intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp

Chia sẻ: ViDoraemi2711 ViDoraemi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

69
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đánh giá chất lượng đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng đối với một cơ sở đào tạo đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mục đích chính của nghiên cứu này nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing dựa trên kết quả khảo sát 320 sinh viên tốt nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp

Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CỦA KHOA MARKETING,<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING<br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÓM SINH VIÊN TỐT NGHIỆP<br /> <br /> TRAINING QUALITY ASSESSMENT OF MARKETING IN MARKETING -<br /> FINANCE UNIVERSITY: THE RESULTS FROM A SURVEY OF STUDENTS<br /> GRADUATED FROM THE FACULTY OF MARKETING<br /> Dư Thị Chung1<br /> Ngày nhận: 29/3/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/4/2018 Ngày đăng: 5/8/2018<br /> Tóm tắt<br /> <br /> Đánh giá chất lượng đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng đối với một cơ sở đào tạo<br /> đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mục đích chính của nghiên cứu này nhằm<br /> xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài<br /> chính – Marketing dựa trên kết quả khảo sát 320 sinh viên tốt nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng<br /> phần mềm SPSS 22.0 để xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy<br /> rằng có bảy nhân tố với 25 tiêu chí được xác định và có ý nghĩa tác động đến sự hài lòng về chất<br /> lượng đào tạo ngành Marketing, trong đó nhân tố Chương trình đào tạo có tác động mạnh nhất.<br /> Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại Khoa<br /> Marketing.<br /> <br /> Từ khóa: Đánh giá chất lượng, chất lượng đào tạo, đào tạo đại học.<br /> <br /> Abstract<br /> <br /> Quality assessment of higher education has been playing an important role in the university for<br /> the sake of improving training quality. The main purpose of this research is to identify the factors<br /> affecting faculty of Marketing’s training quality assessment, university of Finance and Marketing<br /> basing on a survey of 320 students graduated from the faculty of Marketing. SPSS version 22.0<br /> has chosen for processing and analyzing the data. The empirical findings show that seven groups<br /> of factors – representing for 25 items have expressed their significant effects to perceived<br /> training quality for the discipline of Marketing, in which the most affected factor is the training<br /> program. As the result from this work, some solutions proposed to upgrade faculty of<br /> Marketing’s quality of training.<br /> <br /> Keywords: Quality assessment, training quality, higher education.<br /> <br /> <br /> <br /> 1 Trường Đại học Tài chính – Marketing<br /> 37<br /> 1. Giới thiệu nhất tại văn bản hợp nhất số 06/VBHN-<br /> BGDĐT ngày 04/03/2014 của Bộ giáo dục<br /> Chất lượng đào tạo là một trong những<br /> và Đào tạo. Trong những năm gần đây,<br /> vấn đề đáng quan tâm nhất của các cơ sở<br /> trường Đại học Tài chính – Marketing nói<br /> giáo dục và đào tạo, nhất là các cơ sở giáo<br /> chung và khoa Marketing nói riêng cũng<br /> dục đại học. Nhiệm vụ quan trọng của các<br /> đã từng bước áp dụng các mô hình đánh<br /> trường đại học, cao đẳng là đào tạo nguồn<br /> giá chất lượng đào tạo, điển hình như mô<br /> nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội và<br /> hình đánh giá chất lượng AUN (ASEAN<br /> người học. Việc đánh giá chất lượng đào<br /> University Network) và Kiểm định của Bộ<br /> tạo là vô cùng cần thiết cho việc đổi mới<br /> Giáo dục và Đào tạo. Xuất phát từ thực<br /> và nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt<br /> tiễn đào tạo và nhu cầu nâng cao chất<br /> trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập hiện<br /> lượng đào tạo đối với khoa Marketing,<br /> nay.<br /> nghiên cứu này được tiến hành với mục<br /> Trong dịch vụ giáo dục đào tạo thì các đích trọng tâm là đánh giá phản hồi của<br /> trường đại học là nhà cung cấp còn người sinh viên tốt nghiệp về chất lượng đào tạo<br /> học là khách hàng. Elliott & Shin (2002) của Khoa. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu:<br /> cho rằng các trường đại học cũng thuộc (i) Xác định các nhân tố đánh giá chất<br /> ngành dịch vụ mà nhiệm vụ chính là đáp lượng đào tạo của Khoa Marketing, (ii) Đo<br /> ứng nhu cầu và mong đợi của sinh viên. lường mức độ tác động của các nhân tố<br /> Đối với người học, chất lượng đào tạo chất lượng đào tạo đến sự hài lòng của<br /> được xem như một trong yếu tố đầu tiên sinh viên tốt nghiệp và (iii) Nghiên cứu đề<br /> tác động đến việc chọn trường đại học xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo<br /> cũng như sự hài lòng của sinh viên trong của khoa Marketing.<br /> quá trình học tập và sau khi hoàn thành<br /> 2. Tổng quan nghiên cứu, khung lý<br /> khóa học. Elliott & Shin (2002) cũng đã<br /> thuyết và phương pháp nghiên cứu<br /> chỉ ra rằng sự hài lòng của sinh viên có tác<br /> động tích cực đến ý định học tiếp trong 2.1 Khái niệm về chất lượng đào tạo<br /> tương lai của sinh viên và các nỗ lực tuyển Chất lượng luôn là vấn đề quan trong<br /> dụng của nhà trường vì thế các nghiên cứu nhất của tất cả các trường đại học, và việc<br /> về phản hồi của người học là rất cần thiết. phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao<br /> Hoạt động đánh giá chất lượng đào tạo là giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan<br /> một xu hướng tất yếu trên thế giới cũng trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học<br /> như ở Việt Nam, vì thế ngày 01/11/2007, nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy<br /> Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhưng chất lượng đào tạo vẫn là một khái<br /> Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT liên niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo<br /> quan đến các tiêu chuẩn đánh giá chất lường, và có nhiều cách hiểu khác nhau<br /> lượng giáo dục trường đại học và được bổ cũng như rất nhiều tranh luận xung quanh<br /> sung theo thông tư số 37/2012/TT- vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn về<br /> BGDĐT ngày 30/10/2012 và được hợp chất lượng đào tạo.<br /> 38<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> Chất lượng đào tạo trong giáo dục đại được đánh giá bằng đầu vào, đây chính là<br /> học theo định nghĩa của Harvey & Green trình độ của sinh viên được tuyển chọn<br /> (1993) được thể hiện ở năm khía cạnh: sự vào trường. Thứ hai, chất lượng giáo dục<br /> xuất sắc, sự hoàn hảo, sự phù hợp với mục được đánh giá bằng đầu ra hay chính là<br /> tiêu, sự đáng giá với chi phí bỏ ra, và sự sản phẩm của giáo dục đại học được thể<br /> chuyển đổi về chất. Trong khi đó, tổ chức hiện bằng mức độ hoàn thành công việc<br /> quốc tế về đảm bảo chất lượng giáo dục của sinh viên tốt nghiệp hay khả năng<br /> đại học (INQAHE) đưa ra một định nghĩa cung cấp các hoạt động đào tạo của trường<br /> khác về chất lượng đào tạo, cụ thể: Chất đó. Thứ ba, chất lượng giáo dục được đánh<br /> lượng đào tạo đại học (hay giáo dục đại giá bằng giá trị gia tăng: “Giá trị gia tăng”<br /> học) là tuân theo các chuẩn quy định, hoặc được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ<br /> nếu chưa có bộ tiêu chí chuẩn quy định về đi giá trị của “đầu vào”, kết quả thu được<br /> chất lượng thì tổ chức giáo dục phải “đạt là “giá trị gia tăng” mà trường đại học đã<br /> được mục tiêu đề ra”. Những chuẩn quy đem lại cho sinh viên và được đánh giá là<br /> định hay mục tiêu đề ra được xây dựng bởi chất lượng giáo dục đại học. Thứ tư, chất<br /> cơ quan quản lý giáo dục dựa trên các điều lượng giáo dục được đánh giá bằng giá trị<br /> kiện kinh tế, xã hội đặc thù của địa học thuật: chủ yếu dựa vào sự đánh giá<br /> phương. Chất lượng đào tạo cũng có thể của các chuyên gia về năng lực học thuật<br /> hiểu là đạt được mục tiêu và đáp ứng của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng<br /> mong đợi của các bên liên quan (Lê Thị trường trong quá trình thẩm định công<br /> Linh Giang, 2014). Bộ Giáo dục và Đào nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều này<br /> tạo (2007) đã ban hành bộ tiêu chuẩn đánh có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ<br /> giá chất lượng đào tạo ở trường đại học giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học<br /> với tên gọi “Quy định về tiêu chuẩn đánh cao thì được xem là trường có chất lượng<br /> giá chất lượng giáo dục trường đại học”. cao. Thứ năm, chất lượng giáo dục được<br /> Trong đó, chất lượng giáo dục đại học đánh giá bằng văn hóa tổ chức riêng: “Văn<br /> được định nghĩa cụ thể như sau: “Chất hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình<br /> lượng giáo dục ở trường đại học là sự đáp liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một<br /> ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm trường được đánh giá là có chất lượng khi<br /> bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với<br /> học của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu nét đặc trưng quan trọng là không ngừng<br /> cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát nâng cao chất lượng đào tạo. Cuối cùng,<br /> triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả chất lượng giáo dục được đánh giá bằng<br /> nước”. kiểm định: Quan điểm này xem trọng quá<br /> trình bên trong trường đại học và nguồn<br /> Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng<br /> thông tin cung cấp cho việc ra quyết định.<br /> giáo dục tại Việt Nam đã đúc kết sáu quan<br /> Nếu kiểm toán tài chính xem xét các tổ<br /> điểm về chất lượng trong giáo dục đại học<br /> chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính<br /> như sau: Thứ nhất, chất lượng giáo dục<br /> hợp lý không, thì kiểm định chất lượng<br /> 39<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> quan tâm xem các trường đại học có thu Hướng thứ hai, các nhà nghiên cứu đánh<br /> thập đủ thông tin phù hợp và những người giá mối quan hệ giữa chất lượng đào tạo<br /> ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay với các yếu tố khác ví dụ chất lượng đào<br /> không, quá trình thực hiện các quyết định tạo và sự hài lòng của học viên (Diamantis<br /> về chất lượng có hợp lý và hiệu quả và Benos, 2007; Bùi Ngọc Ánh và Đào<br /> không. Thị Hồng Vân, 2013; Nguyễn Thị Bảo<br /> Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013; Phan<br /> Dựa trên những khái niệm khác nhau<br /> Thị Thanh Hằng, 2014; Trần Xuân Kiên,<br /> về chất lượng đào tạo ở Việt Nam cũng<br /> 2006) hay chất lương đào tạo và cảm nhận<br /> như trên thế giới, có thể nhận thấy rằng<br /> về chất lượng đào tạo (Clemenz, 2001;<br /> đánh giá chất lượng đào tạo là hoạt động<br /> Huỳnh Trường Huy và Nguyễn Nhật<br /> nhằm xác định lại việc thực hiện đào tạo<br /> Khiêm, 2012). Diamantis và Benos (2007)<br /> có đáp ứng được mục tiêu đào tạo do cơ sở<br /> đã nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên<br /> đào tạo đề ra hay không. Một trong các<br /> Khoa Quốc tế và Châu Âu. Kết quả nghiên<br /> mục tiêu quan trọng của cơ sở giáo dục đại<br /> cứu cho thấy sự hài lòng của sinh viên bị<br /> học là đáp ứng được nhu cầu và mọng đợi<br /> ảnh hưởng bởi cả 4 yếu tố: chương trình<br /> của người học về chất lượng đào tạo, vì<br /> đào tạo, yếu tố hữu hình, hỗ trợ hành<br /> thế nghiên cứu về phản hồi, đánh giá của<br /> chính và hình ảnh của Khoa. Clemenz<br /> người học là một hoạt động cần thiết của<br /> (2001) với đề tài “Đo lường cảm nhận về<br /> cơ sở đào tạo đại học. Khoa Marketing,<br /> chất lượng dịch vụ trong đào tạo các<br /> trường Đại học Tài chính – Marketing là<br /> nghiệp vụ khách sạn”, sử dụng mô hình<br /> một trong những khoa đang tham gia vào<br /> SERQUAL. Kết quả nghiên cứu cho thấy<br /> đánh giá chương trình đào tạo theo tiêu<br /> được 9 nhóm nhân tố ảnh hưởng đế chất<br /> chuẩn mạng lưới các trường đại học Đông<br /> lượng đào tạo ngành du lịch, bao gồm:<br /> Nam Á (AUN-QA), vì thế nghiên cứu về<br /> môi trường đào tạo, tổ chức đào tạo, sự<br /> phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chất<br /> đồng cảm, tính thực tế, sự tương tác, tính<br /> lượng đào tạo là một vấn đề cần thiết. Kết<br /> hữu hình, trách nhiệm, sự tin cậy và sự<br /> quả nghiên cứu vừa là minh chứng cho<br /> thoải mái. Nghiên cứu của Bùi Ngọc Ánh<br /> công tác kiểm định và là cơ sở để khoa<br /> và Đào Thị Hồng Vân (2013) cho thấy<br /> Marketing có thể nâng cao chất lượng đào<br /> thành phần chất lượng đào tạo tác động<br /> tạo trong thời gian tới.<br /> đến sự hài lòng của sinh viên, theo thứ tự<br /> 2.2 Một số nghiên cứu về chất lượng từ cao xuống thấp, đó là: Chương trình<br /> đào tạo đào tạo, cơ sở vật chất, năng lực phục vụ<br /> Các nghiên cứu liên quan đến chất và nhân tố giảng viên.<br /> lượng đào tạo tập trung vào các nhóm, thứ Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị<br /> nhất là các nghiên cứu nhằm khái niệm Bích Châu (2013) thực hiện đề tài “Đánh<br /> hóa và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất giá mức độ hài lòng của sinh viên khối<br /> lượng đào tạo (Lê Thị Linh Giang, 2014; ngành Kinh tế đối với chất lượng đào tạo<br /> Phạm Lê Hồng Nhung và cộng sự, 2012).<br /> 40<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> của Khoa Kinh tế & Quản trị Kinh doanh, ngũ giảng viên, (iv) khả năng thực hiện<br /> Trường Đại học Cần Thơ”. Kết quả nghiên cam kết, và (v) sự quan tâm của nhà<br /> cứu đã chỉ ra 2 nhóm có ảnh hưởng đến sự trường. Tác giả đã sử dụng phương pháp<br /> hài lòng của sinh viên, đó là: tác phong, phân tích nhân tố để sàng lọc và nhóm các<br /> năng lực của giảng viên và cơ sở vật chất nhân tố có tác động đến sự hài lòng về<br /> trong đó, sự ảnh hưởng của nhóm tác chất lượng đào tạo. Kết quả phân tích cho<br /> phong, năng lực của giảng viên có ảnh thấy rằng thành phần nhân tố về sự nhiệt<br /> hưởng mạnh hơn. tình của giảng viên đóng vai trò quan<br /> trọng nhất dẫn đến sự hài lòng của sinh<br /> Phan Thị Thanh Hằng (2014) với đề<br /> viên.<br /> tài “Sự hài lòng của học sinh – sinh viên<br /> về chất lượng chương trình đào tạo tại Qua quá trình nghiên cứu tài liệu, tổng<br /> trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại” được hợp và đánh giá các đề tài nghiên cứu liên<br /> thực hiện trên cơ sở mô hình chất lượng quan, nhóm nghiên cứu nhận xét thấy mặc<br /> dịch vụ của Parasuraman & ctg (1998) và dù có nhiều đề tài khác nhau sử dụng các<br /> mô hình sự hài lòng của sinh viên theo nhóm nhân tố khác nhau nhưng hầu hết<br /> Diamantis và Benos (2007). Kết quả đề tài các thang đo chất lượng đào tạo đều có<br /> cho thấy sự hài lòng của sinh viên về chất chung đặc điểm, đó là các nhân tố đều<br /> lượng chương trình đào tạo tại bị tác động xoay quanh hoặc thể hiện được 5 nhân tố<br /> nhiều nhất bởi nhóm giảng viên và chương của thang đo chất lượng dịch vụ của<br /> trình đào tạo hơn là nhóm yếu tố cơ sở vật Parasuraman và cộng sự (1988), bao gồm:<br /> chất và các hoạt động hỗ trợ. hữu hình, đáp ứng, đảm bảo, tin cậy và<br /> đồng cảm. Các nhân tố này được điều<br /> Trong nghiên cứu về đánh giá sự hài<br /> chỉnh và đặt tên lại trong các nghiên cứu<br /> lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo<br /> về chất lượng đào tạo, cũng như bổ sung<br /> tại trường đại học kinh tế và quản trị kinh<br /> thêm các nhân tố khác dựa trên các nghiên<br /> doanh, Đại học Thái Nguyên, Trần Xuân<br /> cứu trước đây. Từ cơ sở này, mô hình<br /> Kiên (2006) đã khảo sát 260 sinh viên tại<br /> nghiên cứu được đề xuất như sau bao gồm<br /> trường và sử dụng công cụ thang đo<br /> bảy nhân tố: Cơ sở vật chất, Sự đồng cảm,<br /> SERVQUAL, kết quả biến thể qua năm<br /> Sự tin cậy, Sự bảo đảm, Chương trình đào<br /> thành phần: (i) cơ sở vật chất, (ii) sự nhiệt<br /> tạo, Kết quả mong đợi và nhân tố Giảng<br /> tình của giảng viên, (iii) trình độ của đội<br /> viên.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 41<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất<br /> <br /> <br /> <br /> Cơ sở vật chất<br /> <br /> H1(+)<br /> <br /> <br /> <br /> Sự đồng cảm<br /> <br /> H2(+)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Sự tin cậy<br /> H3(+)<br /> Sự hài lòng về<br /> chất lượng đào tạo của<br /> H4(+)<br /> Khoa Marketing<br /> Sự đảm bảo<br /> <br /> H5(+)<br /> <br /> <br /> <br /> Chương trình đào tạo<br /> H6(+)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Kết quả mong đợi H7(+)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giảng viên<br /> <br /> <br /> 2.3 Khung lý thuyết và phương pháp SERVQUAL gồm năm thành phần chính –<br /> nghiên cứu tin cậy, đáp ứng, đảm bảo, đồng cảm, và<br /> phương tiện hữu hình. Một biến thể của<br /> Xây dựng thang đo<br /> SERVQUAL chính là công cụ đo lường<br /> Chất lượng dịch vụ nói chung và chất chất lượng dịch vụ dựa trên cảm nhận của<br /> lượng đào tạo (giáo dục) nói riêng từ lâu khách hàng SERVPERF được đề xuất bởi<br /> đã trở thành chủ đề được nhiều nhà nghiên Cronin và Taylor (1992). Mô hình này<br /> cứu quan tâm và đánh giá với nhiều cũng dựa trên năm thành phần chính của<br /> phương pháp khác nhau. Điển hình nhất công cụ (Parasuraman và cộng sự, 1988).<br /> trong số đó là mô hình chất lượng dịch vụ Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai công<br /> do Parasuraman và cộng sự (1988) đề<br /> cụ đó là cách thức đo lường. Parasuman và<br /> xuất, thường được biết đến với công cụ cộng sự (1988) đo lường chất lượng dịch<br /> 42<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> vụ dựa vào sự khác biệt giữa cảm nhận và Nghiên cứu sơ bộ: Sử dụng phương<br /> kỳ vọng, trong khi đó Cronin và Taylor pháp nghiên cứu định tính với kỹ thuật<br /> (1992) đo lường chỉ dựa vào cảm nhận của thảo luận nhóm bao gồm 8 sinh viên tốt<br /> đối tượng tham gia đánh giá. Cho đến nay, nghiệp từ hai chuyên ngành Quản trị<br /> cả hai phương pháp trên có thể được sử marketing và Quản trị thương hiệu. Giai<br /> dụng đồng thời và chưa có bằng chứng đoạn nghiên cứu này nhằm điều chỉnh và<br /> nào cho thấy phương pháp thứ nhất tối ưu bổ sung biến quan sát cho thang đo chất<br /> hơn phương pháp thứ hai. Tuy nhiên, lượng đào tạo theo quan điểm của cựu<br /> trong thực tế người tham gia đánh giá sinh viên.<br /> thường gặp khó khi phân biệt giữa cảm<br /> Nghiên cứu chính thức: Sử dụng<br /> nhận và kỳ vọng. Điều này dẫn đến sự phương pháp nghiên cứu định lượng với<br /> khác biệt giữa hai tiêu chí này dường như qui mô mẫu là 320, mẫu được chọn theo<br /> không đáng kể. Trong trường hợp như thế, phương pháp thuận tiện, kỹ thuật thu thập<br /> công cụ SERVPERF có vẻ phù hợp hơn dữ liệu thông qua bảng câu hỏi bằng cách<br /> do đặc điểm đơn giản của nó. Vì vậy, công phát bảng hỏi trực tiếp. Thời gian tiến<br /> cụ SERVPERF sẽ được chọn và kế thừa hành khảo sát từ ngày 14/07 đến<br /> các nghiên cứu trước về chất lượng đào 21/07/2017 trong đợt sinh viên tập trung<br /> tạo để tiến hành đánh giá chất lượng đào nhận bằng tốt nghiệp tại trường. Dữ liệu<br /> tạo đối với ngành Marketing. Thang đo sơ<br /> sau khi thu thập được nhập liệu, làm sạch<br /> bộ sẽ được đưa vào thảo luận nhóm với và phân tích độ tin cậy của thang đo bằng<br /> các sinh viên tốt nghiệp để điều chỉnh các phương pháp xác định hệ số Cronbach’s<br /> thang đo, làm cơ sở thiết kế bảng câu hỏi. Alpha và phân tích nhân tố khám phá<br /> Trong bảng câu hỏi, các thành phần thang EFA. Phân tích tương quan và hồi quy đa<br /> đo thể hiện qua các phát biểu được hỏi với biến được sử dụng nhằm kiểm định các giả<br /> thang Likert với năm mức độ tương ứng 1: thuyết nghiên cứu và đánh giá mức độ tác<br /> Rất không đồng ý đến 5: Rất đồng ý. động của các nhân tố độc lập đến biến phụ<br /> Thang đo Sự hài lòng của sinh viên về thuộc. Tiêu chuẩn chọn hệ số Cronbach’s<br /> chất lượng đào tạo được kế thừa từ nghiên<br /> Alpha lớn hơn hoặc bằng 0.6 (Slater,<br /> cứu của Phan Thị Thanh Hằng (2014) gồm 1995), hệ số tương quan biến tổng phải đạt<br /> 3 biến quan sát và sử dụng thang đo Likert trên 0.3 (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị<br /> (5 mức độ) để đặt câu hỏi. Mai Trang, 2011). Phân tích nhân tố khám<br /> Phương pháp nghiên cứu phá (EFA) phải thỏa điều kiện hệ số<br /> KMO: 0.5 ≤ KMO ≤ 1, với mức ý nghĩa<br /> Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu đánh<br /> kiểm định Barlett ≤ 0.05. Phương pháp<br /> giá của sinh viên tốt nghiệp về chất<br /> trích nhân tố sử dụng là Principal<br /> lượng đào tạo của khoa Marketing<br /> Component và phép xoay là Varimax. Số<br /> (ngành Marketing), trường Đại học Tài<br /> lượng nhân tố sẽ nhận tại điểm dừng Eigen<br /> chính – Marketing được thực hiện thông<br /> –value tối thiểu bằng 1, yêu cầu về tổng<br /> qua hai giai đoạn:<br /> 43<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> phương sai trích đạt trên 50%, hệ số tải 13DMA3, 13DMA4, 13DMA5, 13DMA6<br /> nhân tố trong đề tài chọn mức là lớn hơn và 13DQH bao gồm 164 người, chiếm<br /> hoặc bằng 0.4. 51.2%. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành<br /> Marketing tổng hợp (nay đã đổi tên là<br /> 3. Kết quả và thảo luận<br /> chuyên ngành Quản trị marketing) có 250<br /> Đặc điểm của mẫu nghiên cứu sinh viên với tỷ lệ là 78.1%; Chuyên<br /> Tổng số mẫu đưa vào phân tích là 320 ngành Quản trị thương hiệu là 70 sinh<br /> sinh viên, trong đó có 259 sinh viên nữ, viên, chiếm 21.9%. Trên thực tế, trong các<br /> chiếm tỷ lệ 80,9%; sinh viên nam tốt năm qua, số lượng sinh viên chuyên ngành<br /> nghiệp là 61 người, chiếm 19.1%. Số Marketing tổng hợp luôn nhiều hơn so với<br /> lượng hai nhóm sinh viên theo giới tính có chuyên ngành Quản trị thương hiệu. Kết<br /> sự chênh lệch rõ rệt, đây không phải là lỗi quả xếp loại học tập toàn khóa được chia<br /> do chọn mẫu bị lệch mà do đặc thù sinh thành bốn nhóm: Xếp loại xuất sắc toàn<br /> viên nữ có tỷ lệ theo học cao hơn sinh viên khóa có 1 sinh viên, chiếm tỷ lệ rất nhỏ<br /> nam tại trường nói chung và khoa với 0.3%; nhóm xếp loại giỏi có 24 sinh<br /> Marketing nói riêng. Về số lượng sinh viên, chiếm 7.5%; nhóm tốt nghiệp loại<br /> viên theo khóa học tham gia khảo sát có khá có số lượng nhiều nhất với 279 sinh<br /> 156 sinh viên Khóa 12D (12DMA1, viên tương đương với 87.2% và nhóm tốt<br /> 12DMA2, 12DQH), chiếm tỷ lệ 48.8% nghiệp trung bình là 16 sinh viên, chiếm<br /> trên tổng số mẫu khảo sát. Khóa 13D, bao 5% trong tổng mẫu điều tra.<br /> gồm 07 lớp: 13DMA1, 13DMA2,<br /> Bảng 1. Thông tin về mẫu khảo sát<br /> Thông tin đáp viên Tần số Tỷ lệ<br /> Nam 61 19.1%<br /> Giới tính Nữ 259 80.9%<br /> Tổng số 320 100.0%<br /> Khóa 12D 156 48.8%<br /> Khóa học Khóa 13D 164 51.2%<br /> Tổng số 320 100.0%<br /> Marketing tổng hợp 250 78.1%<br /> Chuyên ngành Quản trị thương hiệu 70 21.9%<br /> Tổng số 320 100.0%<br /> Xuất sắc 1 0.3%<br /> Giỏi 24 7.5%<br /> Xếp loại<br /> Khá 279 87.2%<br /> học tập<br /> Trung bình 16 5.0%<br /> Tổng số 320 100.0%<br /> Nguồn: Kết quả khảo sát<br /> <br /> 44<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> Kết quả kiểm định thang đo 0.719; số Sig của kiểm định Bartlett’s =<br /> 0.00 (nhỏ hơn 0.05). Kết quả rút trích<br /> Kiểm định thang đo bằng hệ số<br /> được 7 nhân tố độc lập tại điểm dừng<br /> Cronbach’s Anpha cho kết quả các nhân<br /> Eigenvalue = 1.651 (lớn hơn 1), tổng<br /> tố đều đạt yêu cầu với hệ số Cronbach’s<br /> phương sai trích = 69.215% (lớn hơn<br /> Alpha của các nhân tố lớn hơn 0.7, thể<br /> 50%), tất cả các biến quan sát đều có hệ<br /> hiện thang đo có mức độ đo lường tốt, hệ<br /> số tải nhân tố lớn hơn 0.6. Nhân tố Sự<br /> số tương quan biến – tổng đều lớn hơn<br /> hài lòng của sinh viên cũng được rút gọn<br /> 0.3, không có biến quan sát nào bị loại<br /> thành một nhân tố, giữ nguyên so với ban<br /> khỏi mô hình. Kết quả phân tích nhân tố<br /> đầu với tới tiêu chí KMO = 0.727, số Sig<br /> khám phá EFA với các biến độc lập cho<br /> của kiểm định Bartlett’s = 0.00 (nhỏ hơn<br /> thấy các điều kiện cho phân tích nhân tố<br /> 0.05). (Kết quả thể hiện trong bảng 2).<br /> là phù hợp với kết quả hệ số KMO =<br /> Bảng 2: Tổng hợp hệ số tải nhân tố và độ tin cậy tổng hợp của thang đo<br /> Hệ số tải nhân tố<br /> Nhân tố (biến độc lập)<br /> 1 2 3 4 5 6 7<br /> Chương trình đào tạo - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.842,<br /> Khoa cung cấp đầy đủ các thông tin thông báo liên quan<br /> 0.834<br /> đến chương trình đào tạo<br /> Nội dung giáo trình, bài giảng môn học đáp ứng tốt mục<br /> 0.817<br /> tiêu môn học<br /> Khoa sẵn sàng hỗ trợ sinh viên tiếp cận giáo trình và tài<br /> 0.797<br /> liệu cần thiết khác của môn học<br /> Các môn học trong chương trình đào tạo có thời lượng phù<br /> 0.735<br /> hợp<br /> Chương trình đào tạo đáp ứng được yêu cầu thực tế đối<br /> 0.703<br /> với chuyên ngành<br /> Cơ sở vật chất - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.809<br /> Thư viện có nguồn tài liệu tham khảo phong phú đa dạng 0.789<br /> Thư viện có đủ không gian đáp ứng được nhu cầu học tập<br /> 0.751<br /> và nghiên cứu của sinh viên<br /> Trang thiết bị mới phục vụ tốt việc dạy và học 0.747<br /> Tác phong giảng viên luôn chỉnh tề 0.735<br /> Phòng học rộng rãi sạch sẽ đáp ứng nhu cầu học tập của<br /> 0.680<br /> sinh viên<br /> Sự tin cậy - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.849<br /> Khoa thực hiện tốt các thông báo quy định 0.870<br /> Các yêu cầu cầu của sinh viên được giải quyết đúng 0.869<br /> Khoa hạn chế tốt khả năng xảy ra các sai sót 0.866<br /> Kết quả mong đợi - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.831<br /> Sinh viên phát triển được các kỹ năng mềm thông qua học<br /> 0.899<br /> tập và rèn luyện<br /> Sinh viên được phát triển các năng lực học tập nghiên cứu 0.855<br /> Sinh viên nắm vững kiến thức và kỹ năng chuyên ngành 0.830<br /> <br /> 45<br /> 5<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> <br /> Giảng viên - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.815<br /> Giảng viên có kỹ năng truyền đạt dễ hiểu 0.873<br /> Giảng viên có trình độ chuyên môn 0.844<br /> Giảng viên có kiến thức thực tế 0.843<br /> Sự đồng cảm - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.808<br /> Khoa quan tâm giải quyết trở ngại của sinh viên trong các<br /> 0.866<br /> vấn đề học tập<br /> Giảng viên luôn sẵn sàng hỗ trợ sinh viên trong phạm vi<br /> 0.839<br /> trách nhiệm<br /> Khoa hiểu rõ nhu cầu học tập và rèn luyện của sinh viên 0.836<br /> Sự đảm bảo - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.758<br /> Thi, kiểm tra luôn được thực hiện nghiêm túc 0.824<br /> Lịch trình giảng dạy của giảng viên được thực hiện đúng<br /> 0.809<br /> quy định<br /> Việc học và thi cử được thực hiện đúng tiến độ 0.773<br /> Phương sai trích (%) 14.834 28.016 38.559 47.672 55.219 62.611 69.215<br /> Hệ số Eigenvalue 3.709 3.295 2.636 2.278 1.887 1.848 1.651<br /> Biến phụ thuộc – Sự hài lòng, Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.959 , Eigenvalue = 2.778, Phương sai<br /> trích(%) = 92.959<br /> Bạn hài lòng khi học tập tại Khoa Marketing 0.980<br /> Khóa học đáp ứng được mong đợi của sinh viên 0.974<br /> Kiến thức từ khóa học giúp sinh viên tự tin về khả năng tìm việc 0.933<br /> (Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả)<br /> Phân tích tương quan và hồi quy nghĩa, giá trị tương quan cao nhất (0.4)<br /> không vi phạm điều kiện cao hơn 0.85<br /> Kết quả phân tích tương quan cho thấy có<br /> (John & Benet-Martinez, 2000). Các hệ số<br /> mối tương quan giữa các biến độc lập và<br /> tương quan giữa các biến độc lập và biến<br /> biến phụ thuộc với hệ số tương quan<br /> phụ thuộc có ý nghĩa thống kê ở mức ý<br /> Pearson trong khoảng từ 0.241 đến 0.400<br /> nghĩa 0.01. (Bảng 3).<br /> chứng tỏ các biến có mối tương quan có ý<br /> Bảng 3. Bảng ma trận tương quan<br /> Nhân tố CSVC DC TC BD CTĐT KQ GV SHL<br /> CSVC 1 0.004 0.017 0.316** -0.100 -0.117* 0.098 0.229**<br /> ĐC 1 -0.051 -0.028 0.034 -0.043 0.074 0.241**<br /> TC 1 0.031 -0.181** 0.174** 0.083 0.294**<br /> BĐ 1 -0.041 -0.031 0.086 0.309**<br /> CTĐT 1 -0.068 0.024 0.255**<br /> KQ 1 0.089 0.289**<br /> GV 1 0.400**<br /> SHL 1<br /> *<br /> Tương quan Pearson có ý nghĩa thống kê ở mức 0.05<br /> **<br /> Tương quan Pearson có ý nghĩa thống kê ở mức 0.01<br /> (Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả)<br /> <br /> 46<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> (β = 0.339), Giảng viên (β = 0.286), Sự tin<br /> Kết quả phân tích hồi quy đa biến<br /> cậy (β = 0.285), Kết quả mong đợi (β =<br /> (Bảng 4) cho thấy mô hình phù hợp với<br /> 0.276), Sự đảm bảo (β = 0.246), Sự đồng<br /> tập dữ liệu ở mức 53.1% (R2 hiệu chỉnh =<br /> cảm (β = 0.241) và Cơ sở vật chất (β =<br /> 0.531), giá trị dung sai từ 0.873 đến 0.988,<br /> 0.184). Kết quả này cũng củng cố cho<br /> hệ số phóng đại phương sai (VIF) đều nhỏ<br /> nhiều nghiên cứu trước về yếu tố chương<br /> hơn 2 vì thế mô hình không xảy ra hiện<br /> trình đào tạo và yếu tố giảng viên có tác<br /> tương đa cộng tuyến. Thống kê Durbin-<br /> động mạnh hơn các yếu tố khác đến sự hài<br /> Watson =1.772 (trong khoảng từ 1 đến 3)<br /> lòng về chất lượng đào tạo (Nguyễn Thị<br /> vì thế mô hình không có sự tương quan<br /> Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013;<br /> giữa các phần dư. Các giá trị tới hạn của<br /> Phan Thị Thanh Hằng, 2014; Lại Xuân<br /> thống kê t đều lớn hơn 2 và giá trị mức ý<br /> Thủy và Phạm Thị Minh Lý, 2011; Phan<br /> nghĩa (P-value) nhỏ hơn 0.05 chứng tỏ các<br /> Thị Thanh Hằng, 2014). Kết quả này cũng<br /> biến độc lập đều ảnh hưởng có ý nghĩa<br /> cho thấy vai trò quan trọng của các yếu tố<br /> thống kê đến biến phụ thuộc (hài lòng về<br /> thuộc về phần mềm hơn là các yếu tố hữu<br /> chất lượng đào tạo) theo mức độ giảm dần<br /> hình.<br /> từng yếu tố như sau: Chương trình đào tạo<br /> Bảng 4: Phân tích mô hình hồi quy<br /> Dò tìm đa cộng<br /> tuyến<br /> Hệ số Beta<br /> Mô hình Giá trị t Mức ý nghĩa<br /> chuẩn hóa<br /> Dung<br /> VIF<br /> sai<br /> <br /> Cơ sở vật chất 0.184 4.474 0.000 0.873 1.146<br /> <br /> Sự đồng cảm 0.241 6.058 0.000 0.988 1.012<br /> <br /> Sự tin cậy 0.285 7.189 0.000 0.933 1.072<br /> <br /> Sự đảm bảo 0.246 6.254 0.000 0.896 1.117<br /> <br /> Chương trình đào<br /> 0.339 8.631 0.000 0.952 1.050<br /> tạo<br /> <br /> Kết quả mong đợi 0.276 6.999 0.000 0.943 1.060<br /> <br /> Giảng viên 0.286 7.334 0.000 0.963 1.038<br /> <br /> Hệ số R2 hiệu chỉnh: 0.531<br /> <br /> Hệ số Durbin-Watson: 1.772<br /> <br /> Biến phụ thuộc: Sự hài lòng về chất lượng đào tạo<br /> (Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả)<br /> <br /> 47<br /> 6<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> 4. Kết luận và khuyến nghị giải pháp nhau và nhờ có sự phát triển của internet,<br /> sinh viên có nhiều nguồn học liệu phong<br /> Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra có 7 yếu<br /> phú, tuy nhiên, một bài giảng và giáo trình<br /> tố tác động có ý nghĩa thống kê đến sự hài<br /> thống nhất do Khoa biên soạn sẽ giúp sinh<br /> lòng về chất lượng đào tạo của sinh viên<br /> viên dễ tiếp cận hơn. Ngoài ra, việc biên<br /> tốt nghiệp tại khoa Marketing, trường Đại<br /> soạn giáo trình, bài giảng cũng thể hiện<br /> học Tài chính – Marketing. Trong đó, các<br /> năng lực của khoa Marketing và hỗ trợ các<br /> yếu tố lần lượt theo thứ tự tác động từ cao<br /> giảng viên thỉnh giảng trong việc thống<br /> xuống thấp đó là: Chương trình đào tạo (β<br /> nhất nội dung giảng dạy.<br /> = 0.339), Giảng viên (β = 0.286), Sự tin<br /> cậy (β = 0.285), Kết quả mong đợi (β = Đối với yếu tố “Giảng viên”: Nhà<br /> 0.276), Sự đảm bảo (β = 0.246), Sự đồng trường nên có chính sách hỗ trợ đào tạo<br /> cảm (β = 0.241) và Cơ sở vật chất (β = cho giảng viên tham gia các khóa học<br /> 0.184). Kết quả cho thấy yếu tố tác động cần thiết nhằm nâng cao trình độ. Giảng<br /> mạnh nhất là yếu tố Chương trình đào tạo, viên là đội ngũ nòng cốt vì thế nhà<br /> thứ hai là yếu tố Giảng viên trong khi đó trường nên tiếp tục duy trì và phát triển<br /> yếu tố Cơ sở vật chất lại là yếu tố có tác các kế hoạch bồi dưỡng giảng viên. Ở<br /> động thấp nhất. Từ kết quả nghiên cứu cấp độ khoa Marketing nên duy trì tổ<br /> này, nhóm nghiên cứu đề xuất một số gợi chức sinh hoạt chuyên môn, tổ chức hội<br /> ý và chính sách và giải pháp cho khoa thảo chuyên đề nhằm tạo cơ hội cho các<br /> Marketing cũng như nhà trường nhằm giảng viên chia sẻ kinh nghiệm kiến thức<br /> nâng cao chất lượng đào tạo của khoa không những trong chuyên môn mà còn<br /> Marketing. trong kỹ năng giảng dạy. Ngoài các<br /> chương trình bồi dưỡng của nhà trường,<br /> Đối với yếu tố “Chương trình đào<br /> mỗi giảng viên nhất là các giảng viên trẻ<br /> tạo”:<br /> trong khoa cũng nên không ngừng tự trau<br /> Khoa Marketing cần rà soát chương dồi, tự nghiên cứu để tự phát triển năng<br /> trình đào tạo, bao gồm các môn học, thời lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học.<br /> lượng môn học để tiếp tục có những điều<br /> Đối với yếu tố “Sự tin cậy”: Sự tin<br /> chỉnh trong chương trình đào tạo cho phù<br /> cậy thể hiện ở việc khoa Marketing giải<br /> hợp với thực tế cũng như yêu cầu của sinh<br /> quyết các sự việc cũng như thực hiện các<br /> viên. Ngoài ra, vấn đề tài liệu tham khảo,<br /> quy định, quy chế liên quan đến sinh viên<br /> giáo trình cũng rất cần thiết, thực tế hiện<br /> một cách chính xác, hạn chế các khả<br /> nay, giáo trình tài liệu tham khảo của khoa<br /> năng sai sót. Thực tế tại khoa Marketing<br /> Marketing còn hạn chế, các giáo trình đã<br /> hiện nay là một trong những Khoa có số<br /> có nhưng đã cũ cần được bổ sung và tái<br /> lượng sinh viên đông nhất trường nhưng<br /> bản. Nhiều môn học trong chuyên ngành<br /> chỉ có một thư ký khoa đảm nhận các<br /> còn thiếu giáo trình và bài giảng do Khoa<br /> hoạt động học vụ. Trong thời gian tới,<br /> biên soạn. Thực tế, giảng viên có thể giới<br /> thiệu cho sinh viên nhiều tài liệu khác<br /> 48<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> Khoa nên đề xuất tuyển dụng bổ sung sách và cần thiết ban hành các quy trình<br /> thêm nhân viên hỗ trợ cho Khoa. học vụ một cách rõ ràng, hỗ trợ sinh viên<br /> trong việc giải quyết các vấn đề liên quan<br /> Đối với yếu tố “Kết quả học tập mong<br /> đến học vụ, thể hiện sự thấu hiểu, đồng<br /> đợi”: Sinh viên mong đợi nhận được các<br /> cảm của nhà trường và khoa đối với sinh<br /> kiến thức, kỹ năng cần thiết để có thể tự<br /> viên. Trong đó, thái độ hay sự cảm thông<br /> tin khi ra trường. Nhà trường và Khoa nên<br /> của những người tiếp xúc trực tiếp với<br /> có các hoạt động cho sinh viên phát triển<br /> sinh viên như thư ký khoa, nhân viên các<br /> các kỹ năng và kiến thức chuyên ngành<br /> phòng ban, giảng viên rất được sinh viên<br /> thông qua các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu<br /> quan tâm.<br /> khoa học sinh viên, tổ chức các hội thảo<br /> chuyên đề, các cuộc thi học thuật,… nhằm Đối với yếu tố “Cơ sở vật chất”: Cần<br /> tạo các sân chơi bổ ích cho sinh viên, từ tiếp tục nâng cao cơ sở vật chất, đáp ứng<br /> đó phát triển năng lực cho sinh viên. tốt hơn nữa nhu cầu của người học. Cơ<br /> sở vật chất là giải pháp mang tính lâu<br /> Đối với yếu tố “Sự đảm bảo”: Sự<br /> dài, không thể đáp ứng trong một sớm<br /> đảm bảo tập trung vào việc tổ chức học<br /> một chiều tuy nhiên giải pháp trước mắt<br /> tập và thi cử của sinh viên. Điều này phụ<br /> cần rà soát và cải thiện những vấn đề cần<br /> thuộc rất nhiều vào công tác quản lý và<br /> thiết ví dụ như có thể sắp xếp một số<br /> tổ chức của nhà trường. Với cấp độ<br /> phòng làm khu học nhóm tự quản cho<br /> Khoa, giảng viên đảm bảo về số giờ<br /> sinh viên, thực tế nhóm nghiên cứu từng<br /> giảng trên lớp học, đây là việc mà các<br /> quan sát thấy các em sinh viên không có<br /> giảng viên nên tự ý thức thực hiện tốt do<br /> khuôn viên để làm việc nhóm, phải ngồi<br /> bản thân mỗi giảng viên cũng cần phải<br /> ngoài hành lang các cơ sở đào tạo để<br /> giữ tác phong về giờ giấc trước sinh viên,<br /> thảo luận trong thời tiết nóng bức. Thư<br /> hơn nữa, nhà trường cũng có bộ phận<br /> viện cần cập nhật các đầu sách mới nhất<br /> quản lý cơ sở theo dõi về việc đảm bảo<br /> để có thể cung cấp nguồn tài liệu tham<br /> giờ giấc của giảng viên.<br /> khảo phong phú cho sinh viên.<br /> Đối với yếu tố “Sự đồng cảm”: Nhà<br /> trường nên rà soát các quy chế, chính<br /> Tài liệu tham khảo<br /> Tiếng Anh<br /> <br /> Clemenz, C.E. (2001). Measuring Perceived Quality of Training in the Hospitality<br /> Industry. Dissertation, Virginia Polytechnic Institute and State University<br /> Cronin Jr, J. J., & Taylor, S. A. (1992). Measuring service quality: a reexamination and<br /> extension. The Journal of Marketing, 3(Jul.,1992), 55-68.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 49<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> Diamantis G. V., & Benos V. K (2007), Measuring student satisfaction with their studies<br /> in an internationaland European studies department. Operational Research.<br /> International Journal, 7(1), 47–59.<br /> Elliott, K. & Shin, D., 2002. Student satisfaction: an alternative approach to assessing this<br /> important Concept. Journal of Higher Education Policy and Management, 24(2), 97-<br /> 109.<br /> Harvey, L. & Green, D. (1993). Defining quality. Assessment & Evaluation in Higher<br /> Education, 18(1), 9-34.<br /> John, O. P., & Benet-Martínez, V. (2000). Measurement: Reliability, construct validation,<br /> and scale construction. In H. T. Reis & C. M. Judd (Eds.), Handbook of research<br /> methods in social and personality psychology (pp.339-369). New York, NY, US:<br /> Cambridge University Press.<br /> Parasuraman, A., Zeithaml, V. A., & Berry, L. L. (1988). SERVQUAL: A multiple-item<br /> scale for measuring consumer perceptions of service quality. Journal of Retailing,<br /> 64(1), 12-40.<br /> Slater, S. (1995). Issues in Conducting Marketing Strategy Research. Journal of Strategic<br /> Marketing, 3(4), 257-270.<br /> Tiếng Việt<br /> Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Quyết định Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá<br /> chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội. (Số: 65 /2007/QĐ-BGDĐT).<br /> Bùi Ngọc Ánh và Đào Thị Hồng Vân (2013). Khảo sát sự hài lòng của sinh viên về chất<br /> lượng đào tạo tại trường ĐH Kinh tế-ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia Hà Nội.<br /> Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu (2013). Đánh giá mức độ hài lòng của sinh<br /> viên đối với chất lượng đào tạo của khoa kinh tế và quản trị kinh doanh – Trường Đại<br /> học Cần Thơ, giai đoạn 2012-2013. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, số<br /> 28, 117-123.<br /> Lê Thị Linh Giang (2014). Mô hình lý thuyết: cấu trúc sự hài lòng của sinh viên với hoạt<br /> động đào tạo. Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang, 3(2), trang 93- 99.<br /> Phan Thị Thanh Hằng (2014), Nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên trường đại học<br /> Kinh tế đối ngoại”, Chuyên san KTĐN Kỳ 11, trang 13-20.<br /> Huỳnh Trường Huy & Nguyễn Nhật Khiêm (2012). Chất lượng đào tạo ngành quản trị<br /> kinh doanh của khoa Kinh tế-QTKD, trường Đại học Cần Thơ: Kết quả khảo sát<br /> đánh giá từ sinh viên ngành Quản trị kinh doanh. Kỷ yếu khoa học Trường ĐH Cần<br /> Thơ 2012, trang 247-257.<br /> 50<br /> Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018<br /> <br /> <br /> Trần Xuân Kiên. (2006). Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại<br /> trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên. Thư viện Đại<br /> học quốc gia Hà Nội.<br /> Phạm Lê Hồng Nhung và cộng sự (2012). Kiểm định thang đo chất lượng dịch vụ trong<br /> đào tạo đại học trường hợp nghiên cứu tại các trường tư thục khu vực Đồng bằng<br /> sông Cửu Long, Phát triển KT-XH, 203 – 213.<br /> Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa<br /> học trong kinh doanh, TPHCM: NXB Lao động – Xã hội.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 51<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2