Cơ sở, nội dung chính sách kinh tế của nhà nước – Phần 2
lượt xem 12
download
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cơ sở, nội dung chính sách kinh tế của nhà nước – Phần 2
- Cơ sở, nội dung chính sách kinh tế của nhà nước – Phần 2 2.2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam - Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. + Về mục đích: Mục đích của kinh tế thị tr ường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
- + Về sở hữu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. + Về quản lý: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến l ược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng c ơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. + Về phân phối: Kinh tế thị tr ường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. => Cũng có thể nói, kinh tế thị tr ường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở
- trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, nền kinh tế thị tr ường định hướng XHCN có những đặc trưng cụ thể như sau: + Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; + Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009 + Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn; + Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân;
- + Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; + Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; + Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. => Với những nội dung trên cho thấy, nền KTTTĐHXHCN hoạt động nhờ vào sự điều tiết của cơ chế thị trường, các quy luật khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh…trên cở sở định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần 3: đánh giá việc thực hiện các chính sách kinh tế của việt nam 3.1. Thành tựu - Tính dân chủ, công khai trong xây dựng và thực thi pháp luật và chính sách ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước.
- - Từng bước xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo động lực, điều kiện thuận lợi để khai thác tiềm năng trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội. Quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh ngày càng được tôn trọng và được và được pháp luật bảo vệ. - Cơ chế phân bổ nguồn lực quốc gia về cơ bản đã được chuyển đổi theo hướng vừa dựa vào các tín hiệu thị trường, vừa căn cứ vào mục tiêu, định hướng phát triển của Nhà nước. Chế độ phân phối được đổi mới theo hướng công bằng hơn, dựa trên sự đóng góp cả về lao động, hiệu quả kinh tế, lẫn các đóng góp về vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh. - DNNN được sắp xếp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động; hợp tác xã, nông lâm trường tiếp tục được đổi mới và hỗ trợ phát triển. Kinh tế tư nhân trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được thừa nhận và khuyến khích phát triển. Các đơn vị sự nghiệp đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các loại thị trường chức năng đã ra đời và phát triển theo hướng thông suốt, thống nhất trong cả nước và trên thế giới. - Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm được quan tâm. Các chính sách xã hội, chính sách chăm sóc người có công, hỗ trợ nhóm người yếu thế, đồng bào bị thiên tai ngày càng hiệu quả hơn.
- - Chức năng quản lý Nhà nước, chức năng chủ sở hữu nhà nước và chức năng kinh doanh của DNNN được phân định rõ hơn. Nhà nước chuyển từ can thiệp trực tiếp sang quản lý, can thiệp gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, luật pháp, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. - Kinh tế hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Vào thời điểm 2010, chúng ta đã có thể nói đến kế hoạch phát triển kinh tế trong thời kỳ hậu khủng hoảng. Trong vòng 25 năm, GDP của Việt Nam từ mức dưới 20 tỉ USD đã lên đến 85 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu từ 1-2 tỉ USD lên đến 64 tỉ USD, đầu tư nước ngoài từ chỗ không có gì lên đến con số khó tưởng tượng là 98 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện trên 40 tỉ USD. + Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng cánh cửa của khu vực kinh tế t ư nhân Việt Nam. Riêng năm 2008, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào GDP gần 47%, trong đó có phần đóng góp quan trọng của kinh tế t ư nhân; ở một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn như TP. Hồ Chí Minh là 51,4%, Cần Thơ là gần 73%. Trong thời gian này, khu vực kinh tế tư nhân đã tạo công ăn việc làm cho trên 5 triệu lao động mới (chưa tính khu vực nông nghiệp), bình quân 800 ngàn lao động/năm, chiếm tỷ lệ 50% số lao động tăng thêm của cả nước. Số lượng doanh nghiệp tư nhân đã gia tăng mạnh mẽ, ước tính đến hết năm 2009 là 460.000 doanh nghiệp, tăng 15 lần trong vòng chín năm, tuy nhiên phần lớn ở quy mô vừa và nhỏ, số doanh nghiệp tư nhân lớn còn khá khiêm tốn.
- + Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 6 tháng đầu năm 2010 gấp 1,6 lần cùng kỳ năm 2009. Xu hướng đó chứng tỏ nền kinh tế nước ta đang phục hồi nhanh. + Về đầu tư phát triển: Nhờ tập trung đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, công trình trọng điểm, vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế trong 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 390,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4% so cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực nhà nước 166,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 42,7% tổng vốn và tăng 17,8%; khu vực ngoài nhà nước 120 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,8% và tăng 9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 103,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,5% và tăng 11,8%. + Về cân đối thu, chi ngân sách: tổng thu ngân sách Nh à nước 6 tháng đầu năm 2010 tăng 21,6 so với cùng kỳ 2009 và bằng 52,5% dự toán năm. Tổng chi ngân sách nhà nước 6 tháng đấu năm ước tính tăng 21,3% so cung kỳ năm 2009 và bằng 46,9% dự toán năm. + Về cân đối thương mại: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 32,1 tỷ USD, tăng 15,7% so c ùng kỳ năm 2009. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 38,9 tỷ USD, tăng 29,4% So cùng kỳ năm 2009. + Về kết quả ngăn ngừa lạm phát: Chỉ số giá ti êu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2010 tăng 8,75% so 6 tháng đầu năm 2009. Điều này cho thấy các chính sách bình ổn giá đã bước đầu phát huy tác dụng.
- 3.2. Hạn chế 3.2.1 Về lý luận - Lý luận về thể chế KTTT định hướng XHCN chưa được định hình một cách có hệ thống. Các đặc trưng của nền kinh tế thị tr ường định hướng XHCN chưa được xác định thật rõ và có được sự nhất trí cao. + Thực tiễn cho thấy, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý thuyết vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của cơ chế kinh tế, nhiều khi, chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của nền kinh tế thị tr ường cũng như của định hướng XHCN. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc biệt về cấu trúc, quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, vẫn chậm làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ giữa hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự kết hợp chúng một cách hữu cơ để tạo thành một phương thức mới giải quyết các vấn đề phát triển của Việt Nam. + Nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm so với thực tiễn phát triển. Nhiều vấn đề đặt ra còn chưa được giải quyết, tổng kết kịp thời. Do vậy, trong công tác chỉ đạo còn thiếu nhất quán, lúc mở ra lúc co lại, lúc thiên bên này, lúc lại lệch bên khác, làm chậm quá trình phát triển chung của nền kinh tế.
- + Mối quan hệ tron g cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ" chưa được giải quyết hiệu quả trên thực tế, làm giảm hiệu lực quản lý kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, nhất là về mặt lợi ích kinh tế, chưa được xử lý phù hợp, chưa phát huy được tính năng động của Nhà nước cũng như vai trò thúc đẩy của thị trường, đặc biệt là vai trò lực lượng xung kích của doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế, ngay cả khi Việt Nam đ ã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). + Thể chế kinh tế thị trường, kể cả hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước, mặc dù đã dần được hình thành, song còn chậm, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và một số mặt chưa phù hợp, đã gây cản trở, làm méo mó quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Hiệu lực quản lý Nhà nước còn hạn chế, nhất là trong điều hành nền kinh tế còn nặng tính hành chính; phân định chức năng chưa rõ ràng. Một mặt, có xu hướng buông lỏng chức năng của Nhà nước trong điều tiết kinh tế thị trường, mặt khác, lại duy trì quá lâu sự độc quyền trong một số lĩnh vực (nhiều trường hợp độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp). 3.2.2. Về hành lang pháp lý - Hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu ổn định, chưa minh bạch, chưa tạo được hành lang pháp lý thật sự thuận lợi, an toàn cho sự vận hành thông suốt và thống nhất của nền KTTT định hướng XHCN, chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Một số quy định pháp luật còn
- chồng chéo, thậm chí trái ngược nhau gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện. Năng lực thực thi pháp luật nhìn chung chưa cao. - Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh ở nước ta vừa qua có được cải thiện thêm đáng kể. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), năm 2007 môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 13 bậc so với năm 2006 (xếp thứ 91/187 nước). Nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập, chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp vẫn thuộc loại cao so với các nước khác trong khu vực. Xét về tổng thể, theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong mấy năm qua bị giảm sút li ên tục. - Các yếu tố thị trường và các loại thị trường chức năng hình thành và phát triển còn chậm, thiếu đồng bộ. Khung pháp luật về giá, về hợp đồng, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền chưa hoàn thiện. Cơ sở hạ tầng, vật chất và kỹ thuật cho các thị trường chức năng còn lạc hậu. Cấu trúc thị trường chưa đồng bộ, cơ chế vận hành chưa thông suốt, chưa kết nối tốt thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Thể chế hỗ trợ phát triển và giám sát, điều tiết thị trường còn yếu. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng nhái, kinh doanh mất vệ sinh, thiếu an toàn, bất chấp môi trường sống bị đe dọa …. khá phổ biến và chậm được khắc phục. 3.2.3. Về chế độ sở hữu
- - Mặc dù chế độ đa sở hữu đã được khẳng định bằng luật pháp nhưng trong nhận thức và hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền còn nhiều điều chưa nhất quán. Quản lý, sử dụng đất đai, nhất là trong giải phóng mặt bằng còn nhiều vấn đề vướng mắc, gây bức xúc, khiếu kiện trong dân. Vấn đề sở hữu trong các DNNN chưa được xác định và và xử lý đúng đắn, gây cản trở không ít cho quá trình phát triển, làm thất thoát tài sản Nhà nước. DN thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước ít nhiều vẫn còn bị phân biệt đối xử trong thực tế. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vị trí then chốt của DNNN chưa được phát huy rõ nét và chưa có tính thuyết phục cao. Kinh tế tập thể đổi mới chậm và chậm phát triển. Kinh tế trang trại, kinh tế hộ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong quá trình phát triển. - Tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp chậm được đổi mới. Chưa hình thành được cơ chế hiệu quả để huy động nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác phát triển mạnh mẽ. Chất lượng dịch vụ y tế giáo dục còn thấp, điều kiện tiếp cận dịch vụ này còn chênh lệch khá lớn giữa các vùng khác nhau. - Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế chưa cao. Cơ cấu, tổ chức, cơ chế vận hành của Bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập. Sư phân công, phân cấp, phối kết hợp giữa các cấp, các ngành, các lĩnh vực trong quản lý kinh tế ch ưa đủ rõ ràng, cụ thể chưa gắn đầy đủ quyền và trách nhiệm, chưa phù hợp với điều kiện vật chất, kỹ thuật và năng lực đội ngũ cán bộ, thiếu các cơ chế giám sát, đánh giá có hiệu quả. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, chất lượng nguồn nhân lực nhìn
- chung chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Sự tham gia của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quá trình hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát, thực hiện chính sách còn yếu. Tỷ lệ tham nhũng quan liêu còn nghiêm trọng, gây bất bình trong xã hội. - Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, được xác định là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, song còn nhiều doanh nghiệp chưa chủ động vươn lên, đổi mới công nghệ, quản lý, nâng cao sức cạnh tranh để đứng vững trong cạnh tranh hội nhập. Vẫn còn có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, trong lúc sức ép cắt giảm các khoản bảo hộ của nhà nước đang rất lớn trong khung khổ của WTO. Thực tế nhiều giá cả như viễn thông, hàng không, điện lực, xăng dầu... còn mang tính độc quyền đã ảnh hưởng đến sức cạnh tranh chung của nền kinh tế. Thực trạng đầu tư chưa theo tín hiệu của thị trường còn phổ biến, nhiều dự án đầu tư vẫn theo chỉ định cấp phát, dấu ấn của mô hình kế hoạch hóa tập trung, tệ nạn "xin - cho" vẫn còn tồn tại. 3.2.4. Về phân phối - Phân bổ nguồn lực quốc gia không ít trường hợp vẫn còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là giáo dục, y tế, văn hóa chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức và chậm đổi mới. Năng suất và hiệu quả của DNNN cũng nh ư các đơn vị sự nghiệp công chưa tương xứng với đầu tư của nhà nước. Chính sách tiền lương còn nhiều khiếm khuyết,
- chưa cho phép cải thiện đời sống căn bản của người hưởng lương, chưa tạo động cơ để thu hút và sử dụng người tài. Hệ thống thuế thiếu đồng bộ và thiếu ổn định, chưa cho phép thực hiện tốt các chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Hệ thống quản lý giám sát phân phối thu nhập ở những lĩnh vực kinh doanh độc quyền c òn nhiều yếu kém. - Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng đang có nguy cơ dãn rộng ra. Tỷ lệ các hộ cận ngh èo còn ở mức cao và nguy cơ tài nghèo lớn. Hệ thống an sinh xã hội vẫn đang ở mức sơ khai, chưa đáp ứng được yêu cầu của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Mức độ bao phủ của bảo hiểm x ã hội đang còn thấp, cơ chế “đóng, hưởng” chưa được vận hành tốt. Nhiều vấn đề bức xúc, bất cập về trật tự an toàn xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt. Phần 4: Phương hướng và nhiệm vụ cơ bản để thực hiện chính sách phát triển kinh tế ở việt nam 4.1. Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ - Để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế và từng bước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng lớn mạnh, vững chắc, cần thực hiện tốt một số chủ yếu sau: - Trước hết, cần thực hiện tốt đường lối chung và đường lối kinh tế để xây dựng và phát triển đất nước. Đường lối đó do Đảng ta đề ra và lãnh đạo thực hiện, thể hiện
- sự độc lập, tự chủ trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, x ã hội, trong đó xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. - Chúng ta khẳng định quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp nhưng nhất định chúng ta sẽ đi tới đích. Đích chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà chúng ta hướng tới và thực hiện bằng được là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Quá trình thực hiện mục tiêu cao cả đó bao hàm nội dung trọng yếu là từng bước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. - Cho đến giai đoạn phát triển mới hiện nay, Đảng ta hình thành đường lối kinh tế là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta thành một nước công nghiệp. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả v à bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi liền từng bước với cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng - an ninh. Việc thực hiện thắng lợi
- đường lối kinh tế của Đả ng chính là xây d ựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, phù hợp với điều kiện của đất nước và thích ứng với tình hình quốc tế. - Làm được như vậy sẽ phát huy mọi nguồn lực bên trong và tận dụng các nguồn lực bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao sẽ tăng cường tiềm lực đất nước, tạo sức mạnh cho đất nước vươn lên. - Vấn đề thứ hai là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựn g cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác. - Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện với những bước đi vững chắc, vừa tuần tự, vừa nhảy vọt, phát huy mạnh mẽ các lợi thế của đất nước, gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng b ước, tiếp cận và ứng dụng kinh tế tri thức trong những ngành nghề thích hợp; tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về kinh doanh, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam thông qua phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển một số ngành công nghiệp then chốt, xây dựng và phát triển một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn; đồng thời coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. - Cuối cùng, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, chính sách đa
- phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. - Đây là nhiệm vụ hết sức trọng đại, tạo môi trường hòa bình và điều kiện quốc tế thuận lợi cho chúng ta thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. - Mở rộng quan hệ đối ngoại là mở rộng quan hệ nhiều mặt, chú trọng cả quan hệ song phương và đa phương đối với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chống mọi hành vi đe dọa, gây sức ép, áp đặt và cường quyền. - Nội dung trọng yếu của quan hệ đối ngoại là quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đáp ứng yêu cầu và lợi ích của nước ta trong quá trình phát triển, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực và thế giới. Chủ động hội nhập là để kết hợp nội lực là chính với ngoại lực là quan trọng, tạo thành sức mạnh to lớn đưa đất nước tiến lên. Những nguồn lực đó là vốn, thiết bị, vật tư, tiến bộ khoa học và công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường và các quan hệ hợp tác cùng có lợi.
- - Nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong hội nhập quốc tế là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi tr ường. Trong hội nhập quốc tế, phải vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để tranh thủ được thời cơ và hạn chế nguy cơ, bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế 4.2 Xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN 4.2.1 Thống nhất về nhận thức, tư tưởng - Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam phải vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc của kinh tế thị trường, vừa phát triển bền vững trên cơ sở chú trọng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường. - Kinh tế thị trường theo mô hình mà chúng ta lựa chọn là phương thức phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Kinh tế thị trường tự nó không thể quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ xã hội. Bản chất của chế độ chính trị - xã hội quyết định bản chất của nền kinh tế thị trường. Có thể khẳng định, chỉ phát triển có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì mới có khả năng thực hiện thành công công
- nghiệp hóa rút ngắn ở Việt Nam, theo mục ti êu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Kinh tế thị trường và định hướng XHCN phải là những thuộc tính bản chất, những yếu tố nội tại bền vững trong mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta, không thể coi nhẹ yếu tố nào. Định hướng XHCN phải được quán triệt khi vận hành các nguyên tắc của thị trường, ngược lại, việc thực hiện định hướng XHCN không được tách rời biệt lập với các quy luật của thị trường. - Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường là thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chỉ có phát triển hiệu quả và bền vững nền kinh tế thị trường trong quá trình thực thi các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mới tạo được cơ sở kinh tế bảo đảm cho phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta. Nhưng lại chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, kinh tế trong đó kinh tế nhà nước thực sự có hiệu quả đóng vai trò chủ đạo, mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN. 4.2.2. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước - Tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi
- để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển; Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội; Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường; Chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái. - Tăng cường vai trò của Nhà nước về kinh tế trên cơ sở đổi mới phương thức quản lý từ chỗ can thiệp trực tiếp vào thị trường sang quản lý vĩ mô. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc tạo các điều kiện, môi trường để thúc đẩy nhanh hơn sự hình thành và phát triển các loại thị trường, cũng như các yếu tố trong từng loại thị trường theo mục tiêu đã được đề ra, đặc biệt khi nước ta đã vào WTO. Nhà nước cần dự báo ngắn hạn và dài hạn những gì xảy ra trong giai đoạn hậu WTO, thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và có giải pháp vĩ mô để nâng cao khả năng cạnh tranh trên cả ba cấp độ: doanh nghiệp, sản phẩm và nền kinh tế. - Việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu vai trò của Nhà nước càng cần thiết hơn. Điều này thể hiện sự can thiệp của Nhà nước phải vừa bảo đảm tốt lợi ích quốc gia trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc thị trường, phải tôn trọng tính tất yếu của các quy luật kinh tế khách quan (nghĩa là phát huy các mặt mạnh của kinh tế thị tr ường để sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề x ã hội nảy sinh), vừa tôn trọng các định chế kinh tế, thương mại quốc tế.
- - Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm hẳn sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này cần xác định các định hướng: + Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, thu hẹp và tiến tới các bộ và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố không còn thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 5, khóa X. + Xóa bỏ "chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công (giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao...). + Thực hiện việc phân công hợp lý, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện các chức năng hành pháp, tư pháp và lập pháp trong hoạt động của bộ máy nhà nước, khắc phục sự chồng chéo, bỏ sót và giảm hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. + Gần đây, trong nền kinh tế nước ta đang diễn ra các quá trình sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước thành công ty mẹ - con, tập đoàn... Đây là quá trình, trong nhiều trường hợp, đã được lý giải bởi sự cần thiết của việc tăng cường hiệp tác sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện mở cửa, hội nhập và tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Song, ở một khía cạnh khác của vấn đề, quá trình đó phải được thực hiện đúng quy luật khách
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Chính sách dân số (tài liệu đào tạo sơ cấp Dân số y tế): Phần 2
22 p | 135 | 20
-
Giáo trình Chính sách dân số (tài liệu đào tạo sơ cấp Dân số y tế): Phần 1
23 p | 111 | 18
-
Xây dựng chính sách bổ sung tài liệu truyền thống tại Thư viện Đại học Hà Nội
9 p | 220 | 18
-
Tài liệu tuyên truyền: Một số nội dung cơ bản về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế tự nguyện
22 p | 17 | 8
-
Bài giảng Giáo dục quốc phòng an ninh (Học phần 2) - Bài 2: Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo - Đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam
15 p | 112 | 8
-
Thực hiện chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay – Vấn đề và kiến nghị
6 p | 108 | 8
-
Xây dựng chính sách học phí tại các trường đại học công lập trong bối cảnh đổi mới tự chủ tài chính
8 p | 60 | 7
-
Một số nội dung và giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo
9 p | 18 | 6
-
Hệ thống chính sách xã hội: Phần 2
312 p | 50 | 5
-
Gia đình và chính sách dân số ở Liên Xô
15 p | 76 | 5
-
Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện một số nội dung chính sách đối với học sinh phổ thông dân tộc thiểu số vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh hiện nay
8 p | 92 | 4
-
Cơ sở lý luận về xây dựng và thực hiện chính sách xã hội nhằm đảm bảo hài hòa quan hệ giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế - Nguyễn Hữu Dụng
0 p | 119 | 4
-
Giải pháp sử dụng có hiệu quả công cụ tín dụng chính sách góp phần giảm nghèo bền vững vùng Tây Bắc và tỉnh Sơn La
6 p | 41 | 3
-
Xây dựng chính sách trợ cấp tiền mặt có điều kiện cho các đối tượng nghèo
9 p | 44 | 3
-
Đánh giá nội dung chính sách phát triển cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc người cao tuổi: Góc nhìn từ các bên liên quan
13 p | 7 | 2
-
Một số chính sách thúc đẩy học tập tại nơi làm việc ở Việt Nam
6 p | 3 | 2
-
Chính sách đối với các dân tộc thiểu số của vương triều Trần
8 p | 78 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn