intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright : Kinh tế vĩ mô / Tăng trưởng kinh tế

Chia sẻ: Sczc Zczc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

98
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Toàn cầu hóa kinh tế có xu hướng củng cố thêm mối liên hệ giữa nghèo đói, tính chất phi chính quy và giới. Cạnh tranh toàn cầu có xu hướng khuyến khích các doanh nghiệp chính quy chuyển lao động hưởng lương sang làm việc tại khu vực phi chính quy và khuyến khích các đơn vị phi chính quy chuyển lao động hợp đồng thường xuyên và bán thường xuyên sang làm khoán sản phẩm hay thời vụ. Điều này thường dẫn tới sự chuyển dịch từ sự an toàn về việc làm tự tạo cho bản thân...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright : Kinh tế vĩ mô / Tăng trưởng kinh tế

  1. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Niên khóa 2005-2006 TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Chúng ta bắt đầu bằng cách xem xét các sự kiện tăng trưởng kinh tế và tìm hiểu xem điều gì gây ra sự khác biệt về của cải và thu nhập giữa các nước trên thế giới? Tại sao một vài nước như Mỹ, Anh, Đức và Nhật trở nên giàu có trong khi đó nhiều nước khác thuộc thế giới thứ ba thì nghèo khổ. Tại sao Ac-hen-ti-na giàu có hơn Thụy Điển trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất nhưng hiện nay mức sống vật chất của Thụy Điển gấp 4 lần Ac-hen-ti-na.. Chúng ta bắt đầu bằng cách trình bày các sự kiện tăng trưởng kinh tế và sau đó đi vào nghiên cứu các lý thuyết tăng trưởng nhằm rút ra vài suy nghĩ về các nhân tố chính đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. 1. Sự kiện tăng trưởng kinh tế Để phản ánh tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế thường sử dụng số liệu về GDP thực mà nó phản ánh thu nhập thực của người dân trong nền kinh tế trong một chuổi thời gian dài. Thí dụ như GDP thực hiện nay của Mỹ cao gấp 3 lần so với năm 1950. Người ta cũng hay sử dụng thu nhập bình quân trên đầu người để thể hiện tăng trưởng thực sự của một nền kinh tế. Điều này cho thấy tăng trưởng kinh tế thực sự bao hàm ý nghĩa là tổng thu nhập trong nền kinh tế phải gia tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự gia tăng mức sống vật chất của người dân. Việc sử dụng chỉ tiêu này phản ánh được sự tiến triển trong mức sống vật chất qua các thời kỳ và nó cũng thuận tiên hơn khi so sánh mức sống dân cư giữa các nước có quy mô dân số khác nhau Để có một bức tranh sinh động về tăng trưởng kinh tế, trước hết chúng ta tập trung vào phân tích tăng trưởng của những nước giàu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và xem xét sự hội tụ về mức sống vật chất của những nước này. Sau đó chúng ta có cái nhìn rộng hơn kể cả về không gian và thời gian để nhận ra rằng tăng trưởng dài hạn không phải là tất yếu và sự hội tụ không xảy ra trong phạm vi toàn cầu Những nước giàu được kể ra ở đây bao gồm Anh, Pháp, Nhật, Đức và Mỹ. Nếu lấy mốc thời gian từ 1950 cho đến nay thì các quốc gia này có điểm xuất phát với mức thu nhập bình quân trên đầu người khá cao. Cả 5 nước này đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ và cải thiện được mức sống dân cư rất nhiều. Trong thời kỳ này, Mỹ đã tăng thu nhập bình quân đầu người 2,3 lần, ở Đức tăng 4,6 lần và ở Nhật tăng 10,9 lần. Có dấu hiệu tăng trưởng giảm vào giai đọan 1970-1995 nhưng sau đó lại tăng lại. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người giảm từ 4,4 % trong giai đoạn 1950-1973 xuống còn 1,9% trong giai đoạn 1973-1995 Trong số những nước giàu, những nước đi sau đã tăng trưởng nhanh hơn. Có dấu hiệu Pháp, Đức, Anh và Nhật Bản đang đuổi kịp Mỹ. Vào những năm 1950, thu nhập bình quân đầu người của Mỹ cao gấp 2 lần so vối bốn nước lớn Châu Âu này và gấp 6 lần so với Nhật Bản. Vào năm 1998 nó chỉ còn cao hơn bốn nước Châu Âu khoảng 30% và Nhật Bản trên đà tăng trưởng nhanh đã đuổi kịp các nước trong tốp đầu (tính dựa vào phương pháp ngang bằng sức mua). Một số nước khác có mức thu nhập bình quân đầu người thấp vào những năm 1960 nhưng hiện nay đã đuổi kịp Mỹ một cách ngoạn mục. Trương Quang Hùng 1 10/10/2005
  2. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Đó là Hồng Kông, Hàn Quốc, Sin-ga-pore, Đài Loan mà vào những năm 1960 thu nhập bình quân của họ chỉ bằng 1/10 cuả Mỹ và gần đây Trung Quốc đang đuổi theo với tốc độ nhanh nhất. Nhìn vào không gian rộng hơn, chúng ta nhận ra mặc dù có sự hội tụ về mức sống ở một số nước giàu, nhưng khoảng cách về mức sống giữa Mỹ và các nước nghèo không khép lại. Cụ thể là Châu Phi và khu vực Trung Nam Mỹ đình trệ và dường như không tăng trưởng trong suốt giai đoạn những năm 1980 làm cho khoảng cách giữa họ và Mỹ trở nên lớn hơn. Thu nhập bình quân đầu người của năm nước nghèo nhất thế giới chỉ bằng khỏang 3% so với thu nhập bình quân đầu người của Mỹ. Một số nước Tây Âu khác (ngoài bốn nước lớn vừa kể) và các nước Trung Âu theo chủ nghĩa xã hội đã tăng trưởng suốt trong những thập niên 1970 nhưng tốc độ tăng trưởng gần như bằng tốc độ tăng trưởng của Mỹ nên không khép lại khoảng cách chênh lệch về thu nhập. Sau năm 1990, thu nhập bình quân đầu người ở các nước Trung Âu giảm sút khi họ trải qua quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường với nhiều khó khăn về chính trị làm cho khoảng cách chênh lệch gia tăng Xét về thời gian dường như tăng trưởng bền vững chỉ là một hiện tượng gần đây. Suốt trong một chuổi dài thời gian từ năm 1500 đến 1950, nhìn chung là không có tăng thu nhập bình quân trên đầu người ở khu vực Châu Âu. Ngay cả trong thời kỳ Cánh Mạng Công Nghiệp nổ ra, tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người cũng không cao. Ví dụ như tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của Mỹ trong giai đoạn 1820-1950 là 1,5% Qua sự kiện tăng trưởng vừa nêu, chúng ta nhận ra sự hội tụ về mức thu nhập bình quân đầu người không phải là một hiện tượng mang tính toàn cầu. Chỉ có những nước giàu mới đuổi kịp Mỹ trong khi khoảng cách về mức sống ở những nước nghèo vẫn chưa được khép lại. Chẳng hạn như hiện nay thu nhập bình quân đầu người của Mỹ gấp hơn 35 lần so với Ni-giê-ri-a. Một người công nhân trung bình ở Mỹ chỉ cần 10 ngày sẽ tạo ra giá trị bằng một người công nhân ở Ni-giê-ri-a sản xuất trong một năm. Một vài câu hỏi được đặt ra là tại sao không có sự hội tụ trong phạm vi toàn cầu? Tại sao các nước Châu Phi không có sự tăng trưởng? Tại sao một số nước như Nhật Bản và sau đó là bốn con hổ Đông Á lại có tốc độ tăng trưởng thần kỳ trong suốt một thời gian dài? Tại sao tốc độ tăng trưởng của các nước giàu như Mỹ có dấu hiệu chậm lại trong giai đọan 1970-1995? Trả lời những câu hỏi này là một thách thức lớn đối với kinh tế học. Trong bài giảng này sẽ khảo sát lại những lý thuyết tân cổ điển và một số lý thuyết tăng trưởng mới phát triển gần đây hầu để tìm ra một phần câu trả lời cho vấn đề này. 2. Mô hình tăng trưởng Solow Trong hơn 3 thập niên, mô hình tăng trưởng tân cổ điển là khuôn khổ lý thuyết căn bản cho nghiên cứu tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. .Mô hình này được phát triển bởi nhà kinh tế học Robert Solow của Viện Công nghệ Massachusset (MIT). Với những giả thiết cơ bản mô hình này chứng minh rằng trong dài hạn nền kinh tế có xu hướng tiến đến trạng thái cân bằng với mức tăng trưởng liên tục và đều. Trạng thái cân bằng này được đặc trưng bởi mức tích lũy vốn trên một lao động và mức sản lượng trên một lao động không đổi. Trương Quang Hùng 2 10/10/2005
  3. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 2.1. Hàm sản xuất Trong mô hình Solow, không chỉ có vốn mà cả lao động và thay đổi công nghệ đều có tương quan hàm số với sản lượng. Mô hình cho phép có trạng thái cân bằng toàn dụng liên tục bằng cách giả định rằng vốn (K) và lao động (L) có thể thay thế cho nhau trong quá trình sản xuất Điểm xuất phát của mô hình tăng trưởng Solow là hàm sản xuất tân cổ điển đồng nhất bậc một đặc trưng cho sinh lợi không đổi theo quy mô. Giả thiết này hàm ý rằng với phần trăm gia tăng đồng thời trong lao động và vốn cũng sẽ dẫn đến cùng phần trăm gia tăng trong sản lượng. Chẳng hạn như gấp đôi lao động và vốn được sử dụng cho quá trình sản xuất thì kết quả là sản lượng cũng tăng gấp đôi. Hàm sản xuất này cũng đặc trưng bởi sản phẩm biên hay là sinh lợi của các yếu tố sản suất dương và giảm dần. Điều này hàm ý là khi tăng thêm 1 đơn vị lao động hoặc vốn (giữ yếu tố khác không đổi) thì phần sản phẩm tăng thêm sẽ thấp hơn so với sự gia tăng trước đó. Một khi mà đầu tư vào vốn vật thể được giả thiết là sinh lợi giảm dần, thì lượng đầu tư tăng thêm sẽ làm cho sản lượng và thu nhập thực giảm dần. Một giả thiết khác liên quan đến sản xuất là thị trường hàng hóa và nhập lượng khá hòan hảo. Giả thiết này hàm ý là cạnh tranh sẽ định giá sản phẩm bằng với chi phí biên, tiền lương thực sẽ bằng với sản phẩm biên của lao động và suất thuê vốn thực sẽ bằng với sản phẩm biên của vốn. Với giả thiết này các nhà nghiên cứu có thể tính tóan mức độ đóng góp của mỗi nhập lượng vào quá trình tăng trưởng (1) Y = F (K , L ) ∂Y ∂ 2Y > 0 , vaø 0 vaø 0 vaø
  4. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Hàm số này chỉ ra sản lượng bình quân trên mỗi lao động phụ thuộc vào mức tích luỹ vốn trên mỗi lao động. Trên giản đồ bên dưới (Hình I.1) sản lượng trên mỗi lao động (y) được thể hiện trên trục tung, tích luỹ vốn cho mỗi lao động (k) được thể hiện trên trục hoành. Đường biểu diễn của hàm số là đường cong dốc lên. Khi tỷ lệ vốn trên mỗi lao động tăng, sản lượng trên đầu mỗi lao động cũng tăng, song vì sinh lợi giảm dần theo vốn nên mức tăng sản lựơng ngày càng giảm khi có sự gia tăng của vốn trên mỗi lao động y y2 y=f(k) y1 y0 Hình II.1: Hàm sản xuất 0 k0 k1 k2 k Tác động của tiến bộ công nghệ: Trong hàm số sản xuất đơn giản này, một sự cải thiện tình trạng công nghệ được thể hiện bởi sự dịch chuyển hàm sản xuất lên trên, làm cho sản lượng trên mỗi lao động tăng lên với mức tích luỹ vốn cho trước y y=f1(k) y1 y=f0(k) y0 Hình II.2: Hàm sản xuất với tiến bộ công nghệ 0 k0 k 2.2. Nguồn tăng trưởng Dựa vào đồ thị trên chúng ta nhận thấy một cách trực quan rằng sản lượng bình quân trên mỗi lao động sẽ tăng khi mức tích luỹ vốn trên mỗi lao động tăng hoặc có sự tiến bộ công nghệ. Trương Quang Hùng 4 10/10/2005
  5. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Khi mức tích luỹ vốn bình quân trên mỗi lao động tăng, thì sản lượng bình quân trên mỗi lao động cũng tăng. Song do sinh lợi vốn giảm dần nên muốn duy trì tăng sản lượng bình quân trên mỗi lao động đòi hỏi sự gia tăng mức tích luỹ vốn trên đầu mỗi lao động ngày càng nhiều hơn. Đến một mức nào đó việc tích luỹ vốn trên mỗi lao động không làm tăng sản lượng bình quân trên mỗi lao động nữa. Điều này có nghĩa là chỉ có sự tích luỹ vốn không thể duy trì tăng trưởng bền vững, song tích luỹ vốn có thể duy trì mức sản lượng bình quân cao hơn. Vấn đề này chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn trong phần sau tiếp theo Tăng trưởng được duy trì bền vững đòi hỏi phải có tiến bộ công nghệ. Với hai yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng là tích luỹ vốn và tiến bộ công nghệ, nếu tích luỹ vốn không thể duy trì tăng trưởng bền vững, thì tiến bộ công nghệ là yếu tố chính quyết định tăng trưởng kinh tế trong dài hạn Điều này nói lên ý nghĩa là, trong dài hạn, một nền kinh tế duy trì được tốc độ cải thiện công nghệ cao hơn cuối cùng sẽ vượt qua các nền kinh tế khác. Vấn đề được đặt ra ra là yếu tố nào quyết định tiến bộ công nghệ? Đây là nội dung cốt lỏi được thảo luận trong nhiều phần sau 3. Tiết kiệm, tích luỹ vốn và tăng trưởng 3.1. Tích luỹ vốn và sản lượng Mô hình Solow giả thiết thêm rằng tỷ lệ tiết kiệm quốc gia (s) , tốc độ tăng lao động (gL) và tiến bộ công nghệ (gA) là ngọai sinh được cho trước. Lúc này dường như chỉ có khối lượng vốn thay đổi theo thời gian. Trong phần phân tích này để chỉ ra vai trò của tiết kiệm đối với tăng trưởng, ta có thể giả thiết là không có sự thay đổi trong lao động và tiến bộ công nghệ. Với giả thiết tiến bộ công nghệ không thay đổi theo thời gian, hàm sản xuất y = f ( k ) không đổi theo thời gian. + 3.1.1. Tiết kiệm và đầu tư Nền kinh tế mà chúng ta nghiên cứu là nền kinh tế đóng. Điều này cũng có nghĩa là thu nhập bằng với sản lượng hay tiết kiệm bằng với đầu tư. Chúng ta gọi s là tỷ lệ tiết kiệm và nhớ rằng rằng tỷ lệ tiết kiệm này là được cho trước. Thêm nữa, chúng ta gọi δ > 0 là tỷ lệ hao mòn vốn trong sản xuất (tỷ lệ khấu hao). Sự gia tăng khối lượng vốn (∆K ) đến một thời điểm nào đó được xác định bằng đầu tư gộp trừ đi khấu hao (3) ∆K = I − δK = sY − δK Nếu ta chia L cho cả hai vế, chúng ta nhận được ∆K (4) = sy − δ k L K Vì k = với L không đổi, chúng ta có thể suy ra tốc độ tăng của k, K và L như sau L Trương Quang Hùng 5 10/10/2005
  6. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế ∆k ∆K ∆K (5) = hoaëc laø ∆k = k K L Từ (4) và (5) chúng ta viết lại (6) ∆k= s.f(k) - δ.k Phương trình (6) là phương trình cơ bản. Phương trình này phát biểu rằng tích luỹ vốn trên một đơn vị lao động (k) tăng khi đầu tư thực tế trên một đơn vị lao động (sy = sf(k)) lớn hơn phần đầu tư bù đắp vốn hao mòn bình quân mỗi lao động trong quá trình sản xuất. Cơ chế điều chỉnh này diễn ra liên tục cho tới khi nào mà đầu tư thực tế trên một đơn vị lao động (sy = sf(k)) vừa đủ bù đắp vốn hao mòn (bình quân mỗi lao động) trong quá trình sản xuất Do đó, ta suy ra rằng trong dài hạn, k sẽ hội tụ về một giá trị k* ổn định được gọi là trạng thái cân bằng hay dừng (Hình 3.1) Đầu tư thay thế δ.k y Đầu tư y=f(k) thực tế sf(k) sy* c ∆k Hình 3.1: Cơ chế điều chỉnh về trạng thái cân bằng i 0 k0 k* k 3.1.2. Tăng trưởng đều Tăng trưởng đều là tình trạng tăng trưởng khi mà nền kinh tế đạt được cân bằng, lúc này mức độ thâm dụng vốn (k) không có động cơ cho sự thay đổi nữa.Trong mô hình này tốc độ tăng trưởng đều đạt được ở trạng thái dừng khi ∆k = 0. Đó chính là điểm giao nhau giữa hai đường sf(k) và δk. Lúc này giá trị k là k* thỏa mãn điều kiện (7 ) sy = δk * Vì khi đạt được mức tăng trưởng đều, k* không đổi nên y* và c* cũng không thay đổi. Điều này cũng có nghĩa là Y, K, và C không tăng trong dài hạn. Trương Quang Hùng 6 10/10/2005
  7. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 3.1.3. Thay đổi tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế Mô hình Solow cho thấy tiết kiệm là yếu tố quyết định mức tích luỹ vốn ở trạng sy thái dừng k * = . Trong một chừng mực nào đó, nếu tiết kiệm cao thì mức tích luỹ vốn δ sẽ cao và đóng vai trò quyết định mức sản lượng hay thu nhập bình quân trên đầu người. Song cần phải chú ý rằng tiết kiệm cao không dẫn đến tăng trưởng trong dài hạn, nó chỉ làm tăng sản lượng bình quân trên đầu người trong quá trình đạt đến điểm dừng mới. Nếu vẫn tiếp tục duy trì mức tiết kiệm cao, nó sẽ làm tăng mức thu nhập bình quân đầu người nhưng không thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Điều này được thể hiện như sau δ.k y** y=f(k) y* s2f(k) s1f(k) 0 k* k** k s s1 s0 y t0 t y** y* 0 t0 t Hình 3.1: Tác động của tăng tỷ lệ tiết kiệm Trương Quang Hùng 7 10/10/2005
  8. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 3.1.4. Quy tắc vàng của tích luỹ vốn Chúng ta nhận ra rằng ban đầu với một mức thu nhập cho trước, khi tăng tiết kiệm thì tiêu dùng hiện tại sẽ giảm. Song có một vấn đề là liệu tăng tiết kiệm có làm tăng tiêu dùng trong dài hạn (tiêu dùng tại trạng thái dừng) hay không? Nếu có, mức tiết kiệm nào là tối ưu cho nền kinh tế?. Điều này được thể hiện qua phân tích sau đây Với hàm sản xuất và các giá trị δ cho trước, có mối tương quan 1-1 giữa k và s tại trạng thái dừng. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàm số sau đây (8) sf (k*) = δ.k * Ở trạng thái dừng, tiêu dùng bình quân trên đầu người đươc xác định c*=(1- s).f{k*(s)}. Từ (8) chúng ta có sf (k*) = δ.k * . Vì vậy chúng ta có thể viết hàm số c(s) như sau (9) c * (s) = f {k * (s)} − δ.k * (s) Ở trạng thái dừng mức tiết kiệm cần thiết để tối đa hoá tiêu dùng tại trạng thái dừng phải thoã điều kiện: ∂c * ∂k * (10) = { f ' (k*) − (δ)} = 0 ∂s ∂s ∂k * Vì > 0 nên điều kiện tối đa hoá tiêu dùng sẽ là f’(k*) – δ = 0 hay năng suất biên ∂s của vốn sẽ bằng với tỷ lệ khấu hao. Khi s < sG thì việc tăng tiết kiệm sẽ làm tăng tiêu dùng trong dài hạn nhưng giảm tiêu dùng trong quá trình dịch chuyển đến trạng thái dừng. Trong trường hợp này có sự mâu thuẩn giữa lợi ích của thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai. Ngược lại, khi s > s G việc giảm tiết kiệm sẽ làm tăng tiêu dùng bình quân đầu người trong dài hạn và cũng tăng tiêu dùng trong quá trình dịch chuyển . Vấn đề lựa chọn phụ thuộc vào sự đánh đổi giữa tiêu dùng hiện tại và tiêu dùng trong tương lai y Độ dốc = δ δ.k y=f(k) sf(k) Hình 3.2: Tỷ lệ tiết sy kiệm tối ưu sGf(k) 0 kG k Trương Quang Hùng 8 10/10/2005
  9. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 4. Sự gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế Mô hình vừa trình bày ở trên chỉ mới đề cập đến quá trình tích luỹ vốn, song chỉ dừng lại ở đây thì chưa đủ sức để lý giải hiện tượng tăng trưởng bền vững mà chúng ta thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Để lý giải sự tăng trưởng bền vững, chúng ta phải mở rộng mô hình bằng cách đưa thêm vào hai nguồn khác là (1) sự gia tăng dân số và (2) thay đổi công nghệ. Trong phần này mô hình giả thiết rằng tốc độ tăng dân số và lao động là như nhau nhằm chỉ ra vai trò của tăng dân số đối với tăng trưởng. Phần sau sẽ đưa thêm vào mô hình sự thay đổi công nghệ. 4.1. Trạng thái dừng và sự gia tăng dân số K Với k = như trên, nhưng lúc này có sự gia tăng lượng lao động, chúng ta có thể L suy ra tốc độ tăng của k, K và L như sau ∆k ∆ K ∆ L ∆K (11) = − hoaëc laø ∆k = − k.g L k K L L Từ (4) và (11) chúng ta viết lại (12) ∆k= sf(k) - (δ+gL)k Phương trình này phát biểu rằng tích luỹ vốn trên một đơn vị lao động tăng khi đầu tư thực tế trên một đơn vị lao động (sy = sf(k)) lớn hơn cầu đầu tư vừa đủ [(gL + δ)k] để duy trì mức tích lũy vốn trên mỗi lao động như trước. Mức đầu tư vừa đủ trong trường hợp này bao gồm một phần để bù đắp cho vốn hao mòn trong quá trình sản xuất và một phần trang bị vốn cho lượng lao động tăng thêm nhằm để duy trì lượng vốn bình quân cho một lao động không đổi. Khi đầu tư thực tế bằng với đầu tư vừa đủ nền kinh tế sẽ đạt được ở trạng thái dừng Đầu tư vừa đủ y y=f(k) Đầu tư thực tế c sf(k) ∆k Hình 4.1: Cơ chế điều chỉnh sy (δ+gL)k0 k đến trạng thái cân bằng 0 k0 k k Trương Quang Hùng 9 10/10/2005
  10. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 4.2. Trạng thái dừng với sự gia tăng dân số Tốc độ tăng trưởng đều đạt được ở trạng thái dừng khi ∆k = 0. Đó chính là điểm giao nhau giữa hai đường sf(k) và (δ+ gL)k. Lúc này giá trị k là k* thỏa mãn điều kiện (13) sy = (δ + g L )k * Cũng như trường hợp đã phân tích ở trên, khi đạt được mức tăng trưởng đều, k* không đổi nên y* và c* cũng không thay đổi. Điều này cũng có nghĩa là Y, K, và C tăng với tốc độ tăng của dân số là gL trong dài hạn. 4.3. Tốc độ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng dân số tăng lên đẩy đường (δ+gL).k lên phía trên . Trạng thái dừng mới có mức tích luỹ vốn trên mỗi đơn vị lao động và thu nhập bình quân đầu người thấp hơn. Mô hình này đưa ra dự báo rằng các nền kinh tế có tỷ lệ tăng dân số cao sẽ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp (δ+g2L)k (δ+g1L)k y y* y=f(k) y** sf(k) Hình 4.2: Tác động của tốc độ tăng dân số 0 k** k* k 4.4. Quy tắc vàng của tích luỹ vốn khi có sự gia tăng dân số Với hàm sản xuất và các giá trị gL và δ cho trước, có mối tương quan 1-1 giữa k và s tại trạng thái dừng. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàm số sau đây (14) sf (k*) = (δ + g L )k * Trương Quang Hùng 10 10/10/2005
  11. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Ở trạng thái dừng, tiêu dùng bình quân trên đầu người đươc xác định c*=(1- s).f{k*(s)}. Từ (14) chúng ta có sf (k*) = (δ + g L )k * . Vì vậy chúng ta có thể viết phương trình cho c như sau (15) c * (s) = f {k * (s)} − (δ + g L )k * (s) Ở trạng thái dừng mức tiết kiệm cần thiết để tối đa hoá tiêu dùng là: ∂c * ∂k * (16) = { f ' (k*) − (δ + gL )} = 0 ∂s ∂s ∂k * Vì > 0 nên điều kiện tối đa hoá tiêu dùng sẽ là f’(k*) –(δ+gL) = 0. ∂s (δ+gL)k y y=f(k) sf(k) sy* Độ dốc = (δ+gL) sGf(k) 0 kG k Hình 4.2: Tỷ lệ tiết kiệm tối ưu sG 5. Tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế Cho tới bây giờ chúng ta giả thiết là công nghệ không đổi theo thời gian và rút ra kết luận từ mô hình là thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người sẽ không thay đổi trong dài hạn. Điều này là không thực tế bởi lẽ có rất nhiều quốc gia có mức thu nhập bình quân trên đầu người tăng liên tục trong một thời gian dài. Rõ ràng là với giả thiết công nghệ không đổi, mô hình với sinh lợi giảm dần không thể duy trì tốc độ tăng thu nhập bình quân trên đầu người trong một thời gian dài chỉ bằng tích luỹ vốn. Các nhà kinh tế tân cổ điển nhưng năm 50 và 60 đã nhận ra điều này nên đã bổ sung vào mô hình của họ yếu tố công nghệ thay đổi theo thời gian và hy vọng rằng nó sẽ là lối thoát cho mô hình Trương Quang Hùng 11 10/10/2005
  12. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 5.1. Tiến bộ công nghệ và hàm sản xuất Thuật ngữ ‘công nghệ’ có thể được hiểu như là sử dụng kiến thức để đạt được kết quả thực tiển. Gần đây người ta xem công nghệ như ‘bí quyết sản xuất’ bao gồm cả cơ sở tri thức và năng lực nghiên cứu và triển khai (R&D). ‘Tiến bộ công nghệ’ thể hiện sản xuất tăng nhiều hơn ứng với lượng vốn và lao động như trước. Nó cũng có thể là sản xuất ra được sản phẩm tốt hơn, sản phẩm đa dạng hơn hoặc là tạo ra những sản phẩm mới tham gia thị trường Nếu chúng ta nghĩ rằng tiến bộ công nghệ là yếu tố quyết định sự gia tăng sản lượng với lượng vốn và lao động không đổi. Lúc này trong hàm sản xuất, sự thay đổi công nghệ có thể là một biến số; nó cho biết có bao nhiêu sản phẩm được sản xuất ra từ vốn và lao động vào mỗi thời điểm. Hàm sản xuất với yếu tố công nghệ thay đổi , A, được thể hiện như sau (17) Y = F ( K , AL) = K α ( AL _) (1−α ) 0
  13. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Kết hợp giữa (20) và (21) , ta có thể xác định tích luỹ vốn trên một đơn vị lao động hiệu dụng là: (22) ∆k = s ⋅ y − ( g L + g A + δ)k = s ⋅ f (k ) − ( g L + g A + δ)k = s ⋅ k α − ( g L + g A + δ)k 5.2. Trạng thái dừng với thay đổi công nghệ K _ Ở trạng thái dừng, vì k = không đổi, nên tốc độ tăng trưởng của K là gK = gL + AL _ _ Y gA. Ngoài ra, nếu k không đổi thì y = cũng không đổi, điều này ngụ ý rằng tốc độ AL tăng trưởng của Y cũng là gY = gL + gA. Do đó, thu nhập trên đầu người tăng trưởng theo tỷ lệ gY – gL = gA, đây cũng là tỷ lệ tích luỹ kiến thức (hay thay đổi công nghệ). Các kết quả trên cho thấy rằng tỷ lệ tiết kiệm không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dài hạn. Tất cả những yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong dài hạn là các tốc độ tăng trưởng của lao động và công nghệ được cho trước một cách ngoại sinh. Song chỉ có tiến bộ công nghệ mới giải thích được sự gia tăng không ngừng của mức sống. Kết quả này được khẳng định thông qua xem xét tác động của việc gia tăng tỷ lệ tiết kiệm đối với mức độ và tỷ lệ tăng trưởng thu nhập trên đầu người trong bối cảnh có xem xét sự thay đổi công nghệ, được minh họa trong đồ thị sau: Đầu tư hoà vốn (gL + gA + δ)k y=f(k) y* Đầu tư thực tế sf(k) sy* Hình5.1: Trạng thái cân bằng 0 k* k Trương Quang Hùng 13 10/10/2005
  14. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế g(Y/L) (gL + gA + δ)k y s'f(k) gY - gL = gA sf(k) 0 t ln(Y/L) ln(Y/L) Hình 5.2 k* k** t 0 t0 0 Hình 5.2: Tác động của tăng tiết kiệm Phân tích trên cho thấy rằng gia tăng tỷ lệ tiết kiệm ảnh hưởng tới mức thu nhập, nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng thu nhập trong dài hạn. Tuy vậy, tác động đối với mức thu nhập cũng tương đối nhỏ vì (1) vốn phải chịu sinh lợi giảm dần (được minh họa bằng độ dốc giảm dần của f(k) trong đồ thị trên), và (2) tỷ trọng thu nhập của vốn (α) tương đối thấp, thường vào khoảng 0,33. Do đó, tăng tỷ lệ tiết kiệm thêm 10 phần trăm, ví dụ như từ 20 đến 22 phần trăm, sẽ làm tăng (1 − α ) ⋅ ( g L + g A + δ ) mức thu nhập trên đầu người chỉ thêm khoảng 5 phần trăm2. Ngoài ra, nền kinh tế hội tụ về trạng thái cân bằng dài hạn theo một tốc độ hàng năm là: Với giả thiết α ≈ 0,33, gL ≈ 0,015, gA ≈ 0,015 và δ ≈ 0,03, sau khi gia tăng tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ hội tụ hàng năm về trạng thái cân bằng dài hạn chỉ khoảng 4 phần trăm một năm. Sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm thêm 10 phần trăm chỉ làm tăng thu nhập trên đầu người thêm 2,5 phần trăm sau 18 năm. Như vậy, trong mô hình Solow, tác động của việc tăng tiết kiệm chẳng những là khiêm tốn, mà còn phải mất thời gian lâu dài mới xảy ra. ∆y / y α 0.33 2 = ≈ = 0.5 ∆s / s 1 − α 0.67 Trương Quang Hùng 14 10/10/2005
  15. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Ta cũng nên lưu ý rằng tác động của những thay đổi chính sách làm tăng năng suất, như việc tự do hoá chính sách ngoại thương và công nghiệp rộng khắp, cũng có cùng tác dụng như việc tăng tỷ lệ tiết kiệm. Tác động đối với tăng trưởng chỉ khiêm tốn và tạm thời, kết quả này của mô hình thật ngược hẳn với chứng cứ thực nghiệm. 6. Hạch toán tăng trưởng kinh tế Mô hình Solow cho ta một khung hạch toán nguồn gốc tăng trưởng. Lấy vi phân hàm sản xuất (11) và biến đổi ta được: dY dK  dL dA  (21) =α + (1 − α) +  ⇒ g Y = α ⋅ g K + (1 − α)( g L + g A ) Y K  L A d (Y / L ) d (K / L ) (22) = g − g L = α(g K − g L ) + (1 − α) g A trong ñoù g K − g L = Y /L K/L (23) neáu trong daøi haïn g = g K thì g − g L = g A Phương trình (21) là phương trình hạch toán tăng trưởng tiêu chuẩn, phương trình này phát biểu rằng tăng trưởng sản lượng là bình quân có trọng số của tăng trưởng các nhập lượng vốn và lao động hiệu dụng. Phương trình (22) là dạng tính theo đầu người của phương trình (15), phương trình này phát biểu rằng thu nhập trên đầu người là bình quân có trọng số của tăng trưởng tỷ số vốn-lao động và tỷ lệ tăng trưởng kiến thức ( cải thiện công nghệ). Phương trình (23) không phải là một phương trình hạch toán tăng trưởng; mà nó chỉ đơn giản khẳng định lại rằng trong dài hạn, khi tỷ số vốn-sản lượng không đổi, toàn bộ tăng trưởng thu nhập trên đầu người được qui cho sự tích luỹ kiến thức. Khung hạch toán trong phương trình (21) và phương trình (22) đã được áp dụng cho nhiều quốc gia và nhiều thời đoạn. Chẳng hạn như với Hoa Kỳ, Edward Dennison (1985) đã nhận thấy rằng chỉ khoảng 25 phần trăm tăng trưởng thu nhập trên đầu người ở Hoa Kỳ từ năm 1929 đến 1982 là do gia tăng tỷ số vốn-lao động. Phần còn lại chủ yếu là do “tiến bộ công nghệ”. Vì không thể đo lường được những tiến bộ công nghệ nên đóng góp của tiến bộ công nghệ suy ra như một số dư, nghĩa là phần tăng trưởng sản lượng (g) mà không thể giải thích được bằng sự tăng trưởng của các yếu tố vốn và lao động: (24) g A = gY − (αg K + (1 − α) g L ) ) Vì vế phải của phương trình (24) là tỷ lệ thay đổi của tỷ số giữa sản lượng trên bình quân có trọng số của các nhập lượng lao động và vốn, nên nó thường được gọi là số dư Trương Quang Hùng 15 10/10/2005
  16. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Solow thể hiện tăng trưởng năng suất của tổng các yếu tố sản xuất (TFPG), một đại lượng nắm bắt toàn bộ sự thay đổi kỹ thuật và tất cả những yếu tố sản xuất khác làm gia tăng năng suất. Dựa vào phương trình hạch toán này, Alwyn Young, Jong II Kim và Lawrence đã đưa ra lập luận đầy tranh cải rằng mức tích luỹ vốn nhanh là tất cả những gì mà người ta nói về thần kỳ Đông Á. Theo ước lượng của họ, tổng tăng trưởng năng suất của các yếu tố được thể hiện bởi phần sản lượng tăng thêm mà không được giải thích bởi sự gia tăng của vốn hoặc lao động thì không đáng kể ở các nước Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. P. Krugman tiếp theo đã lý giải các kết quả này nhằm cho thấy rằng tăng trưởng của Sin-ga- pore và Liên Xô thực chất là như nhau trong đó cả hai cùng dựa trên lượng đầu tư khổng lồ mà rất ít dựa vào thay đổi công nghệ. Thật khó có thể tin được là tăng trưởng của Đông Á chủ yếu chỉ dựa vào đầu tư mà kéo dài trong một khoảng thời gian lâu như vậy, những kết quả của Young và Lawrence thực ra quá cường điệu. Khi một quốc gia tích luỹ vốn nhanh, một sự thay đổi nhỏ trong ước lượng tỷ phần vốn cũng làm thay đổi ước lượng về sự đóng góp của tổng tăng trưởng năng suất các yếu tố sản xuất. Ước lượng các tỷ phần này khó có thể chính xác ở các nước Đông Á khi mà giả thiết về cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường lao động và thị trường vốn không thích hợp. Còn có một vấn đề nữa là đo lường vốn nhân lực và vốn vật thể trong các quốc gia này. Thêm nữa, chúng ta cũng phải nhận ra là công nghệ vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của đầu tư. Không có sự cải thiện công nghệ, chúng ta khó có thể tin rằng các nước này có thể duy trì tốc độ đầu tư cao trong một thời gian dài trong bối cảnh suất sinh lợi vốn giảm do tăng đầu tư . 7. Mô hình tăng trưởng nội sinh Việc thiếu bằng chứng cho sự hội tụ lan rộng đã dẫn tới trào lưu từ bỏ mô hình Solow và thiên về một loại mô hình tăng trưởng mới phù hợp với sự kiện thực tiễn là không có hội tụ trong phạm vi toàn cầu. Các mô hình mới này được gọi là “mô hình tăng trưởng nội sinh”. Thuật ngữ "nội sinh" được sử dụng để mô tả một loại mô hình tăng trưởng mới, vì sự tăng trưởng không phụ thuộc vào các tỷ lệ tăng trưởng lao động và tích luỹ kiến thức được cho trước một cách ngoại sinh, mà thay vì thế, nó phụ thuộc vào những yếu tố bên trong mô hình như tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả đầu tư . 7.1. Học hỏi thông qua làm việc (Learning by doing) Mô hình này được giới thiệu bởi Arrow (1962) và Sheshinski (1967). Điểm cơ bản của các mô hình tăng trưởng nội sinh là tách biệt kiến thức ra khỏi cơ thể người lao động xem kiến thức như dạng vốn A khác, thay vì thể hiện trong lao động. Mô hình này dựa trên hai giả thiết về tăng năng suất . Thứ nhất là sự gia tăng trong khối lượng vốn vật thể của một doanh nghiệp sẽ gia tăng một trữ lượng kiến thức. Điều này hàm ý kiến thức và năng suất của doanh nghiệp là do đầu tư của doanh nghiệp tạo ra. Khi người ta đầu tư tăng vốn vật thể, đồng thời người ta nghĩ đến cách cải tiến sản xuất và sẽ học hỏi được cách sản xuất hiệu quả hơn. Giả thiết thứ hai là kiến thức trong mỗi doanh nghiệp gần giống như hàng hoá công mà một khi được tạo ra, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có thể sử dụng mà không làm tăng chi phí biên. Nói cách khác, một khi kiến thức được tạo ra, kíến thức sẽ lan truyền nhanh chóng. Giả thuyết lan truyền này là tự nhiên vì người này sử dụng khó có thể ngăn chận việc sử dụng của người khác. Mô hình này cho rằng sự lan truyền kiến thức như vậy làm tăng sản lượng đủ để bù đắp vào phần sản lượng giảm Trương Quang Hùng 16 10/10/2005
  17. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế do quy luật sinh lợi vốn giảm dần khi lượng vốn tăng lên. Nếu chúng ta liên kết hai giả thuyết trên chúng ta có thể nhận ra trữ lượng kiến thức (hay công nghệ) có tương quan hàm số với trữ lượng vốn vật lực (K) (25) A = K 1−α Chúng ta có thể liên kết (25) với hàm sản xuất tiêu chuẩn có sinh lợi không đổi theo qui mô, ta được: (26) Y = A ⋅ K α ⋅ L1−α = K ⋅ L1−α Từ phương trình (26) ta thấy rằng độ co giãn sản lượng theo vốn bằng một, nên nếu lao động hưởng được lợi tức dương, thì vốn sẽ thu được lợi tức nhỏ hơn so với sản lượng biên tế của nó, vì tỷ phần giá trị gia tăng của vốn khi thu được lợi tức bằng toàn bộ sản lượng biên tế của nó là 100 phần trăm: ∂Y K K (27) ⋅ = L1−α ⋅ =1 ∂K Y K ⋅ L1−α Mô hình này ngụ ý rằng tiết kiệm, đầu tư và do vậy cả tốc độ tăng trưởng đều chỉ là cận tối ưu, bởi vì lao động nhất thiết phải được trả một mức lương dương. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng một biện pháp chính sách thích hợp (điều tốt hạng nhất), chẳng hạn như trợ cấp cho tiết kiệm và đầu tư. Tuy nhiên, điểm chính yếu của mô hình thể hiện tăng trưởng là nội sinh bởi vì nó phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm trong nước (s), hiệu quả đầu tư (r) và một hằng số (c): ∆K S Y (28) g= + (1 − α) g L = ⋅ + (1 − α) ⋅ g L = s ⋅ r + c trong ñoù c = (1 − α) ⋅ g L K Y K Một số nhà kinh tế sử dụng mô hình này để giải thích hiện tượng “ tăng trưởng thần kỳ” của các nước Đông Á. Lucas (1988) cho rằng các nước công nghiệp mới (NICs) ở Đông Á tăng trưởng chủ yếu là do sự tích lũy kiến thức và kỹ năng thông qua học hỏi từ xuất khẩu hơn là do đầu tư cho giáo dục. Lucas cho rằng “ tăng trưởng thần kỳ” của những nước này xuất hiện từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II không thể nào quy cho đầu tư giáo dục vì rằng sự thay đổi trình độ học vấn trong tòan bộ nền kinh tế không thể thay đổi một sớm một chiều được. Bằng chứng thực tế cho thấy những quốc gia Đông Á tăng trưởng nhanh nhất là những nước có sự thay đổi nhanh trong cơ cấu sản xuất. Lucas cho rằng sự thay đổi trong cơ cấu nhanh là kết quả của chính sách thúc đẩy xuất khẩu đầy năng động giúp cho các nước này tích lũy vốn nhân lực thông qua quá trình học hỏi từ xuất khẩu. Chính sách tập trung vào xuất khẩu đóng vai trò quan trọng bởi vì nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu hàng hóa, hạ thấp chi phí và nâng cao chất lượng hầu đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng nước ngòai khá đa dạng và tiêu chuẩn cao so với nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Trương Quang Hùng 17 10/10/2005
  18. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế 7.2. Vốn nhân lực Mô hình này được đề xuất bởi Lucas (1988), Rebelo (1991) và Mankiw, Weil, Romer (1992). Trong mô hình này kiến thức cá nhân, kỹ xảo, và kỹ năng lao động trở thành một bộ phận vốn có thể tích luỹ được thông qua đầu tư cho giáo dục và đào tạo, thay vì là một bộ phận của lao động. Với mức thu nhập kiếm được, cá nhân giảm bớt tiêu dùng và hy sinh một số giờ làm việc để đi đến trường học với hy vọng cuộc sống trong tương lai sẽ được cải thiện.. Vốn nhân lực ở đây, khác với kiến thức trừu tượng hay lý thuyết, là những kỹ năng có tính cạnh tranh. Vai trò của vốn vật thể và nhân lực là như nhau đối với tăng sản lượng trong dài hạn. 1− α H (28) Y = K α H 1−α = K ⋅   K Trong mô hình này, H là nguồn vốn nhân lực và được xác định H=h.L với h là hệ số vốn nhân lực. Vì ta giả thiết là L cố định nên H chỉ tăng khi h tăng. Tăng trưởng sản lượng là kết quả của đầu tư vào cả nguồn vốn nhân lực (H) và vật lực (K); với giả thiết thị trường vốn cạnh tranh nên sinh lợi của hai nguồn vốn này sẽ bằng nhau ở trạng thái cân bằng. Nếu sinh lợi của H và K bằng nhau thì ở trạng thái cân bằng, tỷ số H/K sẽ là không đổi c. Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả đầu tư 1− α H (29) Y = c⋅K trong ñoù c =   K ∆K (30) g= = r⋅s K Khi đề cập đến đầu tư vào nguồn vốn nhân lực, Lucas (1988) cho rằng vốn nhân lực thông qua đầu tư không đủ để giải thích tăng trưởng nội sinh. Lucas giả thiết thêm rằng có ngọai tác gắn với vốn nhân lực; năng suất của tất cả các lao động, ngay cả những người được đào tạo chính thức, cũng được hưởng lợi từ kỹ năng và kiến thức chung của cả nền kinh tế. Lucas cho rằng tất cả các doanh nghiệp sản xuất cùng một sản phẩm có khuynh hướng nhóm lại thành một cụm ở một địa phương và như thế sẽ tạo ra hiệu ứng lan truyền về kỹ năng thông qua việc trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Sự lan truyền này sẽ nâng cao kỹ năng của lao động của các doanh nghiệp trong cùng ngành. Nếu ngọai tác đủ lớn, tăng trưởng ngọai sinh sẽ hiện diện ngay cả trong môi trường sinh lợi của vốn giảm dần vì rằng động cơ để đầu tư vào vốn nhân lực không giảm khi khối lượng vốn nhân lực gia tăng. Việc nâng cao mức sống trong tương lai là động cơ khuyến khích cá nhân đầu tư nhằm cải thiện kỹ năng lao động và trình độ học vấn của mình. Trong bối cảnh như vậy, tích lũy vốn nhân lực không bị giới hạn như tích lũy vốn vật thể. Tuy nhiên,việc đầu tư vào vốn nhân lực không đạt được mức tối ưu xã hội vì vấn đề lan truyền không được các cá nhân với tư cách là các nhà đầu tư quan tâm Trương Quang Hùng 18 10/10/2005
  19. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Mô hình này thích hợp trong việc giải thích tại sao không có khuynh hướng hội tụ về mức sống giữa nước giàu và nước nghèo. Nếu lao động của những nước giàu với nguồn vốn nhân lực dồi dào sẽ có năng suất cao hơn và kiếm được tiền lương cao hơn người lao động của nước nghèo. Những người lao động ở những nước nghèo có năng lực có động cơ nhập cư vào các nước giàu với mong muốn nhanh chóng cải thiện được cuộc sống. Các nước giàu với khối lượng vốn nhân lực và vật thể càng lớn có thể vẫn giàu mãi. Điều này có nghĩa là không có khuynh hướng hội tụ trong mô hình của Lucas. Nhìn chung trong hai mô hình trên đều đi đến kết luận rằng nếu hiệu ứng lan truyền đủ lớn thì hiệu quả đầu tư sẽ luôn được duy trì ở mức có lãi cho dù mỗi cá nhân nhà đầu tư có thể vấp phải quy luật sinh lợi của vốn giảm dần. Chú ý rằng hiệu ứng lan truyền diễn ra mang tính tự phát trong quá trình đầu tư vốn vào tài sản hoặc vốn nhân lực. Theo các lý thuyết này, tăng trưởng bền vững có thể đạt được mà không cần có sự hổ trợ về mặt thể chế 7.3. Nghiên cứu và triển khai (R&D) Mô hình này được đề xuất bởi Romer (1987,1990), Grossman, và Helpman (1992). Mô hình này giải thích tiến bộ công nghệ là kết quả của hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) có chủ đích của các doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận. Những khám phá và phát minh một khi được tạo ra nhờ hiệu ứng lan truyền liên tục kích thích quá trình tích luỹ vốn và tạo ra sự gia tăng năng suất của các yếu tố sản xuất. Nhờ vào hiệu ứng lan truyền hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) đã tạo ra ngoại tác tự nhiên cho xã hội, lợi ích xã hội của khám phá và phát minh lớn hơn rất nhiều so với giá thị trường của nó Một vấn đề được đặt ra là muốn tăng trưởng bền vững phải tạo ra động cơ cho các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và triển khai (R&D) liên tục theo thời gian. Lý thuyết về ngoại tác cho thấy là một thị trường cạnh tranh dường như không đảm đương được vai trò này. Trong khuôn khổ của mô hình này, tăng trưởng dài hạn phụ thuộc chủ yếu vào chính sách của chính phủ như thuế, trợ cấp cho R&D, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cung ứng dịch vụ cơ sở hạ tầng xã hội, điều tiết ngoại thương và hình thành quỹ mạo hiểm nhằm cung ứng động cơ cho cá nhân và doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm tạo ra kiến thức mới, sản phẩm mới Rõ ràng chúng ta gặp phải ở đây là sự đánh đổi giữa việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho những khám phá trong tương lai nhằm tạo ra động cơ cho việc chi tiêu R&D của các doanh nghiệp và lòng mong muốn làm cho những khám phá hiện tại được phổ biến một cách nhanh chóng cho những người sử dụng tiềm năng nhằm mang lại cho lợi ích xã hội lớn hơn. Mô hình này cũng cung cấp một cơ sở về lý thuyết để giải thích sự khác biệt về thành tựu kinh tế giữa các quốc gia. Một quốc gia nếu không có chính sách hiệu quả để nội bộ hoá ngoại tác tích cực của những khám phá và phát minh vào thị trường thì tăng trưởng của họ chủ yếu chỉ dựa vào chính sách thúc đẩy nguồn vốn nhân lực. Thêm nữa, khi đề cập đến nền kinh tế toàn cầu với sự khác biệt công nghệ giữa các quốc gia, người ta cho rằng các nước đi sau sẽ có lợi do việc tiêt kiệm các khoản chi phí cho nghiên cứu và triển khai (R&D). Việc đuổi kịp những nước đi trước phụ thuộc vào Trương Quang Hùng 19 10/10/2005
  20. Chương trình Gỉang dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế khả năng phổ cập (sao chép) công nghệ đã có sẵn. Mặc dù người ta xem công nghệ như là hàng hoá công có nghĩa là một khi nó được sản xuất thì việc sử dụng nó của các đơn vị khác không làm tăng chi phí biên. Những nước nghèo (đi sau) có thể phổ cập kiến thức và kỹ thuật sẵn có của những nước giàu (đi trước) thông qua các tạp chí, sách báo kỹ thuật, thông tin trên mạng Internet, các doanh nghiệp của các nước nghèo có thể lợi dụng và khai thác kỹ thuật mới bằng cách trả lệ phí để tiếp cận, hoặc là khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài với quyền sở hữu về công nghệ đầu tư vào nước nghèo thông qua ban hành các luật lệ quy định minh bạch liên quan đến quyền sỡ hữu trí tuệ, giảm chi phí giao dịch. Ngay cả cho dù việc tiếp cận công nghệ từ các nước giàu không phải là vấn đề, một số các nhà kinh tế (Fagerberg, 1994) cho rằng vịệc phổ cập công nghệ vào các nước nghèo khá tốn kém. Điều này hàm ý là có khoảng cách về công nghệ giữa nước giàu và nước nghèo và do vậy khuynh hướng hội tụ về thu nhập giữa nước giàu và nước nghèo phải có những điều kiện nhất định. Một số các nhà kinh tế cho rằng sỡ dĩ có khoảng cách về công nghệ là do các nước này không có khả năng để lợi dụng và khai thác kiến thưc và kỹ thuật mới. Không có một đội ngũ nhà khoa học, kỹ sư, công nhân có trình độ và kỹ năng cần thiết, thiếu một đội ngũ doanh nhân có khả năng và dám chịu rủi ro, thiếu những ngành bổ trợ như điện, viễn thông, sản phẩm phụ tùng, dịch vụ sữa chữa thì khó có thể đưa một công nghệ mới có sẵn từ bên ngoài vào guồng máy sản xuất cho dù tiếp cận với công nghệ mới này không có gì là khó khăn Một số các nhà kinh tế học thiên về thể chế thì cho rằng công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt được lồng trong những cấu trức tổ chức hoặc khuôn khổ thể chế của các xí nghiệp hoặc các tổ chức công nghiệp và mức độ phổ cập công nghệ tuỳ vào sự thích nghị cấu trúc tổ chức ở các cấp độ của các quốc gia. North (1994) cho rằng chính cấu trúc lợi ích nằm trong cấu trúc thể chế đó là yếu tố cơ bản để giải thích sự khác biệt về tăng trưởng giữa các quốc gia. Việc đánh giá và thực hiện việc cải cách thể chế là cần thiết nhằm hổ trợ cho quá trình phổ cập công nghệ 8. Vấn đề hội tụ trong các mô hình tăng trưởng Mô hình tăng trưởng của Solow và mô hình tăng trưởng nội sinh có dự đóan khác nhau về chiều hướng tăng trưởng giữa các nước. Dựa trên giả thiết là sinh lợi của vốn giảm dần, mô hình Solow dự đoán rằng sản lượng bình quân đầu người nước nghèo sẽ tăng trưởng nhanh hơn và bắt kịp các nước giàu, ngụ ý có sự hội tụ quốc tế về tốc độ tăng trưởng và mức thu nhập bình quân đầu người. Mô hình cũng dự đoán rằng suất sinh lợi của vốn ở các nước giàu sẽ thấp hơn so với ở các nước nghèo, ngụ ý rằng có những động lực mạnh mẽ thôi thúc vốn chảy từ nước giàu sang nước nghèo, thúc đẩu nhanh quá trình hội tụ. Ngược lại với mô hình Solow, hầu hết các mô hình tăng trưởng nội sinh không dự đóan khuynh hướng hội tụ giữa các nước mà có mức tích lũy vốn trên mỗi lao động ban đầu khác nhau. Các mô hình này cho rằng các nước giàu vẫn có thể duy trì sự giàu có của mình lâu dài so với các nước nghèo ngay cả những nghèo có tỷ lệ tiết kiệm, công nghệ đồng nhất. Yếu tố quan trọng trong những mô hình này cho phép duy trì sự tăng trưởng lâu dài là do sự vắng mặt của giả thíết sinh lợi vốn giảm dần. Điều này có nghĩa là đầu tư trong những nước giàu và những nước nghèo có thể mang lại lợi nhuận như nhau. Nếu như mức đầu tư và tăng trưởng như nhau giữa các nước thì chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nước giàu và nước nghèo có thể không bao giờ khép lại. Mô hình này có Trương Quang Hùng 20 10/10/2005
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2