intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp dự án vào dạy học Địa lí 12, trung học phổ thông - Nguyễn Thị Kim Liên

Chia sẻ: Trần Dự Trữ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

139
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một số nét cơ bản về phương pháp dự án, khả năng ứng dụng phương pháp dự án trong dạy học địa lí 12, trung học phổ thông là những nội dung chính trong bài viết "Cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp dự án vào dạy học Địa lí 12, trung học phổ thông". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp dự án vào dạy học Địa lí 12, trung học phổ thông - Nguyễn Thị Kim Liên

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP<br /> DỰ ÁN VÀO DẠY HỌC ĐỊA LÍ 12, THPT<br /> NGUYỄNTHỊ KIM LIÊN<br /> <br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> Cho đến nay, trên thế giới và tại Việt Nam, đã có khá nhiều công trình tìm hiểu, <br /> nghiên cứu về PP dự án. PP dự án đã được ứng dụng rộng rãi tại các trường đại học và <br /> phổ thông ở các nước phát triển. Giáo dục Việt Nam cũng được tiếp cận với PP dự án <br /> từ  nhiều cách thức, bằng nhiều con đường, như  thông qua dự  án giáo dục Việt Bỉ,  <br /> chương trình giáo dục của các tập đoàn Microsoft, Intel, …Nhưng có thể nói, việc vận  <br /> dụng PP dự án trong dạy học nói chung và trong dạy học Địa lí và Địa lí 12 nói riêng còn <br /> rất hạn chế, gần như chỉ  mới dừng lại  ở góc độ  thực nghiệm cho một vài công trình  <br /> nghiên cứu. <br /> Có thể  áp dụng PP dự  án  ở  tất cả  các môn học các bậc học hay chỉ   ở  một số <br /> môn, một số cấp, lớp? PP dự án chưa được áp dụng rộng rãi trong giáo dục Việt Nam  <br /> vì sự không tương thích hay vì chưa hội đủ các điều kiện? Và tại sao phải là PP dự án?  <br /> Bài viết sẽ cố gắng phần nào giải quyết các câu hỏi trên, đặc biệt xác định các cơ sở lí <br /> luận và thực tiễn cho việc  ứng dụng PP dự án trong dạy học địa lí, mà địa lí 12 được  <br /> xem như một trường hợp điển hình. <br /> 2. Một số nét cơ bản về Phương pháp dự án <br /> 2.1. Khái niệm về dự án và phương pháp dự án<br /> Thuật ngữ  dự  án ­ tiếng Anh Project, có nguồn gốc từ  tiếng la tinh Proicere –  <br /> được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề  án, một dự  thảo, một kế hoạch được thực  <br /> hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết  <br /> các lĩnh vực kinh tế  ­ xã hội: sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, quản lí xã <br /> hội… . Khái niệm dự án đã đi từ  lĩnh vực kinh tế ­ xã hội vào lĩnh vực giáo dục – đào <br /> tạo ngoài ý nghĩa các dự án phát triển giáo dục, còn được sử dụng như một PP dạy học <br /> [3].<br /> PP dự  án ­ Project Method, còn được gọi là Dạy học dự  án /Dạy học theo dự <br /> án/Dạy học dựa trên dự  án – Project Based Learning được hiểu như  một PP dạy học  <br /> hướng học sinh đến việc tiếp thu tri thức và kĩ năng thông qua quá trình giải quyết một  <br /> bài tập tình huống, được gọi là một dự  án (project) mô phỏng môi trường các em đang <br /> sống và sinh hoạt [6]. <br /> Dạy học dự  án là một PP phức hợp [2] trong đó dưới sự  hướng dẫn của GV  <br /> người học sẽ thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, có sự  kết hợp giữa lí thuyết và thực  <br /> tiễn, thực hành. Người học được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ  này với sự  tự  lực cao  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực  <br /> hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.<br /> Trong cách học theo dự án, HS học tập theo nhóm để giải quyết những vấn đề <br /> có   thật   trong   cuộc   sống   (authentic),   những   vấn   đề   ấy   gắn   với   chương   trình   học <br /> (curriculum – based) và có phạm vi kiến thức liên môn (interdisciplinary). HS sẽ  hóa <br /> thân vào các vai thuộc các ngành nghề khác nhau trong cuộc sống, tham gia giải quyết  <br /> những vấn đề có thật thuộc lĩnh vực các ngành nghề ấy. GV định hướng, gợi ý các vai <br /> có nội dung gắn với nội dung bài học cho HS và hỗ trợ HS hoàn thành tốt các vai trò ấy.  <br /> GV tạo điều kiện và hướng dẫn HS sử  dụng các nguồn tư  liệu như: sách giáo khoa;  <br /> internet; CD hoặc DVD; sách, báo … và thậm chí, trao đổi với các chuyên gia. Dự án có  <br /> thể chỉ bó hẹp trong phạm vi lớp học, trường học trong 1 tiết, 1 tuần hoặc 2 tu ần; đồng  <br /> thời dự án cũng có thể vượt ra ngoài phạm vi lớp học, trường học và kéo dài trong một  <br /> tháng, một học kì hoặc cả khóa học [6].<br /> 2.2 Đặc điểm cơ bản của dạy học dự án<br /> ­ Tính phức hợp của nhiệm vụ  học tập:   Nhiệm vụ  học tập trong dạy học  <br /> theo dự án không giới hạn trong một đơn vị kiến thức của mỗi bài trong một môn học  <br /> mà có thể xuyên suốt giữa các bài, giữa các chương trong một giáo trình, giữa các giáo <br /> trình trong một bậc học và giữa các môn học với nhau. Ví dụ như khi thực hiện một dự <br /> án Địa lí về  Biến đổi khí hậu –, HS lớp 12 có thể  vận dụng những kinh nghiệm, kiến <br /> thức Địa lí đã được học  ở  các lớp dưới về  Thời tiết, Khí hậu (lớp 6), Những nguyên <br /> nhân làm thay đổi khí hậu (lớp 10), Môi trường và sự  phát triển bền vững (lớp 10), <br /> Biến đổi khí hậu (lớp 11) …đồng thời có thể liên kết kiến thức Vật lí, Hóa học, Sinh  <br /> học, …. để giải quyết vấn đề.<br /> ­ Sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành: Trọng tâm của dạy học theo dự án <br /> là tạo điều kiện cho HS vận dụng các tri thức lí thuyết vào hoạt động thực tiễn thông <br /> qua đó kiểm chứng và mở rộng kiến thức lí thuyết đồng thời bổ sung kinh nghiệm thực  <br /> tiễn. Vì vậy, HS có điều kiện để thực hành những lí thuyết đã học và thông qua kết quả <br /> đạt được trong hoạt động thực tiễn, HS có thể rút ra được những nhận định, những kết  <br /> luận của vấn đề nghiên cứu. Trong dự án Biến đổi khí hậu như đã đề  cập ở trên, trên <br /> cơ  sở  tư  liệu thu thập được, HS thường xuyên vận dụng các kiến thức về  cách đọc  <br /> bảng Số  liệu thống kê, Sơ  đồ, Biểu đồ, Bản đồ  …. để  phân tích, rút ra được những <br /> nhận định về  tình hình biến đổi khí hậu trên thế  giới, trong nước hoặc của một địa <br /> phương cụ  thể. Ngoài ra HS còn có thể  chuyển kết quả  nghiên cứu của mình thành <br /> biểu đồ, bản đồ trong các sản phẩm cuối cùng. Như vậy kĩ năng Địa lí của HS thường <br /> xuyên được rèn luyện và phát triển.<br /> ­ Tạo ra sản phẩm:  Sản phẩm là yêu cầu bắt buộc khi kết thúc các dự án. Sản  <br /> phẩm được tạo ra trong quá trình HS thực hiện dự án. Đó là kết quả của hoạt động và  <br /> những kết quả   ấy có thể  công bố  được. Sản phẩm có thể  là những đồ  vật cụ  thể, <br /> chẳng hạn: một cây thông Noel, một bộ  sưu tập thời trang, … được làm từ  rác thải  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> trong dự án Địa lí về vấn đề Môi trường và Phát triển bền vững; cũng có thể là những  <br /> sản phẩm phi vật thể như thực hiện một buổi biểu diễn thời trang kêu gọi bảo vệ môi  <br /> trường.<br /> ­ Tính tự tổ  chức và tự  chịu trách nhiệm của người học:  Đây là một điểm <br /> đặc trưng của phương pháp dự án, thể hiện xuyên suốt quan điểm dạy học hướng vào <br /> người học. Trong quá trình thực hiện dự  án, HS cần được tạo điều kiện để  “tự  định <br /> hướng” trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện <br /> dự án. Trong chừng mực nhất định, HS còn được tham gia xác định mục đích dự án và  <br /> đánh giá kết quả  của dự  án. HS cần được rèn luyện kĩ năng “tự  đánh giá” ­ Kĩ năng  <br /> “Siêu nhận thức”­ trong suốt quá trình làm dự án để hoàn thiện sản phẩm. Từ đó, cùng <br /> với giáo viên, các nhóm HS có thể tham gia đánh giá sản phẩm của nhau, đặc biệt trong <br /> giai đoạn kết thúc dự án – cụ thể ở thời điểm các nhóm trình bày sản phẩm.<br /> ­ Dạy học dự án gắn liền với hoàn cảnh:  Các đề tài của dự án cần phải xuất  <br /> phát từ thực tế, từ hoàn cảnh gần gũi với cuộc sống, đó là những vấn đề cần phải giải  <br /> quyết và phù hợp với điều kiện và khả năng của HS. Trở lại ví dụ  về  dự án Biến đổi <br /> khí hậu, đề tài này cần gắn liền với tình hình thực  tiễn của địa phương. Chẳng hạn HS <br /> ở Đà Lạt tìm hiểu hiện trạng và nguyên nhân của biến đổi khí hậu ở Đà Lạt, tác động  <br /> của nó đến đời sống của người dân địa phương và hoạt động du lịch; trên cơ  sở  đó và <br /> trong chừng mực nhất định, đề xuất giải pháp.<br /> ­ Định hướng vào hứng thú của học sinh:  Xuất phát từ  những vấn đề  thực <br /> tiễn, đề  tài của dự  án tạo được hứng thú và giúp phát triển động cơ  học tập của HS. <br /> Hứng thú của HS cũng cần phải được duy trì và phát triển trong suốt quá trình thực <br /> hiện dự án. Vì vậy, vai trò theo dõi, giám sát, hỗ trợ đúng lúc và đúng thời điểm của GV  <br /> cực kì quan trọng.<br /> ­ Dự án có ý nghĩa thực tiễn xã hội : Việc thực hiện các dự án có thể mang lại  <br /> sự thay đổi có ý nghĩa trong đời sống xã hội và trong bản thân của mỗi HS, chẳng hạn  <br /> với dự án : Lao động và việc làm (Đia lí 12), sau khi tìm hiểu nhu cầu về lao động của  <br /> địa phương trong mối tương quan với nhu cầu lao động của cả  nước và trên thế  giới; <br /> trên cơ  sở  xác định sở  trường, sự  hứng thú, niềm đam mê và điều kiện của bản thân,  <br /> HS có thể  có những hướng đi, những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn nghề <br /> nghiệp sau khi tốt nghiệp phổ thông, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, … .<br /> ­ Việc học tập mang tính xã hội: Tổ chức cho HS làm việc nhóm là hình thức <br /> phổ biến trong dạy học dự án. Trong quá trình làm việc nhóm, các cá nhân trong nhóm <br /> tương tác với nhau để  cùng thực hiện và hoàn thiện sản phẩm của nhóm. Đồng thời <br /> giữa các nhóm cũng thường xuyên chia sẻ, đánh giá, đóng góp ý kiến cho nhau để nâng  <br /> cao chất lượng sản phẩm. GV, với vai trò người tổ  chức, chỉ  đạo, tư  vấn, hỗ  trợ, tạo  <br /> điều kiện, … sẽ thường xuyên phối hợp nhịp nhàng với nhóm. Ngoài ra, các nhóm còn <br /> có thể  liên kết với các GV khác trong nhà trường, với các chuyên gia trong xã hội về <br /> lĩnh vực nhóm đang tìm hiểu để  nhận được sự  tư  vấn chuyên nghiệp và kịp thời, ….  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> Dễ dàng nhận thấy rằng tính chất “xã hội” của học tập dự án được hình thành và phát  <br /> triển, qua đó HS được rèn ý thức và PP cùng cộng tác trong lao động.<br /> Tính chất xã hội còn được thể  hiện rõ qua việc HS “đóng vai” trong quá trình  <br /> thực hiện dự  án. HS phải “hóa thân” vào các vai có thật trong cuộc sống. Trong dự án <br /> Lao động và việc làm, HS có thể  vào vai các chuyên viên tư  vấn về  nhu cầu lao động, <br /> hoặc các nhà tâm lí giúp cho những HS sắp bước vào đời nhận biết được chính xác nhu  <br /> cầu, hứng thú, sở  trường, niềm đam mê của bản thân từ  đó xác định được nhóm công <br /> việc phù hợp, …Việc đóng vai ngoài ý nghĩa giúp cho HS nghiên cứu sâu và sát với thực <br /> tiễn hơn một vấn đề học tập, còn giúp HS bước đầu tiếp cận với những công việc thật <br /> ngoài xã hội, qua đó góp phần giúp HS định hướng nghề nghiệp.<br /> Ngoài ra, tính chất xã hội trong dạy theo dự  án còn thể  hiện  ở  khả  năng tận <br /> dụng những thành tựu mới nhất về khoa học và công nghệ trong xã hội, đặc biệt những <br /> thành tựu về CNTT. CNTT là nguồn lực hỗ trợ tối quan trọng, tối cần thiết trong suốt  <br /> quá trình thực hiện dự án. Có thể nói, khó lòng hình dung, việc thiết kế và thực hiện các  <br /> dự án dạy học trong thế kỉ 21 lại tách biệt hoàn toàn với CNTT, đặc biệt là Internet.<br /> 2.3. Qui trình của dạy học theo dự án: <br /> Nhìn chung, dạy học theo dự án có thể được triển khai theo các bước sau:<br /> ­ Xác định vấn đề trong thực tiễn: Trên cơ sở nội dung chương trình học, GV <br /> gợi ý và tạo điều kiện cho HS phát hiện những vấn đề có liên quan đến nội dung môn  <br /> học trong cuộc sống. Ví dụ: Với bài Lao động và việc làm – Địa lí 12, ban cơ bản, GV  <br /> có thể yêu cầu HS tìm hiểu các vấn đề về nguồn lao động và nhu cầu lao động, vấn đề <br /> việc làm và hướng giải quyết việc làm ở một địa phương cụ thể, …<br /> ­ Phát hiện dự án: Trên cơ sở những vấn đề  đã phát hiện trong thực tiễn, GV  <br /> gợi ý, hướng dẫn HS xác định dự án có thể thực hiện, cụ thể là xác định tên đề  tài, và <br /> dự  kiến các vai cần đóng trong dự án. GV cũng có thể  giới thiệu một số đề  tài để  HS <br /> lựa chọn.<br /> ­ Xác định mục tiêu dự án: Dựa vào tên đề tài và các vai có liên quan trong xã <br /> hội, GV hỗ trợ HS xác định mục tiêu của dự án. Mục tiêu dự án phải thể hiện mục tiêu  <br /> chương trình nội dung môn học, liên quan đến hoàn cảnh thực tiễn của xã hội đồng  <br /> thời phát triển các kĩ năng của thế kỉ 21. <br /> Các khâu xác định vấn đề thực tế, phát hiện đề tài và xác định mục tiêu dự án có  <br /> thể do GV thực hiện. Tuy nhiên với quan điểm dạy học hướng vào người học, tạo điều  <br /> kiện cho HS cùng tham gia sẽ  tốt hơn. Dù thực hiện theo cách nào thì GV vẫn luôn là <br /> người “cầm chịch” trong các giai đoạn đầu tiên; luôn chỉ  đạo, điều chỉnh kịp thời và <br /> đúng lúc.<br /> ­ Lập kế hoạch thực hiện dự án: GV định hướng cho HS lập kế hoạch thực  <br /> hiện dự án. Phân nhóm và xác định nhóm trưởng. Các nhóm xác định những công việc  <br /> cần làm, tiến trình thực hiện, nguồn tài nguyên cần khai thác, .... trên cơ  sở  đó phân  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> công công việc cụ thể cho từng thành viên trong nhóm. Đặc biệt cần khuyến khích tính  <br /> tự lực của HS trong giai đoạn lập kế hoạch.<br /> ­ Hiện thực hóa/triển khai dự  án: Dưới sự  đôn đốc, chỉ  đạo, hỗ  trợ  của GV <br /> các thành viên trong nhóm thực hiện công việc theo kế  hoạch đã đề  ra. HS thực hiện <br /> song song các hoạt động trí tuệ và thực hành. Hai hoạt động này được tiến hành đồng  <br /> thời hoặc xen kẻ qua lại lẫn nhau. Trong quá trình đó, thông tin mới được tạo ra và sản <br /> phẩm dự án dần hoàn thiện. <br /> ­ Trình bày và đánh giá kết quả dự án:  GV tổ chức cho HS trình bày kết quả <br /> dự  án. Dự  án thường được trình bày giữa các nhóm HS trong một lớp. Dự  án có thể <br /> được giới thiệu trong trường học, với cha mẹ HS. Dự án cũng có thể  được giới thiệu <br /> rộng rãi trong xã hội qua các phương tiện thông tin. Song song với việc trình bày sản  <br /> phẩm, thường trong phạm vi một lớp học, GV và HS cùng đánh giá quá trình thực hiện  <br /> cũng như kết quả và kinh nghiệm đạt được. Từ  đó rút ra kết luận và định hướng cho <br /> các dự án tiếp theo.<br /> Việc phân chia trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong thực tế các giai đoạn có  <br /> thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Cũng tương tự  như vậy với các đặc điểm của dạy  <br /> học dự án, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, mỗi đặc điểm có thể  thể hiện trong tất cả <br /> các giai đoạn; hoặc trong một giai đoạn, có thể  chứa đựng nhiều đặc điểm. Cũng như <br /> các PPDH khác, PP dự án không phải là một PPDH vạn năng, chỉ thích hợp với một số <br /> đề  tài nhất định. Vì vậy việc vận dụng cần phải hết sức linh hoạt. Không nhất thiết  <br /> mọi đặc điểm của dự án đều phải và đều có thể thực hiện mà áp dụng tùy từng đề  tài,  <br /> tùy hoàn cảnh cụ thể [2].<br /> 2.4. Khái quát  về quá trình  phát triển của phương pháp dự án<br /> Mặc dù vẫn chưa có câu trả lời thật chính xác về tác giả và thời điểm ra đời của <br /> thuật ngữ  PP dự  án, nhưng các nghiên cứu trước đây chỉ  ra rằng khái niệm dự  án đã  <br /> được sử  dụng từ  lâu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên thế  giới, đặc biệt  ở  các  <br /> nước phát triển, bắt đầu từ  nước Pháp và Ý (thế  kỉ  17, 18), từ  đó lan rộng  ở  Đức và  <br /> một số nước châu Âu và ở  Mỹ  (khoảng giữa thế kỉ 19). PP dự án được ứng dụng khá  <br /> rộng và khá hiệu quả   ở  các nước phương Tây từ  cuối thế  kỉ  19 và về  sau ngày càng  <br /> phát triển. Cụ  thể,  ở  Đức giai đoạn 1895 – 1933 các nhà sư  phạm đã phát triển quan  <br /> điểm dạy học mới liên quan đến  ứng dụng PP dự  án  ở  trường đại học và phổ  thông.  <br /> Họ  cho rằng cần phải thực hiện trên thực tế  cách học tập mới với điểm trọng tâm là  <br /> thực hiện các dự án. Các nhà sư phạm nổi tiếng lúc bấy giờ: Georg Kochenteiner, Hugo  <br /> Gaudig, Berthold Otto, Petersen là những nhà tiên phong về PP dự án. Tại Mỹ, dạy học <br /> dự án đã được vận dụng ở Học viện kĩ thuật Massachuset, sinh viên tại học viện phải <br /> thực hiện các công việc gắn với thực tiễn như: lập kế hoạch, nghiên cứu nhu cầu thị <br /> trường, tìm hiểu điều kiện thực tế, …. để  quyết định các mẫu thiết kế  máy móc chất  <br /> lượng tốt nhằm đáp  ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Vào những năm đầu của <br /> thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã có nhiều đóng góp to lớn cho việc xây dựng cơ sở lí <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 5<br /> luận của PP dự  án, trong đó nổi bật lên vai trò của John Dewey (1859 – 1952), được <br /> xem là cha đẻ  của những bài học theo PP dự  án. Châm ngôn hành động của ông là  <br /> “Learning by doing” ­ học thông qua làm thực tế. Năm 1918, Kelpatrick (1871 – 1965),  <br /> “hậu duệ” xuất sắc của John Dewey đã viết bài báo với tiêu đề  “Phương pháp dự  án”  <br /> gây tiếng vang trong các cơ  sở  đào tạo giáo viên và các trường học. Ông và các nhà <br /> nghiên  cứu  của  trường   đại  học  Colombia   đã  có  những  đóng  góp  lớn  để   truyền  bá <br /> phương pháp này trong các giờ học, qua các hội nghị. Kelpatrich cho rằng dự án là một  <br /> hoạt động có mục đích cụ thể, có cam kết với tất cả những người thực hiện và diễn ra <br /> trong môi trường xã hội. Makarenko, nhà sư phạm xuất sắc của Nga (Liên xô cũ) cũng <br /> đã ứng dụng thành công tư tưởng của PP dự án trong việc giáo dục các thanh thiếu niên <br /> hư hỏng trong các trường đặc biệt của Nga vào đầu thế kỉ 20. Cuối thế kỉ 20 xuất hiện  <br /> nhiều công trình nghiên cứu về dự án và PP dự án tại Áo. Năm 1984, Viện sư phạm ở <br /> Viên đã thành lập một trung tâm về dự án với mục đích khuyến khích các giáo viên áp <br /> dụng PP dự án và động viên học sinh tích cực tham gia thực hiện các dự án. Hiện nay, ở <br /> CHLB Đức, có đến hàng trăm các công bố nghiên cứu lí luận và thực tiễn về dạy học <br /> dự  án hàng năm. Và trường ĐH Roskilde (RUC) của Đan Mạch hiện đang dành trên <br /> 50% thời gian đào tạo cho dạy học theo dự án. [2] [3] [5] [11]<br /> Như vậy, khái niệm dự án và PP dự án đã xuất hiện từ rất lâu và ngày một phổ <br /> biến trong lĩnh vực dạy học và đào tạo từ phổ thông đến đại học ở các nước phát triển <br /> trên TG. Các nhà sư phạm ở châu Âu và Mỹ đã có công rất lớn trong việc sáng tạo, xây <br /> dựng và ứng dụng lí thuyết PP dự án chủ yếu trong các trường đại học và tại các nước  <br /> phát triển. Tuy nhiên, việc phổ biến khái niệm PP dự án và tạo điều kiện ứng dụng nó <br /> rộng rãi trên phạm vi toàn cầu lại thuộc về công lao của dự án giáo dục Việt Bỉ, các tập  <br /> đoàn Intel và Microsoft, …. Đặc biệt là tập đoàn Intel với chương trình Intel Teach….<br /> (Chương trình dạy học của Intel…) trong đó PP dạy học theo dự   án (Project Based <br /> Learning ­ PBL) hoặc PP dạy học tiếp cận dự  án (Project Based Approaching ­ PBA)  <br /> được dành một vị trí thích đáng bên cạnh việc tạo điều kiện tối đa cho giáo viên(GV),  <br /> học sinh (HS), sinh viên (SV) hình thành, rèn luyện, phát triển kĩ năng công nghệ thông  <br /> tin (CNTT) và  ứng dụng CNTT trong dạy học. Có thể nói, chương trình Intel Teach …<br /> đã góp phần “hiện đại hóa” PP dự án, giúp cho GV, HS, SV trên cơ sở tận dụng được  <br /> những thành tựu mới của CNTT thiết kế  và thực hiện các “dự  án” học tập đa dạng,  <br /> phong phú, hấp dẫn, linh hoạt thông qua đó các kĩ năng “mềm”, kĩ năng thế kỉ 21 được  <br /> hình thành và phát triển một cách tự nhiên.      <br /> 3. Khả năng ứng dụng phương pháp dự án trong dạy học địa lí 12, THPT<br /> Dễ  dàng nhận thấy PP dự  án và chương trình, SGK địa lí 12 có mối quan hệ <br /> tương hỗ  qua lại lẫn nhau, cái này có thể  hỗ  trợ  cho cái kia phát triển và ngược lại.  <br /> Trong bối cảnh việc đổi mới PP theo quan điểm hướng vào người học đã có được <br /> những thành tựu nhất định, song song với việc giảm tải chương trình, SGK THPT, <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> giảm áp lực thi cử, khả năng ứng dụng PP dự án vào dạy học nói chung và dạy học Địa  <br /> lí 12 nói riêng ngày càng rộng mở.<br /> 3.1. Chương trình, SGK địa lí 12 phù hợp nhất để ứng dụng PP dự án <br /> Địa lí là khoa học tổng hợp bao gồm 2 ngành chủ yếu là Địa lí tự nhiên và địa lí  <br /> kinh tế ­ xã hội. Là một bộ  môn tổng hợp, do đó ngay trong nội hàm môn học, đã thể <br /> hiện mối quan hệ liên môn. Mà đặc trưng phạm vi kiến thức liên môn vừa là yêu cầu <br /> vừa là đặc trưng riêng của PP dự án­ làm cho PP dự án không lẫn với bất kì PPDH nào <br /> khác. Do đó, có thể khẳng định Địa lí là môn học phù hợp để ứng dụng PP dự án.<br /> Yêu cầu liên hệ  nội dung học tập, nội dung nghiên cứu với vấn đề  thực tiễn,  <br /> đặc biệt là những vấn đề của địa phương thuộc địa bàn học sinh đang sinh sống và học  <br /> tập lại là điểm ‘giao thoa’ không hẹn mà gặp của chương trình địa lí 12 và PP dự  án.  <br /> Địa lí 12 trang bị cho HS những vấn đề rất cơ bản và sâu sắc về tự nhiên và kinh tế ­ xã <br /> hội của tổ  quốc, cũng chính là những vấn đề  của thực tiễn đang diễn ra trong xã hội  <br /> VN. Phần nghiên cứu địa lí địa phương với yêu cầu về  kĩ năng: “… trang bị cho HS kĩ <br /> năng tìm hiểu, viết và trình báo cáo một vấn đề  của địa lí địa phương” [10], và định <br /> hướng về phương pháp: “GV đặt vấn đề  và giao tư  liệu cho các nhóm HS sưu tầm tư <br /> liệu trước thời gian tiến hành các tiết học địa lí tỉnh/thành phố  ít nhất là 1 tháng” [10], <br /> thực chất là dạy học tiếp cận dự  án ­ Project Based Approaching, PBA. Ngoài ra, cấu  <br /> trúc chương trình, nội dung địa lí 12 là cơ sở rất thuận lợi để phát hiện và xây dựng các <br /> đề  tài ­ phần cốt lõi trong các dạy học dự án. “Địa lí 12 được cấu tạo theo các đơn vị <br /> kiến thức lớn, sắp xếp theo logic của khoa học và phù hợp với logic của quá trình dạy <br /> học” [10]. Về  mặt đại thể, có thể  xây dựng ít nhất 1 đề  tài dựa trên các đơn vị  kiến <br /> thức lớn, đơn giản vì tất cả đều gắn bó chặt chẽ với những vấn đề  thực tiễn ở tất cả <br /> các địa phương. Về mặt chi tiết, có thể xây dựng nhiều đề tài khác nhau cho từng chủ <br /> đề cụ thể. <br /> Quả thật không cường điệu khi khẳng định rằng chương trình, SGK Địa lí 12 là  <br /> địa chỉ phù hợp nhất để thực hiện dạy học dự án trong tương quan so sánh với môn địa  <br /> lí ở các cấp, lớp khác cũng như với các môn học khác.<br /> 3.2. Phương pháp dự án giúp thực hiện tốt nhất mục tiêu tổng quát và cụ thể  chương  <br /> trình, SGK Địa lí 12, THPT<br /> ­ PBL tạo điều kiện tốt nhất góp phần đảm bảo các mục tiêu chung của  <br /> môn địa lí THPT, đặc biệt việc đảm bảo 4 năng lực cơ  bản trong dạy học địa lí , <br /> đó là:<br /> +  Năng lực hành động hiệu quả  trên cơ  sở  những kiến thức, kĩ năng, phẩm chất đã  <br /> được hình thành trong quá trình học tập, rèn luyện và giao tiếp;<br /> + Năng lực hợp tác, phối hợp hoạt động trong đời sống và học tập;<br /> + Năng lực sáng tạo, có thể thích ứng với những thay đổi trong cuộc sống;<br /> + Năng lực tự khẳng định bản thân.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 7<br /> Với những đặc trưng cơ bản của mình, PP dự án là ứng viên sáng giá  giúp củng  <br /> cố, phát triển và hoàn thiện bốn năng lực đã được dần hình thành từ cấp Trung học cơ <br /> sở (THCS). HS sẽ  phát triển 4 năng lực trên thông qua việc thực hiện các dự  án địa lí  <br /> 12, THPT. Vì PP dự án hướng đến sự thực hành hiệu quả, tạo điều kiện tối đa để liên  <br /> kết và phát triển hệ thống kiến thức, kĩ năng HS đã có. Đặc trưng hoạt động nhóm và  <br /> đặc trưng xã hội trong PP dự án sẽ giúp HS 12 hình thành và phát triển năng lực hợp tác, <br /> phối hợp hoạt động trong học tập và đời sống. Đặc trưng tạo ra sản phẩm và đặc trưng  <br /> tự tổ chức và tự chịu trách nhiệm trong PP dự án là điều kiện tốt nhất để HS hình thành  <br /> và phát triển năng lực sáng tạo, năng lực tự khẳng định bản thân, các năng lực vô cùng <br /> cần thiết chuẩn bị cho HS 12 bước vào đời.      <br /> ­ PP dự án giúp thực hiện tốt mục tiêu môn học<br /> + Về  kiến thức: PP dự án góp phần đảm bảo, cập nhật hóa mục tiêu kiến thức, đặc  <br /> biệt phần những vấn đề đang được đặt ra nhằm sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, <br /> giảm thiểu hậu quả  của thiên tai, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phát <br /> triển kinh tế xã hội của cả nước. Thông qua việc thực hiện các dự  án Địa lí về  những  <br /> vấn đề đang diễn ra tại địa phương, nơi HS đang sinh sống, hệ thống kiến thức cơ bản  <br /> về  địa lí tự  nhiên và địa kinh tế  xã hội VN được vận dụng một cách linh hoạt và sáng <br /> tạo. <br /> + Về  kĩ năng:  PP dự  án góp phần hình thành rèn luyện kĩ năng Địa lí một cách hiệu  <br /> quả. Bởi việc kết hợp giữa lí thuyết và thực hành là một trong những đặc trưng cơ bản  <br /> của PP dự án. Trong PP dự án, HS sẽ luôn được tổ chức, hướng dẫn để hoạt động. Do  <br /> đó khi thực hiện dự án Địa lí, các kĩ năng thực hành sẽ  thường xuyên được vận dụng. <br /> Với việc tham gia giải quyết những vấn đề  đặt ra trong cuộc sống có liên quan trực  <br /> tiếp đến nội dung Địa lí 12, HS sẽ  được rèn luyện và phát triển các kĩ năng quan sát, <br /> nhận xét, phân tích, tổng hợp đánh giá các sự  vật và hiện tượng địa lí. Biết cách sưu <br /> tầm, chọn lọc, sử  dụng được các bản đồ, lược đồ, lát cắt, số  liệu thống kê. Công cụ <br /> CNTT sẽ là trợ thủ đắc lực để HS thu thập, xử lí các thông tin địa lí. Yêu cầu bắt buộc <br /> về  việc  xây dựng và hoàn thiện sản phẩm trong suốt quá trình làm dự  án sẽ  tạo điều  <br /> kiện cho HS vận dụng kiến thức để  giải thích các hiện tượng, sự  vật địa lí để   ứng <br /> dụng vào thực tiễn cuộc sống và sản xuất. Từ đó, tư duy đặc trưng của địa lí là “tư duy <br /> tổng hợp gắn với lãnh thổ, có liên hệ thường xuyên với thực tiễn và đời sống sản xuất”  <br /> [10] được rèn luyện và phát triển. <br /> + Về thái độ, tình cảm: Một trong những biện pháp rất hiệu quả trong giáo dục HS là <br /> phải tổ chức cho HS khảo sát, tìm hiểu địa phương về mọi mặt: tự nhiên, dân cư, kinh <br /> tế, xã hội. Thực tế  địa phương được phân tích sâu sắc chính là cơ  sở  có tính thuyết <br /> phục cao, có thể  chuyển biến tư  tưởng, tình cảm của các em [4]. Thực hiện khảo sát  <br /> địa phương về mọi mặt chỉ mới là yêu cầu bước đầu của PP dự án. Việc tham gia giải <br /> quyết những vấn đề đang tồn tại của địa phương mới là phần chính trong dạy học dự <br /> án. Những nhận thức về  quê hương, những tình cảm đối với địa phương, tinh thần  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 8<br /> trách nhiệm, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc sẽ  sâu sắc hơn nhiều khi HS tự  mình <br /> tham gia giải quyết những vấn đề địa phương đang đối mặt, dù những giải pháp đưa ra,  <br /> nhìn chung chưa hoàn chỉnh. Vậy, có thể khẳng định, PP dự án góp phần hoàn thành và <br /> thăng hoa mục tiêu tình cảm, thái độ: “làm giàu thêm  ở  HS tình yêu quê hương, đất <br /> nước, tinh thần tự cường dân tộc và niềm tin vào tương lai của đất nước, của dân tộc;  <br /> củng cố cho HS thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, tinh thần trách nhiệm  <br /> trong bảo vệ môi trường, xây dựng kinh tế ­ xã hội ở quê hương” [10]. <br /> 3.3. Học sinh lớp 12 – lứa tuổi chín muồi cho việc xây dựng và thực hiện các dự án học  <br /> tập<br /> Sẽ  thật phiến diện nếu cho rằng chỉ có HS lớp 12, HS cuối cấp THPT mới đủ <br /> điều kiện và năng lực thực hiện các dự án học tập. Ở các nước phương Tây, dự án học  <br /> tập được phổ biến từ bậc tiểu học, thậm chí từ  cuối lớp mẫu giáo. Mức độ  phức tạp  <br /> của các dự án học tập sẽ tăng dần theo cấp học và lớp học và độ  mềm dẻo, linh hoạt <br /> của PP dự án cũng có một phạm vi rất rộng từ PBA đến PBL. Tuy nhiên, là một PPDH  <br /> phức hợp, trong đó, khi thực hiện dự án, HS phải đóng vai là những người lao động có <br /> thật trong xã hội để tham gia tìm hiểu, phần nào giải quyết những vấn đề có thật trong  <br /> cuộc sống, thì rõ ràng rằng lứa tuổi thanh niên của học sinh THPT là phù hợp nhất vì <br /> các em đã phát triển khá toàn toàn diện về thể chất, về nhận thức và tình cảm, đặc biệt  <br /> về  thế  giới quan và lí tưởng, về  đường đời và xu hướng nghề  nghiệp. Đó là “thời kì <br /> phát triển cân đối, hài hòa, đẹp đẽ  của con người, là thời kì năng lực trí tuệ, thế  giới  <br /> quan và toàn bộ  nhân cách của con người biến đổi lớn về  chất lượng làm cho các em <br /> sẵn sàng để  bước vào đời”[8]. Và đỉnh cao của phát triển trí tuệ, tình cảm lứa tuổi  <br /> thanh niên THPT là  ở lớp cuối cấp. HS cuối cấp THPT sau khi tốt nghiệp s ẽ tr ở thành  <br /> một công dân thực thụ, đứng trước nhiều vấn đề cấp bách của VN và thế  giới cần có  <br /> những nhận thức và hành vi đúng đắn; nhiều ngả  đường nghề  nghiệp cần có sự  lựa <br /> chọn sao cho phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội; nhiều khó khăn <br /> tồn tại của đất nước cần phải góp phần tham gia giải quyết; … . Các dự  án học tập  <br /> THPT nói chung và dự án địa lí nói riêng sẽ được HS cuối cấp thực hiện tốt nhất; đồng  <br /> thời, các giá trị dự án học tập mang lại cũng được nhận thức sâu sắc nhất. <br /> 3.4. Bối cảnh xã hội thuận lợi cho việc xây dựng các dự án Địa lí 12, THPT <br /> ­ Dạy học dự  án phù hợp với định hướng đổi mới PPDH trong hai mươi  <br /> năm qua. PP dự  án đáp  ứng cao yêu cầu áp dụng và phát triển các PPDH mới theo <br /> hướng tổ chức các hoạt động học tập cho HS [12]. Vì, với đặc thù của mình, PP dự án <br /> chính là mô hình dạy học hướng vào người học, dạy học thông qua các hoạt động điển  <br /> hình nhất.<br /> ­ Dạy học dự án là một trong những lựa chọn tối  ưu về phương pháp dạy  <br /> học, góp phần đảm bảo mục tiêu giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, giai  <br /> đoạn xây dựng đất nước trong thời kì quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội 2011 ­ 2020. <br /> Thật vậy, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI [1] đã chỉ rõ: “Phát triển giáo <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 9<br /> dục và đào tạo (GD – ĐT) cùng với phát triển khoa học công nghệ  là quốc sách hàng <br /> đầu” [1, tr. 27]. Xác định GD – ĐT là một trong 3 khâu đột phá chiến lược, cần phải:  <br /> “…tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt  <br /> chẽ  phát triển nguồn nhân lực với phát triển và  ứng dụng khoa học công nghệ” [1, tr. <br /> 53]. Đồng thời định hướng phương thức tiến hành: “Đổi mới chương trình, nội dung, <br /> phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, đặc biệt coi  <br /> trọng giáo dục lí tưởng …, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp,  <br /> ý thức trách nhiệm xã hội, …” [1, tr.120]. Vấn đề  môi trường, thiên tai, biến đổi khí <br /> hậu, phát triển bền vững được chú ý đặc biệt: “Đến năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt <br /> 45%” [1, tr. 52], ”Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến  <br /> đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng” [1, tr. 53], “Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu  <br /> lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững”  <br /> [1, tr 109]. Các đặc trưng của PP dự án minh chứng hùng hồn vai trò của nó trong việc  <br /> góp phần thực hiện các mục tiêu của GD ­ ĐT trong giai đoạn mới. Đặc biệt vấn đề <br /> môi trường, thiên tai, biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế bền vững phần  ưu tiên hoàn <br /> toàn thuộc về các dự án địa lí 12 vì đó vừa thuộc nội dung của chương trình vừa là các  <br /> mục tiêu cần đạt. Có thể khẳng định, một số cương lĩnh, nội dung, phương hướng, …  <br /> về GD – ĐT và xây dựng kinh tế trong văn kiện đại hội XI của Đảng là hành lang pháp  <br /> lí  giúp giáo viên mạnh dạn ứng dụng PP dự án vào dạy học nói chung, dạy học Địa lí  <br /> và Địa lí 12 nói riêng. Đồng thời, đến lượt mình, các dự  án Địa lí 12, nếu được thực  <br /> hiện hiệu quả sẽ góp phần đạt được nhiệm vụ GD ­ ĐT trong giai đoạn mới.   <br /> ­ Việc giảm tải chương trình và mục tiêu cụ thể về đổi mới PPDH và kiểm  <br /> tra đánh giá trong năm học mới của Bộ  Giáo dục và Đào tạo tạo điều kiện cho  <br /> việc  ứng dụng các PP mới trong đó có PP dự án. Năm học mới (2011 – 2012), cùng <br /> với các bậc khác, chương trình bậc  THPT được điều chỉnh theo hướng lược bớt, giảm  <br /> nhẹ  yêu cầu  ở hầu hết các môn học. Bộ  GD­ĐT xác định nhiệm vụ  quan trọng là đổi <br /> mới PPDH và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, rèn luyện  <br /> năng lực tự  học của học sinh dựa trên chuẩn kiến thức, kỹ  năng; cụ  thể  đối với các  <br /> môn ngữ văn, lịch sử, địa lý cần tiếp tục đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng nêu vấn  <br /> đề  mở, đòi hỏi HS phải vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng; hạn chế  học sinh chỉ <br /> ghi nhớ  máy móc, không nắm vững bản chất vấn đề[13]. Việc giảm tải chương trình <br /> đã giải quyết được phần nào phần hạn chế ­ mất nhiều thời gian – của dạy học dự án.  <br /> Bên cạnh đó các chỉ  đạo về  đổi mới PPDH, đặc biệt rất cụ  thể  về  kiểm tra đánh giá,  <br /> khiến cho sản phẩm cuối cùng của dự án không còn là mục tiêu xa vời. Có thể hi vọng,  <br /> trong tương lai, bên cạnh những PPDH tiên tiến khác, dạy học dự  án sẽ  là một trong <br /> những lựa chọn  ưu tiên nhằm đáp ứng yêu cầu “đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng <br /> đề mở, đòi hỏi sự vận dụng tổng hợp, kiến thức tổng hợp và đòi hỏi sự nhanh nhạy, sự <br /> nắm bắt những vấn đề bức thiết trong xã hội” [13].<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 10<br /> ­ Các điều kiện khác: Ngoài những yếu tố cơ bản trên, còn một số yếu tố khác <br /> như: Cơ  sở hạ tầng của các trường THPT đã được sửa chữa, nâng cấp, xây dựng, lắp <br /> đặt mới; mạng Internet gần như  tỏa khắp các trường THPT; Tin học IT (Informatic  <br /> Technology) đã trở thành môn học chính thức ở giúp cho trình độ và điều kiện khai thác <br /> các phần mềm, mạng Internet của HS được nâng cao; Thông qua dự án Việt Bỉ, chương  <br /> trình GD của Intel và Microsoft, một số lượng khá lớn GV đã nắm được những lí thuyết <br /> căn bản về việc thiết kế và thực hiện các dự án dạy học, … .<br /> <br /> 4. Kết luận<br /> Hiệu quả  do PP dự  án mang lại cho HS là vô cùng to lớn, đặc biệt việc hình <br /> thành cho  HS  cuối cấp các  “kĩ  năng mềm” – những kĩ  năng thật  sự  cần  thiết  cho  <br /> ngưỡng cửa vào đời; môn Địa lí, về bản chất khoa học, về chương trình, về nội dung là  <br /> một môn học hội đủ  các điều kiện để   ứng dụng PP dự  án, trong đó điển hình nhất là  <br /> nội dung, chương trình Địa lí 12; việc giảm tải chương trình, yêu cầu đổi mới PPDH và <br /> hình thức kiểm tra đánh giá về chất, cơ sở vật chất đã được cải thiện … tạo điều kiện  <br /> và động cơ  tốt cho việc dạy và học PP dự  án. Tuy nhiên, để   ứng dụng PP dự  án vào  <br /> việc dạy học Địa lí 12 đạt hiệu quả cao nhằm góp phần đạt được mục tiêu Giáo dục và <br /> Đào tạo trong giai đoạn mới, cần phải tiếp tục thực hiện các nghiên cứu thực tiễn,  ở <br /> các mức độ, phạm vi hẹp hơn, cụ  thể  hơn. Chẳng hạn: trên cơ  sở  nội dung, chương <br /> trình Địa lí 12, tình hình thực tiễn, đề  xuất hệ  thống các đề  tài dự  án sao cho có mối <br /> quan hệ chặt chẽ  và phát triển từ  thấp đến cao; xác định qui trình thiết kế  đồng thời <br /> xây dựng một số  kế  hoạch bài dạy (Unit plan) tương  ứng với các đề  tài đã được xác <br /> định theo hướng đa dạng hóa về  mặt thời gian thực hiện và phù hợp với điều kiện  ở <br /> từng địa phương cụ thể; xác định qui trình thực hiện và tiến hành thực hiện một số dự <br /> án đã thiết kế; … . Kết quả nghiên cứu các vấn đề trên sẽ lần lượt được công bố trong  <br /> các chuyên đề kế tiếp.  <br /> TÓM TẮT<br /> Phương pháp (PP) dự án là một trong những lựa chọn tối ưu nhằm đáp ứng mục tiêu Giáo  <br /> dục – Đào tạo của Việt Nam (VN) trong giai đoạn mới. Sau hai mươi năm đổi mới Phương  <br /> pháp dạy học (PPDH), nhìn chung, nhà trường phổ thông VN đã hội đủ  điều kiện để  ứng  <br /> dụng PP dự án (Project method) ở các cấp học và mọi môn học. Riêng môn Địa lí, về bản  <br /> chất khoa học, về chương trình, về  nội dung,.. là một trong số các môn học có ưu thế  để  <br /> ứng dụng PPDự án; đặc biệt là chương trình Địa lí 12, THPT.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Project method and its superiority in applying into teaching geography 12,<br />  high school education<br /> The Project method has been thought to be one of the optimal options meeting the goals of  <br /> Education – Training in Vietnam in the new period. After twenty years of reforming teaching  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br /> methods, the high school education system in Vietnam is generally eligible for the application  <br /> of the Project methods at all levels and all subjects. Of the subjects, Geography, regarding its  <br /> scientific nature, curriculum and contents,… is considered specifically appropriate for the  <br /> Project method, in which Geography 12 would best fit this application. <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu học tập Các văn kiện đại hội đại biểu <br /> toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia.<br /> 2. Nguyễn Văn Cường (1997), “Dạy học Project hay dạy học theo dự án”, Trường <br /> ĐHSP Hà Nội, Trường ĐHSP – ĐHQG Hà Nội, Thông báo khoa học (số 3). <br /> 3. Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004), “Dạy học theo dự án, một <br /> phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên”, Tạp chí Giáo dục (số 3).<br /> 4. Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc (2007), Lí luận dạy học Địa lí, Nxb ĐHSP.<br /> 5. Trần Thúy Hằng (2006), Tổ chức dạy học theo dự án một số nội dung kiến thức <br /> chương “Sự bảo toàn và chuyển hóa năng lượng” theo SGK vật lí lớp 9 nhằm phát <br /> triển hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của học sinh trong học tập, Luận văn <br /> thạc sĩ khoa học GD, ĐHSP Hà Nội, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị <br /> Hương Trà.<br /> 6. Trần Thị Hương (chủ biên), Nguyễn Thị Bích Hạnh, Hồ Văn Liên, Ngô Đình Qua <br /> (2009), Giáo dục học đại cương, ĐHSP TP HCM, (Lưu hành nội bộ).<br /> 7. Nguyễn Thị Kim Liên (2009),  “Khả năng giáo dục biến đổi khí hậu toàn cầu của <br /> phương pháp dạy học theo dự án thông qua môn Địa lí THPT”, Kỉ yếu Hội thảo <br /> khoa học Những vấn đề về giáo dục biến đổi khí hậu, ĐHSP Hà Nội.<br /> 8. Bùi Ngọc Oánh, Thiệu Xuân Quýnh, Nguyễn Hữu Nghĩa (1993), Tâm lí học lứa tuổi  <br /> và tâm lí học sư phạm, ĐHSP TP HCM (Lưu hành nội bộ).<br /> 9. Tập đoàn Intel (2009), Chương trình dạy học của Intel – Khóa học cơ bản (Intel <br /> Teach Essentials), Nxb Tổng hợp TP HCM.<br /> 10.  Lê Thông, Nguyễn Viết Thịnh …. (2010), SGV Địa lí 12 ban cơ bản, Nxb GD.<br /> 11. Trần Đức Tuấn (2002), “Phương pháp Project và vấn đề đổi mới quá trình đào tạo <br /> giáo viên ở khoa Địa lí trường Đại học sư phạm”, Kỉ yếu Hội thảo đổi mới phương <br /> pháp dạy học, Công đoàn ĐHSP Hà Nội.<br /> 12.  http://tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/4770/1/Ngo%20Thu <br /> %20Dung.doc<br /> 13.  http://www.baomoi.com/Nam­hoc­moi­20112012­Tap­trung­giam­tai/59/6811992.epi <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 12<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2