Lê Thị Như Nguyệt và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
91(03): 27 - 31<br />
<br />
ĐẶC ĐIỂM CÚ PHÁP TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI<br />
Lê Thị Như Nguyệt1*, Phạm Kim Thoa2<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Nhà xuất bản - ĐH Thái Nguyên,<br />
Trường Đại học Công nghệ thông tin & Truyền thông – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tô Hoài là một nhà văn "góp mặt" trên văn đàn Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỉ XX.<br />
Các sáng tác của ông suốt hành trình hơn nửa thế kỉ có sự nhất quán, có bước phát triển, có tính<br />
sáng tạo so với văn học thời kì trước, đặc biệt là về phương diện cú pháp. Là một nhà văn có cảm<br />
quan hiện thực đời thường nên ông cảm nhận cuộc sống từ sự tồn tại tự thân của nó. Ngôn ngữ văn<br />
Tô Hoài chính là minh chứng của cuộc hành trình hiện đại hoá lối diễn đạt của cú pháp văn xuôi<br />
hiện đại...<br />
Từ khóa: Cú pháp, câu, Chuyện cũ Hà Nội, truyện ngắn, Tô Hoài, ngôn ngữ…<br />
<br />
1.*Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn<br />
học hiện đại Việt Nam. Với hơn 160 đầu sách<br />
và hơn 1.000 bài báo trong sự nghiệp sáng tác<br />
đã chứng tỏ ý thức lao động nghệ thuật đáng<br />
nể của nhà văn Tô Hoài. Trên nhiều trang viết<br />
của mình ông luôn có "một giọng điệu riêng,<br />
một cách nói riêng" (Phong Lê) sáng tạo, độc<br />
đáo. Điều đó là nhờ vào sự tỉ mỉ và tinh tế<br />
trong quan sát đời sống mang đến cho sáng<br />
tác của ông những khám phá mới mẻ, bất<br />
ngờ, thú vị, càng qua thời gian càng tỏa sáng,<br />
hấp dẫn người đọc, các nhà nghiên cứu nhiều<br />
thế hệ.<br />
Đến với truyện Tô Hoài là chúng ta đến với<br />
"nhà văn của người thường, của chuyện<br />
thường" (Nguyễn Đăng Mạnh), có lẽ vì thế<br />
chăng mà Vân Thanh đã khẳng định: "Ngôn<br />
ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và gần với<br />
khẩu ngữ của nhân dân lao động", Nguyễn<br />
Đăng Điệp cho rằng: "Viết về cái riêng của<br />
mình, quanh mình là định hướng nghệ thuật<br />
và cũng là kênh thẩm mĩ của Tô Hoài… Nó<br />
khiến cho nhà văn Tô Hoài có được phong<br />
cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể<br />
nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh quái". Vì thế nó<br />
tạo ra sức cuốn hút lớn trong lòng độc giả mọi<br />
thế hệ. Mặc dù các nhà nghiên cứu, phê bình<br />
văn học đã có những đánh giá, phân tích về<br />
nhiều mặt như: Nội dung, nghệ thuật, đề tài,<br />
ngôn ngữ… trong sáng tác của Tô Hoài,<br />
nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nào<br />
nghiên cứu về đặc điểm cú pháp trong các tác<br />
*<br />
<br />
Tel: 0973216622, Email: lenguyet.dhtn@gmail.com<br />
<br />
phẩm của ông, đặc biệt ở mảng truyện ngắn.<br />
Tiến hành tìm hiểu đặc điểm cú pháp trong<br />
tác phẩm của Tô Hoài sẽ giúp chúng ta tiếp<br />
cận và cảm nhận rõ nét thế giới nghệ thuật<br />
của tác giả, hiểu sâu sắc hơn sự sáng tạo về<br />
mặt ngôn ngữ của nhà văn - một trong những<br />
yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nghệ<br />
thuật của Tô Hoài.<br />
Bước đầu tìm hiểu, ở bài viết này, chúng tôi<br />
xin được bàn về đặc điểm cú pháp trong<br />
Chuyện cũ Hà Nội của nhà văn Tô Hoài, ở<br />
phạm vi 10 truyện ngắn được in trong tập<br />
truyện ngắn đặc sắc này, gồm các truyện:<br />
Bánh chợ, Bắt chuột, Bẫy chim, chơi chim,<br />
Bên đạo, Con đường quen thuộc, Cúp tóc,<br />
Ông Ấm, Phố Hàng Đào, Thịt chó, Tìm vàng.<br />
2. Như đã biết, câu là một phạm trù cơ bản<br />
của cú pháp, luôn được coi là một đơn vị<br />
hoàn chỉnh, đơn vị cao nhất được nghiên cứu<br />
trong phạm vi của ngôn ngữ học. Sự phân loại<br />
câu trong ngôn ngữ học hiện nay khá phức<br />
tạp, dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau.<br />
Theo nhà nghiên cứu Diệp Quang Ban, dựa<br />
vào cấu tạo ngữ pháp thì câu được phân loại<br />
như sau:<br />
* Câu đơn:<br />
- Câu đơn hai thành phần là câu được cấu tạo<br />
gồm hai thành phần chính: chủ ngữ và vị ngữ.<br />
Hai thành phần này tạo nên nòng cốt của<br />
câu đơn.<br />
- Câu đơn đặc biệt: Thông thường câu đơn<br />
được cấu tạo bằng một nòng cốt gồm hai<br />
thành phần chính (chủ - vị) và có thể có thành<br />
27<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
phần phụ. Nhưng trong những ngữ cảnh giao<br />
tiếp nhất định câu có thể có cấu tạo đặc biệt:<br />
chỉ có một từ hoặc một cụm từ chính phụ, hay<br />
đẳng lập. Từ hay cụm từ đó không phân tách<br />
thành hai thành phần chủ ngữ hay vị ngữ, tuy<br />
nhiên chúng vẫn thực hiện chức năng thông<br />
báo như một câu bình thường. Những câu đó<br />
gọi là câu đơn đặc biệt.<br />
Căn cứ vào bản chất ngữ pháp của từ hay cụm<br />
từ nòng cốt, câu đơn đặc biệt được chia thành<br />
hai loại: câu đơn đặc biệt - danh từ, câu đơn<br />
đặc biệt - vị từ.<br />
- Câu dưới bậc: Đây là kiểu câu không có đời<br />
sống tự lập, chúng chỉ xuất hiện được nhờ<br />
bám vào những câu lân cận hữu quan, là biến<br />
thể của câu nhưng không mang đầy đủ các<br />
đặc trưng cần yếu của câu. Mặt khác, chúng<br />
cũng không thuộc về đơn vị bậc thấp hơn câu,<br />
chúng là những biến thể dưới bậc của câu,<br />
được gọi tắt là câu dưới bậc.<br />
Câu dưới bậc là biến thể của câu, có ngữ điệu<br />
kết thúc, tự lập, nhưng không tự lập về cấu<br />
tạo ngữ pháp và ngữ nghĩa.<br />
Câu đơn thuộc bất kì kiểu nào đều phải có<br />
tính vị ngữ. Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt<br />
của vị ngữ thì câu dưới bậc được chia ra làm<br />
hai loại: câu dưới bậc có tính vị ngữ tự thân<br />
và câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời.<br />
* Câu phức:<br />
Là câu có chứa hai (hoặc hơn hai) kết cấu chủ<br />
- vị, trong đó chỉ có một kết cấu chủ - vị nằm<br />
<br />
91(03): 27 - 31<br />
<br />
ngoài cùng, bao (các) kết cấu chủ - vị, (các)<br />
kết cấu chủ - vị còn lại bị bao bên trong kết<br />
cấu chủ - vị đó.<br />
* Câu ghép: Là câu chứa hai (hơn hai) kết cấu<br />
chủ - vị, trong đó không kết cấu chủ - vị nào<br />
bao hết kết cấu chủ - vị nào, mỗi kết cấu chủ vị diễn đạt một sự việc và các sự việc này có<br />
quan hệ với nhau theo mối quan hệ nào đó.<br />
Có thể trình bày khái quát sự phân loại câu<br />
theo cấu tạo ngữ pháp theo sơ đồ:<br />
Qua quá trình khảo sát, thống kê về câu với tư<br />
cách là đối tượng của cú pháp học, chúng tôi<br />
nhận thấy rằng câu đơn hai thành phần được<br />
Tô Hoài sử dụng nhiều nhất: 576/1098 câu,<br />
chiếm 52,5%, với tần số xuất hiện 10/10<br />
truyện. Tuy nhiên, câu đơn hai thành phần<br />
không đơn thuần chỉ có 2 thành phần là chủ<br />
ngữ và vị ngữ mà nhà văn thường sử dụng<br />
trạng ngữ, đề ngữ hoặc nhiều vị ngữ cùng một<br />
lúc. Có những truyện câu đơn hai thành phần<br />
chiếm quá nửa số câu trong truyện như Ông<br />
Ấm có 156 câu thì có tới 95/156 câu đơn,<br />
chiếm 60,8% toàn truyện.<br />
Ví dụ:<br />
- Tên ông ấy // không phải là Ấm. (Ông Ấm)<br />
- Chúng tôi // là ba người. (Thịt chó)<br />
- Đầu chợ, hàng cháo bột // se khói um.<br />
(Bánh chợ)<br />
- Cụ xã vị // nho nhã, búi tóc củ hành.<br />
(Cúp tóc)<br />
<br />
28<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Văn chương Tô Hoài gần gũi với cuộc sống<br />
đời thường nên câu đơn hai thành phần được<br />
sử dụng để mô tả lại sự vật, hiện tượng,<br />
những diễn biến của cuộc sống đang diễn ra<br />
dưới con mắt quan sát tinh tế của nhà văn. Có<br />
thể khẳng định đây là sự tiến bộ của cú pháp<br />
văn xuôi Tô Hoài so với thời kì văn xuôi nửa<br />
đầu thế kỉ XX. Nếu như đặc điểm cú pháp của<br />
văn xuôi nửa đầu thế kỉ XX có nhiều dấu ấn<br />
của lối diễn đạt tự nhiên như trong các văn<br />
bản (Nôm và Quốc ngữ) của giáo hội Thiên<br />
chúa giáo (viết câu dài, có nhiều liên từ, lối<br />
viết biền ngẫu), hay như trong tiểu thuyết Tố<br />
Tâm của Hoàng Ngọc Phách còn có nhiều dấu<br />
ấn cũ (nhiều câu dài còn giữ lối viết biền<br />
ngẫu, đăng đối) chưa thực sự thuyết phục, thì<br />
đến thời điểm nửa cuối thế kỉ XX, cú pháp<br />
của các thể văn xuôi đã được cách tân theo<br />
hướng hiện đại hoá, trong đó có Nam Cao,<br />
Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân… Đặc<br />
trưng nổi bật là lối diễn đạt mệnh đề với ưu<br />
thế của các câu đơn và câu ngắn. Nhờ đó câu<br />
văn trở nên nhẹ nhàng, hiện đại, có năng lực<br />
biểu đạt cao.<br />
Mỗi nhà văn khi phản ánh hiện thực đều tìm<br />
cho mình một mảng đề tài tâm huyết. Nếu<br />
Nam Cao đến với những bi kịch của con<br />
người, Thạch Lam đến với những số phận,<br />
những cuộc đời buồn tẻ... thì Tô Hoài trong<br />
cuộc đời sáng tạo nghệ thuật luôn đến với con<br />
người và cuộc sống dung dị, đời thường.<br />
Trong 10 truyện khảo sát, chúng tôi thống kê<br />
được 164/1098 câu đơn đặc biệt, chiếm<br />
14,9%, trong đó: câu đơn đặc biệt danh từ có<br />
81/1098 câu, chiếm 7,4%, với tần số xuất hiện<br />
10/10 truyện; câu đơn đặc biệt - vị từ, có<br />
83/1098 câu, chiếm 7,5%, với tần số xuất hiện<br />
10/10 truyện. Sử dụng các kiểu câu này Tô<br />
Hoài đã khắc họa được những cái đời thường<br />
trong cuộc sống với văn phong hết sức mộc<br />
mạc, giản dị, gần gũi, tạo nên một giọng điệu<br />
riêng trong sáng tác của Tô Hoài.<br />
Ví dụ:<br />
- Câu đơn đặc biệt – danh từ:<br />
+ Tơ Tứ Tổng. Tơ Phùng. (Phố hàng Đào)<br />
+ Dãy đầu này, hàng bánh đúc. (Bánh chợ)<br />
+ Chả chó Hà Nội. (Thịt chó)<br />
<br />
91(03): 27 - 31<br />
<br />
- Câu đơn đặc biệt – vị từ:<br />
+ Trong sân, trên tường cũng có tượng thánh,<br />
có thập ác. (Bên đạo)<br />
+ Chỉ còn đợi chốc nữa lấy tiền.<br />
(Phố hàng Đào)<br />
+ Trên đường phố xép lơ thơ mấy nhà bên<br />
đồng trũng. (Con đường quen thuộc)<br />
Do muốn giảm bớt sự rườm rà trong câu văn<br />
nên Tô Hoài đã sử dụng rất nhiều câu đơn.<br />
Nhưng nhiều khi câu đơn trong Chuyện cũ Hà<br />
Nội thường được nhà văn mở rộng thành phần<br />
câu. Ông rất hay sử dụng: trạng ngữ, đề ngữ,<br />
giải ngữ, câu đơn nhiều vị ngữ… khiến cho<br />
câu văn dài.<br />
Ví dụ:<br />
- Ngày ra ở hàng Mã, vào chợ Đồng Xuân, u<br />
cho ăn cái nem chả. (Bánh chợ)<br />
- Các cô đêm hôm khách khứa, ban ngày lại<br />
cấy gặt. (Con đường quen thuộc)<br />
Khi nói về sự phát triển của cú pháp tiếng<br />
Việt nửa đầu thế kỉ XX, nhiều tác giả thường<br />
nhấn mạnh vào khía cạnh biến đổi cấu trúc<br />
câu. Những câu dài được loại bớt, thay vào đó<br />
là những câu ngắn và câu đơn. Tô Hoài là một<br />
trong những nhà văn có hướng cách tân mới:<br />
Ông sử dụng nhiều câu đơn ngắn gọn, có lối<br />
tổ chức tự do về trật tự từ và các thành phần<br />
phụ. Những câu đơn được sử dụng để trần<br />
thuật, miêu tả về cuộc sống đời thường xung<br />
quanh Tô Hoài.<br />
Ngoài câu đơn hai thành phần, Tô Hoài cũng<br />
sử dụng rất nhiều câu dưới bậc (câu khuyết<br />
chủ, câu ẩn chủ, câu dưới bậc có tính vị ngữ<br />
lâm thời): 202/1098 câu, chiếm 18,4%, trong<br />
đó câu khuyết chủ được sử dụng nhiều nhất:<br />
105/1098 câu, chiếm 9,6%, với tần số xuất<br />
hiện 9/10 truyện; câu ẩn chủ có 87/1098 câu,<br />
chiếm 7,9%, với tần số xuất hiện 10/10<br />
truyện; câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời<br />
có 10/1098 câu, chiếm 0,9%, với tần số xuất<br />
hiện 2/10 truyện.<br />
Ví dụ:<br />
- Câu đơn khuyết chủ:<br />
+ Nghe nói ngày trước cũng có người chết ở<br />
đấy. (Bên đạo)<br />
29<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
- Câu đơn ẩn chủ:<br />
+ Tôi khệ nệ bưng đặt lên đầu hè. Rồi đem đến<br />
một đôi guốc mộc, để bên cạnh. (Ông Ấm)<br />
- Câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời:<br />
+ Trong nhà. Mợ Hai vẫn mải đo lụa, cẩn<br />
thận, thong thả. (Phố hàng Đào)<br />
Với một nhà văn luôn đi khai thác những cái<br />
"đời thường": chuyện làng, chuyện chợ búa,<br />
các thú vui sở thích… thì ngôn ngữ văn<br />
chương của ông gần với lối nói khẩu ngữ là<br />
chuyện dễ hiểu. Vì thế, Tô Hoài đã sử dụng<br />
câu khuyết chủ, ẩn chủ để làm ngắn câu văn,<br />
gần với văn phong khẩu ngữ, để tránh lặp<br />
lại đối tượng được nói xuyên suốt trong<br />
tác phẩm.<br />
Ví dụ:<br />
- Đi giữa ban ngày mà cứ rờn rợn.<br />
(Tìm vàng)<br />
- Cứ việc lách lỗ đồng xu, bẻ khắc khắc.<br />
(Bắt chuột)<br />
- Tay đo lụa xong khấu luôn tiền tơ.<br />
(Phố hàng Đào)<br />
Tô Hoài sử dụng câu khuyết chủ, ẩn chủ<br />
khiến cho lời nói của mỗi nhân vật ngắn gọn<br />
chỉ vừa đủ lượng thông tin cho câu trước. Nó<br />
rất phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm tâm lí,<br />
trình độ tư duy của những người dân lao động<br />
bình thường.<br />
Không chỉ trong Chuyện cũ Hà Nội mà dù<br />
viết về đề tài nào thì từng lời văn cũng có xu<br />
hướng giảm lược, câu văn thường không đủ<br />
các thành phần chính và nó chỉ đứng được<br />
trong những văn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, cách<br />
thể hiện này của Tô Hoài không những đảm<br />
bảo được lượng thông tin mà còn thể hiện<br />
được những tầng bậc ý nghĩa khác. Người<br />
đọc, người nghe thấy hơi thở của đời sống đi<br />
vào văn chương, khẳng định mối quan hệ<br />
khăng khít giữa văn chương với cuộc đời.<br />
Ngoài ra, trong Chuyện cũ Hà Nội Tô Hoài<br />
còn sử dụng cả câu ghép và câu phức, với số<br />
lượng 156/1098 câu, chiếm 15%, trong đó, câu<br />
phức là 97 câu, chiếm 8,8%, với tần số xuất<br />
hiện 10/10 truyện; câu ghép là 59 câu, chiếm<br />
5,4%, với tần số xuất hiện 10/10 truyện.<br />
<br />
91(03): 27 - 31<br />
<br />
Ví dụ:<br />
- Câu phức:<br />
+ Trẻ con // hay nghe người lớn nói chuyện<br />
ma. (Tìm vàng)<br />
+ Tôi //đứng nhìn lên cái lồng bẫy của thằng<br />
Bách, lâu đến thế nào, tôi mải không biết<br />
ông tôi đến đặt tay lên vai tôi. (Bẫy chim,<br />
chơi chim)<br />
- Câu ghép:<br />
+ Ông // vừa quét ra đến ngoài sân đất, mà<br />
tôi // cũng không để ý. (Bẫy chim, chơi chim)<br />
+ Chẳng ai // thóc mách mà khắp xóm // đã<br />
biết sự tình chị ấy ra sao. (Ông Ấm)<br />
Câu phức và câu ghép trong Chuyện cũ Hà<br />
Nội được Tô Hoài sử dụng để làm dài câu.<br />
Kiểu câu này thường có các thành phần phụ<br />
đi kèm như: trạng ngữ, chú thích, tình thái…,<br />
khiến cho người đọc cảm thấy những câu văn<br />
giống như những đoạn văn rườm rà. Vì thế,<br />
hai loại câu này không được Tô Hoài sử<br />
dụng nhiều.<br />
(Xem thêm bảng khảo sát đặc điểm cú pháp<br />
trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài)<br />
3. Như vậy trong Chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài<br />
đã sử dụng rất nhiều kiểu câu như câu đơn hai<br />
thành phần, câu đặc biệt (câu đặc biệt - danh<br />
từ, câu đặc biệt - vị từ), câu dưới bậc (câu ẩn<br />
chủ, câu khuyết chủ, câu dưới bậc có tính vị<br />
ngữ lâm thời), câu phức, câu ghép, trong đó<br />
nhà văn chủ yếu sử dụng câu đơn, câu đặc<br />
biệt và câu dưới bậc. Việc sử dụng những<br />
kiểu câu này có chi phối nhất định đến độ dài<br />
câu (chúng tôi sẽ trình bày ở bài viết sau).<br />
Nhưng quan trọng hơn nó góp phần tạo nên<br />
đặc điểm ngôn ngữ văn chương của tác phẩm<br />
nói riêng và cả phong cách nghệ thuật của Tô<br />
Hoài. Đọc Chuyện cũ Hà Nội ta thấy một Tô<br />
Hoài nhạy cảm với ngữ cảnh sinh hoạt, phong<br />
tục, những tập tục, thói quen của từng vùng<br />
quê, từng gia đình, từng con người. Từ những<br />
cảnh sinh hoạt đặc thù ấy, Tô Hoài vừa phản<br />
ánh sinh động đời sống vật chất và tinh thần<br />
của Hà Nội xưa, vừa thể hiện đời sống lịch<br />
sử, xã hội hiện tại. Cảm hứng sau cách mạng<br />
của nhà văn hoàn toàn nhất quán với cảm<br />
hứng trước cách mạng.<br />
<br />
30<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Trên chặng đường hơn 70 năm sáng tạo nghệ<br />
thuật của mình, Tô Hoài đã lặng lẽ, bền bỉ,<br />
thủy chung để tạo nên bản sắc riêng có. Tô<br />
Hoài là một nhà văn vừa tinh tế, vừa sắc sảo,<br />
nhưng cũng là nhà văn của con người và cuộc<br />
sống bình dị, đời thường. Ngôn ngữ văn<br />
chương Tô Hoài mang một vẻ đẹp giản dị,<br />
mộc mạc... càng đi sâu tìm hiểu, ta càng thấy<br />
những điều lí thú, hấp dẫn trên từng trang văn<br />
của ông.<br />
<br />
91(03): 27 - 31<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt,<br />
Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[2]. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt,<br />
T1, 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[3]. Tô Hoài (1986), Chuyện cũ Hà Nội, Nxb Văn<br />
học, Hà Nội.<br />
[4]. Phong Lê, Vân Thanh (2000), Tô Hoài về tác<br />
gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
SYNTACTIC CHARACTERISTICS IN “CHUYEN CU HA NOI” BY TO HOAI<br />
Le Thi Nhu Nguyet1*, Pham Kim Thoa2<br />
2<br />
<br />
1<br />
Thai Nguyen University Press - TNU<br />
College of Information Technology and Communication - TNU<br />
<br />
To Hoai is a writer who has taken part in the Vietnamese literary circles since the beginning of the<br />
1940s of the twentieth century. He was consistent in all his works during the time of over half a<br />
century. In comparison with the other pieces of work in the previous period, his literature had<br />
gained considerate developments and creation, especially in terms of syntax. Being an author of<br />
ordinal real life perception, he feels life from the very existence of it. To Hoai’s literature style is<br />
the evidence of the process of modernizing expressions of modern prose syntax…<br />
Key words: Syntax, sentence, Chuyen cu Ha Noi, short stories, To Hoai, language…<br />
<br />
*<br />
<br />
Tel: 0973216622, Email: lenguyet.dhtn@gmail.com<br />
<br />
31<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />