Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015): Phần 2
lượt xem 3
download
Tiếp nối phần 1, phần 2 ebook với các nội dung: thành phố Đà Nẵng thời kỳ trực thuộc Trung Ương (1997 - 2015); những năm đầu thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung Ương (1997 - 2000); bước đầu thực hiện mục tiêu xây dựng “thành phố Đà Nẵng giàu mạnh, văn minh” (2001 - 2005); phát triển Đà Nẵng theo hướng văn minh, hiện đại, bền vững, xứng đáng là trung tâm kinh tế - xã hội của Miền Trung (2005 - 2010); tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển thành phố Đà Nẵng theo tinh thần nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, bằng các chủ trương có tính đột phá (2010-2015)
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015): Phần 2
- Chương Năm NHỮNG NĂM ĐẦU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG (1997 - 2000) I. BƯỚC CHUYỂN MÌNH CỦA MỘT THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG Bốn năm cuối cùng của thế kỷ XX, có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử Đà Nẵng nói chung và lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nói riêng. Đây là giai đoạn có tính chất bản lề giữa hai chặng đường phát triển của thành phố “đầu biển cuối sông” kể từ ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Chặng đường đầu tiên là giai đoạn của một đô thị loại II cùng với huyện đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép và huyện nông thôn Hòa Vang đa phần là rừng núi. Chặng đường thứ hai là giai đoạn của một đô thị loại I - thành phố trực thuộc Trung ương đang vươn lên trở thành “một chấm son trên bản đồ Tổ quốc” - đúng như mong muốn của Bác Hồ khi nghĩ về mảnh đất này. Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm đổi mới của Đảng, đã tạo nên thế và lực mới để nước ta bước vào một giai đoạn mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vị thế Việt Nam được nâng cao trong khu vực và trên thế giới. 227
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Trong bối cảnh đó, thành phố Đà Nẵng cũng từng bước chuyển mình đi lên. Vai trò của Đà Nẵng ngày càng được khẳng định đối với sự phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trước yêu cầu mới của tình hình, Đà Nẵng cần có chính sách, cơ chế đồng bộ riêng để bức phá đi lên. Đồng thời, thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, ngay từ Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào tháng 5 năm 1989, đã kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cho phép thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương; nếu chưa đủ điều kiện thì cho Đà Nẵng trở thành Đặc khu kinh tế của duyên hải miền Trung hoặc Khu kinh tế mở. Tiếp tục tinh thần đã được kiến nghị của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng, Đại hội lần thứ XV Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (từ ngày 16 đến 19 tháng 10 năm 1991), đã đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu chưa tách thì cho một quy chế của Đặc khu kinh tế. Tiếp theo đó, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (khóa XVI) được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng (là Đại hội cuối cùng của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng), diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 năm 1996, đã kiến nghị chia tách Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Ngày 08 tháng 10 năm 1996, đồng chí Mai Thúc Lân - Bí thư Tỉnh ủy, nhận được Công điện số 75/CCHC/TW của Trung ương nêu rõ: Bộ Chính trị đã có Thông báo số 06/TB-TW ngày 07 tháng 10 năm 1996 về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy phải chỉ đạo hoàn tất thủ tục để kịp trình Quốc hội quyết định trong cuộc họp giữa tháng 10 này. Với tinh thần rất khẩn trương, ngày 09 tháng 10 năm 1996, Thường trực Tỉnh uỷ đã có cuộc họp liên tịch với Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt 228
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh để bàn việc triển khai Công điện của Trung ương về chia tách tỉnh. Vấn đề được đặt ra cấp thiết nhất là chia tách địa giới hành chính của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng theo phương án nào là thích hợp nhất để trình lên Quốc hội. Lúc này, có 4 phương án chia tách được đặt ra để tạo nên địa giới hành chính phù hợp với một Đà Nẵng trực thuộc Trung ương: + Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, thị xã Hội An. + Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. + Gồm thành phố Đà Nẵng và thêm một số xã phụ cận của Hòa Vang và Điện Bàn. + Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, thị xã Hội An. Trong thảo luận, có ý kiến đề nghị chia thành Quảng Nam và Quảng Đà như trước khi giải phóng và địa bàn Đặc khu Quảng Đà trước đây sẽ gọi là thành phố Đà Nẵng - bao gồm cả huyện đảo Hoàng Sa. Vì có quá nhiều phương án và ý kiến thảo luận cũng rất khác nhau, nên Thường trực Tỉnh ủy kết luận chỉ chọn phương án 1 và 2, là hai phương án có tính hợp lý và khả thi hơn cả, đồng thời giao Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh phân tích cụ thể hai phương án trên để Hội nghị liên tịch tiếp tục làm việc. Ngày 11 tháng 10 năm 1996, Hội nghị Tỉnh uỷ đã nghe Uỷ ban nhân dân trình bày 2 phương án được xem là hợp lý nhất. Theo đó, Tỉnh uỷ đã biểu quyết chọn phương án 2 (tức gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa); đồng thời, giao Uỷ ban nhân dân tiếp tục chuẩn bị, hoàn thiện cả hai phương án trên để trình Hội đồng nhân dân. Ngày 12 tháng 10 năm 1996, Hội đồng nhân dân tỉnh đã họp (bất thường) để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách. 229
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Cuối cùng, Hội đồng nhân dân thống nhất chọn phương án được xem là tối ưu: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương được hình thành từ ba đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm thành phố tỉnh lỵ “Đà Nẵng 3 khu vực”, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa, đồng thời nhất trí lấy thị xã Tam Kỳ làm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam. Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 10 (khóa IX), diễn ra từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 12 tháng 11 năm 1996, đã bàn nhiều việc quan trọng của đất nước. Đặc biệt, ngày 06 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”. Trong đó xác định: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương có 7 đơn vị hành chính gồm: Các quận Hải Châu, Liên Chiểu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa; có diện tích 942,46 km2, với số dân 663.115 người(1). Thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997. Theo đó, để tạo sự thông suốt về tư tưởng, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh, nhằm tạo tâm lý phấn khởi, làm rõ ý nghĩa mục đích của việc chia tách trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Nghị quyết nêu rõ: “Xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và quản lý nhà nước trong giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã có chủ trương và Kỳ họp lần thứ 10 của Quốc hội (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, được tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương: Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Việc chia tách (1) Đây là diện tích đất liền, kể cả diện tích của huyện đảo Hoàng Sa là 1283,4 km2. Trong quá trình thảo luận để Quốc hội ban hành Nghị quyết, lúc đầu quận Hải Châu được đề xuất là quận Sông Hàn, quận Liên Chiểu được đề xuất là quận Hải Vân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân có tính chất lịch sử, cuối cùng Nghị quyết thống nhất lấy tên là quận Hải Châu và quận Liên Chiểu. 230
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển năng động của thành phố Đà Nẵng sớm vươn lên thành trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung, đồng thời khai thác được tiềm năng, thế mạnh và phát huy được nội lực của cả địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(1). Trong công tác tư tưởng, Tỉnh ủy yêu cầu: “Các cấp ủy, chính quyền, các ngành và đoàn thể cần làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền quán triệt làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ yêu cầu khách quan và những lợi ích của việc chia tách tỉnh theo chủ trương của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, cần làm rõ cơ sở khách quan, quy trình các bước công việc trong chọn lựa phương án phân định địa giới hành chính của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam để cán bộ, đảng viên và nhân dân thông suốt. Trên cơ sở đó, tạo được sự nhất trí cao trong toàn Đảng bộ về chủ trương của Trung ương, nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy truyền thống của quê hương, thực hiện thắng lợi việc chia tách tỉnh. Đồng thời, nghiêm khắc phê phán những tư tưởng cục bộ địa phương, khắc phục tư tưởng ngại khó, giữ nghiêm kỷ luật chấp hành Nghị quyết trong đảng viên và cán bộ. Đồng thời cần đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy năng lực nội tại để giải quyết khó khăn, mặt khác cần ưu tiên những điều kiện thuận lợi cho tỉnh Quảng Nam. Trong công tác tổ chức và cán bộ, cần quán triệt tinh thần đổi mới và chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền và các đoàn thể gọn nhẹ, có hiệu quả và hiệu lực cao. Không nhất thiết tỉnh hiện nay có sở, ban, ngành nào thì thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam cũng phải có đủ các sở, ban, ngành đó. Việc bố trí lại cán bộ phải đảm bảo cơ cấu hợp lý, vừa đáp ứng được yêu cầu trước mắt Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28 tháng (1) 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. 231
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG nhưng cũng vừa đảm bảo tính kế thừa, liên tục trong công tác cán bộ. Việc phân công, bố trí cán bộ phải đảm bảo sự cân đối về năng lực, trình độ, tuổi tác, sức khỏe, phải chọn được những hạt nhân nòng cốt. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo phải tuyệt đối phục tùng sự phân công và điều động của Đảng”(1). Trên cơ sở kiến nghị của Đảng bộ và nhân dân thành phố, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh” ngày 06 tháng 11 năm 1996; để hợp thức hóa về mặt hành chính, Chính phủ ra Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, ngày 23 tháng 01 năm 1997 “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Nghị định nêu rõ: + Thành lập quận Hải Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường: Hải Châu I, Hải Châu II, Thạch Thang, Thanh Bình, Thuận Phước, Bình Thuận, Hòa Thuận, Nam Dương, Phước Ninh, Bình Hiên, Hòa Cường, Khuê Trung (thuộc Khu vực I thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Hải Châu có 2.373 ha diện tích tự nhiên và 203.264 nhân khẩu, gồm 12 phường. Địa giới hành chính quận Hải Châu: Đông giáp quận Sơn Trà; Tây và Bắc giáp quận Thanh Khê; Nam giáp huyện Hòa Vang. + Thành lập quận Thanh Khê trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường: An Khê, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Tam Thuận, Chính Gián, Thạc Gián, Tân Chính, Vĩnh Trung (thuộc Khu vực II thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Thanh Khê có 928 ha diện tích tự nhiên và 146.241 nhân khẩu, gồm 8 phường. Địa giới hành chính quận Thanh Khê: Đông và Nam giáp quận Hải Châu; Tây giáp huyện Hòa Vang; Bắc giáp vịnh Đà Nẵng. + Thành lập quận Sơn Trà trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số các phường An Hải Tây, An Hải Bắc, An Hải Đông, Nại Hiên Đông, Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang (thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28 tháng (1) 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh”, tlđd. 232
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) Khu vực III, thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Sơn Trà có 5.972 ha diện tích tự nhiên và 96.756 nhân khẩu, gồm 7 phường. Địa giới hành chính quận Sơn Trà: Đông và Bắc giáp biển Đông; Tây giáp quận Hải Châu; Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn. + Thành lập quận Ngũ Hành Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của phường Bắc Mỹ An (thuộc Khu vực III, thành phố Đà Nẵng cũ) và hai xã Hòa Quý, Hòa Hải (thuộc huyện Hòa Vang cũ)(1). Quận Ngũ Hành Sơn có 3.672 ha diện tích tự nhiên và 32.533 nhân khẩu gồm 3 phường: Bắc Mỹ An, Hòa Quý và Hòa Hải. Địa giới hành chính quận Ngũ Hành Sơn: Đông giáp biển Đông; Tây giáp huyện Hòa Vang; Nam giáp tỉnh Quảng Nam; Bắc giáp quận Sơn Trà. + Thành lập quận Liên Chiểu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã Hòa Hiệp, Hòa Khánh, Hòa Minh (thuộc huyện Hòa Vang cũ)(2). Quận Liên Chiểu có 7.572 ha diện tích tự nhiên và 52.279 nhân khẩu, gồm 3 phường: Hòa Hiệp, Hòa Khánh và Hòa Minh. Địa giới hành chính quận Liên Chiểu: Đông giáp biển Đông; Tây giáp huyện Hòa Vang; Nam giáp quận huyện Hòa Vang; Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế. + Huyện Hòa Vang: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Hòa Vang có 73.749 ha diện tích tự nhiên và 132.042 nhân khẩu, gồm 14 xã: Hòa Tiến, Hòa Sơn, Hòa Phát, Hòa Thọ, Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Liên, Hòa Xuân, Hòa Nhơn, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Bắc, Hòa Ninh, Hòa Phú. Địa giới hành chính Trong đó, thành lập phường Hòa Quý trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên (1) và dân số của xã Hòa Quý gồm 1.351 ha và 8.793 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Hải trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Hải gồm 1.412 ha và 9.618 nhân khẩu. (2) Trong đó, thành lập phường Hòa Hiệp trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Hiệp gồm 5.015 ha và 20.565 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Khánh gồm 1.840 ha và 21.844 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Minh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Minh gồm 717 ha và 9.870 nhân khẩu. 233
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG huyện Hòa Vang: Đông giáp quận Liên Chiểu, Thanh Khê, Hải Châu, Ngũ Hành Sơn; Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam; Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế. + Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thành phố, Đà Nẵng có 5 quận và 2 huyện: quận Hải Châu, quận Thanh Khê, quận Sơn Trà, quận Ngũ Hành Sơn, quận Liên Chiểu, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Như vậy, thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997 theo Nghị quyết ngày 06 tháng 11 năm 1996 của Quốc hội “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”, đồng thời được Thủ tướng Chính phủ ban hành chính thức về quản lý hành chính bằng Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, ngày 23 tháng 01 năm 1997 “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Lúc mới trực thuộc Trung ương, thành phố Đà Nẵng gồm có 5 quận là: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn và 2 huyện là: Hòa Vang, Hoàng Sa. Việc Đà Nẵng tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương là một tất yếu khách quan trong lịch sử phát triển của đất nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Theo đó, Đảng bộ lâm thời Thành ủy Đà Nẵng được thành lập theo Quyết định (chỉ định) của Bộ Chính trị số 122-QĐNS/ TW, ngày 12 tháng 12 năm 1996 (khóa VIII). Lúc này, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 31 đồng chí. Đồng chí Trương Quang Được - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng lâm thời, các đồng chí Phan Như Lâm(1), Nguyễn Bá Thanh(2) làm Phó Bí thư Thành uỷ. Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã nhanh Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng, Bí thư Thành uỷ (1) Đà Nẵng (cũ). Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng, Chủ tịch Uỷ ban (2) nhân dân thành phố Đà Nẵng (cũ). 234
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) chóng đi vào hoạt động, tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào cuối tháng 10 năm 1997. Tính đến cuối năm 1996, cả nước chỉ có ba thành phố trực thuộc Trung ương: Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hải Phòng. Đầu năm 1997, Đà Nẵng được tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố thứ tư trực thuộc Trung ương. Trong lịch sử, Đà Nẵng từng trực thuộc Trung Kỳ/ Trung Bộ theo Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và “Đà Nẵng 3 quận” từng là một thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương ở Sài Gòn trong giai đoạn 1954-1975. Tuy nhiên, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong một đất nước độc lập, thống nhất, trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI) là bước chuyển mình đầy ấn tượng của Đà Nẵng trong tiến trình lịch sử. Từ khi thành phố kiến nghị được chia tách tỉnh (tháng 5 năm 1989) đến khi chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (ngày 01 tháng 01 năm 1997) cũng là khoảng thời gian Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung chuẩn bị cho mình một tâm thế cũng như những phương án chia tách tỉnh, chính vì vậy chỉ trong một thời gian rất ngắn đã nhanh chóng thống nhất được một phương án chia tách tối ưu trình Quốc hội xem xét, thông qua. Đây là một sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển của Đà Nẵng sau này. Thành phố Đà Nẵng mới, trực thuộc Trung ương có một số đặc thù về lịch sử, địa lý và trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động mà Đảng bộ thành phố đã xác định để có hướng quy hoạch, phát triển trong thời gian tới. Thứ nhất, tính đến cuối năm 1996, huyện Hòa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng là huyện được chia tách nhiều nhất để thành lập các quận mới và cho đến nay là huyện duy nhất chưa có thị trấn huyện lỵ. Một lần nữa, lịch sử lại giao phó cho 235
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Hòa Vang sứ mệnh phải xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng quê hương tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với huyện đảo Hoàng Sa, chuyển từ trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng sang trực thuộc thành phố Đà Nẵng. Thời điểm này (1997) đã là 23 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến Đà Nẵng trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh “duy nhất” trong cả nước còn nguyên một huyện bị ngoại bang xâm chiếm. Thứ hai, sau khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, so với các tỉnh, thành khác trong cả nước, thì chính quyền thành phố Đà Nẵng quản lý một quy mô dân số hết sức vừa phải: 663.115 nhân khẩu, với số đầu mối quận huyện, xã phường cũng rất gọn: 5 quận, 2 huyện và 33 phường, 14 xã. Chính đặc thù “hết sức vừa phải” và “rất gọn” này là tiền đề quan trọng để chính quyền Đà Nẵng có thể tập trung đẩy mạnh quy mô và tiến độ đô thị hóa - điều khó khả thi trong bối cảnh một thành phố trực thuộc tỉnh như trước năm 1997. Tuy nhiên, việc thành phố Đà Nẵng ít dân và có diện tích nhỏ hẹp cũng là một khó khăn, thử thách trong việc hướng đến xây dựng một thành phố lớn, là thành phố động lực của khu vực miền Trung như thị trường nhỏ hẹp, tài nguyên đất có hạn, quy mô nền kinh tế nhỏ… Nhưng xét nhiều mặt thì thực trạng dân số Đà Nẵng thập niên vừa qua vẫn phải được xem là ưu thế, là lợi thế so sánh, nhất là trong việc xử lý những vấn nạn của đô thị như giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế. Thứ ba, thời điểm thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương vào đầu năm 1997, rơi vào thời điểm khởi đầu thời kỳ suy giảm của nền kinh tế đất nước kéo dài đến hết thế kỷ XX: “Giai đoạn từ 1991 đến 1996, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng từ năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế châu Á năm 1997-1999, tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9% so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên nhưng chưa 236
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) cao và vững chắc”(1). Bởi vậy, ra riêng trong một cục diện kinh tế suy thoái như vậy, Đà Nẵng khó có thể bứt phá để nhanh chóng cải thiện điểm xuất phát thấp của mình ngay từ những năm đầu chia tách. Tuy nhiên, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực trực thuộc Trung ương đã mở ra thời kỳ mới, thành phố có nhiều điều kiện hơn trong việc phát huy các tiềm năng, thế mạnh vốn có để phát triển thành vùng động lực thúc đẩy khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Ngày 17 tháng 02 năm 1997, tại Đà Nẵng, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam và Thành ủy lâm thời Đà Nẵng tổ chức Hội nghị liên tịch để giải quyết một số vấn đề liên quan sau khi tách tỉnh. Tại hội nghị, các đồng chí lãnh đạo hai địa phương bàn bạc, thảo luận và đi đến thống nhất cách giải quyết một số vấn đề tồn đọng trong quá trình thực hiện chủ trương tách tỉnh. Hội nghị dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Nam là đồng chí Mai Thúc Lân; Bí thư Thành ủy lâm thời thành phố Đà Nẵng là đồng chí Trương Quang Được. Hầu hết các ý kiến tại Hội nghị đều cho rằng: “Quảng Nam và Đà Nẵng cùng có trách nhiệm và phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị tổng kết công tác binh vận; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, chung cho cả hai địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng; lãnh đạo hai địa phương cùng quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt một số công việc quan trọng như: Biên soạn địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng; xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (có bổ sung, chỉnh lý qua lần xuất bản sơ thảo), phân chia tài chính Đảng, về tổ chức gặp mặt các đồng chí cán bộ được Đảng cử ở lại hoạt động giai đoạn 1954-1959, về quy trình tổ chức lễ tiễn đưa các cơ quan Quảng Nam vào tỉnh lỵ Tam Kỳ, sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước. Đồng chí Mai Thúc Lân nhấn mạnh: Quảng Nam và Đà Nẵng mãi mãi giữ vững truyền Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội (1) X của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.16. 237
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG thống đoàn kết, tình anh em và hỗ trợ tích cực lẫn nhau cùng phát triển”(1). Sáng ngày 21 tháng 02 năm 1997, tại tiền sảnh Nhà hát Trưng Vương - thành phố Đà Nẵng, Thành ủy Đà Nẵng tổ chức long trọng lễ đưa tiễn các cơ quan tỉnh Quảng Nam vào làm việc tại tỉnh lỵ Tam Kỳ. Đồng thời, Thành ủy Đà Nẵng tiến hành thành lập, sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo ở các quận, huyện để thống nhất hoạt động, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Với phương châm: “Chia tỉnh nhưng không chia tình”, “Tuy hai mà một, tuy một mà hai”, chia tách là để mỗi đơn vị hành chính có điều kiện phát triển chứ không quên những hành động tốt đẹp khi cùng chung một tỉnh. Trong buổi lễ, lãnh đạo của hai đơn vị tiễn đưa nhau vào Tam Kỳ trong tình cảm lưu luyến, bùi ngùi và luôn cố gắng thực hiện khẩu hiệu: “Đà Nẵng luôn luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn”. Từ đó về sau, do Quảng Nam là tỉnh mới chia tách nên còn gặp nhiều khó khăn, nên hằng năm Đà Nẵng luôn hỗ trợ bằng nhiều hình thức khác nhau, để Quảng Nam giảm bớt một phần khó khăn và có điều kiện phát triển tốt hơn. Mối quan hệ hợp tác giữa Đà Nẵng và Quảng Nam được minh chứng sinh động qua Chương trình hợp tác, hỗ trợ giữa hai địa phương theo Kết luận số 08- KL/TUĐN-TUQN của Thành ủy Đà Nẵng và Tỉnh ủy Quảng Nam, bắt dầu triển khai từ năm 2008, thể hiện tinh thần “chia mà không tách”, hỗ trợ cùng nhau phát triển(2). Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương đã đem lại một khí thế mới, tinh thần phấn khởi cho toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới. Ngay từ đầu năm 1997, các cấp ủy đảng, chính quyền, các tầng lớp nhân dân (1) Báo Quảng Nam, số ra ngày 18 tháng 02 năm 1997. Từ năm 2008 đến năm 2020, thành phố Đà Nẵng cam kết hỗ trợ tỉnh Quảng (2) Nam mỗi năm 15 tỷ đồng với phần lớn dành để xây dựng nhà cửa cho đối tượng chính sách, hộ nghèo, đầu tư giáo dục; xúc tiến kết nối các chương trình văn hóa, lễ hội, xây dựng hạ tầng giao thông. 238
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) thành phố đã cùng ra sức, khắc phục khó khăn, phát huy truyền thống đoàn kết, tập trung sức triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, đoàn thể. Ngay sau khi được thành lập và đi vào hoạt động, với quyết tâm sớm ổn định tổ chức bộ máy và cán bộ, đảm bảo mọi hoạt động bình thường trên địa bàn thành phố, Ban Chấp hành lâm thời đã họp bàn phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ, các Ủy viên Ban Chấp hành, thông qua quy chế làm việc của Ban Chấp hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban Thường vụ Thành ủy lâm thời đã tiến hành bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các sở, ban, ngành, hình thành Ban Chấp hành lâm thời của các Hội, đoàn thể thành phố; chỉ đạo Hội đồng nhân dân thành phố họp bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các Ban của Hội đồng nhân dân, Hội thẩm nhân dân và thông qua Kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1997. Thường vụ Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã ra quyết định chỉ định thành lập Ban Chấp hành lâm thời các Quận ủy và Ủy ban nhân dân lâm thời; thành lập Ban Cán sự Đảng các sở, ban, ngành, Đảng đoàn Mặt trận và các đoàn thể, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình chỉ đạo các mặt công tác của thành phố. Đến đầu quý 2 năm 1997, bộ máy tổ chức các cấp, các ngành đã đi vào hoạt động ổn định. Công tác quản lý đảng viên, củng cố tổ chức cơ sở Đảng được tăng cường, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng được giữ vững. Ban Thường vụ Thành ủy đã ra quyết định “thành lập 24 cơ quan Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng trực thuộc Thành ủy; thành lập 4 Đảng bộ (Quân sự, Công an, Biên phòng, Dân chính Đảng), 20 Ban cán sự, 6 Đảng đoàn cấp thành phố; đề bạt, bổ nhiệm, phân công 8 đồng chí cấp trưởng, 36 đồng chí cấp phó các sở, ban, ngành và tương đương cấp thành phố. Trên cơ sở tổng biên chế do Trung ương phân bổ, Ban Thường vụ đã chỉ đạo phân bổ biên chế cho khối Đảng, đoàn thể, giao kế hoạch tài chính Đảng năm 1997 cho các quận ủy, huyện ủy, đồng thời tổ chức quán triệt các chuyên đề 239
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng”(1). Trong thời gian 9 tháng đầu năm 1997, Ban Chấp hành lâm thời thành phố đã họp 4 lần, Ban Thường vụ họp 16 lần. Trong các cuộc họp đó, vấn đề quan trọng, được thảo luận nhiều hơn cả là bàn chuyên đề về công tác cán bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy từ thành phố đến cơ sở; về công tác chuẩn bị bầu cử và nhân sự đại biểu Quốc hội (khóa X), đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các chức danh chủ chốt Ủy ban nhân dân thành phố, trước khi tiến hành Đại hội chính thức. Nhìn chung, khi chia tách thành phố trực thuộc Trung ương, việc triển khai thực hiện chủ trương của Trung ương ở Đảng bộ thành phố đảm bảo yêu cầu đề ra. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố phấn khởi, tin tưởng vào khả năng phát triển của thành phố. Hầu hết cán bộ, nhân viên khối hành chính sự nghiệp đều được phân công nhiệm vụ và yên tâm nhận công tác mới. Tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội ở các quận mới được hình thành, đi vào hoạt động đạt một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện không tránh khỏi lúng túng. Việc hình thành bộ máy các sở, ban, ngành ở thành phố và 5 quận mới gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa không đồng bộ cả về trình độ chuyên môn và cơ cấu; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Vị thế mới của thành phố đã mang lại niềm phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; thành phố Đà Nẵng có thêm sức thu hút trên một số lĩnh vực nhất định, đồng thời cũng có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tranh thủ sự quan tâm trực tiếp của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương và sự phối hợp của các địa phương bạn. Việc khai thác và phát huy Ban Chấp hành lâm thời Thành ủy Đà Nẵng: “Báo cáo số 05-BC/TU, ngày 08 (1) tháng 4 năm 1997 về tình hình công tác quý I năm 1997 và kế hoạch công tác quý 2”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. 240
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) nội lực của thành phố được tăng cường, sự đầu tư của nhân dân cho sản xuất kinh doanh, nâng cấp cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị cũng phát triển mạnh hơn. Trong bối cảnh đó, từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 1997, Đại hội lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng được tổ chức. Đây là “Đại hội mang tính kế thừa 16 nhiệm kỳ đại hội của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng thời là đại hội đặt cột mốc đầu tiên trên chặng đường phát triển mới của thành phố”(1). Tham dự Đại hội có 259 đại biểu thay mặt cho hơn 21.000 đảng viên ở 7 đảng bộ quận, huyện và 12 đảng bộ trực thuộc. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị về đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI và tập trung trí tuệ phân tích thực trạng, triển vọng và những vấn đề mới nảy sinh, đề ra phương hướng phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị cho các năm 1997-2000. Vấn đề cấp thiết được đặt ra tại Đại hội là làm thế nào để Đà Nẵng phải phát triển nhanh, tăng trưởng mạnh và cất cánh đi lên, xứng tầm là một thành phố trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên, Đảng bộ lâm thời Đà Nẵng đã tập trung sức lực, trí tuệ để giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết lúc bấy giờ là: Ổn định cơ cấu, bộ máy; vạch ra các phương hướng thiết thực cho sự phát triển kinh tế; tập trung nguồn lực cho sự quy hoạch, phát triển đô thị. Báo cáo chính trị của Đại Hội nêu rõ những thành tựu quan trọng trong 5 năm cuối cùng trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Đà Nẵng đã có những sự phát triển khá toàn diện về mọi mặt. Về kinh tế, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp quốc doanh Trung ương và công nghiệp ngoài quốc doanh, kim ngạch xuất khẩu đều tăng trên 13,%. Các ngành điện, nước, thực phẩm, dệt may tăng trưởng khá. Mạng lưới điện thoại, bưu chính viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa. (1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: sđd, 2013, tr. 44. 241
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Hoạt động thương mại - dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng, kinh tế đối ngoại từng bước được củng cố. Về văn hóa - xã hội, Thành ủy quán triệt và vận dụng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) vào việc định ra các chủ trương, chính sách của thành phố, đạt nhiều kết quả khả quan. Thành ủy đã có chủ trương thể chế hóa lĩnh vực khoa học, công nghệ thành các chương trình lớn để thực hiện. Các ngành giáo dục - đào tạo, hoạt động văn hóa văn nghệ, báo chí xuất bản có nhiều tiến bộ. Nhiều hoạt động xã hội như giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bài trừ tệ nạn xã hội có những chuyển biến. Thành phố chăm lo thực hiện chế độ cho các đối tượng chính sách. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm lo sức khỏe nhân dân có hiệu quả và được cải thiện rõ nét. Về quốc phòng - an ninh, tiếp tục động viên nhân dân tích cực tham gia củng cố thế trận quốc phòng toàn dân. Kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh. Thường xuyên tiến hành phối hợp hoạt động giữa các lực lượng vũ trang với các đoàn thể chính trị xã hội, làm tốt công tác vận động quần chúng. Về công tác xây dựng Đảng, Thành ủy tiếp tục thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII); tổ chức học tập các Nghị quyết của Đảng, tạo sự nhất trí cao với chủ trương chia tách tỉnh, động viên cán bộ khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các mặt hoạt động. Thành ủy kiện toàn hệ thống chính trị gồm cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể từ thành phố đến các quận, huyện. Đảng bộ đã lãnh đạo việc tổ chức đại hội các đoàn thể, chỉ đạo tổng kết thực tiễn phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tổng kết Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, triển khai Chỉ thị số 62/CT-TW của Ban Bí thư (khóa VII). Mặt trận và đoàn thể các cấp có nhiều cố gắng ổn định bộ máy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp thêm được nhiều quần chúng vào tổ chức. 242
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) Báo cáo xác định tư tưởng chỉ đạo phát triển Đà Nẵng là theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chú trọng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với củng cố quan hệ sản xuất mới, năng động đi đôi với kỷ cương, tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, đô thị hóa gắn với bảo đảm môi trường sinh thái, môi trường nhân văn. Đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, chọn các ngành sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là chính, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng mạnh, bền vững, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập. Huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Tích cực khai thác và phát huy năng lực nội sinh, đi đôi với tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, coi khoa học công nghệ và giáo dục là động lực phát triển. Gắn phát triển kinh tế - xã hội với giữ vững quốc phòng - an ninh, củng cố hệ thống chính trị. Đại hội đề ra phương hướng chung phát triển thành phố trong 4 năm 1997-2000 là: Khắc phục khó khăn, khai thác mọi tiềm năng và lợi thế, huy động mọi nguồn lực, lấy “phát triển kinh tế làm trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh vững mạnh, phát huy sức mạnh tổng hợp và ý chí tự lực, tự cường của khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng thành phố Đà Nẵng phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội đã nhất trí thông qua các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội đến cuối năm 2000 là: “Tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm 15-16%, đến cuối năm 2000 đạt mức GDP bình quân đầu người khoảng 700 USD. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân từ 18-20%/năm. Giá trị thương mại, du lịch, dịch vụ tăng 16-17%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 27- 28%. Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân 243
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG hằng năm 5-6%/năm. Thu ngân sách địa phương tăng bình quân trên 12%/năm. Giảm tỷ suất sinh bình quân 0,06%/năm. Giảm hộ nghèo còn 2% vào cuối năm 2000”(1). Để đạt được những mục tiêu nêu trên, Đại hội đề ra những nhiệm vụ và giải pháp sau: Thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nhằm phát triển kinh tế thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế là: công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ - nông nghiệp (bao gồm cả lâm - ngư nghiệp), đến cuối năm 2000 đạt tỷ trọng tương ứng 36,6% - 56,7% - 6,7%. Phát triển thương mại - du lịch - dịch vụ, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng bình quân 16-17%/năm. Phát triển mạnh dịch vụ cảng biển, nâng công suất cụm cảng tổng hợp Đà Nẵng, trong đó riêng Cảng Tiên Sa đạt 3 triệu tấn/năm vào cuối năm 2000. Phấn đấu đưa giá trị sản lượng thủy sản - nông - lâm tăng từ 5-6%/năm. Về lâm nghiệp, đẩy mạnh giao đất, giao rừng gắn với định canh, định cư và Chương trình 327. Mở rộng hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao hiệu quả các hoạt động tài chính - ngân hàng. Củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác đa dạng trong các ngành và lĩnh vực kinh tế theo tinh thần của Chỉ thị số 68/CT-TW. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội. Để làm cho giáo dục - đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Nỗ lực giải quyết tốt hơn những vấn đề văn hóa - xã hội với tăng cường kinh tế. Tăng cường hiệu lực quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu không còn hộ đói, giảm hộ nghèo từ 8% xuống còn 2% vào cuối năm 2000, mỗi năm ít nhất có thêm 16.000 lao động có việc làm, nâng cao dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt cho người nghèo. Đảm bảo vững chắc quốc (1) Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng: tlđd, tr. 59. 244
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) phòng - an ninh. Kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và hội quần chúng. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, lấy xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ (khóa XVII) gồm 45 đồng chí. Ngay sau khi có kết quả bầu Ban Chấp hành chính thức, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa XVII) họp phiên đầu tiên để bầu Ban Thường vụ Thành ủy; bầu Bí thư, các Phó Bí thư và bầu Ủy Ban Kiểm tra Thành ủy. Với tinh thần dân chủ, đoàn kết, Ban Chấp hành mới đã bầu Ban Thường vụ Thành ủy (khóa XVII) gồm 11 đồng chí, trong đó đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội khoá X, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố được bầu lại làm Bí thư Thành ủy, đồng chí Phan Như Lâm và đồng chí Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố được bầu lại làm Phó Bí thư Thành ủy; bầu vào Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ gồm 9 đồng chí do đồng chí Phùng Văn Thành - Uỷ viên Ban Thường vụ (khoá XVII) làm Chủ nhiệm. Đến tháng 02 năm 2000, đồng chí Phan Diễn - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, được Bộ Chính trị phân công về giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng thay cho đồng chí Trương Quang Được đi nhận công tác ở Trung ương. Lúc này, đồng chí Phan Như Lâm - Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ, đảm nhận chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố. Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đưa ra những vấn đề cốt lõi, bằng mọi biện pháp tích cực, các bước đi thích hợp, phát huy cao hơn, hiểu quả hơn mọi tiềm năng và lực lượng để thành phố phát triển với tốc độ nhanh và bền chắc, sớm vươn lên xứng đáng với vai trò của một trung tâm về nhiều mặt ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây 245
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015): Phần 1
225 p | 65 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015): Phần 2
264 p | 12 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015): Phần 1
224 p | 10 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1954-1975): Phần 2 (Tập 2)
80 p | 11 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1925-1954): Phần 2 (Tập 1)
125 p | 12 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1925-1954): Phần 1 (Tập 1)
108 p | 10 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ quận Hải Châu (1930-2015): Phần 2
169 p | 9 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1954-1975): Phần 1 (Tập 2)
112 p | 8 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Thạch Thang (1930-2015): Phần 2
186 p | 3 | 2
-
Nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường chính trị thành phố Đà Nẵng
3 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn