Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CƠ CẤU XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ<br />
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA<br />
<br />
F.S.FAJZULLIN<br />
<br />
<br />
<br />
L.T.S - Cuốn chuyên khảo “Sociologicheskie Problemy goroda” của F. S.<br />
Fajzullin (Nhà xuất bản Đại học Tổng hợp Xaratốp, năm 1981) nghiên cứu<br />
những vấn đề xã hội học cấp thiết, song còn ít được đề cập của thành phố.<br />
Tác giả đã xem xét thành phố với tư cách là đối tượng nghiên cứu xã hội học,<br />
nêu lên đặc điểm, quy luật phát triển và hoạt động của thành phố. Trên cơ sở<br />
các tư liệu nghiên cứu xã hội học cụ thể ở các vùng khác nhau của Liên Xô,<br />
tác giả đã phân tích cơ cấu xã hội các thành phố và đặc trưng lối sống đô thị.<br />
Bài này lược thuật chương III “Social'naja struktura secia- listicheskogo<br />
goroda”, từ trang 117 đến trang 154.<br />
<br />
<br />
I. CÁC NHÓM GIAI CẤP - XÃ HỘI<br />
VÀ NHỮNG XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CHÚNG<br />
Khía cạnh quan trọng nhất của tiến bộ xã hội dưới chủ nghĩa xã hội chính là sị biến đổi vị trí của<br />
các nhóm giai cấp - xã hội trong hệ thống sản xuất xã hội, sự biến đổi quan hệ của các nhóm này dối<br />
với tư liệu sản xuất, vai trò của họ trong việc tổ chức xã hội về lao động, cũng như những biến đổi<br />
trong quan hệ phân phối.<br />
Vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở các thành phố Liên Xô, sở hữu toàn dân và sở hữu tập<br />
thể đã hoạt động, còn sở hữu tư nhân vẫn được duy trì. Lúc đó, quan hệ đối với tư liệu sản xuất là dấu<br />
hiệu chủ yếu để phân chia cơ cấu giai cấp - xã hội của nó. Song, vào giai đoạn của chủ nghĩa xã hội<br />
phát triển, trên thực tế ở các thành phố, tất cả những người lao động đều làm việc ở các xí nghiệp và cơ<br />
quan thuộc về sở hữu Nhà nước (toàn dân), vì vậy, “tiêu chuẩn quyết định khi phân tích cơ cấu xã hội<br />
của dân cư thành phố là tính chất của lao động”.<br />
Xuất phát từ quan điểm đó, tác giả đề nghị chia cơ cấu giai cấp xã hội các thành phố xô-viết dưới<br />
chủ nghĩa xã hội phát triển thành giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức và các viên chức chủ yếu làm<br />
các công việc trí óc.<br />
Trong nội bộ giai cấp công nhân, trí thức và viên chức tồn tại các nhóm xã hội khác nhau. Tiêu<br />
chuẩn chủ yếu quyết định sự chia tách đó là tính không đồng nhất về mặt kinh tế - xã hội của lao động.<br />
Chính tính chất của lao động đang quy định vị trí của các nhóm xã hội trong hệ thống các quan hệ kinh<br />
tế và là nền tảng cho việc giải thích những sự khác biệt, cả về văn hóa - xã hội, cả về sinh hoạt xã hội<br />
và các khác biệt khác nữa.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Cơ cấu xã hội… 85<br />
<br />
<br />
Trên cơ sở đó có thể chia giai cấp công nhân thành các nhóm như công nhân không có trình độ<br />
chuyên môn, có trình độ chuyên môn thấp, có trình độ chuyên môn, có trình độ chuyên môn cao và<br />
những công nhân - trí thức.<br />
Giới trí thức cũng được chia tách ra thành ba nhóm. Nhóm một gồm những người làm các công<br />
việc có trình độ chuyên môn cao mà, đối với họ, ngoài học vấn đại học còn cần phải có sự đào tạo<br />
khoa học đặc biệt và những kỹ năng sáng tạo. Nhóm hai gồm những người có trình độ chuyên môn cao<br />
mà công việc của họ đòi hỏi phải có học vấn đại học. Nhóm ba gồm những người làm các công việc có<br />
trình độ chuyên môn trung bình đòi hỏi trình độ học vấn trung học chuyên nghiệp.<br />
Giới viên chức được chia thành hai nhóm: nhóm người được đào tạo đặc biệt là nhóm những người<br />
mà công việc của họ không đòi hỏi phải có sự đào tạo đặc biệt.<br />
Ngoài sự khác nhau giữa các nhóm xã hội bên trong mỗi giai cấp hay tầng lớp, còn tồn tại những<br />
hình thức phân hóa xã hội khác của chính các nhóm đó nhưng làm việc ở các lĩnh vực khác nhau. Sở dĩ<br />
có điều đó là do những khác biệt khác về sự phát triển cơ sở kỹ thuật giữa các ngành và bởi đặc thù<br />
của đối tượng lao động ở các ngành đó gây ra. Cũng do vậy, việc tách ra từ những người làm các công<br />
việc trí óv, nhóm người thực hiện các chức năng quản lý là điều xác đáng.<br />
Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội của các thành phố, còn cần phải tách ra nhóm những người có khả<br />
năng lao động song không làm việc trong nền sản xuất (người về hưu, học sinh). Chính họ là nguồn dự<br />
trữ quan trọng bổ sung vào các nhóm giai cấp, tầng lớp.<br />
Xuất phát từ những nguyên tắc phương pháp luận nêu trên, ta thấy những biến đổi chất lượng và số<br />
lượng của cơ cấu giai cấp xã hội của thành phố xô-viết phản ánh một cách rõ ràng những xu hướng chủ<br />
yếu của sự phát triển các quan hệ xã hội toàn Liên Xô nói chung. Cụ thể là:<br />
Thứ nhất, xuất phát điểm cho những biến đổi căn bản cơ cấu giai cấp - xã hội của các thành phố,<br />
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã nâng giai cấp công nhân thành phố lên địa vị giai<br />
cấp tiên phong của dân tộc. Xét về mặt số lượng, nếu như năm 1926, công nhân và gia đình của họ<br />
sống trong các thành phố ở Liên Xô mới chiếm 31% dân số thì năm 1970 tỷ trọng này đã lên tới 66%.<br />
Thứ hai, từ cuối những năm 30, các giai cấp bóc lột và cơ sở cho sự phục hồi chúng đã bị thủ tiêu<br />
và vào giáp những năm 50 - 60 đã chấm dứt sự tồn tại nhóm những người thợ thủ công hợp tác xã do<br />
họ nhập vào ngành công nghiệp Nhà nước.<br />
Thứ ba, do ảnh hưởng của cách mạng khoa học - kỹ thuật, của sự phát triển khoa học, văn hóa và<br />
lĩnh vực phục vụ, tỷ lệ những người chủ yếu làm lao động trí óc tăng lên với nhịp độ nhanh chóng. Chỉ<br />
tính riêng từ năm 1959 đến năm 1970, số trí thức và viên chức thành thị đã tăng 10 trăm người (17,l%)<br />
và đến năm 1970, tỷ trọng của viên chức và trí thức là 31,5%.<br />
Về mặt chất lượng, nét đặc trưng trong sự biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội của thành phố xô-viết<br />
trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phát triển là tính đồng nhất xã hội giữa các nhóm được tăng cường và<br />
diễn ra với nhịp độ nhanh chóng hơn trước kia, trên cơ sở sự thống nhất giữa những lợi ích và mục tiêu<br />
chủ yếu. Nó thể hiện ở những điểm sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
86 F.S. FAJZULLIN<br />
<br />
<br />
a) Sự xích lại gần nhau của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội trong nội bộ xét về tính chất<br />
lao động và vai trò của nó trong hệ thống tổ chức xã hội nền sản xuất.<br />
b) Sự xóa dần những khác biệt về phương thức nhận được và quy mô những của cải vật chất được<br />
phân phối.<br />
c) Sự xóa bỏ ranh giới về trình độ kỹ thuật, văn hoá, về tính tích cực xã hội và ý thức giác ngộ xã<br />
hội chủ nghĩa cũng như trong lĩnh vực phục vụ.<br />
Những xu hướng chung hình thành tính đồng nhất xã hội của dân cư các thành phố không có nghĩa<br />
là sự phủ định những khác biệt căn bản giữa giai cấp công nhân trí thức và viên chức của thành phố.<br />
Trái lại, vẫn tồn tại những khác biệt xã hội do có sự khác nhau về trình độ phát triển lực lượng sản xuất<br />
hiện nay và bởi tính không đồng nhất xã hội tương ứng với trình độ đó của các dạng lao động xã hội<br />
hiện có. Những khác biệt này thể hiện không kém rõ ràng trong mức tiền lương thu nhận được, trong<br />
tiểu chuẩn nhà ở được phân phối, trong trình độ học vấn...<br />
Việc nghiên cứu những xu hướng phát triển bên trong nội bộ giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức<br />
và viên chức là nhân tố quan trọng để hiểu được bản chất của quá trình khắc phục những khác biệt xã<br />
hội. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, giữa các nhóm chủ yếu của giai cấp công nhân vẫn còn có<br />
những khác biệt quan trọng về nhiều mặt. Ngoài ra, dựa vào các chỉ báo quan trọng nhất như nội dung<br />
và tính chất của lao động trình độ học vấn, mức thu nhập, những điều kiện sinh hoạt - nhà ở..., sự khác<br />
biệt giữa những công nhân có trình độ chuyên môn cao và những người lao động trí óc là ít hơn so với<br />
sự khác biệt giữa những công nhân có trình độ cao với những công nhân không có trinh độ chuyên<br />
môn.<br />
Về sự thay đổi cơ cấu trình độ chuyên môn của giai cấp công nhân dưới ảnh hưởng của các cuộc<br />
cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, có hai đặc điểm: thứ nhất đang có sự giảm bớt tỷ trọng những<br />
công nhân có trình độ chuyên môn thấp và không có chuyên môn; thứ hai, chính bản thân trình độ<br />
chuyên môn của người công nhân cái mà ngày càng chứa đựng nhiều yếu tố của lao động trí óc và<br />
ngày càng đòi hỏi phải có sự đào tạo đặc biệt, cũng đang trở nên khác hẳn về chất.<br />
Một đặc điểm khác là, bên cạnh việc tăng nhanh số lượng công nhân của tất cả các ngành kinh tế<br />
quốc dân cũng diễn ra sự phân bố lại dân cư theo ngành. Hạt nhân của giai cấp công nhân là những<br />
người công nhân công nghiệp, trước hết là những người công nhân của các xí nghiệp công nghiệp ở<br />
các thành phố lớn. Trong những năm gần đây, cả những người làm lao động chân tay trong xây dựng<br />
và giao thông vận tải cũng trực tiếp gia nhập nhóm công nhân công nghiệp.<br />
Đội ngũ công nhân làm việc trong lĩnh vực phục vụ đang có xu hướng tăng lên, và xét về tính chất<br />
lao động và trình độ tổ chức, đội ngũ này đang xích lại gần với giai cấp công nhân công nghiệp. Tuy<br />
nhiên, giữa hai nhóm này vẫn có những khác biệt xã hội quan trọng, thể hiện rõ nhất qua các chỉ báo<br />
trình độ chuyên môn, tiền lương, mức bảo đảm sinh hoạt và trình độ học vấn.<br />
Trong tầng lớp trí thức và viên chức cũng diễn ra những biến đổi về tỷ lệ số người làm trong các<br />
ngành khác nhau, về tỷ trọng theo trình độ chuyên môn. Đồng thời, đã có những khác biệt xã hội nhất<br />
định giữa các nhóm trong hai tầng lớp.<br />
Về cơ cấu xã hội tại các thành phố khác nhau, kết quả nghiên cứu cho thấy: tính nhiều mặt của cơ<br />
sở kiến tạo thành phố không chỉ là tiền đề chủ yếu cho tính<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Cơ cấu xã hội... 87<br />
<br />
<br />
phức tạp về cơ cấu xã hội, mà đó còn là một trong những nhân tố xóa bỏ sự khác biệt xã hội giữa các<br />
thành phố. Ngoài ra việc, phân tích hệ thống quần cư thành phố đưa đến kết luận: cùng với sự lớn lên<br />
của quy mô thành phố, chính sự đa dạng của cơ sở kiến tạo thành phố cũng được phát triển.<br />
Tại các thành phố lớn, nơi có nhiều công việc với tính chất khác nhau và một hệ thống phục vụ<br />
công cộng phát triển, tỷ lệ người có làm việc trong dân cư ở độ tuổi lao động là rất cao. Còn ở các<br />
thành phố nhỏ thì ngược lại, tỷ trọng những người không làm việc trong nền sản xuất xã hội trong số<br />
dân ở độ tuổi lao động lại là cao nhất.<br />
Các nghiên cứu cơ cấu xã hội của các thành phố ở Bashkirija đã chỉ ra sự phụ thuộc tỷ lệ thuận của<br />
tỷ trọng trí thức và viên chức trong dân cư vào độ lớn và mức độ phong phú về chức năng của các<br />
thành phố.<br />
Đồng thời tỷ trọng công nhân có trình độ chuyên môn và trình độ chuyên môn cao ở các xí nghiệp<br />
công nghiệp của thành phố lớn là cao hơn so với những xí nghiệp ở các thành phố nhỏ. Cũng so sánh<br />
như vậy, tỷ trọng công nhân có trình độ chuyên môn thấp lại ít hơn một cách đáng kể. Song tỷ trọng<br />
công nhân không có trình độ chuyên môn nói chung ở các kiểu quần cư đô thị khác nhau lại khá giống<br />
nhau. Điều này do hai nguyên nhân:<br />
1. Trình độ tự động hóa và cơ giới hóa cao hơn ở các xí nghiệp công nghiệp ở thành phố lớn làm<br />
giảm nhiều số công nhân không có trình độ chuyên môn.<br />
2. Trong các thành phố lớn có sự tập trung một bộ phận đáng kể các dạng lao động không đòi hỏi<br />
trình độ chuyên môn do sự phát triển nhanh chóng mạng lưới phục vụ ở đó. Điều này dẫn đến có sự<br />
tăng lên nhất định số công nhân không có trình độ, chuyên môn ở các thành phố này.<br />
Tương tự như vậy, các nghiên cứu ở nước Cộng hòa Liên bang Nga cho thấy, nói chung “mức sống<br />
của những người lao động ở các thành phố nhỏ vẫn tiếp tục thấp hơn một cách đáng kể so với mức<br />
sống của dân cư ở các thành phố lớn”. Tỷ lệ công nhân và viên chức có kinh tế phụ thì tại tỷ lệ nghịch<br />
với độ lớn của khu dân cư...<br />
Tóm lại, việc nghiên cứu những biến đổi của cơ cấu xã hội thành phố của chủ nghĩa xã hội phát<br />
triển dẫn đến kết luận là, về cơ bản, ở đấy có những xu hướng đặc trưng cho toàn xã hội. Đó là xu<br />
hướng dần dần hình thành sự đồng nhất xã hội của dân cư mà ở các thành phố khác nhau về độ lớn và<br />
chức năng, sự đồng nhất này có những biến thể độc đáo. Đặc điểm này cần phải được tính đến trong<br />
khi vạch ra những căn cứ khoa học cho việc quản lý quá trình xóa bỏ những khác biệt xã hội.<br />
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ DI CHUYỂN XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ<br />
Trong sự biến đổi cơ cấu xã hội của thành phố, những sự di chuyển xã hội giữ một vai trò quan<br />
trọng.<br />
Giới xã hội học Mác - Lênin chấp nhận cách gọi việc những người lao động chuyển từ một giai<br />
cấp, một nhóm xã hội này sang một giai cấp: một nhóm xã hội hay một tầng lớp khác là sự di chuyển<br />
xã hội. Bởi lẽ, thứ nhất, định nghĩa này tạo khả năng tách biệt ra một cách rõ ràng từ nhiều mặt của quá<br />
trình biến đổi và di động của cơ cấu xã hội của xã hội một đối tượng nghiên cứu hoàn toàn xác định.<br />
Thứ hai, định nghĩa này phản ánh một sự thật là, sự di chuyển xã hội chỉ có thể có trong một xã hội<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
88 F.S.FAJZULLIN<br />
<br />
<br />
có các giai cấp, các nhóm xã hội và các tầng lớp mà giữa chúng tồn tại những khác biệt xã hội. Ba là,<br />
định nghĩa này tạo khả năng chỉ ra những khác biệt về chất trong các di chuyển xã hội đang diễn ra ở<br />
những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau.<br />
Có di chuyển xã hội “theo chiều dọc” và “theo chiều ngang”. Di chuyển theo chiều dọc là sự di<br />
chuyển các cá nhân hoặc là “lên trên” hoặc là “xuống dưới” theo cấp bậc của đẳng cấp giai cấp xã hội.<br />
Di chuyển theo chiều ngang là sự di chuyển xã hội mà không làm thay đổi một cách đáng kể thứ bậc<br />
của địa vị giai cấp xã hội.<br />
Cũng cần phân biệt dạng di chuyển giữa các thế hệ và di chuyển trong nội bộ thế hệ. Di chuyển xã<br />
hội giữa các thế hệ là sự thay đổi địa vị xã hội của con cái đến tuổi trưởng thành đối với địa vị xã hội<br />
của cha mẹ. Di chuyển xã hội trong nội bộ thế hệ là sự thay đổi địa vị xã hội của một cá nhân trong<br />
thời kỳ hoạt động lao động của người ấy.<br />
Ảnh hưởng của các thành phố đến sự di chuyển xã hội gắn liền trước hết với quá trình đô thị hóa.<br />
Các quá trình này dẫn tới sự thay đổi tương quan số lượng giữa những người dân thành thị và nông<br />
thôn theo hướng ngả về thành thị và tương ứng là giảm tỷ lệ nông dân trong tổng số dân của đất nước.<br />
Những nghiên cứu sâu sắc hơn còn cho phép kết luận là: thành phố, với những ngành công nghiệp<br />
và lĩnh vực phục vụ, các trường đại học và trung học chuyên nghiệp ... đang tạo ra những khả năng to<br />
lớn cho việc lựa chọn các hình thức hoạt động lao động, đang tạo ra những triển vộng cho sự phát triển<br />
nghề nghiệp và xã hội. Đó là một trong những nguyên nhân chính của sự di cư từ nông thôn, từ các<br />
thành phố nhỏ đến thành phố lớn.<br />
Các nghiên cứu cũng cho thấy không có một nhóm xã hội nào lại được hình thành mà chỉ hoàn<br />
toàn nhờ sự tái tạo, nó được mở rộng và phát triển nhờ ở những người từ các nhóm xã hội và các tầng<br />
lớp khác đến. Điều này nói lên rằng, chủ nghĩa xã hội không cột chặt con người suốt đời vào nhóm xã<br />
hội của cha mẹ, chủ nghĩa xã hội tạo cho mỗi người khả năng lựa chọn một cách tự giác con đường đời<br />
của mình, nghề nghiệp của mình, trước hết tùy thuộc ở những năng lực và năng khiếu của bản thân con<br />
người.<br />
Tuy vậy, cũng phải thừa nhận một điều, trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa xã hội,<br />
các nhóm xã hội riêng biệt được bộ sung một cách không đồng đều những người từ các tầng lớp khác.<br />
Sở dĩ như vậy là do có sự khác biệt về điều kiện sống của các nguồn bổ sung.<br />
Trong tương lai, việc tiếp tục xóa bỏ những khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp sẽ càng mở rộng<br />
hơn quy mô của di chuyển xã hội. Chỉ đến khi thủ tiêu hoàn toàn những khác biệt xã hội thì sự thay đổi<br />
nghề nghiệp và nơi làm việc mới không mang tính chất của di chuyển xã hội như hiện nay nữa.<br />
Trong các thành phố khác nhau về kiểu chức năng và độ lớn, xu hướng di chuyển xã hội như sau:<br />
những di chuyển xã hội ở các thành phố lớn so với các thành phố nhỏ, các thành phố đa chức năng với<br />
các thành phố đơn chức năng, của các thành phố mới so với các thành phố cũ (không có triển vọng<br />
phát triển) là có qui mô và cường độ lớn hơn.<br />
Ở nông thôn ngày nay đang diễn ra quá trình phân nhóm lại về mặt xã hội. Gần đây, quá trình đó<br />
đã được tăng cường, và giờ đây, hơn một nửa dân số nông thôn là công nhân, trí thức và viên chức.<br />
Những biến đổi này là một trong những nhân tố có<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Cơ cấu xã hội… 89<br />
<br />
<br />
ảnh hưởng tới việc di chuyển xã hội. Nếu như 15 - 20 năm trước đây, đại đa số những người di cư<br />
nông thôn xuất thân từ nông trang viên thì giờ đây tình hình đã đổi khác: trong số những người sinh ra<br />
ở nông thôn mà hiện nạy đang sống ở thành phố UFA chỉ có 44% xuất thân từ các gia đình nông trang<br />
viên, còn lại 55,7% từ công nhân, trí thức viên chức. Vì vậy, ở một bộ phận nhất định những người di<br />
cư, với việc chuyển đến thành phố, giai cấp của họ không bị thay đổi mà chỉ diễn ra một vài sự di<br />
chuyển trong nội bộ tầng lớp hoặc giai cấp mà từ đó họ ra đi.<br />
Nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng trên sự di chuyển xã hội là học vấn. Các số liệu thu được ở<br />
các thành phố của Bashkirija và ở tỉnh Volgagrad chứng tỏ rằng trình độ học vấn của những người sinh<br />
ra ở các cư xá công nhân và ở tất cả các kiểu thành phố đều giống nhau, còn ở những người từ nông<br />
thôn ra đi thì thấp hơn chút ít. Điều này làm cho những người từ nông thôn ra đi ít có điều kiện hơn<br />
trong việc xác định nghề nghiệp - xã hội so với con cái của những tri thức, viên chức ở thành phố,<br />
đồng thời nó ngăn cản sự di chuyển xã hội mạnh mẽ của họ trong các thành phố.<br />
Trong suốt cuộc đời lao động, một số lượng lớn người bằng cách có được những chuyên môn mới,<br />
nâng cao trình độ học vấn và trình độ chuyên môn mà chuyển từ nhóm xã hội này sang nhóm xã hội<br />
khác. Chẳng hạn, theo số liệu thu được ở UFA thì có 43% trí thức trưởng thành nên từ những công<br />
nhân có trình độ chuyên môn và trình độ chuyên môn cao, 45% viên chức hiện nay vốn là công nhân<br />
trong buổi đầu... Song, phổ biến nhất trong sự di chuyển xã hội của các cá nhân là những di chuyển<br />
trong nội bộ các giai cấp và tầng lớp xã hội.<br />
Xem xét sự di chuyển xã hội theo chỉ báo thế hệ, cho thấy quy mô và cường độ của những di<br />
chuyển xã hội trong nội bộ thế hệ ỏ các khu dân cư thành phố là thấp hơn đáng kể so với giữa các thế<br />
hệ. So sánh giữa các thành phố thì thấy ở thành phố lớn, những di chuyển xã hội trong nội bộ thế hệ<br />
diễn ra khá thường xuyên hơn so với các thành phố nhỏ.<br />
Do sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật, tại các thành phố xô-viết cũng diễn ra một sự<br />
dịch chuyển có vẻ “ngược chiều” đó là việc chuyển từ nhóm tri thức sang nhóm viên chức - không<br />
phải chuyên gia - và sang giai cấp công nhân. Những người được mệnh danh là trí thức “thực hành” do<br />
trình độ học vấn trước đây không còn tương xứng với tính chất lao động mới, đã phải chuyển sang các<br />
nhóm khác.<br />
Địa vị xã hội của những người trước đây là viên chức tỏ ra kém ổn định nhất. Nguyên nhân chủ<br />
yếu là do các nhân tố: tiền lương thấp, điều kiện lao động tồi, uy tín thấp trong dư luận xã hội. Xu<br />
hướng dịch chuyển cơ bản của nhóm này là ở các thành phố lớn thì chuyển sang nhóm trí thức và ở các<br />
thành phố nhỏ thì chuyển sang nhóm công nhân.<br />
Những di chuyển xã hội mạnh mẽ ở các thành phố dẫn tới sự mở rộng tỷ trọng các gia đình hỗn tạp<br />
về mặt xã hội. Tính hỗn tạp của các gia đình đã để lại dấu ấn nhất định trong tính chất của những di<br />
chuyển xã hội ở con cái. Chẳng hạn, khi xem xét định hướng nghề nghiệp cho con em, các gia đình<br />
hỗn tạp định hướng vào nghề công nhân ít hơn cả, so với các gia đình đồng nhất. Đồng thời, ở các gia<br />
đình hỗn tạp, nguyện vọng muốn vươn tới những ngành nghề đòi hỏi học vấn chuyên nghiệp và đại<br />
học thậm chi còn cao hơn ở những gia đình gồm toàn tri thức.<br />
Như vậy là, trong thời kỳ cách mạng khoa học - kỹ thuật, dưới ảnh hưởng của các nhân tố khách<br />
quan những di chuyển xã hội ở các thành phố xã hội chủ nghĩa đang ngày<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
90 F.S. FAJZULLIN<br />
<br />
<br />
càng được tăng cường. Tất cả những hình thức di chuyển xã hội ở các thành phố khác nhau về chức<br />
năng và độ lớn đều có đặc thù nhất định. Việc tiếp tục nghiên cứu những đặc điểm này sẽ giúp chúng<br />
ta hiểu biết một cách sâu sắc hơn các quá trình dẫn tới sự hình thành một xã hội không giai cấp, đồng<br />
nhất về xã hội. Nhờ đó sẽ góp phần dự báo một cách chính xác hơn các hình thức biến đổi trong cơ cấu<br />
xã hội của xã hội, và như vậy cũng có nghĩa là, nó sẽ giúp đỡ cho việc quản lý các quá trình này một<br />
cách có căn cứ khoa học.<br />
III. ĐỊA LÝ HỌC XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ<br />
Thành phố có sự phân bố địa lý xã hội nhất định. Trong các xã hội bóc lột, sự phân bố này được thể<br />
hiện rõ ràng trong việc định cư của dân cư thành phố vào các vùng khác nhau tùy thuộc vào địa vị giai<br />
cấp của họ.<br />
Lịch sử chứng minh rằng, việc bố trí cư trú không cân xứng các nhóm giai cấp - xã hội trong các<br />
thành phố là nét đặc trưng chỉ tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đối kháng. Chẳng hạn, mặc dù quy<br />
mô của các khu dân cư đô thị vào thời đại của chế độ phong kiến là khôn lớn, ở các thành phố vẫn<br />
được chia tách ra một cách rõ ràng các vùng, trong đó tập trung đẳng cấp phong kiến, giới thương nhân<br />
hay cả những người thợ thủ công. Trong những điều kiện của chủ nghĩa tư bản, khác biệt xã hội giữa<br />
các vùng ở các thành phố đã dạt tới mức đối kháng cao độ. Tại các nước tư bản chủ nghĩa biểu lộ rõ rệt<br />
hai khuynh hướng: một là sự di chuyển một số lớn dân thành phố tới vùng ngoại ô, hai là việc mở rộng<br />
và ken đặc các khu nhà ổ chuột ngay ở trung tâm thành phố.<br />
Do sự di chuyển dân cư ra ngoại ô, mà trước hết đó là các nhà tư sản và những nhóm người có địa<br />
vị xã hội cao hơn, ở các thành phố lớn của nước Mỹ, sự khác biệt giai cấp xã hội giữa các khu vực còn<br />
bộc lộ rõ rệt hơn nữa. Để có chỗ ở với giá tiền nhà rẻ, cũng như để cho gần nơi làm việc, những công<br />
nhân không có trình độ chuyên môn, hay trình độ chuyên môn thấp, những người chủ yếu làm việc<br />
trong lĩnh vực phục vụ thương nghiệp, ở các xí nghiệp nhỏ đã buộc lòng phải sống ở phần trung tâm<br />
thành phố, nơi tập trung những khu nhà ổ chuột, những xóm thợ.<br />
Sự phân tích khách quan quá trình định cư ở các thành phố tư bản chủ nghĩa xác nhận là: quan hệ<br />
xã hội tư bản chủ nghĩa ngay trong điều kiện của các thành phố cũng không tránh khỏi dẫn tới việc tiếp<br />
tục phân cực các khu vực sinh sống của các nhóm xã hội khác nhau. Không thể nào giải quyết được<br />
vấn đề đó chỉ bằng con đường xây dựng lại các thành phố tư bản cho nghĩa về mặt kiến trúc như ý định<br />
của một số nhà xây dựng đô thị tư sản.<br />
Chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, tính độc lập của các khu trung tâm và ngoại ô, giữa các vùng công<br />
nghiệp và các vùng cư trú mới được xóa bỏ. Trong những điều kiện của chủ nghĩa xã hội, những hàng<br />
rào giai cấp đã bị xóa bỏ một cách triệt để, thể hiện qua việc người ta dọn đến ở tại những khu vực<br />
nhất định của thành phố. Trong những khu nhà ở tiện lợi do Nhà nước xây dựng và ở các tiểu khu có<br />
đại biểu của giai cấp công nhân, của giới viên chức và trí thức sống kề bên nhau, cũng sử dụng những<br />
cơ sở văn hóa nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh thần của họ.<br />
Song, các kết quả nghiên cứu xã hội học cụ thể cũng cho thấy rõ là, ngay cả trong những điều kiện<br />
của chủ nghĩa xã hội phát triển, những khác biệt giai cấp xã hội<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cơ cấu xã hội… 91<br />
<br />
<br />
cũng được phản ánh rõ nét trong địa lý học xã hội các thành phố. Chúng thể hiện trước hết ở tính chất<br />
quần cư không đồng đều của các nhóm xã hội chủ yếu trong các vùng khác nhau. Những vùng này<br />
không giống nhau về mức độ bảo đảm nhà ở và phục vụ công cộng, về mức độ phục vụ sinh hoạt - văn<br />
hóa, về những điều kiện kỹ thuật - thiên nhiên, về khả năng tiến hành các hoạt động kinh tế phụ cá<br />
nhân…<br />
Ngoài ra, cần nhận thấy là với sự giảm bớt độ lớn của thành phố và sự thay đổi cơ sở kiến tạo đô<br />
thị của nó, ngay trong địa lý học thành phố cũng diễn ra những biến chuyển nhất định. Ở các thành phố<br />
đơn chức năng loại nhỏ và vừa, việc bố trí các nhóm xã hội của dân cư thành phố cũng đồng đều hơn<br />
theo các vùng chủ yếu, và chính ở những vùng này, sự khác biệt xã hội cũng giảm đi một cách đáng<br />
kể.<br />
Với sự mở rộng các chức năng và tăng dân số của thành phố, việc các đại biểu của nhóm xã hội<br />
nào đó đến cư trú ở những vùng chủ yếu cũng trở nên không đồng đều một cách rõ rệt hơn. Bên cạnh<br />
đó, cũng nhận thấy rằng, ở các thành phố trẻ mới xuất hiện ở những chỗ “trống”, việc bố trí dân cư lại<br />
diễn ra khá cân đối theo tất cả các vùng. Còn ở các thành phố hiện đại được xây dựng trên cơ sở của<br />
khu dân cư đô thị nhỏ, địa lý học xã hội của thành phố lại mang tính chất khá tương phản.<br />
Theo ý kiến của L.N.Fenin (trong Mesto krupnogo innogofunkcional' nogo goro đa v social' no-<br />
ekonomicheskoj sisteme poselenij SSSR: osobennosti ego sosial'nof strukturu. Avtoref. dis na soisk.<br />
uchen. stepeni kand. filos. nauk. Saratov, 1973, c.18) những nguyên nhân chủ yếu của sự phân bố<br />
không cân đối các nhóm xã hội khác nhau của thành phố là:<br />
1. Khi chọn nơi cư trú, người ta chú ý ưu tiên vùng gần nơi làm việc hơn.<br />
2. Do sự lớn lên về lãnh thổ của thành phố, có nhiều cư xá ngoại ô được đưa vào ranh giới của<br />
thành phố.<br />
3. Sự di cư, đặc biệt là di cư từ nông thôn, có ảnh hưởng rất lớn tới tính chất quần cư không đồng<br />
đều của các nhóm xã hội trên các vùng khác nhau của thành phố.<br />
Không phủ nhận vai trò của những nguyên nhân kể trên, cần thiết phải nhấn mạnh rằng, sự tồn tại<br />
những vùng xã hội - lịch sử không đồng nhất ở các thành phố dưới chủ nghĩa xã hội, bị chế định bởi<br />
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bởi cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội.<br />
Việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở tiếp tục phát triển lực<br />
lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện cơ cấu kiến trúc quy hoạch của các khu dân cư đô thị,<br />
phân bổ đồng đều hơn những phúc lợi vật chất và văn hóa giữa các vùng khác nhau của thành phố, và<br />
cùng với điều đó, xóa bỏ dần những khác biệt xã hội giữa giai cấp công nhân, giới trí thức và viên<br />
chức không phải chuyên gia - rốt cuộc lại sẽ dẫn tới sự tiêu vong của địa lý học xã hội các thành phố.<br />
<br />
<br />
HOÀI ANH<br />
lược thuật<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />