intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh 1

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

208
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh 1 Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914–1967) là một tướng lĩnh chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "Vị tướng phong trào". Ông cũng là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh". Thân thế và tham gia cách mạng Ông tên thật là Nguyễn Vịnh, quê làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh 1

  1. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh 1 Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914–1967) là một tướng lĩnh chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "Vị tướng phong trào". Ông cũng là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh".
  2. Thân thế và tham gia cách mạng Ông tên thật là Nguyễn Vịnh, quê làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, thân phụ qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình. Năm 1934, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nh à lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) mới ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (8-1945). Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8. Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV.
  3. Cuối năm 1950, làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dâ n Việt Nam. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), được cử vào Bộ Chính trị, Ủy viên Hội đồng Quốc phòng. Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng. Cuối năm 1960, ông được cử giữ chức Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp miền Bắc. Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn. Do sức khỏe yếu, đầu năm 1967, ông được đưa trở về Hà Nội. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do bệnh tim; đây cũng chính là ngày mà ông dự định trở lại miền Nam. Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Sao vàng (truy tặng), Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.
  4. "Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Chí Thanh đã âm thầm khắc lên kèo nhà dòng chữ: "PHỤNG SỰ TỔ QUỐC!” bằng tiếng Pháp – đó như lời tự thề với chính lòng mình. Danh ngôn nhân loại có câu: "Những chính nhân không bao giờ chết” - tướng Nguyễn Chí Thanh là người như thế". Trong hàng ngũ tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng lừng danh cả về tài năng quân sự, tài năng chính trị và cả về đức độ của một bậc quân tử. Trải qua Cách mạng tháng Tám 1945 và hai cuộc trường chinh của toàn dân tộc, Nguyễn Chí Thanh đã dâng hiến trọn vẹn tài năng, trí tuệ và cuộc đời của mình cho đất nước; để lại một huyền thoại trong nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Gia đình ông thuộc lớp trung lưu ở nông thôn, có nề nếp gia phong lâu đời. Bản thân ông học đến bậc trung học Pháp - Việt thì phải nghỉ, trở thành một ông giáo làng. Ngay từ thuở đó, Nguyễn Chí Thanh đ ã âm thầm khắc lên kèo nhà dòng chữ: "PHỤNG SỰ TỔ QUỐC!” bằng tiếng Pháp. Đó là lời thề với chính lòng mình. Nhà thơ Vĩnh Mai lúc bình sinh, cũng như nhiều người dân Phù Lai và Niêm Phò cùng thế hệ với Nguyễn Chí Thanh đã kể với tôi rằng, trước 1945, thỉnh thoảng
  5. người ta lại thấy ông áo quần nâu rách, nón cời, ngang l ưng buộc cái giỏ bắt cua, lội hết cánh đồng nọ đến cánh đồng kia. Ai cũng tưởng là ông đi bắt cua. Hoá ra, sau này họ mới hiểu ra rằng, đó là những ngày người thanh niên Nguyễn Chí Thanh bí mật đi tuyên tuyền và phát triển các cơ sở Cách mạng. Nguyễn Chí Thanh - Tố Hữu: Tình đồng hương, đồng chí sâu đậm Nguyễn Chí Thanh, tên thật, tên khai sinh là Nguyễn Vịnh, hoạt động cách mạng bí mật trước Tố Hữu một thời gian dăm năm. Nhưng, do tính chất bắt buộc tuyệt mật của hoạt động cách mạng lúc đó, hai người hoàn toàn không biết về công việc của nhau. Thậm chí, đôi khi, người nọ còn lo rằng người kia là “Tờ-rốt-kít” theo dõi mình! Nhưng đến lúc cả hai cùng bị vào tù ở Ban Mê Thuột, thì Tố Hữu mới biết là Nguyễn Chí Thanh chẳng những cùng hoạt động cách mạng, mà còn là cán bộ lãnh đạo cấp trên của mình nữa.
  6. Trong tù, Tố Hữu có bài thơ “Nhớ đồng”, đề là “Tặng Vịnh” (“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ/ Hiu quạnh bên trong một tiếng hò…”) - đó chính là bài thơ tặng Nguyễn Chí Thanh. Một bài thơ nói lên nỗi da diết của tác giả lúc ở trong tù nhớ về những ngày còn tự do hoạt động với bạn (là Vịnh). Nhưng để cho ý tứ kín đáo, lọt qua mắt mật thám Pháp dày đặc nên tác giả phải để là “Nhớ đồng”. Bởi vậy, tình đồng chí, đồng hương; tình anh em giữa Tố Hữu và Nguyễn Chí Thanh là vô cùng sâu đậm và vô cùng đặc biệt. Năm 1967, sau khi ở chiến trường miền Nam ra Hà Nội, cùng với Bộ Chính trị, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bàn soạn kế hoạch tác chiến mới xong, chuẩn bị trở lại chiến trường Miền Nam, Nguyễn Chí Thanh đột ngột qua đời ở tuổi 53. Nhà thơ Tố Hữu đã khóc bạn thật thống thiết, thật bi hùng: “Thanh ơi! Anh mất thật rồi sao? Mới hôm qua câu chuyện ra vào Anh hăm hở như cờ lên mặt trận Giọng say sưa như gió thổi ào ào! Tưởng lại đưa Anh ra chiến trường
  7. Đường về - vó ngựa thẳng dây cương Ngay mai. Ai biết chiều nay phải Vĩnh biệt anh, nằm dưới bóng dương...”
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2