kết quả đã đạt được trong chính sách thúc đẩy
DN đầu tư cho KHCN của Chính phủ Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về xây dựng các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN,
Việt Nam đã có tương đối đầy đủ những chính sách liên quan. Nền tảng pháp
luật của Việt Nam cũng đã có đầy đủ những văn bản luật liên quan, tạo hành
lang pháp luật thông thoáng cho các DN phát triển KHCN. Các Luật trong
lĩnh vực KHCN đã được Quốc hội ban hành: Luật Khoa học và công nghệ
(2013); Luật Đo lường (2011); Luật Sở hữu trí tuệ (2005), sửa đổi bổ sung
năm 2009; Luật Công nghệ cao (2008); Luật Năng lượng nguyên tử (2008);
Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (2007); Luật Chuyển giao công nghệ
(2006); Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (2006). Ngoài các Luật chuyên
ngành, Quốc hội đã ban hành một số Luật có liên quan đến KHCN như Luật
Bảo vệ môi trường (2014), Luật Đa dạng sinh học (2008); Luật Công nghệ
thông tin (2006),…
Thứ hai, về triển khai, các chính sách của Việt Nam thúc đẩy DN đầu
tư cho KHCN đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối đầy đủ trong việc phân
cấp, phân quyền quản lý từ Trung ương đến địa phương để có thể xây dựng,
ban hành, tổ chức thực thi và kiểm soát hoạt động KHCN. Đồng thời đã có
những tác động tích cực tới hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu,
ĐMCN theo hướng ứng dụng CNC, công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Chính sách tài chính cho hoạt động KHCN đã thông thoáng hơn như
nâng mức chi cho các đề tài, dự án, khoán kinh phí thực hiện nhiệm vụ nghiên
cứu KHCN; quy trình xác định, tuyển chọn các nhiệm vụ cấp quốc gia được
đổi mới theo hướng ưu tiên các dự án trọng điểm, có tầm ảnh hưởng tới xã
hội. Chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy DN ĐMCN đã được
tăng cường như ban hành danh mục các công nghệ khuyến khích chuyển giao,
132
công nghệ hạn chế và cấm chuyển giao vào Việt Nam nhằm hạn chế tác động
xấu tới môi trường.
Chính sách thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đã bước
đầu được hình thành và phát triển.
Chính sách thúc đẩy nguồn cung công nghệ, kích cầu công nghệ và
phát triển các tổ chức trung gian trên thị trường KHCN đã từng bước được
đẩy mạnh.
Chính sách ưu đãi thuế, tín dụng, hỗ trợ đào tạo, tuyên truyền việc ứng
dụng KHCN vào sản xuất đã có những tác động tích cực. Chính sách SHTT
đã thúc đẩy được các hoạt động sáng tạo trong DN, tổ chức KHCN. Cùng với
đó là việc xây dựng chính phủ điện tử, bước đầu triển khai đã có hiệu quả, các
hoạt động hợp tác quốc tế được mở rộng và tăng cường.
Những nghiên cứu trực tiếp từ DN cũng đã ghi nhận kết quả tương tự.
Các chính sách đang dần dần đi sâu vào hoạt động của các DN, tạo nền tảng
tốt cho sự phát triển KHCN của chính các DN này, cũng như hệ sinh thái
ĐMST của đất nước.
4.3.4. Một số hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định trong hoạt động KHCN,
các chính sách này vẫn còn có những hạn chế cần phải được hoàn thiện để
khuyến khích tốt hơn cho DN:
(1) DN chưa nhận thức đầy đủ về chính sách nghiên cứu, ứng dụng và
phát triển công nghệ, chưa coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm có tính quyết định
tới sự phát triển KT-XH, chưa thực sự tạo được môi trường minh bạch trong
hoạt động KHCN. Các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ vào sản xuất chưa thực sự hướng về DN, lấy DN làm trung tâm.
(2) Chính sách trọng cung về tài trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng, đào tạo chưa
tạo động lực mạnh mẽ cho DN ĐMST, mức ưu đãi còn thấp, thủ tục còn rườm rà;
chưa thực sự quyết liệt trong việc triển khai các chính sách mới về KHCN, kinh
phí đầu tư cho KHCN của nhà nước còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa
huy động tốt được các nguồn lực xã hội đầu tư cho KHCN.
(3) Chính sách trọng cầu trong phát triển thị trường KHCN chưa mang
lại hiệu quả cao như mong muốn, còn thiếu vắng các tổ chức trung gian có uy
133
tín, nguồn cung công nghệ còn hạn chế, đồng thời hoạt động ĐMCN chưa trở
thành nhu cầu cấp bách của DN, trình độ, năng lực công nghệ của DN còn
thấp. Các hoạt động chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa
học từ nguồn vốn NSNN còn khó khăn trong việc định giá và xác định
phương thức chuyển giao.
(4) Trong chính sách về các yếu tố phụ trợ quản lý còn thiếu các định
hướng KHCN ưu tiên phù hợp, thiếu các chính sách mạnh mẽ để tạo bước đột
phá trong các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Thiếu cơ sở dữ liệu thống kê
quốc gia đồng bộ về khoa học, công nghệ và ĐMST. Chậm hình thành hệ
thống đánh giá độc lập và bộ chỉ số đánh giá giá trị giao dịch công nghệ, tốc
độ ĐMCN.
(5) Chính sách liên kết: Chính sách liên kết để đưa sản phẩm KHCN
vào sản xuất còn hạn chế. Mối liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa
nghiên cứu với thị trường, giữa nhà khoa học với DN còn lỏng lẻo. Việc
chuyển đổi các tổ chức KHCN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn
gặp nhiều khó khắn, dẫn tới hiệu quả, hiệu lực chính sách chưa cao.
Như vậy, các chính sách về KHCN đã được hình thành một cách tương
đối hệ thống và đã trở thành chính sách điều tiết vĩ mô quan trọng nhằm thúc
đẩy sự phát KHCN, KT-XH. Tuy nhiên, các chính sách về KHCN vẫn còn
những hạn chế nhất định, dẫn tới năng suất lao động chưa cao, DN ít có tính
sáng tạo, thiếu năng lực nội sinh về KHCN. Thực trạng này có thể từ một số
nguyên nhân sau:
Các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu, làm chậm quá trình đưa
chính sách vào thực tế. Phần lớn các DN có hoạt động KHCN không có nhiều
nhu cầu trong sử dụng vốn NSNN. Họ có nhu cầu cao hơn trong việc được
hưởng chính sách vay vốn ưu đãi như đã được quy định trong các Luật hay
các Chương trình quốc gia. Tuy nhiên, các quy định hướng dẫn việc vay vốn
ưu đãi từ ngân hàng phát triển Việt Nam, hay hỗ trợ lãi suất vay từ các Quỹ
KHCN chưa được ban hành, khiến việc thực hiện chưa được triển khai trên
diện rộng. Hiện nay, chỉ có thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong việc cho DN
CNC tiếp cận vốn vay ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất vay.
134
Cơ chế hỗ trợ tài chính từ nguồn NSNN thông qua các nhiệm vụ
KHCN hay thông qua các dự án hỗ trợ DN sản xuất sản phẩm từ các Quỹ
KHCN chưa đủ thông thoáng do chính sách chung về quản lý tài sản công
chưa cho phép việc hỗ trợ không hoàn lại đối với các DN ngoài nhà nước.
Việc này khiến cho các DN e dè khi tiếp cận các Chương trình quốc gia do lo
ngại về quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học hay tài sản được hình
thành thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN. Ngoài ra, việc giải ngân
nguồn kinh phí hỗ trợ từ NSNN thực hiện theo các quy định quản lý ngân
sách hành chính sự nghiệp cũng gây khó khăn cho DN. Điều này làm hạn chế
sự lan tỏa của các Chương trình quốc gia và khả năng hoạt động của các Quỹ
do có kinh phí nhưng có ít dự án, đối tượng để hỗ trợ.
Với việc trích lập Quỹ KHCN của DN, DN không biết thực hiện thế
nào để đúng với quy định pháp luật, thủ tục kiểm soát chi đối với Quỹ chưa
phù hợp.
Nguồn nhân lực R&D còn thiếu về lượng và chất, chưa đáp ứng được tốc
độ phát triển KHCN trong khu vực và trên thế giới. Các viện nghiên cứu, trường
đại học, nhân lực R&D chủ yếu tập trung ở các khu vực lớn như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng nên với các khu công nghiệp tập trung ở xa các khu
vực này không huy động được đủ nguồn nhân lực chất lượng cao để phát
triển. Ngoài ra sự liên kết giữa các nhà khoa học và DN còn hạn chế, các kết
quả nghiên cứu từ viện, trường ít được ứng dụng cũng như các vấn đề KHCN
mà DN gặp phải trong sản xuất chưa được nghiên cứu hỗ trợ giải quyết.
Việc đầu tư hạ tầng cho KHCN còn thiếu và dàn trải, chưa có quy
hoạch. Nguồn lực các phòng thí nghiệm chưa được sử dụng hiệu quả, hạ tầng
thông tin về KHCN cũng còn rất thiếu. Thực tế hiện nay ở Việt Nam nhiều
quyết sách, quyết định cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai KHCN vẫn
được thông qua trên cơ sở tư vấn của các hội đồng chuyên gia các cấp (mà
các tư vấn này thường còn mang tính chủ quan).
4.4. Một số bài học kinh nghiệm
4.4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự báo.
Cụ thể có một số vấn đề nổi lên như: Bệnh dịch mới bùng phát trên quy mô
135
rộng, khó dự đoán, gây ra tác động lớn lên mọi lĩnh vực KH-XH; Tình hình
địa chính thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các
quốc gia lớn tiếp tục diễn ra gay gắt; Xu hướng ký kết các FTA song phương
đang và sẽ tiếp tục trong giai đoạn tới với phạm vi điều chỉnh được mở rộng,
không chỉ là cắt giảm thuế quan và thuận lợi hoá thương mại mà còn cách
thức sản xuất hàng hoá, mức độ tự do hoá cao; Cạnh tranh công nghệ đóng
vai trò quan trọng trong cạnh tranh chiến lược, là nhân tố quyết định trong
kinh tế toàn cầu.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự kết hợp của công nghệ trong
các lĩnh vực vật lý, số hoá và sinh học tạo ra những khả năng mới và có tác
động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới. Công
nghệ số và nền kinh tế chia sẻ có thể dẫn đến dịch chuyển chuỗi giá trị toàn
cầu, dòng chảy thương mại và những ngành dựa vào xuất khẩu. Nó có thể làm
chậm, thậm chí làm đảo ngược xu hướng hội tụ phát triển, trong đó các nước
kém phát triển có xu hướng ngày càng gặp nhiều bất lợi. Tiêu chí để trở thành
điểm sản xuất có thể thay đổi, yếu tố chi phí lao động thấp ít quan trọng hơn
so với sự sẵn có của lao động kỹ năng, hay cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, những
tác động bất lợi của việc thay đổi công nghệ sản xuất đối với việc làm (tự
động hóa làm tăng thất nghiệp lao động có trình độ kỹ năng thấp) có thể được
bù đắp bằng tăng năng suất và tăng sản xuất toàn cầu (do tăng nhu cầu về đầu
vào và hàng hóa cuối cùng).
Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục cho thấy có nền tảng mạnh và khả
năng chống chịu cao. Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam
chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức
chống chịu đáng kể. Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân
số và xã hội. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung bình
gần 76 tuổi, cao hơn các nước có thu nhập tương đương trong khu vực.
Nhưng dân số đang bị già hoá nhanh. Tăng trưởng và công nghiệp hoá nhanh
của Việt Nam để lại nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên
thiên nhiên. Tình trạng khai thác thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như
cát, thuỷ sản và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài
hạn. Bên cạnh đó, đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn
136
thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Đô thị hoá, tăng trưởng kinh tế và
dân số tăng nhanh đang đặt ra những thách thức ngày càng lớn về quản lý chất
thải và xử lý ô nhiễm [34].
4.4.2. Một số bài học kinh nghiệm để xây dựng chính sách thúc đẩy doanh
nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng,triển khai các chính
sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN được rút ra trên những nền tảng
(1) Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách thúc
đẩy DN đầu tư cho KHCN ở trong và ngoài nước;
(2) Bài học thành công về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN,
ĐMST ở ba quốc gia châu Á: Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel;
(3) Thực trạng đầu tư cho KHCN của Chính phủ và các DN Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay qua nguồn dữ liệu thứ cấp và qua kết quả khảo sát
thực tế;
(4) Xu hướng phát triển KHCN toàn cầu và xu hướng đầu tư của DN
cho KHCN;
(5) Xu hướng về chính sách cho KHCN và ĐMST nói chung, sau đó là
xu hướng về chính sách tài trợ cho nghiên cứu, phát triển và đổi mới trong
DN.
Dựa trên năm căn cứ cả về lý luận và thực tiễn kể trên, phân tích, đánh
giá hệ thống chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn
Quốc và Israel, có thể thấy cả ba quốc gia này đều quan tâm xây dựng những
chính sách thúc đẩy cụ thể, tổ chức thực hiện nghiêm túc và thường xuyên đánh
giá, phân tích, điều chỉnh chính sách cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương nhất quán,
xuyên suốt về phát triển KHCN, coi KHCN cùng với giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là động lực và nền tảng cho phát triển KT-XH, tiến hành
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với phát
triển, ứng dụng KHCN, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng để phát triển nhanh
và bền vững đất nước. Trong khi tiếp tục coi kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
137
đạo trong nền kinh tế, Đảng ta xác định phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế và đề ra mục tiêu năm 2020 cả nước
có ít nhất 1 triệu DN tư nhân.
Để KHCN thực sự đóng vai trò là động lực cho sự cất cánh của nền
kinh tế thì đầu tư cho KHCN là một yêu cầu hàng đầu. Chính sách của ba
quốc gia cho thấy rõ vai trò “cầm chịch” của chính phủ trong vấn đề này. Đầu
tư cho KHCN một phần đến từ NSNN và phần này chủ yếu đóng vai trò hỗ
trợ, còn phần đầu tư từ khu vực DN là phần chủ yếu và đóng vai trò quyết
định đến ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống.
Muốn DN tăng cường đầu tư cho KHCN thì nhà nước cần có cơ chế, chính
sách phù hợp. Kết hợp kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel,
NCS đề xuất những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và triển
khai chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN và ĐMST.
4.4.2.1. Bài học về nhóm chính sách trọng cung
(1) Nâng cao hiệu quả của chính sách đầu tư tài chính trực tiếp qua
các Quỹ và Chương trình quốc gia
Xây dựng cơ chế tài chính trong hỗ trợ giải quyết các vấn đề KHCN ở
DN thông qua các nhiệm vụ KHCN theo hướng thông thoáng hơn. Cụ thể, đối
với các nhiệm vụ KHCN trong đó NSNN hỗ trợ đến 30% tổng kinh phí thực
hiện: DN chủ trì được giao quyền sở hữu không bồi hoàn kết quả và tài sản
của nhiệm vụ.
Sử dụng hiệu quả NSNN chi cho hoạt động KHCN, chú trọng các giải
pháp: Phân bổ chi ngân sách sự nghiệp KHCN đảm bảo trọng tâm, trọng điểm
tạo đột phá về một số công nghệ có tác động tích cực đến việc nâng cao sức
cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Hình thành cơ chế chấp nhận rủi ro trong đầu tư KHCN.
(2) Hoàn thiện chính sách tài chính và thuế của Nhà nước
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính bình đẳng, thông thoáng, thân
thiện, đơn giản. Thực hiện cải cách hành chính, thúc đẩy và tạo tâm lý cho
DN yên tâm đầu tư chiều sâu cho hoạt động R&D và ĐMCN. Nâng cao tính
minh bạch của thể chế, rà soát lại hệ thống pháp luật và quy định, loại bỏ các
quy định không cần thiết, chồng chéo, kém hiệu lực, ổn định chính sách tài
138
chính, thuế, tín dụng. Từng bước chuyển đổi phương thức quản lý, cấp phát
ngân sách hoạt động KHCN theo kết quả đầu ra, xây dựng cơ chế hỗ trợ gián
tiếp, tập trung tạo điều kiện kỹ thuật hạ tầng, tạo khung pháp lý để hình thành
thêm nhiều kênh cung ứng nguồn tài chính cho ĐMCN như Quỹ đầu tư mạo
hiểm (đã được nhắc tới trong Luật CNC).
Nghiên cứu bổ sung hoàn thiện và thực thi các công cụ chính sách tín
dụng mới nhằm thúc đẩy đầu tư hoạt động R&D, ĐMCN của DN như:
Chính sách tín dụng bình đẳng, thông thoáng cho mọi thành phần kinh
tế, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục xét duyệt;
Cải thiện mức vốn cho vay, trên cơ sở nghiên cứu tiềm năng và tính khả
thi của dự án, đầu tư chiều sâu cho hoạt động R&D, ĐMCN cụ thể của từng DN;
Cải tiến tín dụng theo hướng mở rộng diện cho vay trung hạn và dài
hạn. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, công bằng, bình
đẳng. Thực hiện triệt để các ưu đãi của Luật khuyến khích đầu tư trong nước,
Luật chuyển giao công nghệ, Luật Khoa học và Công nghệ về các loại thuế.
Nổi bật nhất trong chính sách tài chính là chính sách ưu đãi về thuế, tín
dụng, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
KHCN. Khi nhà nước mở rộng chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và hỗ trợ
để thúc đẩy hoạt động R&D phục vụ trực tiếp cho ứng dụng, ĐMCN trong
DN thì các DN sẽ có thêm động lực để tăng đầu tư cho nhiệm vụ này. Lợi ích
thiết thân của DN là ở chỗ, nếu đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN (với
sự hỗ trợ một phần của nhà nước về thuế, tín dụng hoặc hỗ trợ tài chính trực
tiếp) DN sẽ có khả năng ĐMCN, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và trực tiếp góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của DN.
Cũng như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Israel, Việt Nam cần tăng
cường, mở rộng các cơ chế, chính sách thúc đẩy, hỗ trợ về tài chính như một
dạng cung cấp “vốn mồi” để thúc đẩy các DN đầu tư cho KHCN vì lợi ích
thiết thân của chính mình.
Ba nước nêu trên đều có các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ cho DN, song
các chính sách cụ thể của mỗi nước không hoàn toàn giống nhau, mà tùy
thuộc điều kiện, đặc điểm của từng nước và tùy thuộc vào định hướng, yêu
139
cầu, khả năng của từng chính phủ. Ngay cả chính sách thúc đẩy, ưu đãi của
một nước cũng cần điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của từng
giai đoạn phát triển kinh tế.
Như vậy, việc quan trọng là cần thiết kế các cơ chế, chính sách thúc
đẩy, hỗ trợ thật cụ thể, đa dạng, phong phú để đáp ứng nhu cầu ĐMCN của
DN và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước
trong từng giai đoạn.
(3) Cải tiến chính sách để thúc đẩy vốn từ DN đầu tư cho KHCN.
Chính phủ cần nghiên cứu nâng tỷ lệ trích lập Quỹ phát triển KHCN
lên mức tối thiểu là 10% lợi nhuận trước thuế để DN có thể đầu tư nhiều hơn
cho việc phát triển KHCN. Đồng thời, cần quy định việc trích lập Quỹ phát
triển KHCN là bắt buộc đối với các DN. Với chủ trương DN là trung tâm
trong phát triển KHCN, cho phép DN tự chịu trách nhiệm trong việc trích lập,
sử dụng quỹ và cơ quan quản lý nhà nước chỉ hậu kiểm việc sử dụng quỹ của
DN nhằm tạo thuận lợi cho DN trong việc đầu tư cho hoạt động KHCN.
Các ngân hàng cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục cho vay vốn. Đặc biệt,
cần có một cơ quan đứng ra để bảo lãnh “tín chấp” cho DN trong quá trình thẩm
định tính khả thi của đề tài, dự án. Ở địa phương, cơ quan này nên là Sở KHCN.
Vận động các DN thay đổi thiết bị, ĐMCN thông qua tổ chức thực hiện
các Chương trình KHCN quốc gia theo hướng: NSNN chỉ hỗ trợ vốn mồi
(dưới 10% tổng kinh phí thực hiện), nguồn vốn từ các DN là nguồn vốn chủ
đạo để huy động cho đầu tư phát triển KHCN.
(4) Lựa chọn những dự án chuẩn và tài trợ đa cấp độ, đa phương thức.
Tham khảo Israel về việc xác lập những chương trình R&D chuẩn được
điều hành bởi Quỹ KHCN quốc gia, DN sẽ được hỗ trợ tỷ lệ kinh phí (tối đa là
50% hoặc 70%) từ NSNN với điều kiện ràng buộc cụ thể. Khi thành công, DN
sẽ phải hoàn trả kinh phí như sau: 3% doanh thu từ việc bán sản phẩm trong 3
năm đầu tiên; 4% trong 3 năm tiếp theo và 5% kể từ năm thứ 7 trở đi, tương
ứng với phần kinh phí nhà nước đã cấp.
Dự án nghiên cứu này chỉ được thực hiện bởi chính DN; Các sản phẩm
tạo ra từ dự án phải được sản xuất tại Việt Nam.
140
Các kiến thức know-how thu được từ dự án sẽ không được phép
chuyển giao cho bên thứ ba hoặc theo quy định của Chính phủ.
Mức hỗ trợ kinh phí có thể được tăng thêm nếu chương trình thực hiện
ở những vùng kinh tế khó khăn hoặc đặc thù theo quy định của Chính phủ.
Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ Trung Quốc trong việc tài trợ
đa cấp độ, đa phương thức. Đa cấp độ nghĩa là các chương trình tùy thuộc vào
quy mô sẽ được thẩm định và duyệt chi ở các cấp khác nhau, chứ không phải
chương trình chuẩn nào cũng tập trung hết vào Nafosted làm gia tăng áp lực cho
hoạt động của Quỹ này. Đa phương thức tức là không chỉ Chính phủ mà các cơ
quan khác cũng có quyền tham gia và xét duyệt kinh phí cho chương trình.
4.4.2.2. Bài học về nhóm chính sách trọng cầu
(1) Đầu tư vào ngành nghề trọng điểm gắn với cách mạng công nghiệp 4.0
Xu hướng của KHCN hiện này là gắn những lĩnh vực KHCN mới với
cách mạng công nghiệp lần thứ tư như các ngành CNTT, trí tuệ nhân tạo,
công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ nano, …. Đặc biệt khi
Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH đất nước thì những ngành CNTT,
cơ khí, ô tô được ưu tiên hàng đầu. Do vậy, Chính phủ cần lựa chọn những
lĩnh vực, ngành nghề trọng điểm này để đầu tư thúc đẩy các DN trong ngành
gia tăng R&D để tạo ra những sản phẩm KHCN mới, có giá trị gia tăng cao.
(2) Chính sách đặt hàng sản phẩm KHCN
Nhà nước cần có những chính sách căn cứ trên những nhu cầu thiết yếu
của xã hội để đặt hàng DN sản xuất các sản phẩm công nghệ có giá trị gia
tăng cao cho cộng đồng. Đây là giải pháp gắn kết giữa nghiên cứu khoa học
và thực tiễn, nâng cao hiệu quả ứng dụng các kết quả đề tài, dự án nghiên cứu.
(3) Đầu tư cho những doanh nghiệp lớn trong ngành hoặc sáp nhập và
mua bán với các FDI lớn
Đầu tư cho những DN lớn của Việt Nam như Viettel, VNPT, VinGroup
để trở thành những DN dẫn đầu giống như những Chaebols của Hàn Quốc là
điều mà Việt Nam đang thực hiện và cần phát huy. Cũng như Hàn Quốc,
trong giai đoạn đầu Chính phủ đóng vai trò chủ yếu, hỗ trợ DN nâng cấp và
cải tiến khả năng nghiên cứu công nghệ bằng cách xây dựng các viện nghiên
cứu công cần thiết và đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và R&D. Trong giai đoạn
141
sau, các công ty tư nhân, các tập đoàn lớn sẽ đóng vai trò dẫn dắt NIS, tuy
nhiên ngay cả trong giai đoạn này Chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng
trong việc củng cố hệ thống R&D quốc gia, đặc biệt là trong mối quan hệ
giữa ba nhà: Nhà nước - Nhà trường - Nhà DN.
Song song với việc tạo ra những DN lớn, Việt Nam có thể học hỏi kinh
nghiệm Israel trong việc tạo ra những “ông lớn” liên doanh, thậm chí là hoàn
toàn thuộc sở hữu nước ngoài nhưng vẫn phục vụ sự phát triển KHCN trong
nước thông qua hình thức M&A với những FDI lớn, đặc biệt là đối với những
DN khởi nghiệp của Việt Nam. Các quỹ đầu tư mạo hiểm mới phát hiện ra các
cơ hội mới, và phát triển các sản phẩm hoặc công nghệ tới ngưỡng rủi ro mà
các công ty đã đứng vững trên thị trường có thể chấp nhận được. Khi đó các
sản phẩm hoặc công nghệ của những start-up này sẽ được M&A với quá trình
phát triển kinh doanh của các FDI lớn để cùng phát triển mạnh hơn.
(4) Bảo hộ quyền SHTT và tự do hóa trong hoạt động KHCN quốc tế
Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật trong thời kỳ
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ và thực thi quyền SHTT ngày
càng có vai trò quan trọng đối với các DN và các nhà khoa học. Một sản
phẩm muốn thương mại hóa ra thị trường cần phải đảm bảo được tính pháp lý
đồng thời bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các nhà khoa học cũng như
các DN đã đầu tư R&D các sản phẩm KHCN đó. Hơn nữa, xu hướng của
KHCN thế giới là tăng cường bảo hộ quyền SHTT và thống nhất theo các quy
định, tiêu chuẩn quốc tế trong các hoạt động KHCN và tự do hoá các hoạt
động KHCN quốc tế. Song, đây vẫn là vấn đề còn hạn chế và nhiều thách
thức đối với Việt Nam, nhất là nhận thức và hành động của các cấp, các
ngành, DN và cả xã hội còn chưa tốt. Chính vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện
chính sách, pháp luật về SHTT, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, nâng cao
nhận thức của các cấp, các ngành, DN và cả xã hội về SHTT, đồng thời có cơ
chế, chính sách hỗ trợ DN về bảo hộ và thực thi quyền SHTT. Chỉ khi DN
hiểu, nắm vững pháp luật về SHTT và được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ
về bảo hộ và thực thi quyền SHTT thì DN mới yên tâm đầu tư cho KHCN. Từ
đó thúc đẩy việc thương mại hóa sản phẩm để mang lại những lợi ích tài
chính và xã hội.
142
4.4.2.3. Bài học về nhóm chính sách về các yếu tố phụ trợ
(1) Về chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Qua kinh nghiệm của ba nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel cho
thấy nguồn nhân lực KHCN vừa là điều kiện tiền đề, vừa là động lực để phát
triển một nền kinh tế dựa trên KHCN. Chính phủ các nước đều quan tâm và
có chính sách hỗ trợ cụ thể cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KHCN,
nhất là nhân lực R&D. Nhân lực cho KHCN đang có xu hướng ngày càng
quốc tế hóa để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu của mỗi quốc
gia trong hệ thống R&D chung toàn thế giới. Ba nước trên cũng rất chủ động
trong việc thu hút lao động chất xám trình độ cao từ bên ngoài. Israel nổi
tiếng với việc chào đón và sử dụng dòng trí thức di cư từ Liên xô cũ cũng như
lực lượng chất xám nhập cư. Hàn Quốc đã từng ban hành nhiều chính sách ưu
đãi đặc biệt để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học người Hàn từ Hoa Kỳ và
phương Tây trở về nước làm việc. Trung Quốc cũng thu hút một số lượng lớn
các nhà khoa học, trí thức Hoa kiều từ các nước phát triển về nước làm việc.
Thêm vào đó yêu cầu về tự do hóa hoạt động KHCN cũng như thương mại
hóa những sản phẩm KHCN đòi hỏi đội ngũ nhà nghiên cứu phải nâng cao
trình độ để đáp ứng yêu cầu chung. Đổi mới từ trong chính môi trường đào
tạo nguồn nhân lực này như các trường học phổ thông, đại học, cao đẳng, các
viện nghiên cứu là yêu cầu cấp thiết. Một số vấn đề đặt ra với chính sách của
Chính phủ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN của DN gồm:
Tìm hiểu nhu cầu đào tạo nhân lực R&D của các DN để Nhà nước có
chính sách hỗ trợ và chương trình đào tạo phù hợp cho DN trong từng thời kỳ.
Nâng cao nhận thức của DN về vai trò DN trong phát triển nhân lực R&D.
Thực hiện các chương trình hỗ trợ DN đào tạo nguồn nhân lực như:
Chương trình hỗ trợ DN nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo dây
chuyền thiết bị mới; Chương trình hỗ trợ DN áp dụng các hệ thống quản lý
chất lượng tiên tiến và các công cụ nâng cao năng suất; Chương trình hỗ trợ
DN về SHTT; Chương trình hỗ trợ xúc tiến các sản phẩm từ kết quả nghiên
cứu khoa học;…
143
Thực hiện các chính sách hỗ trợ nâng cao trình độ quản lý, quản trị,
điều hành DN nhằm cải thiện năng lực kinh doanh và hiệu quả của việc sử
dụng vốn.
Thu hút lao động chất xám trình độ cao từ bên ngoài, đây là vấn đề
không phải mới đối với nước ta, tuy nhiên, chính sách “trải thảm đỏ” cho trí
thức Việt kiều về nước làm việc không phải chỉ là tiền lương và các đãi ngộ
vật chất, mà quan trọng hơn là tạo ra một môi trường học thuật, một môi
trường nghiên cứu thực sự dân chủ, sáng tạo, có điều kiện làm việc tốt để phát
huy trí tuệ, tâm huyết của lực lượng này.
Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện chính sách và nâng cao
năng lực của đội ngũ hoạch định chính sách. Có chính sách đúng đắn, phù
hợp, nhưng khâu tổ chức thực hiện yếu kém thì hạn chế kết quả, thậm chí làm
cho chính sách không đi vào thực tiễn. Các cơ chế, chính sách, dù hay dù dở,
cũng đều xuất phát từ con người, cụ thể là đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn
chính sách. Để tăng cường và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức trong công tác tư vấn, tham mưu hoạch định chủ trương, chính sách, thì
cần đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng tập
trung đào tạo, bồi dưỡng về phẩm chất, thái độ và kỹ năng thực thi công vụ.
Đồng thời, phải làm tốt công tác đánh giá cán bộ, bố trí cán bộ thực sự có đủ
năng lực và tâm huyết vào các vị trí tham mưu, tư vấn chính sách.
(2) Đối với việc thiết lập hạ tầng KHCN
Chính phủ cần đẩy mạnh việc đánh giá thực trạng một số ngành sản
xuất, xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình ĐMCN cho các ngành, lĩnh vực có
thế mạnh, làm cơ sở để đầu tư trọng tâm .
Bố trí nguồn vốn đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm dùng chung
trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu CNC.
Thiết lập các mạng lưới kết nối chuyển giao công nghệ, xây dựng hệ
thống thông tin, cơ sở dữ liệu, sáng chế trong nước, kết nối cơ sở dữ liệu sáng
chế quốc tế.
Phát triển thị trường công nghệ theo hướng thúc đẩy quá trình thương
mại hóa sản phẩm công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu lực thực
thi pháp luật về bảo vệ quyền SHTT, phát triển mạnh hệ thống các tổ chức
144
dịch vụ công nghệ, thông tin môi giới giao dịch công nghệ, các trung tâm giao
dịch và thực hiện các dịch vụ chuyển giao công nghệ, …
4.4.2.4. Bài học về nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới
sáng tạo quốc gia
(1) Tăng cường nhận thức cho cá nhân, DN và quốc gia về KHCN,
ĐMST và khởi nghiệp
Khởi nghiệp không phải là phong trào, xu hướng để các cá nhân, các
DN làm cho hợp thời đại. Mà khởi nghiệp cần được nhận thức là con đường
tạo ra giá trị, giúp người dân và DN Việt Nam có thể thoát được bẫy thu nhập
trung bình suốt mấy chục năm qua. Chỉ có khởi nghiệp ĐMST mới có thể
giúp chúng ta tạo ra những sản phẩm có giá trị cao hơn.
Cá nhân hay DN khởi nghiệp phải là những con người có xu hướng
chấp nhận rủi ro và có ý chí cao. Chính phủ và các tổ chức đầu tư cho KHCN,
ĐMST, khởi nghiệp đóng vai trò đầu tiên, xuyên suốt; còn các DN, các nhà
khoa học phải giữ vai trò trọng yếu, chủ động và không ngừng tìm tòi, phát
triển những sản phẩm KHCN mới để tăng cường năng lực cạnh tranh cho các
start-up của Việt Nam. Nhà nước và các bên liên quan ngoài việc đóng vai trò
định hướng, còn đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát, giúp cho các quỹ KHCN
được đầu tư và sử dụng hiệu quả, tránh bị chiếm dụng hoặc đầu tư một cách
lãng phí.
(2) Gắn kết hạ tầng thông tin cơ sở dữ liệu cho doanh nghiệp và phương
thức truyền thông về KHCN
Khảo sát thực tế cho thấy DN Việt Nam chưa thực sự quan tâm nhiều
tới hạ tầng cơ sở dữ liệu cũng như tổ chức DN hoạt động KHCN. Việc áp
dụng CNTT trong KHCN đã được đặt ra một cách cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay, nhất là khi cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra trên mọi lĩnh vực.
Chính phủ cần nghiên cứu để xây dựng hoặc khuyến khích các DN xây dựng
những nền tảng hạ tầng thông tin cơ sở dữ liệu, làm căn cứ cho những nghiên
cứu tiếp sau. Bên cạnh đó, vấn đề truyền thông và KHCN cần phải gắn liền
nhau. Không chỉ có nhận thức về khởi nghiệp, ĐMST mà việc hiểu biết về
KHCN cũng giúp cho việc cập nhật thông tin được kịp thời và có được những
ý tưởng sáng tạo, phù hợp. Một số đề xuất:
145
Tăng cường vai trò của DN trong đầu tư vào R&D thông qua thay đổi
nhận thức về hoạt động R&D.
Tăng cường cung cấp thông tin thường xuyên và đầy đủ; tư vấn và hỗ
trợ DN trong tìm hiểu các chính sách có liên quan.
Cập nhật thông tin, thị trường trong nước và quốc tế để DN có phương
án sản xuất kinh doanh phù hợp, hiệu quả.
Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về kết quả đầu tư cho
R&D điển hình của DN.
(3) Gắn kết hoạt động của các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia
Đẩy mạnh gắn kết hoạt động của các Viện nghiên cứu, trường đại học
và DN thông qua các nhiệm vụ liên kết, xây dựng mạng lưới liên kết nhà khoa
học, chuyên gia và DN để giải quyết các vấn đề KHCN khó khăn.
146
KẾT LUẬN
Luận án nghiên cứu về “Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho
khoa học và công nghệ của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam” được
trình bày thành ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Ngoài những phần cơ
bản theo quy chuẩn của một luận án, phần Nội dung được chia thành bốn
chương: Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách thúc đẩy DN đầu tư
cho KHCN; Cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN;
Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung Quốc, Hàn Quốc và
Israel; Chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Việt Nam và một số
bài học kinh nghiệm.
Tổng quan các nghiên cứu của luận án về các chính sách có ảnh hưởng
tới việc đầu tư vào KHCN của khu vực DN trong và ngoài nước được xác
định là quan điểm tổng hợp về các chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN
chứ không chỉ tập trung vào một hay một vài chính sách cụ thể. Luận án
nghiên cứu các chính sách theo mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm KHCN bắt
đầu từ ý tưởng ĐMST, trải qua các giai đoạn khác nhau cho tới đầu ra cuối
cùng là sản phẩm được thương mại hóa trên thị trường.
Trong cuộc cách mạng 4.0 như hiện nay, có thể thấy vai trò của KHCN
là một bộ phận nguồn lực không thể thiếu, là động lực then chốt trong quá
trình phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN. Sự can thiệp của Chính phủ cùng
với các tác động tích cực đến hoạt động R&D là một phần quan trọng không
trong chính sách của Chính phủ các nước trên toàn cầu. Các chính sách thúc
đẩy DN đầu tư cho KHCN nói chung được chia thành bốn nhóm: Nhóm chính
sách trọng cung; Nhóm chính sách trọng cầu; Nhóm chính sách về các yếu tố
phụ trợ; Nhóm chính sách liên kết các bên trong hệ thống ĐMST quốc gia.
Tuy nhiên tùy điều kiện thực tiễn của mỗi quốc gia mà các chính sách được
áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng thụ hưởng và
từng giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của Trung
Quốc, Hàn Quốc và Israel cho thấy ba quốc gia này đều xây dựng một hệ tư
147
tưởng xuyên suốt lấy KHCN làm trung tâm, đóng vai trò quyết định cho sự
phát triển KT-XH. Để thực hiện mục tiêu này Chính phủ các nước đã xây
dựng hành lang pháp lý thông thoáng, đồng bộ, bảo đảm quyền SHTT, đảm
bảo quyền lợi và tính cạnh tranh cho DN; Thúc đẩy chuyển giao công nghệ,
đầu tư phát triển và thương mại hóa công nghệ, cân bằng mối liên kết giữa
các thành tố của hệ thống ĐMST. Các nỗ lực này có những ảnh hưởng tích
cực đến hoạt động đầu tư cho R&D của khu vực DN, thúc đẩy sự sáng tạo và
tăng trưởng kinh tế một cách bền vững ở mỗi quốc gia.
Thực trạng hoạt động đầu tư cho KHCN của các DN Việt Nam nói
chung và các chính sách thúc đẩy hoạt động này nói riêng cho thấy còn nhiều
hạn chế và bất cập:
Các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
vào sản xuất chưa thực sự hướng về DN, chưa lấy DN làm trung tâm;
Chính sách về tài trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng, đào tạo chưa tạo động
lực mạnh mẽ cho DN ĐMST, mức ưu đãi còn thấp, thủ tục còn rườm rà;
Hoạt động ĐMCN chưa trở thành nhu cầu cấp bách của DN, trình độ,
năng lực công nghệ của DN còn thấp;
Thiếu các định hướng KHCN ưu tiên phù hợp, thiếu các chính sách
mạnh mẽ để tạo bước đột phá trong các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế;
Mối liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa nghiên cứu với thị
trường, giữa nhà khoa học với DN còn lỏng lẻo. Việc chuyển đổi các tổ chức
KHCN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn gặp nhiều khó khắn, dẫn
tới hiệu quả, hiệu lực của chính sách chưa cao.
Qua nghiên cứu những chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN của
Trung Quốc, ta thấy bằng một cách từ từ và có hệ thống, quốc gia này đã thu
hẹp khoảng cách khoa học với các nước phát triển. Thành công của Trung
Quốc nằm ở việc xây dựng cở sở hạ tầng cùng với sự cân bằng mối liên kết
giữa các thành tố của hệ thống ĐMST.
Nhờ chú trọng vào các hoạt động R&D, Hàn Quốc đã thay đổi từ một
quốc gia phụ thuộc nhiều vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động
148
sang một trong những quốc gia hàng đầu về thâm dụng vốn và công nghệ các
ngành công nghiệp. Các chính sách R&D luôn đi trước một bước. Hệ thống
R&D của Hàn Quốc đã chuyển đổi thành công từ bắt chước sang đổi mới.
Điều này, sẽ rất hữu ích cho việc tăng cường chính sách R&D của các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Chính phủ Israel thông qua việc xây dựng Tổ chức OCS với nhiều
chương trình hỗ trợ R&D khác nhau, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển của
nền KHCN nước này. Việt Nam có thể học tập mô hình này để tạo ra các quỹ
đầu tư công cho các hoạt động R&D trước khi nguồn kinh phí từ khu vực tư
nhân đầu tư cho R&D đạt đến một ngưỡng nhất định, với điều kiện tiên quyết
là có lực lượng các nhà khoa học và kỹ sư có trình độ cao. Bằng chính sách thu
hút nhân tài từ những người nhập cư, thu hút nhiều công ty, tập đoàn đa quốc
gia đầu tư vào để có thể sử dụng được lượng chất xám khổng lồ này. Đây là bài
học mà Việt Nam có thể tham khảo, đặc biệt trong thời kỳ hậu Covid-19.
Bài học kinh nghiệm là một nội dung trọng yếu của luận án, thể hiện
những tổng kết, đúc rút từ chính sách của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt
là của Trung Quốc, Hàn Quốc và Israel. Có 13 bài học kinh nghiệm chia
thành bốn nhóm chính sách được rút ra đối với Việt Nam trong việc xây dựng
và triển khai chính sách thúc đẩy DN đầu tư cho KHCN.
Các bài học này không nên áp dụng một chính sách cứng nhắc cho mọi
lúc, mọi nơi, mọi đối tượng thụ hưởng và mọi giai đoạn phát triển mà phải
thường xuyên đánh giá, phân tích quá trình thực thi chính sách, xác định rõ
những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc, bất cập để từ đó có sự
điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách đáp ứng tình hình thực tiễn và yêu
cầu phát triển.
Các bài học rút ra luôn chỉ có giá trị tham khảo. Việt Nam đang hội tụ
đầy đủ những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để tăng tốc phát triển và
cất cánh với động lực mới là đổi mới, sáng tạo và KHCN. Vấn đề là ở chỗ cần
có một quyết tâm chính trị và một cam kết mạnh mẽ từ những người lãnh đạo
cao nhất của đất nước, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị, người dân và
149
DN, dựa vào động lực KHCN và đổi mới, sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục
tiêu đưa nước ta trở thành một quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình
cao vào năm 2030 và khát vọng trở thành một quốc gia phát triển theo định
hướng XHCN vào năm 2045./.
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Đỗ Thành Long (2018), Chính sách đầu tư cho R&D: kinh nghiệm của
một số nước và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh Tế, số
5(480), pp 33-45.
2. Thanh Minh Nguyen, Tuyen Quang Tran, Long Thanh Do (2018),
Government Support and Firm Profitability in Vietnam, Comparative
Economic Research, Vol 21, Number 4, 2018, pp 85-100.
3. Đỗ Thành Long (2020), Một số chính sách đột phá của Israel trong
phát triển hệ thống đổi mới và công nghệ, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi
& Trung Đông,Số 04(176),pp 23-32.
4. Đỗ Thành Long (2020), Phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ của Hàn Quốc, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số
4(721), pp 77-79.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Lê Xuân Bá và Vũ Xuân Nguyệt Hồng chủ biên. 2008. Chính sách huy
động các nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp,
NXB Thống kê.
2. Bộ Công Thương. 2014. Thông tư số 10/2014/TT-BCT của Bộ Công
Thương quy định thực hiện cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại, phát
triển thị trường, phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển sản
phẩm quốc gia, ban hành ngày 12/3/2014, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2019. Sách Khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo Việt Nam năm 2019, NXB Khoa học và Kĩ thuật.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2019. Sách Khoa học và công nghệ Việt
Nam năm 2018, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2020. “Báo cáo kết quả triển khai Chương
trình phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia”, Tờ trình báo
cáo Thủ tướng Chính phủ của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày
23/3/2020.
6. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2020. Sách Khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo Việt Nam 2019, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
7. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh. 2019. Bài phát
biểu tại Lễ mít tinh ngày KHCN Việt Nam 2019 và Lễ trao Giải thưởng
Tạ Quang Bửu, IDNews=16079>. 8. Bộ Tài chính. 2013. Thông tư số 219/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế giá trị gia tang, ban hành ngày 31/12/2013 Hà Nội. 9. Bộ Tài chính. 2013. Thông tư số 78/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy 152 định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, ban hành ngày 18/06/2014, Hà Nội. 10. Bộ Tài chính. 2014. Thông tư số 151/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định quy định về thuế, ban hành ngày 10/10/2014, Hà Nội. 11. Bộ Tài chính. 2015. Thông tư số 95/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp tại các văn bản có liên quan, ban hành ngày 22/6/2015, Hà Nội. 12. Bộ Tài chính. 2016. Thông tư số 83/2016/TT-BTC hướng dẫn thực hiện ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật đầu tư, ban hành ngày 17/6/2016, Hà Nội. 13. Trần Ngọc Ca. 2000. Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một số chính sách thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu và phát triển trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam, Báo cáo tổng hợp đề tài, Viện Chiến lược và chính sách KHCN. 14. CIEM. 2018. Chuyên đề Số 2/2018: “Chính sách khoa học và công nghệ trong bối cảnh 4.0”, Cổng thông tin kinh tế VN - VNEP (https://Vnep.org.vn). 15. CIEM. 2018. Chuyên đề Số 3/2018: “Mức độ sẵn sàng tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam: So sánh với trường hợp của Trung Quốc”, Cổng thông tin kinh tế VN - VNEP (https://Vnep.org.vn). 16. Chính phủ. 2003. Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về thành lập Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, ban hành ngày 22/10/2003, Hà Nội. 17. Chính phủ. 2013. Nghị định số 218/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, ban hành ngày 26/12/2013, Hà Nội. 18. Chính phủ. 2014. Nghị định số số 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, ban hành ngày 15/05/2014, Hà Nội. 153 19. Chính phủ. 2014. Nghị định số 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ, ban hành ngày 17/10/2014, Hà Nội. 20. Chính phủ. 2015. Nghị định số 118/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư, ban hành ngày 12/11/2015, Hà Nội. 21. Chính phủ. 2019. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP quy định về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ban hành ngày 01/02/2019, Hà Nội. 22. Phạm Xuân Đà. 2017. “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực KHCN của một số nước”. nghiem-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc-va-cong-nghe-cua-mot-so- nuoc-c7a574154.html>, (29/9/2017). 23. Trần Xuân Đích. 2017. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn việc khuyến khích doanh nghiệp trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ KHCN. 24. Đỗ Phú Hải. 2014. “Chính sách phát triển nguồn nhân lực KHCN ở việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(74)-2014. 25. Trần Đắc Hiến. 2016. “Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KHCN - Đổi mới từ cách làm”. trung-uong/11709-dao-tao-boi-duong-nhan-luc-khacn-doi-moi-tu-cach- lam.html>. 26. Nguyễn Việt Hòa. 2007. Tác động của cơ chế, chính sách công đến việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KHCN, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ KH&CN. 27. Nguyễn Việt Hòa và các tác giả. 2011. Nghiên cứu, phân tích và đánh giá chính sách đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp ngành công nghiệp, Báo cáo đề tài cấp Bộ KH&CN. 28. Lê Hoằng Bá Huyền. 2019. “Huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ: Rào cản và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 8/2019, 154 doi/huy-dong-von-dau-tu-cua-doanh-nghiep-cho-khoa-hoc-va-cong- nghe-rao-can-va-giai-phap-khac-phuc-312044.html>. 29. Tấn Kiệt. 2013. “Kinh nghiệm quản lý hoạt động KHCN của Hoa Kỳ do các quỹ tài trợ và một số đề xuất cho Việt Nam”, Vietnam Journal of Science and Technology Policies and Management, tập 2, số 2, 2013. 30. Nghiêm Vũ Khải. 2017. “Đầu tư cho khoa học và công nghệ vẫn quá ít”. d72838.html>, (21/11/2017). 31. Đào Tiến Khoa. 2016. “Xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin KHCN hiện đại”, Tạp chí Tia Sáng, dung-ha-tang-co-so-thong-tin-KHCN-hien-dai--9386>, (25/01/2016). 32. Hoàng Xuân Long. 2011. Nghiên cứu về chính sách của địa phương nhằm khuyến khích doanh nghiệp hoạt động KHCN trên địa bàn, Báo cáo đề tài cơ sở của Viện Chiến lược và Chính sách KHCN. 33. Nguyễn Sỹ Lộc và các tác giả. 2006. Quản lý công nghệ cho doanh nghiệp. NXB Khoa học và Kỹ thuật. 34. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. 2020. “Tổng quan về Việt Nam”. < https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview>, (08/10/2020). 35. Thanh Nhàn. 2014. “Những kinh nghiệm quản lý khoa học từ Nam Mỹ”. < http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/nhung-kinh-nghiem-quan-ly- khoa-hoc-tu-nam-my-8161>, (27/11/2014). 36. Quan Minh Nhựt. 2015. “Thực trạng và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nông nghiệp tại Thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 66 (2015). 37. Quan Minh Nhựt, Huỳnh Văn Tùng. 2014. “Thực trạng và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ tại Thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 31d. 155 38. Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia. 2018. “Hội nghị tổng kết của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia giai đoạn 2008 - 2018”. trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-quoc-gia-giai-doan-2008-2018/>, (18/01/2020). 39. Nguyễn Thị Phượng. 2018. “Thị trường khoa học và công nghệ Trung Quốc: Xây dựng những mô hình mới”. nghe-trung-quoc-xay-dung-nhung-mo-hinh- moi/20180830092752510p1c785.htm>, (03/09/2018). 40. Quốc hội. 2008. Luật công nghệ cao số 21/2008/QH12, ban hành ngày 13/11/2008. 41. Quốc hội. 2013. Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13, ban hành ngày 18/6/2013. 42. Quốc hội. 2017. Luật chuyển giao công nghệ số 17/2017/QH14, ban hành ngày 19/6/2017. 43. Tổng cục Thống kê. 2020. Niên giám thống kê 2019, NXB Thống kê. 44. Tạ Hải Tùng. 2017. “Đưa công nghệ thông tin vào quản lý khoa học”, Tạp chí Tia sáng, https://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Dua-cong- nghe-thong-tin-vao-quan-ly-khoa-hoc-10392, (25/01/2017). 45. Hoàng Văn Tuyên. 2017. Phát triển hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) trong các doanh nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 46. Thủ tướng Chính phủ. 2010. Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, ban hành ngày 15/11/2010, Hà Nội. 47. Thủ tướng Chính phủ. 2012. Quyết định số 592/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp KHCN và tổ chức KHCN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, ban hành ngày 22/5/2012, Hà Nội. 156 48. Thủ tướng Chính phủ. 2013. Quyết định số 2075/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến 2020, ban hành ngày 08/11/2013, Hà Nội. 49. Thủ tướng Chính phủ. 2015. Quyết định số 2395/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ ở trong nước và nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, ban hành ngày 25/12/2015, Hà Nội. TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI 50. Aghion, P. and Howitt, P.. 1992. “A model of growth through creative destruction”, Econometrica, vol. 60, no. 2, pp. 323-351. 51. Aghion, P., Bloom, N., Blundell, R., Griffith, R. and Howitt, P. 2005. “Competition and innovation: An inverted U relationship”, Quarterly Journal of Economics, vol 120: pp 701-728. 52. Ahn, Hyeon-Ju, Mah, Jai S. 2007. “Development of technology- intensive industries in Korea”, Journal of Contemporary Asia, 37(3), 364-379. 53. Aiello, Francesco, and Paola Cardamone. 2005. “R&D Spillovers and Productivity Growth: Evidence from Italian Manufacturing Microdata”, Applied Economics Letters, 12 (10), pp 625-631. 54. Allen N. Berger & Gregory F. Udell. 1998. “The economics of small business finance: The roles of private equity and debt markets in the financial growth cycle”, Journal of Banking & Finance, Volume 22, Issues 6-8, August 1998, Pages 613-673, https://doi.org/10.1016/S0378- 4266(98)00038-7. 55. Baghana, R., Mohnen, P. 2009. “Effectiveness of R&D tax incentives in small andlarge enterprises in Québec”, Small Bus. Econ., 33, pp 91-107. 56. Becker, B. and Hall, S.G. 2013. “Do R&D strategies in high-tech sectors differ from those in low-tech sectors?, An alternative approach to testing the pooling assumption”, Economic Change and Restructuring, 46: pp 138-202. 157 57. BenignoValdes. 1999. Economic Growth: Theory, Empirics and policy, Edward Elgar, ISBN-13 : 978-1840640038. 58. Fabio Bertoni and Tereza Tykcova. 2015. “Does governmental venture captital spur invention and innovation? Evidence from young European biotech companies”. Research Policy, vol. 44, issues. 4, 925-935. 59. Bloch, C. 2005. “R&D investment and internal finance: The cash flow effect”, Economics of Innovation and New Technology, 14: 213-223. 60. Bloom, N., Griffith, R., Van Reenen, J.. 2002. “Do R&D tax credits work: evidencefrom a panel of countries 1979-1997”, Journal of Public Economics, Vol 85, pp1-31. 61. Lee Bransletter. 2006. “Is foreign direct investment a channel of knowledge spillovers? Evidence from Japan’s FDI in the United States”, Journal of International Economics, vol. 68, issue. 2, pp. 325-344. 62. Bronwyn Hall & John VanReenan. 2000. “How effective are fiscal incentives for R&D? A review of the evidence”, Research Policy, vol. 29, issue 4-5, 449-469. 63. Brown, J.R., Fazzari, S.M and Petersen, B.C. 2009. “Financing innovation and growth: Cash flow, external equity, and the 1990s R&D boom”, Journal of Finance, 64: pp 151-185. 64. Buiseret, T.J; Cameron, H.M.; Georghiou, L. 1995. “What difference does it make? Additionality in the public support of R&D in large firms”, International journal of technology management, ISSN : 0267- 5730. 65. Caballero, R. and Jaffe, A. 1993. How high are the giants’ shoulders: An empirical assessment of knowledge spillovers and creative destruction in a model of economic growth, In Blanchard, O. and Fischer, S. (Eds.) NBER Macroeconomics Annual 8. Cambridge, MA: MIT Press. 66. Carpenter, R., Petersen, B. 2002b. “Is the growth of small firms constrained by internal finance?”, The Review of Economics and Statistics, vol. 84, issue 2, 298-309. 158 67. Caves, R.E. 1996. Multinational Enterprises and Economic Analysis, Cambridge University Press, England. 68. Chamarik, Saneh, Goonatilake, Susantha. 1994. Technological independence - the Asian experience, United Nations University Press, Hong Kong. 69. Charles P. Himmelberg and Bruce Petersen. 1994. “R&D and Internal Finance: A panel study of small firms in high-tech industries”, The Review of Economics and Statistics, vol. 76, issue 1, 38-51. 70. Chirinko, R., Fazzari, S.M., Meyer, A.P. 1999. “How responsive is business capitalformation to its user cost? An exploration with micro data”, Journal of Public Economics, 74, pp 53-80. 71. Clemenz, G.. 1990. “International NC&PT competition and trade policy”, Journal of International Economics, 28: pp 93-113. 72. Connelly LM. 2008. “Pilot studies”, Medsurg Nurs, 17(6): 411-2. 73. Congressional Research Service. 2019. China's Economic Rise: History, Trends, Challenges, and Implications for the United States. 74. Crespi, G.. 2013. “Design and evaluation of fiscal incentives for business innovation in Latin America: lessons learned and future developments”. In book: Knowledge,Innovation and Internationalisation Essays in Honour of Cesare Imbriani (Piergiuseppe Morone), ISBN 0-415-69311- X, 171-193. 75. Cristina Chaminade and Bengt-Åke Lundvall. 2019. “Science, Technology, and Innovation Policy: Old Patterns and New Challenges”, Subject: Technology and Innovation Management, Online Publication, Date: May 2019, DOI: 10.1093/acrefore/9780190224851.013.179. 76. CSIS. 2017. “Is China a global leader in research and development?”. < https://chinapower.csis.org/china-innovation-global-leader/>. 77. Czarnitzki, D., Hanel, P., Rosa, J.M.. 2011. “Evaluating the impact of R&D tax creditson innovation: a microeconometric study on Canadian firms”, Res. Policy, 40,217-229. 159 78. Dal Hwan Lee, Zong-Tae Bae, Jinjoo Lee. 1991. “Performance and adaptive roles of the government-supported research institute in South Korea”, World Development, Vol. 19, Issue 10, Pages 1421-1440, ISSN 0305-750X, https://doi.org/10.1016/0305-750X(91)90084-U. 79. Dan Senor and Saul Singer. 2009. Start-up Nation: The story of Israel's economic miracal, Twelve - Hachette Book Group, November 2009, ISBN: 978-0-446-55831-0. 80. Daphne Getz and Itzhak Goldberg. 2016. “Best practices and lessons learned in ICT sector innovation: A case study of Israel”, World development report 2016 Digital Dividends: background paper. 81. David P, Hall B. 2000. “Heart of darkness: modeling public - private funding interactions inside the R&D black box”, Research Policy, vol. 29, issue. 9, 1165-1183. 82. Paul David, Bronwyn Hall and Andrew A. Toole. 2000. “Is public R&D a complement or substitute for private R&D? A review of the econometric evidence”, Research Policy, vol. 29, issue. 4-5, pp. 497-529. 83. David Yin. 2017. “What makes Israel’s innovation ecosystem so successful”, Forbes Asia < https://www.forbes.com/sites/davidyin/2017/01/09/what-makes-israels- innovation-ecosystem-so-successful/?sh=1b63c90270e4>, (09/01/2017). 84. Deog-Seong, Oh and Insup, Yeom. 2012. “Daedeok Innopolis in Korea: From Science Park to Innovation Cluster”, World Technopolis Review, vol. 2, no. 2, Apr 2012. 85. Dezan Shira & Associates. 2017. “Revisiting Tax Incentives for R&D Activities in China”. tax-incentives-for-rd-activities-in-china/>, (02/3/2017). 86. Dorfman, N.S. 1983. “The development of a regional high technology economy”, Research Policy, 12: 299-316. 87. Driffield, N.. 2001. “The impact on domestic productivity of inward investment in the UK”, Manchester School, 69: 103-119. 160 88. Driffield, N., Love J.H. and Menghinello, S.. 2010. “The multinational enterprise as a source of international knowledge flows: Direct evidence from Italy”, Journal of International Business Studies, 41: 350-359. 89. Dunning, J.. 1979. “Explaining patterns of international production: In defence of the eclectic theory”, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 41: 269-295. 90. Dunning, J.. 1988. “The eclectic paradigm of international production: A restatement and some possible extensions”, Journal of International Business Studies, 19: 1-31. 91. D-W. Sohn and M. Kenney. 2007. “Universities, Clusters, and Innovation Systems: The Case of Seoul, Korea”, World Development, (35) 6: 991-1004. 92. Erdar Gumus and Ferdi Celikay. 2015. “R&D expenditure and economic growth: New empirical evidence”, Margin The Journal of Applied Economic Research, 9(3): 205-217. 93. European Commission. 2003. Investing in Research: an Action Plan for Europe, Directorate General for Research - EUR 20804 EN - COM (2003) 226 final. 94. Feldman, M., Kelley, M.. 2006. “The ex ante assessment of knowledge spillovers: government R&D policy, economic incentives and private firm behavior”. Research Policy, 35, 1509 - 1521. 95. Ginarte, J.C. and Park, W.G.. 1997. “Determinants of Patent Rights: A Cross-National Study”. Research Policy, 26, 283-301. 96. Gonzalez X. and Pazo C.. 2008. “Do subsidies stimulate private R&D spending?”, Research Policy, Vol. 37, pp. 371-389. 97. Gonzalez X., Jaumandreu J. and Pazo C.. 2005. “Barriers to innovation and subsidy effectiveness”, RAND Journal of Economics, vol. 36, no. 4, pp. 930-950. 161 98. Raymond Gradus and Sjak Smulder. 1993. “The trade off between environmental care and long-term growth - pollution in three prototype growth models”, Journal of Economics, Vol. 58, No. 1, pp. 25-51. 99. Griffith, R., Redding, S. and Van Reenen, J.. 2000. “Mapping the two faces of R&D: productivity growth in a panel of OECD industries”, Centre for Economic Policy Research, Discussion Paper no. 2457. 100. Griffith, R., Harrison, R., and Van Reenen, J.. 2006. “How special is the special relationship ? Using the impact of U.S. R&D spillovers on U.K. firms as test of technology sourcing”, American Economic Review, vol. 96, no. 5, pp. 1859-1875. 101. Griliches, Zvi. 1992. “The Search for R&D Spillovers”, The Scandinavian Journal of Economics, no 94, 19-47. 102. Grossman và Helpman. 1991. Innovation and Growth in the Global Economy, Publisher: MIT Pr, ISBN: 9780262071369. 103. Grossman, Gene, and Elhanan Helpman. 1994. “Endogenous Innovation in the Theory of Growth”, The Journal of Economic Perspectives, 8 (1): 23-44. 104. Guellec, D. and Van Pottelsberghe de la Potterie, B.. 2003. “The impact of public R&D expenditure on business R&D”, Economics of Innovation and New Technology, 12: 225-243. 105. Hall, B.. 2002. “The financing of research and development”, Oxford Review of Economic Policy, 18, 35-51. 106. Hall, J.K., Daneke, G.A., & Lenox, M.J.. 2010. “Sustainable development and entrepreneurship: Past contributions and future directions”, Journal of Business Venturing, 25(5), 439-448. 107. Han Woo Park, Heung Deug Hong and Loet Leydesdorff. 2005. A comparison of the knowledge-based innovation systems in the economies of South Korea and the Netherlands using triple helix indicators, Scientometrics. 162 108. Hanel, Petr. 2000. “R&D, Interindustry and International Technology Spillovers and the Total Factor Productivity Growth of Manufacturing Industries in Canada, 1974-1989”, Economic Systems Research,12(3),345-361. 109. Harris, R., Trainor, M., Li, C.Q.. 2009. “Is a higher rate of R&D tax credit a panacea forlow levels of R&D in disadvantaged regions”. Research Policy, 38,192-205. 110. Hill, R.. 1998. “What sample size is “enough” in internet survey research?”, Interpersonal Computing and Technology: An Electronic Journal for the 21st Century, 6(3-4). 111. Hillier, D., Pindado, J., De Queiroz, V. and De La Torre, C.. 2011. “The impact of country- level corporate governance on research and development”, Journal of International Business Studies, 42: 76-98. 112. History. "China: Timeline". 113. Hoffman, K., Milady, P., Bessant, J., Perren, L.. 1998. “Small firms, R&D, technology and innovation in the UK: a literature review”, Technovation, 19, 39 - 55. 114. Holger Gorg and Eric Strobl. 2007. “The effect of R&D subsidies on private R&D”, Economica, 74(294):215-234. 115. Huang, C., Amorin, C., Spinoglio, M., Gouveia, B., Medina, A.. 2004. “Organization,programme and structure: an analysis of the chinese innovation policyframework”, R&D Manage, 34, 367-387. 116. Hulya Ulku. 2004. “R&D, Innovation, and Economic Growth: An Emporical Analysis”, IMF Working Papers, November 2004. 117. International Monetary Fund. 2016. “Fiscal monitor: Acting now, Acting together”, World Economic and Financial Surveys, 2016. 118. International Monetary Fund. "People's Republic of China". 163 119. Israel Innovation Authority. 2017. "Promoting Innovation as Leverage for Inclusive and Sustainable Ecnomic Growth". leverage-inclusive-and-sustainable-economic-growth>. 120. Israel Innovation Authority. 2019. "Israeli High-Tech in 2019: Prosperity Challenges". and 2019>. 121. Ivy Cheng. 2017. Fact Sheet: Innovation and technology development in Israel, The Legislative Council Library, FS05/16-17. 122. Jaffe, A.B., & Jones, B.F.. 2015. The changing frontier: Rethinking science and innovation policy, University of Chicago Press, Chicago. 123. Jaffe, A.B.. 1989. “Real effects of academic research”, American Economic Review, 79: 957- 970. 124. Jewish Virtual Library. “Latest population statistics for Isreal”. israel>, (21/2/2020). 125. Ji Woong Yoon. 2014. “Evolution of science and technology policy in Korea”, The Korean Journal of Pilicy Studies, Vol. 29, No. 1, pp. 147- 172. 126. Jiwon Jung; Jai S. Mah. 2013. “R&D Policies of Korea and Their Implications for Developing Countries”, Science, Technology & Society 18:2 (2013): 165-188. 127. Joel R. Campbell. 2013. “Becoming a techno-industrial power:Chinese science and technology policy”, Issues in Technology Innovation, No.23, pp.1-15. 128. Josef Bichler and Christian Schmidkonz. 2012. “The Chinese indigenous innovation system and its impact on foreign enterprises”, Munich Business School Working Paper, 2012-01. 164 129. Josh Lerner. 2002. “When bureaucrats meet entrepreneurs: The design of effective "Public Venture Capital" programmes”, The Economic Journal, Vol. 112, Issue. 477, Pages. F73-F84. 130. Kamien, M.I., Mueller, E. and Zang, I.. 1992. “Research joint ventures and R&D cartels”, American Economic Review, 82: 1293-1306. 131. Kenneth Arrow. 1962. “Economic welfare and the allocation of resources for invention”, A chapter in The Rate and Direction of Inventive Activity: Economic and Social Factors, pp 609-626 from the National Bureau of Economic Research, Princeton University Press. 132. Keun Lee and Chaisung Lim. 2001. “Technological regimes, catching-up and leapfrogging: findings from the Korean industries”, Research Policy, vol. 30, pp. 459-483. 133. Kevin Sylwester. 2001. “R&D and economic growth”, Knowledge, Technology & Policy, 13: 71-84. 134. Kim, L.. 1997. Imitation to innovation: The dynamics of Korea’s technological learning, MA: Harvard Business School Press, Cambridge. 135. Klete. T.J.. Moen, J. and Griliches, Z.. 2000. “Do subsidies to commercial R&D reduce market failures? Microeconometric evaluation studies”, Research Policy, 29(4): 471-97. 136. Kokko, Ari & Gustavsson Tingvall, Patrik & Videnord, Josefin. 2015. “The Growth Effects of R&D Spending in the EU: A Meta- Analysis”, Ratio Working Papers 254, The Ratio Institute. 137. Krugman, P.. 1991. “Increasing returns and economic geography”, Journal of Political Economy, 99: 483-499. 138. KIPO. 2005. 2005 Annual Report. 139. Lee, C.-Y.. 2011. “The differential effects of public R&D support on firm R&D: theory and evidence from multi-country data”, Technovation, 31, 256-269. 165 140. Lim, Young-il. 1999. Technology and productivity: The Korean way of learning and catching up, Cambridge and London: The MIT Press. 141. List of country. "Countries of the world ordered by land area". (18/8/2019). 142. Lokshin, B., Mohnen, P.. 2012. “How effective are level-based R&D tax credits? Evidence from the Netherlands”, Applied Economics, 44, 1-12. 143. Lundvall, B.-A., & Borrás, S.. 2005. “Science, technology and innovation policy”. In book: The Oxford handbook of innovation, U.K.: Oxford University Press, pp. 599- 631. 144. Macrotrends LLC. "South Korea GDP per Capita 1960-2020". capita>, (20/02/2020). 145. Mah, Jai S.. 2007. “Industrial Policy and Economic Development: Korea’s Experience”, Journal of Economic, Issues 41 (1): 77-92. 146. Mairesse, J., Mulkay, B.. 2004. “Une evaluation du crédit d´ıimpôt recherche enFrance, 1980-1997”, Working Papers 2004-43, Center for research in Economics and Statistics. 147. Malerba, F.. 2005. “How innovation differ across sectors and industries”, In book: The Oxford Handbook of Innovation, Oxford University Press, Oxford. 148. Mamoru Nagano. 2006. "R&D investment and the government's R&D policies of electronics industries in Korea and Taiwan", Journal of Asian Economics, 17(4):653-666. 149. Manuel Trajtenberg. 2002. "Government Support for Commercial R&D: Lessons from the Israeli Experience", NBER Chapters, in: Innovation Policy and the Economy, Volume 2, pages 79-134, National Bureau of Economic Research, Inc. 166 150. Mark S. Freel. 2000. “Barriers to product innovation in small manufacturing firms”, International Small Business Journal, 18(2): 60- 80. 151. Mark S. Freel. 2000. “Do small innovating firms outperform non- innovators?”, Small Business Economics, 14, 195-210. 152. Min-Jeong Kim và Jai S. Mah. 2009. “China’s R&D policies and technology-intensive industries”, Journal of Contemporary Asia, Vol. 39, No. 2, pp. 262-278. 153. Ministry of Economy and Industry (State of Israel). 2018. R&D Centers: Investment Models in Israel. 154. Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China. "Administrative Division System". 155. Mu, Rongping. 2014. “Policy framework for intergrating all activities of innovation in China”, Conference: American Association for the Advancement of Science 2015 Annual Meeting. 156. Neaman Institute. 2013. Science, Technology and Innovation Indicators in Israel: An Internatioal Comparison (Fourth edition). 157. Nelson, R.R.. 1986. “Institutions supporting technical advance in industry”, American Economic Review, 76, Papers and Proceedings: 186- 189. 158. OECD .2004. “Financial and Human Resources Invested in Education”, in Education at a Glance 2004: OECD Indicators. OECD Publishing, Paris. 159. OECD. 2008. The Internationalisation of Business R&D: Evidence, Impacts and Implications, Organization for Economic Cooperation and Development, Paris. 160. OECD. 2008. OECD Reviews on Innovation Policy, China, OECD Publishing, Paris. 167 161. OECD. 2010. Technological independence - The Asian experience, Directorate for Science, Technology and Innovation. 162. OECD. 2010. Innovation in Firms: A Microeconomic Perspective, OECD Publishing. 163. OECD. 2011. Education at a glance 2011, OECD indicators. Paris. 164. OECD. 2012. OECD Factbook 2011 - 2012: Economic, Environmental and Social Statistics, OECD Publishing. 165. OECD. 2015. Frascati Manual 2015: Guidelines for Collecting and Reporting Data on Research and Experimental Development, The Measurement of Scientific, Technological and Innovation Activities, OECD Publishing, Paris. 166. OECD. 2019. R&D Tax Incentives: China, 2018, Directorate for Science, Technology and Innovation. china.pdf>. 167. OECD. 2019. OECD Main Science and Technology Indicators, 2019 data release, OECD Directorate for Science, Technology and Innovation. 168. Parisi, M.L., Sembenelli, A.. 2003. “Is private R&D spending sensitive to its price? Evidence from Data for Italy”, Empirica, 30, 357-377. 169. Park, Sam Oak. 2000. “Innovation system, networks, and the knowledge-based economy in Korea”, in book: Regions, Globalization, and Knowledge-based Economy, pp. 328-48, Oxford University Press. 170. Paul M. Romer. 1990. “Endogenous Technological Change”, Journal of Political Economy, vol. 98, no. 5, part 2. 171. Paul Westhead and David Storey. 1997. “Financial constraints on the growth of high technology small firms in the United Kingdom”, Applied Financial Economics, vol. 7, issue 2, 197-201. 172. Pavitt, K.. 1984. “Sectoral patterns of technical change: towards a taxonomy and a theory”, Research Policy, 13, 343-373. 168 173. Pessoa, Argentino. 2010. “R&D and economic growth: How strong is the link?”, Economic Letters, vol. 107(2), pages 152-154. 174. Rana Deljavan Anvari & Davoud Norouzi. 2016. “The impact of e- commerce and R&D on economic development in some selected countries”, Procedia-Social and Behavioral Sciences, 299: 354-362. 175. Richard Nelson. 1959. “The Simple Economics of Basic Scientific Research”, Journal of Political Economy, 67, 297. 176. Rita Freimane & Signe Balina. 2016. “Research and development expenditures and economic growth in the EU: A panel data analysis”, Economics and Business, 29, 5-11. 177. Robert Cressy. 1996. “Are business startup debt-rationed?”, Economic Journal, vol. 106, issue 438, 1252-70. 178. Sakakibara, Mariko & Cho, Dong Sung. 2002. “Cooperative R&D in Japan and Korea: A comparison of industrial policy”, Research Policy, vol. 31, pp. 673-692. 179. Schumpeter, J.A.. 1939. Business Cycles: A theoretical, Historical, and Statistical Analysis of the Capitalist Process , McGraw - Hill Book Company Inc., New York and London. 180. Schumpeter, J.A.. 1942. Capitalism, Socialism and Democracy, Routledge, London, pp. 82 - 83. 181. Spencer, B.J. and Brander, J.A.. 1983. “International NC&PT rivalry and industrial strategy”, Review of Economic Studies, 50: 707-722. 182. State Council of China. 2006. The national medium-and long-term program for science and technology development (2006-2020). 183. State Council of China. 2015. Made in China 2025. 184. Steinmueller, Edward. 2010. “Economics of Technology Policy” in Bronwyn Hall and Nathan Rosenberg (Eds.), Handbook of the Economics of Innovation, volume 2, pp.1181-1218. 169 185. Sungchul Chung. 2010. “Innovation, Competitiveness, and growth: Korean Experiences”, Annual World Bank Conference on Development Economics 2010. 186. Svetlana Sokolov-Mladenović, Slobodan Cvetanović & Igor Mladenović. 2016. “R&D expediture and economic growth: EU28 evidence for the period 2002-2012”, Economic research-Ekonomska istraživanja, 29 (1), 1005-1020. 187. The World Bank/OECD. 2010. Science, Technology and Industry Outlook 2010. 188. Thomson, R.. 2013. “Measures of R&D tax incentives for OECD countries”, Review of Economics and Institutions, 4, 1-35. 189. Tsai, Kuen-Hung, and Jiann-Chyuan Wang. 2004. “R&D Productivity and the Spillover Effects of High-tech Industry on the Traditional Manufacturing Sector: The Case of Taiwan”, World Economy, 27 (10): 1555-1570. 190. Tuomas Takalo & Tanja Tanayama. 2010. “Adverse selection and financing of innovation: is there a need for R&D subsidies?”, The Journal of Technology Transfer, vol. 35(1), pages 16-41. 191. Uzi de Haan. 2011. "The Israel case of science and technology based entrepreneurship: An exploration cluster". Science and Technology Based Regional Entrepreneurship: Global Experience in Policy and Program Development. 306-328. 192. V. K. Narayanan, George E. Pinches, Kathryn M. Kelm and Diane M. Lander. 2000. “The influence of voluntarily disclosed qualitative information”, Strategic Management Journal, 21: 707-722. 193. Veugelers, R. and Cassiman, B.. 2004. “Foreign subsidiaries as a channel of international technology diffusion: Some direct firm level evidence from Belgium”, European Economic Review, 48: 455-476. 194. William Nordhaus. 1969. “An economic theory of technological change”, American Economic Review, vol. 59, issue 2, p. 18-28. 170 195. Wilson, D.J.. 2009. “Beggar thy neighbour? The in-state, out-of-state, and aggregate effects of R&D tax credits”. Review of Economics and Statistics. 91, 431-436. 196. WIPO. 2012. The Economics of Intellectual Property in the Repuplic of Korea. WIPO Publication No. 1031(E). ISBN: 978-92-805-2155-9. 197. World Economics Forum. 2016. The Global Competitiveness Report 198. World Economics Forum. 2019. The Global Competitiveness Report 2016-2017. 2019. 171 PHỤ LỤC PHỤ LỤC SỐ 01. PHIẾU KHẢO SÁT Kính gửi Quý vị, Lời đầu tiên, xin được gửi tới Quý vị lời chào trân trọng và lời chúc sức khỏe, thành công. Tôi là Đỗ Thành Long, công tác tại Bộ Khoa học và Công nghệ. Hiện tại, tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu về “Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ của một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam” và mong muốn tìm hiểu thực tiễn vấn đề này tại doanh nghiệp của Quý vị để phục vụ cho nghiên cứu của mình. Kính mong Quý vị dành chút thời gian để trả lời cho tôi một số câu hỏi dưới đây. Cũng xin lưu ý rằng những câu trả lời của Quý vị là cơ sở để tôi đánh giá vấn đề nghiên cứu nên rất mong nhận được câu trả lời chi tiết và trung thực của Quý vị. Mọi thông tin liên quan sẽ chỉ phục vụ duy nhất cho mục đích nghiên cứu đề tài và sẽ đƣợc bảo mật hoàn toàn. Trân trọng cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của Quý vị! ____________________________ 172 Chính sách khuyến khích doanh nghiệp (DN) đầu tư cho khoa học và công nghệ (KHCN) được chia thành 04 nhóm chính: 1. Các chính sách trọng cung: tập trung vào các chính sách hỗ trợ tài chính hoặc cấp kinh phí trực tiếp cho doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). - Tài trợ cho nghiên cứu (nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng). - Tài trợ cho phát triển (phát triển công nghệ và phát triển sản phẩm mẫu). 2. Chính sách trọng cầu: các chính sách trọng cầu lại tập trung vào việc gia tăng lợi nhuận thu được từ các sản phẩm và công nghệ mới. - Tài trợ cho sản phẩm ra thị trường (tìm hiểu thị trường, sản xuất thực nghiệm, ra mắt sản phẩm). - Tài trợ cho chuyển giao công nghệ. - Tài trợ cho thương mại hóa sản phẩm (phát triển, tiếp thị sản phẩm mới). 3. Chính sách về các yếu tố phụ trợ: - Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao. - Phát triển hạ tầng KHCN (thiết lập và phát triển thị trường KHCN; hạ tầng cơ sở thông tin; thiết lập cơ chế bảo vệ quyền SHTT). 4. Chính sách liên kết các bên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia: - Tăng cường nhận thức cho cá nhân, doanh nghiệp về KHCN và ĐMST, khởi nghiệp. - Chính sách liên kết các bên liên quan. 173 Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) Nhóm DN quy mô lớn đi đầu Nhóm DN nhỏ và vừa Nhóm DN khoa học và công nghệ, DN công nghệ cao Nhóm DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Khác < 1% 1% ≤ Quỹ < 3% 3% ≤ Quỹ < 5% ≥ 5% 174 - Cấp độ 1: Biết hay không biết. - Cấp độ 2: Biết thì doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng hay không thuộc đối tượng áp dụng. - Cấp độ 3: Thuộc đối tượng áp dụng thì khả năng áp dụng dễ hay khó. - Cấp độ 4: Dễ áp dụng thì hiệu quả ở mức điểm mấy (từ 1 đến 5 tương ứng với Không hiệu quả cho tới Rất hiệu quả). Lưu ý: Nếu câu trả lời là “Không” ở cấp độ trước (1 hoặc 2) thì sẽ dừng đánh giá ở cấp độ tiếp theo (2 và 3). 1 Quỹ phát triển khoa học và công nghệ
quốc gia (Nafosted) / Quỹ Đổi mới
công nghệ quốc gia Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách
trọng cung: ....................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................ 2 Các Chương trình KHCN quốc gia
3 Các ưu đãi về thuế
4 Ưu đãi tín dụng
5 Quỹ phát triển KHCN của DN
6 Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước 7 Xúc tiến thương mại
8 Chính sách ưu tiên cho thương mại
hóa kết quả nghiên cứu, sản phẩm của
doanh nghiệp KHCN
Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách
trọng cầu: ......................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................ 9 Phát triển nhân lực KHCN chất lượng cao
Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách hỗ 175 trợ: .................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................ 10 Liên kết với viện, trường để tham gia
các Chương trình KHCN quốc gia
Anh/chị vui lòng cho biết các điểm mà anh chị thấy chưa phù hợp ở các chính sách
liên kết: ..........................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................ Chính sách khác mà anh/chị biết (vui
lòng ghi rõ) :
……………………………………
Chính sách khác mà anh/chị biết (vui
lòng ghi rõ) :
……………………………………
Chính sách khác mà anh/chị biết (vui
lòng ghi rõ) :
…………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… 176 F1 Nữ giới Công chức, đảm nhiệm vị trí quản lý nhà nước về KHCN M2 Nam giới Công chức, đảm nhiệm vị trí quản lý nhà nước về KHCN M3 Nam giới Lãnh đạo một Sở KHCN M4 Nam giới Lãnh đạo Viện nghiên cứu KHCN thuộc Bộ, ngành F5 Nữ giới Lãnh đạo Đơn vị Đại học công lập F6 Nữ giới Lãnh đạo một Khoa thuộc Đơn vị Đại học công lập M7 Nam giới Lãnh đạo Đơn vị Đại học ngoài công lập F8 Nữ giới Lãnh đạo một Khoa thuộc Đơn vị Đại học ngoài công lập F9 Nữ giới Lãnh đạo Doanh nghiệp KHCN M10 Nam giới Lãnh đạo Doanh nghiệp khởi nghiệp F11 Nữ giới Lãnh đạo Quỹ KHCN F12 Nam giới Nhà nghiên cứu khoa học thuộc Đơn vị Đại học công lập 177PHẦN 1: MỘT SỐ THÔNG TIN CUNG CẤP CHO KHẢO SÁT
PHẦN 2: THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
1.1. Loại hình doanh nghiệp?
1.2. Quy mô doanh nghiệp?
1.3. Lĩnh vực hoạt động?
1.4. Tỷ lệ trích lập hàng năm cho Quỹ KHCN của doanh nghiệp?
Tính theo % thu nhập tính thuế của doanh nghiệp.
PHẦN 3: CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ CHO
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
3.1. Anh/chị vui lòng đánh giá về các chính sách dưới đây theo 03 cấp độ:
Biết
Hiệu quả
áp dụng
TT
Thuộc
đối
tƣợng
Khả
năng áp
dụng
Chính sách khuyến khích DN đầu
tƣ cho KHCN
C K C K Dễ Khó 1 2 3 4 5
I
Nhóm chính sách trọng cung
II Nhóm chính sách trọng cầu
III Nhóm chính sách hỗ trợ
Biết
Hiệu quả
áp dụng
TT
Thuộc
đối
tƣợng
Khả
năng áp
dụng
Chính sách khuyến khích DN đầu
tƣ cho KHCN
C K C K Dễ Khó 1 2 3 4 5
IV Nhóm chính sách liên kết
V Khác
3.2. Anh/chị có đề xuất gì thêm về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư cho KHCN?
_______Trân trọng cảm ơn!________
PHỤ LỤC SỐ 02. DANH SÁCH CHUYÊN GIA
Mã số Giới tính
Công việc