intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách thuộc địa của Pháp và Giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam (1857 - 1914)

Chia sẻ: Lê Hồng Khoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:382

87
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Chính sách thuộc địa của Pháp và Giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam (1857 - 1914) ra đời cách đây 30 năm nhưng vẫn luôn mới, bởi đó là một kho tàng tài liệu lịch sử và là tài liệu đầu tay cho bất kỳ ai muốn tìm hiểu lịch sử mất chủ quyền của Việt Nam hồi thế kỷ 19. Tác phẩm này là một luận án tiến sĩ quốc gia đệ trình trước Đại học Paris năm 1969 của Giáo sư Cao Huy Thuần. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách thuộc địa của Pháp và Giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam (1857 - 1914)

Mục lục<br /> Lời người dịch<br /> TỔNG LUẬN TRƯỚC KHI VÀO ĐỀ<br /> TÌNH HÌNH GIA TÔ GIÁO TẠI VIỆT NAM VÀ BANG GIAO PHÁP-VIỆT TRƯỚC 1857<br /> PHẦN MỘT: GIA TÔ GIÁO VÀ CÔNG CUỘC XÂM CHIẾM NAM KỲ<br /> CHƯƠNG I: CUỘC VIỄN CHINH NAM KỲ: MỘT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO<br /> CHƯƠNG II: MẤT NAM KỲ VÀ THỪA NHẬN GIA TÔ GIÁO<br /> CHƯƠNG III: NỀN TẢNG GIA TÔ GIÁO CỦA VIỆC THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ THUỘC<br /> ĐỊA PHÁP Ở NAM KỲ<br /> PHẦN HAI: CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CÁC GIÁO SĨ THỪA<br /> SAI TẠI BẮC KỲ<br /> CHƯƠNG IV: HUYỀN THOẠI VỀ THUYẾT BẮC KỲ LY KHAI<br /> CHƯƠNG V: KẾ HOẠCH XÂM LĂNG CỦA ĐÔ ĐỐC DUPRÉ<br /> CHƯƠNG VI: CUỘC VIỄN CHINH CỦA GARNIER, NỘI CHIẾN VÀ CHÍNH SÁCH<br /> CỦA PHILASTRE<br /> CHƯƠNG VII: CÁC KHÓ KHĂN TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 9<br /> CHƯƠNG VIII: TỪ SỰ BẢO TRỢ ĐẾN CHẾ ĐỘ BẢO HỘ: HIỆP ƯỚC 1884<br /> PHẦN BA: ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH THỪA SAI TRÊN VIỆC TỔ CHỨC CHẾ<br /> ĐỘ BẢO HỘ<br /> CHƯƠNG IX: VĂN THƯ VÀ TIN TỨC TÌNH BÁO CỦA GIÁM MỤC PUGINIER<br /> CHƯƠNG X: TÁCH RỜI BẮC KỲ KHỎI NƯỚC AN NAM<br /> CHƯƠNG XI: CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ, XÂM LĂNG VÀ SÁT NHẬP<br /> LỜI KẾT: ALBERT SARRAUT VÀ SỰ NỔI DẬY CỦA PHONG TRÀO DÂN TỘC VIỆT<br /> NAM<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> Lời người dịch<br /> Tác phẩm của Giáo sư Cao Huy Thuần, ra đời cách đây 30 năm, vẫn luôn<br /> luôn mới. Bởi vì đó là một kho tàng tài liệu lịch sử. Và bởi vì công trình<br /> nghiên cứu này vẫn là sách đầu tay của ai muốn tìm hiểu lịch sử mất chủ<br /> quyền của Việt Nam hồi thế kỷ 19.<br /> Tác phẩm này trước hết là một luận án tiến sĩ quốc gia đệ trình trước Đại<br /> học Paris năm 1969[1]. Trong thời chiến tranh, một bản dịch vội vã được phổ<br /> biến hạn chế trong nước, ngoài tầm hay biết của tác giả ở xa. Năm 1988, một<br /> bản dịch lại được xuất bản rộng rãi ở Hoa Kỳ, vẫn ngoài tầm hay biết của tác<br /> giả lúc sách được phát hành.<br /> Để tài liệu lịch sử đó không bị những bản dịch vội vã diễn dịch sai lạc, và<br /> để xác nhận tính cách thuần túy khoa học của công trình nghiên cứu, tác giả<br /> xuất bản nguyên văn tiếng Pháp, năm 1990, với sự bảo trợ của Đại học Yale.<br /> Dưới nhan đề: “Les missionnaires et la politique coloniale française au Viet<br /> Nam, 1857-1914”, tác phẩm lược bỏ đoạn vào đề của luận án. Chúng tôi giữ<br /> nguyên phần vào đề ở đây và dịch theo ấn bản Yale.<br /> Nguyện vọng của tác giả là tự mình dịch tác phẩm của mình như đã dịch<br /> phần tổng luận. Sức khỏe và công việc bộn bề của ông ở Đại học Amiens<br /> không cho phép ông thực hiện ý định. Chúng tôi, thấy việc phải làm, không<br /> ngại khó khăn, tự lấy trách nhiệm cung cấp một bản dịch nghiêm chỉnh.<br /> Tất nhiên bản dịch chưa phải hoàn hảo, nhiều từ chưa được vừa ý, văn<br /> phong nhiều chỗ vẫn còn là văn dịch. Nhưng dịch những tài liệu lịch sử thì<br /> phải dịch càng sát càng tốt, nhiều khi phải hy sinh văn khí. Dịch thế nào để<br /> bản dịch vừa được đọc trôi chảy, vừa giữ nguyên sự thật lịch sử: đó là cố<br /> gắng của người dịch.<br /> Paris, tháng 11 năm 1999<br /> Nguyên Thuận<br /> <br /> TỔNG LUẬN TRƯỚC KHI VÀO ĐỀ<br /> “Truyền đạo Thiên Chúa... Điều đó có liên quan gì đến chính sách thuộc<br /> địa không? Chẳng ai trả lời rằng không, trừ khi có định kiến...”. Giám mục<br /> Guébriant, bề trên của Nha Thừa Sai Paris đã viết như vậy trong tạp chí<br /> Correspondant số 25/1/1931[2]. Ba mươi bảy năm sau, vào 1968, giữa chiến<br /> tranh nóng bỏng ở Việt Nam, một bức thư sau đây của các giáo chức ki-tô<br /> Pháp[3] được gởi đến các đồng nghiệp của họ tại Mỹ: “Phải thừa nhận rằng,<br /> vì chính sách mà các chính phủ nước họ đã áp dụng, các người ki-tô thường<br /> bị đồng hóa, trước mắt các dân tộc Á Phi, với đế quốc và thực dân, hôm qua<br /> cũng như hôm nay. Nhìn vấn đề như vậy thì đơn giản thái quá, và các giáo<br /> hội ki-tô còn phải tốn nhiều công sức lắm để tái lập sự thật. Nhưng, cho đến<br /> hôm nay, nhiều hình thức can thiệp khác của các quốc gia được xem là ki-tô<br /> lại dựng thêm nhiều cản trở mới cho việc du nhập của thánh kinh vào Á Phi.<br /> Việc ném bom ở miền Bắc Việt Nam không phải là hình thức can thiệp duy<br /> nhất, nhưng là hình thức lộ liễu nhất.”<br /> Hai giai đoạn lịch sử khác nhau, hai ngôn ngữ ki-tô khác nhau. Bề trên<br /> của Nha Thừa Sai Paris, hiện thân của tiếng nói lương tâm bình thản trong<br /> giai đoạn thuộc địa, nhấn mạnh dây liên hệ nối kết sự truyền giáo với chính<br /> sách thuộc địa, trong khi các giáo chức ki-tô Pháp, ấm ức trong mặc cảm<br /> lương tâm của thời hậu thuộc địa, muốn làm trong trắng Nhà thờ bằng cách<br /> đổ lỗi cho các quốc gia, kẻ duy nhất phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng<br /> tôn giáo để phục vụ chính sách thuộc địa. Đâu là sự thật?<br /> Tìm hiểu sự thật lịch sử đâu có phải để kết tội ai hay để gây bất hòa giữa<br /> tôn giáo này với tôn giáo khác. Ngược lại, hiểu lịch sử chính là để đừng vấp<br /> nữa những sai lầm trong quá khứ - những sai lầm đến từ bên ngoài đã làm<br /> máu chảy giữa những người con của cùng dân tộc. Tôn giáo là thiêng liêng,<br /> và tự do tôn giáo là tự do căn bản của con người. Chính vì tôn trọng sự<br /> thiêng liêng đó mà mọi lạm dụng tôn giáo vì một mục đích khác, hoặc để<br /> độc tôn, cần phải đề phòng triệt để.<br /> Việt Nam là trường hợp điển hình của lạm dụng, là ví dụ tiêu biểu của<br /> một mô hình thuộc địa lấy tôn giáo vừa làm phương tiện vừa làm cứu cánh<br /> cho thống trị. Bởi vậy, trước khi đi sâu vào lịch sử Việt Nam, tưởng cũng<br /> nên nhắc lại sơ lược mô hình đó trong bối cảnh chung của sự bành trướng<br /> thuộc địa Âu châu. Năm điểm sau đây được xem như nổi bật nhất:<br /> I. Trước hết, ai cũng thấy sự phát triển song song, trong lịch sử thuộc địa<br /> Âu châu, giữa hành động thuộc địa và hành động truyền giáo. Nói “song<br /> song” cũng không đúng hẳn, bởi vì, như một nhà ngoại giao Pháp đã nhận<br /> <br /> xét hóm hỉnh, “đó là hai đường song song vượt qua khỏi mọi luật lệ của hình<br /> học để gặp nhau hoài”[4]. Nghĩa là, bất cứ ở đâu trong thế giới Á Phi, sự<br /> truyền giáo đều được phát triển nhờ xâm chiếm thuộc địa, chiếm đóng quân<br /> sự, cắt nhượng lãnh thổ, trấn áp chính trị.<br /> Như vậy, giáo xứ Alger đã được dựng lên ở Algérie. “Sự kiện lịch sử này<br /> thật đáng ghi nhớ, bởi vì giám mục xuất hiện lại, sau nhiều thế kỷ vắng<br /> bóng, trên đất Phi châu mà ngày xưa thánh Augustin và thánh Cyprien đã<br /> từng đặt gót”[5]. Như vậy, Trung Quốc đã bị bắt buộc mở ra cho ảnh hưởng<br /> của đạo Chúa dưới áp lực của Âu châu, nhất là của Pháp, hai lần can thiệp<br /> liên tiếp để ký hiệp ước 1858, từ đó Trung Quốc phải thừa nhận cho các thừa<br /> sai toàn quyền tự do truyền đạo. Cũng như vậy, giáo hoàng Pie X tạo mọi sự<br /> dễ dàng cho việc nước Ý chinh phục Tripolitaine, ở Libye, bởi vì đó cũng là<br /> chiến tranh chống ngoại đạo. Nhà viết sử Thiên Chúa giáo Paul Lesourd viết:<br /> “Biết bao nhiêu trường hợp đã cho thấy: các thừa sai không thể làm được gì<br /> vững chắc nếu không dựa vào sự ủng hộ thông minh của quốc gia thuộc địa,<br /> dù chỉ là để bảo vệ các tín đồ tân tòng chống lại kẻ thù của họ hay chống lại<br /> tà giáo như ở châu Úc”[6].<br /> Vì lý do đó, Giáo hội Thiên Chúa công nhận rành mạch chính nguyên tắc<br /> của việc xâm chiếm thuộc địa[7]. Xâm chiếm thuộc địa là một “công trình<br /> giáo dục về kinh tế, xã hội, chính trị”, là “thực hiện chức năng đem lại văn<br /> minh do luật thiên nhiên ban cho các quốc gia tự do và có ý thức trách<br /> nhiệm”[8]. Hồng y Verdier nói rõ: xâm chiếm thuộc địa “nằm trong chương<br /> trình của Thượng Đế, như một hành động bác ái tập thể mà trong một thời<br /> điểm nào đó, một dân tộc thượng đẳng phải làm đối với các giống dân xấu số<br /> như một bổn phận phát sinh từ chính văn hóa thượng đẳng của dân tộc<br /> đó”[9]. Nói một cách khác, các nhà đạo đức Thiên Chúa giáo tìm cách biện<br /> minh cho một quyền thuộc địa ngay trong cả thời gian mà việc xâm chiếm<br /> thuộc địa bị chỉ trích toàn bộ[10].<br /> II. Từ đó, dựa vào nhau là điểm nổi bật thứ hai: nếu sự truyền giáo dựa<br /> vào đô hộ của Âu châu thì, ngược lại, sự đô hộ này, để được vững chắc, cũng<br /> phải tìm hậu thuẫn về lý thuyết cũng như về thực hành nơi các thừa sai và<br /> nơi chính tôn giáo mới.<br /> 1) Trên lý thuyết, tôn giáo mới tạo tính chính đáng cho hành động thuộc<br /> địa. Về điểm này, hai giai đoạn cần được phân biệt trong lịch sử bành trướng<br /> Âu châu. Giai đoạn thứ nhất chủ yếu có tính cách tôn giáo. Từ thế kỷ 15,<br /> giáo hoàng đã đặt ra nghĩa vụ cho các nước Thiên Chúa giáo phải chinh phục<br /> để cải đạo. Như thế, ông hoàng Henri của Bồ Đào Nha, được gọi là Henri-leNavigateur vì tài vượt biển khám phá đất mới của ông, được giáo hoàng<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2