Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 10
lượt xem 25
download
Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường; áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK. c) Nới lỏng vai trò điều hành của Nhà Nước vào thị trường tài chính
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 10
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường; áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK. c) Nới lỏng vai trò điều hành của Nhà Nước vào thị trường tài chính: Hoạt động giao dịch phải thật sự có ý nghĩa trong điều kiện tình hình biến động của thị trường hoàn toàn khách quan. Các NĐT, DN, những người kinh doanh chứng khoán, ngoại tệ,… dựa vào những phán đoán về diễn biến của thị trường, họ sẽ lựa chọn các phái sinh, quyền chọn thích hợp để thực hiện những mục tiêu cụ thể của mình là kinh doanh hay hạn chế rủi ro. Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay, theo lộ trình hội nhập mà nước ta đã cam kết với WTO, nhà nước cần nới lỏng dần chính sách can thiệp trực tiếp vào thị trường. Đối với TTCK tập trung, biên độ giao động của chứng khoán cũng cần được nâng dần theo mức độ phát triển của thị trường từ mức +/-5% ở HOSE và +/-7% ở HASTC hiện nay. Điều này sẽ đảm bảo giá cả chứng khoán phản ảnh đúng cung cầu trên thị trường. Khi đó, rủi ro đối với giao dịch chứng khoán sẽ dần hiện rõ, gây ra những thiệt hại lớn hơn, buộc các DN, cá nhân, NĐT phải quan tâm đến các hợp đồng quyền chọn để bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro cho chính mình. d) Thay đổi một số qui định về hạch toán kế toán: Các vấn đề về hạch toán quyền chọn nói riêng và các công cụ phái sinh nói chung hiện nay còn khá mới mẻ ở nước ta. Do đó, nhà nước nên điều chỉnh, hoàn thiện các vấn đề pháp lý về hạch toán, xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng quyền chọn, phái sinh là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro của các DN không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Điều này sẽ góp phần khuyến khích các DN sử dụng công cụ quyền chọn nhiều hơn, trong đó có quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu. 3.3.2.3 Nhóm giải pháp phát triển thị trường: a) Tăng cung- cầu hàng hóa cho TTCK: Về cung hàng hóa: 93
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha Việc tăng cung hàng hóa cho TTCK tập trung trong thời gian tới, cả trước mắt và lâu dài, chắc chắn phụ thuộc vào nguồn cung hàng cổ phiếu của các DN nhà nước cổ phần hóa. Trong công tác cổ phần hóa DN nhà nước, gắn cổ phần hóa DN nhà nước với việc niêm yết đồng thời trên TTCK. Nhà nước cần tích cực hơn trong việc tác động cũng như lựa chọn một số DN có quy mô lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng phát triển tốt để cổ phần hóa và niêm yết ngay trên TTCK. Chính phủ cần có chỉ đạo sát sao cũng như các ngành các cấp có liên quan cần phải quyết liệt thực hiện kế hoạc cổ phần hóa DN nhà nước theo đúng tiến độ và gắn kết với TTCK một cách công khai, minh bạch. Tập trung cổ phần hóa các DN và các tổng công ty lớn, các NHTM, mở rộng việc chuyển đổi các DN có vốn đầu tư nước ngoài thành các công ty cổ phần kết hợp với việc chào bán ra công chúng. Việc IPO những DN lớn là tạo thêm hàng hóa chất lượng cho thị trường. Điều quan trọng là nên có cách thức mới trong việc IPO để vừa bảo đảm cam kết với giới đầu tư, vừa để các đợt IPO lớn ổn định hơn và không tạo ra sức ép về cung cầu hàng hóa cho thị trường trong từng thời điểm. Ngoài ra nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình DN tham gia vào TTCK, đặc biệt là tạo điều kiện để các DN vừa và nhỏ làm ăn hiệu quả tham gia niêm yết. Áp dụng các ưu đãi cho cho các đối tượng sắp tham gia vào thị trường bằng công cụ về thuế, về các chính sách ưu đãi khác nhằm tạo sự thuận lợi cho các DN này tham gia thị trường. Tiếp tục khuyến khích các DN tư nhân nói riêng và các DN niêm yết nói chung bằng cách gia hạn ưu đãi thuế thu nhập DN khi niêm yết Nhà nước muốn có nguồn thu ngân sách lớn thì phải kích thích cho TTCK phát triển vì đây là nơi tạo ra nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng tạo môi trường thông thoáng cho các DN sắp niêm yết trên sàn, hạn chế tối đa các thủ tục rườm rà, không cần thiết nhằm giúp các DN tham vào thị trường một cách dễ dàng hơn. Chúng ta cũng cần quan tâm đến vấn đề xác định giá trị DN. Cho phép các DN đánh giá lại tài sản và thương hiệu đúng giá trị đích thực thông qua các công ty định giá với những quy định cụ thể và chặt chẽ, nên tổ chức đấu giá công khai trên thị trường theo tình thần nghị định 109/2007/NĐ-CP. Có thể mời các công ty định giá 94
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha nước ngoài tham gia, điều này góp phần làm gia tăng uy tín cổ phiếu công ty trên thị trường. Phát triển hàng hóa cho TTCK không chỉ là gia tăng số lượng mà còn phải nâng cao chất lượng các công ty niêm yết. Các công ty niêm yết phải là các công ty lành mạnh về tài chính, công khai minh bạch đối với cổ đông và kinh doanh ổn định có hiệu quả. Đây là những nhân tố vô cùng quan trọng để tạo lòng tin cho các NĐT. Về cầu hàng hóa: Sự tham gia của các NĐT ngày càng tăng sẽ góp phần tăng tính thanh khoản và hiệu quả của TTCK, từ đó khuyến khích các DN tăng cường sử dụng kênh TTCK để huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. TTCK muốn thành công phải dựa trên sự cân bằng cung cầu. Lực lượng các NĐT tham gia trên TTCK c òn quá nhỏ so với quy mô dân số 86 triệu người, đa số tham gia theo phương thức ngắn hạn và nhỏ lẻ. Cần mở rộng phạm vi các định chế trong nước tham gia vào thị trường như các công ty bảo hiểm, bảo hiểm xã hội đồng thời khuyến khích các NĐT nước ngoài tham gia thị trường như mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các NĐT nước ngoài trên TTCK Việt Nam, tiến tới xóa bỏ giới hạn về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông nước ngoài đối với những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cần nắm quyền kiểm soát. b) Cải tiến các phương thức phát hành trái phiếu, tạo sức hấp dẫn cho trái phiếu: Thị trường cổ phiếu phát triển đến đâu thì Chính phủ cũng nên quan tâm đến sự phát triển của thị trường trái phiếu. Điều này đáp ứng phần lớn nhu cầu của các NĐT muốn tham gia thị trường nhưng ngại rủi ro, xem mức độ an toàn của chứng khoán là yếu tố quyết định sự lựa chọn của chính mình. Do đó, cần cải tiến phương pháp phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương pháp đấu thầu, đa dạng hóa các kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ, triển khai phát hành trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, đô thị lên niêm yết và giao dịch trên TTCK. Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK. 95
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha c) Chủ động giới thiệu, quảng bá thông tin về các sản phẩm, dịch vụ quyền chọn đến khách hàng: Ngày nay, TTTC cạnh tranh ngày một gay gắt. Các định chế tài chính chuyên nghiệp như NHTM, CTCK xuất hiện ngày càng nhiều. Việc tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ cơ bản của mỗi tổ chức tài chính là cần thiết để có thể thu hút các đối tượng khách hàng. Đối với công cụ quyền chọn, một trong những loại hình dịch vụ mới, khá phức tạp đối với khách hàng, việc làm này càng trở nên cần thiết, thiết thực hơn, nhằm tạo ra sự nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và nhà hoạch định chính sách về công dụng, lợi ích và cách thức sử dụng các công cụ quyền chọn, từ đó phát triển nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ này. Để thực hiện điều đó CTCK cần rút kinh nghiệm và thay đổi cách tiếp thị chào bán các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng, theo hướng là lựa chọn và huấn luyện kiến thức tiếp thị, bán hàng cho những nhân viên thật sự am hiểu về sản phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách hàng. Ngoài ra, về lâu dài, các CTCK cần lập ra bộ phận chuyên phân tích, tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm thông tin, cách thức sử dụng các công cụ quyền chọn cho cả hai mục tiêu kinh doanh và hạn chế rủi ro. Phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài Chính, Giáo Dục, Truyền Thông, NHNN, UBCK…để tăng cường hơn nữa công tác quảng bá và giới thiệu sản phẩm quyền chọn đến các khách hàng DN và NĐT, trong đó chú trọng đầu tư cho hình thức quảng bá trên internet… Tổ chức các buổi tư vấn hướng dẫn thực hành tham gia vào giao dịch quyền chọn chứng khoán cho các DN, NĐT. Trong đó đưa ra cho các tình huống mẫu để khách hàng thử ứng dụng. Từ đó, phân tích cho các khách hàng thấy lợi ích của việc sử dụng công cụ quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận trong các hoạt động đầu tư của mình. 96
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha d) Cải thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống giao dịch, hệ thống đăng ký-lưu ký-thanh toán bừ trừ chứng khoán: Đây là giải pháp tạo ra động lực cho việc ứng dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam. Việc cải thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống giao dịch bao gồm những công việc cụ thể như sau: Cần có những thay đổi căn bản để đáp ứng yêu cầu của giới đầu tư như: giả m thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường, rút ngắn thời hạn thanh toán từ T+3 xuống T+2 và T+1. Tăng biên độ giá: việc tăng biên độ giá chứng khoán là một trong những bước đi cần thiết trong tiến trình hoàn thiện hóa TTCK Việt Nam. Trên thị trường các nước trong khu vực, biên dộng dao động giá được áp dụng thường là 10% hoặc thậm chí không có biên độ dao động. Khi TTCK Việt Nam đã hội tụ đủ những điều kiện phát triển ,biên độ dao động có thể cũng được áp dụng ở mức 10%. Đối với NĐT việc tăng biên độ dao động cũng cho phép đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau trong quá trình đặt lệnh và do đó nâng cao tính tự chủ và bản lĩnh kinh doanh của họ. Tăng cường củng cố sơ sở hạ tầng, phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông tin ngành chứng khoán, đẩy mạnh giao dịch qua internet. Hệ thống giao dịch và công bố thông tin của cả SGDCK HCM và Hà Nội còn nhiều hạn chế. Do đó, chúng ta cần xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin một cách hiệu quả bằng các biện pháp cụ thể như sau: Ứng dụng và hoàn thiện hệ thống giao dịch tự động hiện đại vận hành tại SGDCK TP HCM và Hà Nội. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của các Sở, Sàn giao dịch với các CTCK thành viên. Xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán,… Đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các NĐT. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cở sở dữ liệu thông tin đầy đủ. Tự động hóa hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa 97
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha các thành viên lưu ký và các Sở, Sàn giao dịch để cung cấp chính xác, kịp thời những thông tin có liên quan. Hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán là một trong số cấu thành nên cơ sở hạ tầng của TTCK, nó đóng vai trò trọng yếu trong việc hoàn tất các giao dịch chứng khoán, theo đó các bên mua và bán ch ứng khoán được đảm bảo đầy đủ quyền lợi và đồng thời cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các đối tác giao dịch. Kết hợp hệ thống lưu ký chứng khoán, hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán được xem là yếu tố nền tảng, có ý nghĩa quyết định tới sự thành công và hiệu quả của bất kỳ một TTCK nào. Tuy nhiên với một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và pháp lý đặc thù riêng của Việt Nam thì để phát triển một hệ thống bù trừ thanh toán phù hợp thì phải có những điều hỉnh cần thiết nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống này. e) Nâng cao hiệu quả thị trường thông qua việc công khai hóa và minh bạch hóa thông tin: TTTC Việt Nam mới chỉ tăng tốc phát triển trong một thời gian ngắn, vấn đề truyền thông tài chính cũng đã bắt đầu nhận được sự quan tâm của xã hội. Nhưng nhìn chung, truyền thông tài chính ở Việt Nam chỉ mới phát triển sơ khai, hầu như là mang tính tự phát, thiếu sự quản lý, ràng buộc trách nhiệm từ các cơ quan quản lý nhà nước. Với một TTTC bậc cao như thị trường quyền chọn, thông tin càng đóng một vai trò quan trọng trong các quyết định đầu tư, phòng ngừa rủi ro của DN, NĐT…Do đó, để phát triển thị trường quyền chọn, đặc biệt là quyền chọn quyền chọn chứng khoán, cần chấn chỉnh và thúc đẩy truyền thông tài chính phát triển. Thông tin tài chính cần được công khai, minh bạch hóa. Nhà nước cần tiếp tục ban hành các qui chế, thông tư, hướng dẫn…chi tiết hơn việc công bố thông tin ra TTCK cũng như chế tài nghiêm khắc đối với các vi phạm về công bố thông tin. Ngoài ra, cần thúc đẩy các nguồn thông tin đa dạng, đầy đủ và cần thiết đến với mọi đối tượng tham gia thị trường. Trước mắt, nên thành lập các tổ chức chuyên nghiên cứu phát triển các công cụ dự báo giá và công bố kết quả dự báo giá cả, đặc biệt là giá của một số mặt hàng quan trọng như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, xăng dầu… qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các tạp chí chuyên ngành để các 98
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha NĐT có cơ sở phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định kinh doanh hay phòng ngừng rủi ro cho riêng mình. f) Triển khai nghiệp vụ bán khống trên TTCK: Bán khống là một chiến lược được thực hiện dựa trên dự đoán về một thị trường giá xuống. NĐT vay cổ phiếu từ các nhà môi giới, sau đó bán ở một mức giá và mua lại như kỳ vọng ở mức giá thấp hơn. Nếu giá cổ phiếu mua lại với giá thấp hơn giá đã bán khống, giao dịch sẽ kiếm được lợi nhuận. Việc thực hiện nghiệp vụ bán khống sẽ thu hút được các NĐT tham gia thị trường, đặc biệt là cải thiện mạnh mẽ tính thanh khoản của thị trường- điểm yếu của các thị trường mới nổi như Việt Nam. Bán khống là xu thế tất yếu để đảm bảo lợi ích của các NĐT, cũng như các tổ chức môi giới chứng khoán chuyên nghiệp. 3.3.2.4 Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: a) Tăng cường công tác đào tạo nghiên cứu và tuyên truyền: Con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, nhất là trong lĩnh vực năng động như chứng khoán và các công cụ tài chính phái sinh. Quá trình đào tạo không chỉ cho những nhà phân tích, nhà môi giới, nhà quản lý mà cho quảng đại công chúng. Việc đào tạo phải có sự kết hợp giữa những yêu cầu thực tế đặt ra với việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường đại học trong và ngoài nước. Hình thức đào tạo cũng cần đa dạng như chính khoá, hội thảo, đào tạo từ xa,… nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK cho công chúng. Để đáp ứng được yêu cầu về nhân lực cho TTCK thì chương trình đào tạo trong các trường đại học cần chú trọng đến các môn học liên quan đến TTCK. Nội dung của chương trình phải đáp ứng những tiêu chuẩn tiên tiến nhất. Ngoài ra, cần thường xuyên phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng thông qua các chuyên mục về tìm hiểu kiến thức chứng khoán trên đài phát thanh, truyền hình, internet,… Đây là kênh tuyên truyền nhanh nhất đến quảng đại công chúng đầu tư. 99
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha b) Phát triển đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và các công cụ tài chính phái sinh: Các CTCK, các ngân hàng cần lựa chọn các cá nhân để làm việc trong lĩnh vực này dựa trên: Nền tảng đào tạo, nền tảng cá nhân và khả năng phát triển. Nền tảng đào tạo: Người ta thường cho rằng người có học vị cao phù hợp với công việc này. Tất nhiên, có được bằng cấp đó là rất tốt nhưng chưa hẳn là đủ và cũng chưa hẳn là chỉ những người đó mới phù hợp. Thực tế, một trực giác tốt để nhận biết nhanh còn quan trọng hơn nền tảng đào tạo, đôi khi tài sản quan trọng nhất của một chuyên gia là “giác quan” nhạy bén, hay có thể nói là họ có sở trường trong lĩnh vực này. Thực tế cho thấy nhiều người thành công trên lĩnh vực này là những người biết nắm bắt, xử lý thông tin, biết phân tích và ra quyết định đúng lúc. Một bộ phận kinh doanh quyền chọn tốt cần có những con người có các nền tảng khác nhau với thế mạnh của họ có thể bổ sung cho nhau và những điểm yếu của mỗi người được người khác bù đắp. Nền tảng cá nhân: Cá tính mỗi con người cũng đóng góp đáng kể cho nghề nghiệp kinh doanh công cụ phái sinh. Đây là hoạt động chịu nhiều áp lực, những người kinh doanh trong lĩnh vực này thường rất muốn kiếm được nhiều lợi nhuận, nhưng nếu họ qua đề cao chủ nghĩa cá nhân có thể dẫn đến những sai lầm lớn. Việc cư xử công bằng, không độc đoán và không quá dựa trên lợi nhuận sẽ tạo được môi trường làm việc lành mạnh để các giao dịch viên có thể đạt kết quả tốt. Khả năng phát triển: Đây là vấn đề rất khó đánh giá khi bắt đầu lựa chọn một nhân viên giao dịch vì không biết người đó có đủ năng lực, kinh nghiệm, đủ minh mẫn để cạnh tranh khi thị trường phát triển hay không. Vì vậy, ngoài khả năng của người đó, các tổ chức này phải thường xuyên tổ chức các buổi huấn luyện, đào tạo về nghiệp vụ, thi sát hạch cho các nhân viên của mình nhằm nâng cao tay nghề và cập nhật kiến thức cho họ. Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK hiện nay khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm trong thời gian qua. Định kỳ, các 100
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho các NĐT. Các CTCK cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực của mình. 3.3.2.5 Các nhóm giải pháp khác: a) Học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới: Đây là giải pháp vô cùng quan trọng trong việc ứng dụng các giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam. Chúng ta có thể học hỏi và áp dụng kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới về các lĩnh vực như: việc tổ chức sàn giao dịch, nguyên tắc, cơ chế và quy trình giao dịch; việc xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường; việc xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TTCK; việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản lý,… và đặc biệt là từ đó áp dụng một cách hiệu quả lên thị trường chứng khoán Việt Nam. b) Giải pháp để tiến tới thành lập một sàn giao dịch quyền chọn niêm yết tập trung: Để thị trường quyền chọn thực sự phát triển và trở thành một trong những trụ cột của thị trường tài chính, khi thị trường quyền chọn và các giao dịch quyền chọn đạt đến độ chín mùi cần thiết, bên cạnh một thị trường quyền chọn phi tập trung, nhà nước cần tiến hành tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các sàn giao dịch quyền chọn lớn trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, để thành lập một sàn giao dịch quyền chọn tập trung chính thức (giống như một sàn giao dịch chứng khoán niêm yết tập trung) như ở các nước có TTTC phát triển, với các tài sản cơ sở ở đây có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, chỉ số chứng khoán, vàng, lãi suất... Điều này sẽ làm tăng tính thanh khoản, khối lượng giao dịch trên thị trường quyền chọn cũng nh ư thị trường các tài sản cơ sở, đặc biệt là TTCK; dần dần tiến đến chuyên nghiệp hóa, tạo thuận tiện, phổ biến và đưa thị trường quyền chọn trở thành một một trong những thị trường thiết yếu trên thị trường tài chính. 101
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha Việc xây dựng hệ thống kỹ thuật công nghệ cho sàn giao dịch quyền chọn tập trung đòi hỏi sự đầu tư lớn và đồng bộ. Các nhà quản lý có thể dựa vào kinh nghiệm xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho SGDCK và tham khảo từ các sàn giao dịch quyền chọn tập trung ở các nước, kết hợp với khả năng, tình hình thị trường hiện tại để trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ phù hợp với điều kiện nước ta. Các hệ thống lưu ký, giao dịch, thanh toán b ù trừ, hệ thống kết nối với các thành viên (NHTM, CTCK môi giới quyền chọn)… cần được trang bị đồng bộ, thống nhất, giúp đơn giản hóa các qui trình giao dịch, đồng thời tăng tính chính xác, thanh khoản và độ an toàn cho các NĐT tham gia thị trường. Về phía các CTCK: ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, khi một sàn giao dịch quyền chọn tập trung được thành lập, cũng giống như TTCK; các hoạt động giao dịch, chuyển nhượng quyền chọn sẽ diễn ra. Các CTCK sẽ đóng vai trò là thành viên của sở giao dịch quyền chọn, đứng ra môi giới và thu phí đối với các giao dịch chuyển nhượng quyền chọn đối với khách hàng. Khi đó, phí môi giới quyền chọn cần được các CTCK tính toán kỹ lưỡng để có thể bù đắp được các khoảng chi phí đầu tư đã bỏ ra, đảm bảo khả năng cạnh tranh và bước đầu thu lợi nhuận. Trong điều kiện các giao dịch chuyển nhượng quyền chọn mới bắt đầu hình thành, các CTCK nên chào một mức phí cạnh tranh, để bước đầu thu hút được khách hàng, giúp cho NĐT làm quen cũng như hứng thú hơn với việc tham gia giao dịch các quyền chọn tập trung, đóng vai trò tích cực trong việc phát triển một thị trường giao dịch quyền chọn tập trung chính thức. 3.4 Mô hình giao dịch đề xuất cho Việt Nam: Nhằm giúp thị trường chứng khoán Việt Nam có thể áp dụng quyền chọn chứng khoán vào giao dịch thì tôi có một mô hình đề xuất tương tự của sàn giao dịch CBOE nhưng đơn giản hơn và thuận tiện cho người muốn mua (bán) hợp đồng quyền chọn ở TTCK Việt Nam. Mỗi cá nhân giao dịch quyền chọn cần có một tài khoản tại CTCK mà người môi giới của mình đang làm việc để có thể tiện cho giao dịch thanh toán khi hợp đồng quyền chọn được giao dịch. 102
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha Hình 3.3: Mô hình giao dịch quyền chọn chứng khoán đề xuất cho thị trường chứng khoán Việt Nam Người mua và người bán chỉ thị cho người môi giới của mình tiến hành giao dịch quyền chọn. Nhà môi giới của người mua (bán) quyền chọn yêu cầu CTCK của mình thực hiện giao dịch. Các CTCK đặt lệnh lên sàn giao dịch, các giao dịch khớp nhau hình thành nên lệnh với mức giá xác định. Thông tin giao dịch được thông báo về trung tâm thanh toán bù trừ. CTCK thông báo giá giao dịch cho người môi giới, sau đó thông báo với người mua (bán). Người mua (bán) ký gửi phí quyền chọn cho người môi giới Người môi giới ký gửi phí quyền chọn cho CTCK của mình. CTCK thanh toán giao dich quyền chọn cho người mua (bán). 103
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha KẾT LUẬN Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đặc biệt là kể từ khi gia nhập vào WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam TTCK cũng đang có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh này đã bộc lộ những rủi ro tiềm ẩn cho công chúng đầu tư, đặc biệt là NĐT nhỏ lẻ. Đã đến lúc cần phải có công cụ bảo vệ cho họ và việc xây dựng thị trường quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết. Nó cũng tạo thêm một sân chơi mới cho các NĐT và góp phần nâng cao tính cạnh tranh của TTCK Việt Nam trong quá trình hội nhập. Qua chuyên đề tốt nghiệp về quyền chọn, ta có thể nắm được cơ sở lý luận về quyền chọn chứng khoán, kinh nghiệm về thị trường giao dịch quyền chọn ở một số nước trên thế giới và đi vào thực trạng TTCK tại Việt Nam, phân tích tình hình thị trường và mức độ cần thiết của công cụ quyền chọn chứng khoán, chuyên đề cũng đã đưa ra một số giải pháp cũng như mô hình đề xuất cho việc áp dụng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực phức tạp và mới, do những hạn chế của bản than trong quá trình làm bài, chuyên đề chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được nhận ý kiến đóng góp, bổ sung của thầy cô giáo và những người quan tâm, đang nghiên cứu về vấn để này. Để chúng ta có thể sớm áp dụng nó vào Việt Nam, mở ra cho thị trường chứng khoán một công cụ để có thể phát triển mạnh hơn. 104
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha Tài liệu tham khảo “Quản trị rủi ro tài chính” – TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang (Chủ biên), PGS.TS 1. Trần Ngọc Thơ, TS Nguyễn Khắc Bảo, GV Hồ Quốc Tuấn (2006). “Tài chính doanh nghiệp” – PGS.TS Trần Ngọc Thơ (Chủ biên), PGS.TS 2. Nguyễn Thị Ngọc Trang, PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt, TS Nguyễn Thị Liên Hoa, TS Nguyễn Thị Uyên Uyên. “Tài chính quốc tê” PGS.TS Trần Ngọc Thơ & PGS.TS Nguyễn Ngọc Định 3. (Đồng chủ biên), TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS Nguyễn Khắc Bảo, PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa. Luận văn thạc sĩ kinh tế Nguyễn Thanh Tâm (2007): “Quyền chọn chứng 4. khoán và việc áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam”. Nghiên cứu khoa học “Công cụ phái sinh – Gốc nhìn từ cuộc khủng hoảng tài 5. chính toàn cầu” Nhóm sinh viên:Nguyễn Ngọc Linh + Trịnh Thị Thanh Tâm, GVHD: Lê Đạt Chí. Các thông tin trên trang web của Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hà Nội: 6. http://www.hastc.org.vn Các thông tin trên trang web của chuyên đề về phân tích tài chính, quản trị 7. doanh nghiệp, ngân hàng, chứng khoán: www.saga.vn Các thông tin trên trang web của Thời báo kinh tế Việt Nam: 8. www.vneconomy.com.vn Các thông tin trên trang web của Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh: 9. www.hsx.vn 10. Các thông tin trên trang web của Ủy ban chứng khoán Nhà nước: http://www.ssc.gov.com 11. Các thông tin trên trang web của Đầu tư chứng khoán online: http://tinnhanhchungkhoan.vn 12. Các thông tin trên trang web: http://www.tapchichungkhoan.net 105
- Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha 13. Các thông tin trên trang web của Tin nhanh Việt Nam: http://vnexpress.net/ 14. Các thông tin trên trang web của Xa lộ tin tức: http://tintuc.xalo.vn/ Tài liệu nước ngoài: 1. “Option, Futures, and other derivatives” John C.Hull (2006) 2. Chicago Board Options Exchange: http://www.cboe.com 3. Euronext N.V: http://www/euronext.com 4. London International Financial Futures and Options Exchange: http:/www.liffe.com 5. Tokyo Stock Exchange: http://www.tse.or.jp 106
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam hiện nay (Bài 5)
17 p | 421 | 160
-
Thực trạng quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam hiện nay (Bài 4)
6 p | 394 | 153
-
Tổng quan về quyền chọn (Bài 2)
10 p | 366 | 144
-
Thực trạng thị trường quyền chọn ngoại tệ và chứng khoán ở Việt Nam hiện nay (Bài 3)
6 p | 380 | 139
-
Giải pháp phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn chứng khoán (Bài 7)
5 p | 298 | 131
-
Giải pháp phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ và chứng khoán (Bài 8)
8 p | 271 | 123
-
Quyền chọn ngoại tệ và chứng khoán - thực trạng và giải pháp cho sự phát triển (Bài 1)
6 p | 236 | 114
-
Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”
107 p | 230 | 93
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 2
11 p | 253 | 78
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 1
11 p | 137 | 40
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 9
10 p | 160 | 34
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 3
10 p | 146 | 33
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 4
10 p | 146 | 33
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 5
10 p | 138 | 33
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 7
10 p | 128 | 24
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 6
10 p | 119 | 23
-
Chuyên đề: Quyền chọn chứng khoán - phần 8
10 p | 135 | 23
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn