Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ AN THẦN BẰNG PROPOFOL KIỂM SOÁT<br />
NỒNG ĐỘ ĐÍCH TRONG THỦ THUẬT NỘI SOI ĐẠI TRÀNG<br />
Nguyễn Thanh Oánh*, Phan Tôn Ngọc Vũ**, Nguyễn Văn Chừng***<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mở đầu: Nội soi đại tràng giúp chẩn đoán chính xác ung thư đại tràng. Propofol là thuốc mê tĩnh mạch<br />
thường được sử dụng để an thần cho bệnh nhân trong quá trình nội soi. Phương pháp truyền thuốc kiểm soát<br />
nồng độ đích được cho là góp phần nâng cao hiệu quả và mức an toàn cho bệnh nhân trong khi được thực hiện<br />
các thủ thuật.<br />
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phương pháp an thần bằng propofol kiểm soát nồng độ<br />
đích trong thủ thuật nội soi đại tràng<br />
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân ngoại trú, từ 16 tuổi trở lên, ASA I – II, có chỉ định<br />
nội soi đại tràng chẩn đoán được phân làm 3 nhóm, mỗi nhóm 30 người. Nhóm 1 được an thần bằng propofol<br />
kiểm soát nồng độ đích, nhóm 2 được an thần bằng propofol tiêm ngắt quãng, nhóm 3 chỉ sử dụng chất bôi trơn<br />
trong thủ thuật. Ghi nhận mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng chấp nhận thủ thuật lần sau, thời gian làm<br />
thủ thuật, thời gian hồi tỉnh, thời gian xuất viện của bệnh nhân, mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi, các thay đổi<br />
về nhịp tim, huyết áp tâm thu và SpO2.<br />
Kết quả: Không có sự khác biệt về: thời gian soi ở 3 nhóm; thời gian hồi tỉnh, thời gian xuất viện, mức độ<br />
đau, mức độ hài lòng của bệnh nhân và mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi giữa nhóm 1 và nhóm 2. Bệnh nhân<br />
nhóm 3 có mức độ đau và tỉ lệ không chấp nhận thủ thuật lần sau cao hơn 2 nhóm có sử dụng propofol. Nhịp tim<br />
và huyết áp của bệnh nhân nhóm 1 ổn định trong thủ thuật.<br />
Kết luận: propofol kiểm soát nồng độ đích có thể áp dụng hiệu quả và an toàn cho thủ thuật nội soi đại<br />
tràng.<br />
Từ khóa: nội soi đại tràng, propofol, kiểm soát nồng độ đích<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE EFFECT OF PROPOFOL TCI IN COLONOSCOPY<br />
Nguyen Thanh Oanh, Phan Ton Ngoc Vu, Nguyen Van Chung<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 306 - 311<br />
Background - Objectives: Colonoscopy help accurate diagnosis of colon cancer. Propofol is an anesthetic<br />
commonly used intravenous sedation to patients during endoscopy. Target Control Infusion (TCI) is contributing<br />
to improving the effectiveness and safety of patients during minor surgery.<br />
The aim of our study was to evaluate the safety and efficacy of propofol TCI during colonoscopy.<br />
Method: Outpatients, aged 16 years or older, ASA I - II, indicated diagnostic colonoscopy were classified<br />
into 3 groups of 30 people. Group 1 were sedated with propofol TCI, group 2 was sedated with intermittent<br />
propofol injection, group 3 only lubricant used in the procedure.<br />
Patient satisfaction, acceptability next procedure, recovery time, discharge time, procedure duration<br />
colonoscopists satisfaction, the changes in heart rate, systolic blood pressure and SpO2 were recorded.<br />
<br />
<br />
Bệnh viện Nguyễn Trãi TP.HCM<br />
** Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM<br />
*** Đại Học Y Dược TP.HCM<br />
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thanh Oánh ĐT: 0908182601, Email: drnguyenthanhoanh@yahoo.com.vn,<br />
<br />
306<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Results: There were no significant differences among the three groups in the procedure time. There were no<br />
significant differences between the group 1 and group 2 in the recovery time, discharge time, patient satisfaction,<br />
pain control and colonoscopists satisfaction. Pain during colonoscopy and the rate of inacceptability next<br />
procedure of the patients in group 3 is significantly higher than in sedated groups. Heart rate and blood pressure<br />
of the patients in group 1 were stable during procedure.<br />
Conclusion: The propofol target control injection can be applied effectively and safely for colonoscopy.<br />
Key words: colonoscopy, propofol, target control infusion.<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Ung thư đại tràng là một bệnh lý phổ biến,<br />
đứng hàng đầu trong ung thư đường tiêu hóa.<br />
Theo Hội Ung thư thành phố Hồ Chí Minh, đây<br />
là một trong năm loại ung thư có số người mắc<br />
cao nhất. Tuy nhiên, bệnh có thể điều trị và<br />
phòng ngừa được. Nội soi đại tràng đóng vai<br />
trò quan trọng trong việc chẩn đoán sớm và<br />
chính xác các bệnh lý ung thư đại tràng. Tuy<br />
nhiên, bệnh nhân thường lo ngại cảm giác đau,<br />
khó chịu khi được nội soi đại tràng. Hiện nay,<br />
nhiều bệnh viện đã triển khai sử dụng thuốc an<br />
thần, giảm đau cho bệnh nhân khi thực hiện nội<br />
soi đại tràng. Propofol là thuốc thường được sử<br />
dụng để an thần cho bệnh nhân khi thực hiện<br />
các thủ thuật bằng cách tiêm từng liều ngắt<br />
quãng. Cách cho thuốc này có thể dẫn đến quá<br />
liều gây ra các tai biến về hô hấp, tuần hoàn.<br />
Phương pháp truyền tĩnh mạch kiểm soát nồng<br />
độ đích với hệ thống vi tính hóa được ứng dụng<br />
trong gây mê hồi sức đã tạo thuận lợi trong việc<br />
kiểm soát mức độ an thần và an toàn hơn cho<br />
người bệnh. Đó là lý do chúng tôi tiến hành<br />
nghiên cứu đánh giá hiệu quả an thần bằng<br />
propofol kiểm soát nồng độ đích trong thủ thuật<br />
nội soi đại tràng.<br />
<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
<br />
Mục tiêu<br />
Đánh giá hiệu quả của phương pháp an thần<br />
bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong nội<br />
soi đại tràng.<br />
Đánh giá sự thay đổi các chỉ số tuần hoàn,<br />
hô hấp trong các giai đoạn của nội soi đại tràng<br />
áp dụng phương pháp an thần bằng propofol<br />
kiểm soát nồng độ đích.<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Bệnh nhân ngoại trú ≥ 16 tuổi, ASA I, II, có<br />
chỉ định nội soi đại tràng chẩn đoán<br />
Thời gian: từ tháng 11 năm 2010 đến tháng<br />
04 năm 2011<br />
Địa diểm: Bệnh viện Đại học Y Dược thành<br />
phố Hồ Chí Minh.<br />
<br />
Phương pháp<br />
Nhóm 1: Cài đặt nồng độ đích tại huyết<br />
tương (Cp) ban đầu là 4 mcg/ml, tiến hành soi<br />
khi bệnh nhân mất tri giác. Ghi nhận nồng độ<br />
đích propofol đạt được ở não (Ce). Nồng độ này<br />
sẽ được cài đặt như là nồng độ hồi tỉnh dự kiến.<br />
Tùy theo đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân có<br />
thể điều chỉnh Cp tăng hoặc giảm 0,5 – 1<br />
mcg/ml.<br />
Nhóm 2: tiêm tĩnh mạch propofol, liều ban<br />
đầu là 1 mg/kg cân nặng, tiêm nhắc lại liều 0,5<br />
– 1 mg/kg tùy theo đáp ứng lâm sàng của<br />
bệnh nhân.<br />
Nhóm 3: chỉ dùng chất bôi trơn, không dùng<br />
thuốc an thần.<br />
Ghi nhận mạch, huyết áp động mạch không<br />
xâm lấn, SpO2 tại các thời điểm trước khi nội soi,<br />
trong khi làm thủ thuật và thời điểm xuất viện.<br />
Ghi nhận các tai biến tụt huyết áp tâm thu trên<br />
20%, mạch chậm dưới 50 lần/phút, SpO2 < 90%<br />
và cách xử trí. Ghi nhận thời gian làm thủ thuật<br />
của 3 nhóm, thời gian hồi tỉnh và thời gian xuất<br />
viện của 2 nhóm có sử dụng propofol trong nội<br />
soi, xác định mức độ đau của bệnh nhân theo<br />
thang điểm VAS (Visual Analog Scale), mức độ<br />
<br />
307<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
hài lòng của bệnh nhân và bác sĩ nội soi, khả<br />
năng chấp nhận thủ thuật lần sau.<br />
<br />
Thời gian hồi tỉnh và thời gian xuất viện<br />
của bệnh nhân nhóm 1 và nhóm 2<br />
<br />
Xử lý số liệu<br />
<br />
Bảng 3: Thời gian hồi tỉnh và thời gian xuất viện của<br />
bệnh nhân nhóm 1 và nhóm 2<br />
<br />
Số liệu thu thập được trong quá trình nghiên<br />
cứu được ghi chép vào phiếu thu thập dữ liệu<br />
và xử lý với phần mềm SPSS for Windows 15.0.<br />
Các biến định lượng được mô tả dưới dạng giá<br />
trị trung bình và độ lệch chuẩn. Dùng phép<br />
kiểm t khi so sánh 2 số trung bình, test ANOVA<br />
khi so sánh 3 số trung bình. Các biến định tính<br />
được mô tả dưới dạng tỉ lệ % và được kiểm định<br />
với test chi bình phương. Sự khác biệt có ý nghĩa<br />
thống kê khi p < 0,05.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có 90 bệnh<br />
nhân được nội soi đại tràng, bao gồm 30 bệnh<br />
nhân được an thần bằng propofol kiểm soát<br />
nồng độ đích (nhóm 1), 30 bệnh nhân được an<br />
thần với propofol tiêm ngắt quãng (nhóm 2) và<br />
30 bệnh nhân không sử dụng thuốc an thần<br />
(nhóm 3). Đặc điểm của bệnh nhân trong 3<br />
nhóm nghiên cứu được trình bày ở bảng 1.<br />
<br />
Đặc điểm mẫu nghiên cứu<br />
Bảng 1 trình bày đặc điểm chung của mẫu<br />
nghiên cứu, không có sự khác biệt giữa các<br />
nhóm về cân nặng trung bình (p = 0,16), tuổi (p =<br />
0,59), giới tính (p = 0,87) và phân loại ASA (p =<br />
0,56)<br />
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu<br />
Nhóm 1<br />
Số bệnh nhân<br />
30<br />
Cân nặng (kg) 56,4 ± 7,4<br />
Tuổi (năm)<br />
51,6 ± 13,7<br />
Nữ / nam<br />
18 / 12<br />
ASA I / ASA II<br />
18 / 12<br />
<br />
Nhóm 2<br />
30<br />
53,0 ± 8,9<br />
50,2 ± 16,7<br />
19 / 11<br />
14 / 16<br />
<br />
Nhóm 3<br />
30<br />
53,1 ± 6,5<br />
47,4 ± 17,1<br />
20 / 11<br />
17 / 13<br />
<br />
Thời gian thực hiện nội soi ở 3 nhóm<br />
Không có sự khác biệt về thời gian thực hiện<br />
nội soi ở 3 nhóm, p = 0,82 (bảng 2)<br />
Bảng 2: Thời gian thực hiện nội soi ở 3 nhóm<br />
Thời gian soi<br />
(phút)<br />
<br />
308<br />
<br />
Nhóm 1<br />
<br />
Nhóm 2<br />
<br />
Nhóm 3<br />
<br />
6,4 ± 3,0<br />
<br />
6,8 ± 3,6 6,9 ± 3,0<br />
<br />
P<br />
0,82<br />
<br />
Thời gian hồi tỉnh<br />
(phút)<br />
Thời gian xuất viện<br />
(phút)<br />
<br />
Nhóm 1<br />
<br />
Nhóm 2<br />
<br />
p<br />
<br />
6,6 ± 1,8<br />
<br />
7,0 ± 2,1<br />
<br />
0,51<br />
<br />
29,5 ± 5,0<br />
<br />
31,5 ± 4,4<br />
<br />
0,1<br />
<br />
Mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng<br />
chấp nhận thủ thuật của bệnh nhân, mức<br />
độ hài lòng của bác sĩ nội soi<br />
Bảng 4: Mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng chấp<br />
nhận thủ thuật của bệnh nhân, mức độ hài lòng của<br />
bác sĩ nội soi<br />
Mức độ đau<br />
(VAS)<br />
<br />
Nhóm1<br />
<br />
Nhóm 2<br />
<br />
0,6 ± 0,6<br />
<br />
0,4 ± 0,6 3,2 ± 1,0 0,0001<br />
<br />
Mức độ hài<br />
lòng của BN<br />
9,4 ± 0,6<br />
(VAS)<br />
Mức hài lòng<br />
của bác sĩ nội 9,0 ± 0,9<br />
soi (VAS)<br />
Khả năng chấp<br />
nhận thủ thuật<br />
100<br />
lần sau (%)<br />
<br />
Nhóm3<br />
<br />
P<br />
<br />
9,6 ± 0,6 6,9 ± 0,9 0,0001<br />
<br />
9,4 ± 0,8 7,8 ± 1,0 0,0001<br />
<br />
96,7<br />
<br />
73,3<br />
<br />
0,001<br />
<br />
Không có sự khác biệt về mức độ đau, mức<br />
độ hài lòng, khả năng chấp nhận thủ thuật của<br />
bệnh nhân và mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi<br />
giữa 2 nhóm có sử dụng propofol trong nội soi<br />
đại tràng.<br />
<br />
Thay đổi tần số tim, huyết áp tâm thu và<br />
độ bảo hòa oxy mao mạch (SpO2) của bệnh<br />
nhân ở 3 nhóm<br />
Không có sự khác biệt về thay đổi tần số tim<br />
ở các thời điểm nghiên cứu của bệnh nhân ở<br />
nhóm 1 và nhóm 2 (p > 0,05). Tần số tim của<br />
bệnh nhân ở nhóm 3 cao hơn tần số tim của<br />
bệnh nhân ở nhóm 1 và nhóm 2 tại các thời điểm<br />
1 phút, 5 phút và xuất viện. Huyết áp tâm thu tại<br />
thời điểm 1 phút trong nội soi của bệnh nhân ở<br />
nhóm 2 thấp hơn nhóm 1 có ý nghĩa thống kê (p<br />
= 0,005). Huyết áp tâm thu tại các thời điểm 1<br />
phút, 5 phút trong nội soi và khi xuất viện của<br />
bệnh nhân ở nhóm 3 cao hơn nhóm 1 và nhóm<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
2. Không có sự khác biệt về độ bảo hòa oxy mao<br />
mạch (SpO2) của 3 nhóm ở các thời điểm của thủ<br />
thuật.<br />
<br />
Các tai biến về hô hấp, tuần hoàn ở 3 nhóm<br />
Bảng 5: Các tai biến về hô hấp, tuần hoàn<br />
Tai biến<br />
Tụt HA > 20% so với<br />
HA ban đầu<br />
Tụt HA > 30% so với<br />
HA ban đầu<br />
Mạch chậm < 50<br />
lần/phút<br />
SpO2 < 90%<br />
<br />
Nhóm 1<br />
<br />
Nhóm 2<br />
<br />
Nhóm 3<br />
<br />
5 (16,7)<br />
<br />
18 (60)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
1 (3,3)<br />
<br />
4 (13,3)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
4 (13,3)<br />
<br />
0 (0)<br />
<br />
Tỉ lệ tụt huyết áp tâm thu ≥ 20% so với huyết<br />
áp nền ở nhóm 2 cao hơn nhóm 1 (p = 0,001).<br />
Nhóm 2 có tỉ lệ tụt huyết áp tâm thu ≥ 30% so<br />
với huyết áp nền cao hơn nhóm 1, tuy nhiên sự<br />
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p =<br />
0,16). Nhóm 2 có tỉ lệ SpO2 giảm dưới 90% cao<br />
hơn so với nhóm 1 (p = 0,04).<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu<br />
nghiên cứu chúng tôi là 49,8 tuổi, là độ tuổi<br />
thường gặp các bệnh lý đại – trực tràng (4), (5).<br />
Không có sự khác biệt về tỉ lệ phân bố giới tính<br />
và phân loại ASA giữa bệnh nhân trong 3 nhóm<br />
nên không ảnh hưởng kết quả đánh giá mức độ<br />
đau, sự thay đổi nhịp tim, huyết áp.<br />
Thời gian thực hiện nội soi trong nghiên cứu<br />
chúng tôi tương đối ngắn do chúng tôi chỉ chọn<br />
các trường hợp nội soi chẩn đoán. Thời gian hồi<br />
tỉnh và thời gian xuất viện là vấn đề được quan<br />
tâm khi gây mê hoặc an thần cho bệnh nhân<br />
ngoại trú. Thời gian hồi tỉnh và xuất viện trung<br />
bình của nhóm 1 là 6,6 ± 1,8 phút và 29,5 ± 5<br />
phút, tương đương với kết quả ở nhóm 2 là 7,0 ±<br />
2,1 phút và 31,5 ± 4,4 phút, tương đương với<br />
thời gian hồi tỉnh trong nghiên cứu của<br />
Padmanabhan U và cộng sự là 7 phút (6). Tác giả<br />
VanNatta ME và cộng sự ghi nhận thời gian hồi<br />
tỉnh và xuất viện của bệnh nhân nhóm tiêm<br />
propofol ngắt quãng để nội soi đại tràng là 4,8<br />
phút và 18,6 phút, sớm hơn so với chúng tôi vì<br />
tác giả chủ động ngưng propofol khi vừa soi<br />
đến manh tràng (12).<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Kết quả từ bảng 4 cho thấy mức độ đau, mức<br />
độ hài lòng cũng như tỉ lệ chấp nhận thủ thuật<br />
lần sau là tương đương giữa nhóm an thần kiểm<br />
soát nồng độ đích và nhóm an thần tiêm ngắt<br />
quãng. Hai nhóm bệnh nhân có sử dụng an thần<br />
đều có mức hài lòng, tỉ lệ chấp nhận thủ thuật<br />
với cùng phương pháp vô cảm cao hơn và mức<br />
độ đau thấp hơn rõ so với nhóm bệnh nhân<br />
không sử dụng an thần. Amer-Cuenca JJ và<br />
cộng sự thấy điểm đau VAS ở nhóm không sử<br />
dụng an thần là 4,9 ± 2,9 (1), Yoruk G và cộng sự<br />
thấy có 12% bệnh nhân soi đại tràng không an<br />
thần không đồng ý soi lại lần sau vì không chịu<br />
đau nổi (14), chứng tỏ bệnh nhân cảm nhận đau<br />
khá nhiều trong thủ thuật nội soi đại tràng. Do<br />
đó, vấn đề sử dụng an thần trong nội soi đại<br />
tràng là thực sự cần thiết nhằm tránh cho bệnh<br />
nhân phải chịu đựng đau, tăng mức độ hài lòng<br />
và khả năng chấp nhận thủ thuật lần sau. Kết<br />
quả từ bảng 4 cũng cho thấy mức độ hài lòng<br />
của bác sĩ nội soi ở 2 nhóm có sử dụng propofol<br />
cao hơn so với nhóm soi không an thần, thể hiện<br />
qua điểm VAS về mức độ hài lòng do bác sĩ nội<br />
soi đánh giá của 2 nhóm có sử dụng propofol<br />
cao hơn so với nhóm còn lại. Điểm VAS do bác<br />
sĩ nội soi nhận định của nhóm 1 và nhóm 2 là<br />
9,0 ± 0,95 và 9,4 ± 0,8 cao hơn so với kết quả của<br />
Stonell CA và cộng sự là 67 ± 30 ở nhóm sử<br />
dụng propofol kiểm soát nồng độ đích do bệnh<br />
nhân điều khiển và 77 ± 24 ở nhóm sử dụng<br />
propofol do người gây mê điều khiển (8) (tác giả<br />
sử dụng thang điểm 100, chúng tôi sử dụng<br />
thang điểm 10, nhưng cách đánh giá tương tự<br />
nhau). Có sự khác biệt về mức độ hài lòng trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi so với Stonell CA là<br />
do mức an thần của bệnh nhân trong nghiên<br />
cứu của chúng tôi sâu hơn, tạo thuận lợi cho<br />
tiến trình soi. Tương tự kết quả nghiên cứu của<br />
Stonell CA, điểm VAS do bác sĩ nội soi nhận<br />
định giữa 2 nhóm có sử dụng propofol của<br />
chúng tôi khác biệt không có ý nghĩa thống kê.<br />
Nhịp tim và huyết áp tâm thu tại thời điểm 1<br />
phút (T1) và 5 phút (T5) trong khi nội soi của<br />
nhóm 3 cao hơn so với nhóm 1 và nhóm 2. Theo<br />
quan sát của chúng tôi, thời điểm T1 và T5 là<br />
<br />
309<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
giai đoạn ống soi bắt đầu được đưa qua hậu<br />
môn - trực tràng, đồng thời việc bơm hơi và ống<br />
soi phải đi qua đoạn đại tràng xích ma gập góc,<br />
di động nên gây đau và cảm giác khó chịu cho<br />
bệnh nhân. Điều này cho thấy vai trò của<br />
propofol trong việc duy trì an thần sâu, giúp<br />
bệnh nhân vượt qua các thời điểm nhạy cảm mà<br />
không làm thay đổi nhịp tim và huyết áp.<br />
Nghiên cứu của chúng tôi không gặp trường<br />
hợp nào có mạch chậm dưới 50 lần/phút. Tohda<br />
G và cs thấy có 4,1% trường hợp mạch chậm<br />
dưới 50 lần/phút khi soi đại tràng với an thần<br />
bằng propofol (10), Ulmer BJ và cộng sự ghi nhận<br />
có 1/ 50 (chiếm 2%) trường hợp mạch chậm ở<br />
nhóm an thần với propofol trong nội soi đại<br />
tràng (11). Theo lý thuyết, propofol gây ức chế<br />
trương lực giao cảm nên gây nên tình trạng<br />
cường phó giao cảm tương đối làm chậm nhịp<br />
tim. Tuy nhiên, tỉ lệ bệnh nhân chậm nhịp tim<br />
trong các nghiên cứu nói trên rất thấp có thể giải<br />
thích là do bệnh nhân được an thần không đúng<br />
mức, và nhịp chậm xảy ra là do động tác thủ<br />
thuật gây ra phản xạ phó giao cảm.<br />
Huyết áp tâm thu của nhóm 2 thấp hơn so<br />
với nhóm 1 tại thời điểm T1. Chúng tôi cũng<br />
ghi nhận tỉ lệ tụt huyết áp tâm thu dưới 20%<br />
huyết áp nền ở nhóm 2 là 60%, cao hơn so với<br />
tỉ lệ ở nhóm 1 là 16,7%. Tỉ lệ tụt huyết áp dưới<br />
30% ở nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 3,3% và<br />
13%, tuy khác biệt không có ý nghĩa thống kê<br />
nhưng cũng gợi ra suy nghĩ về khả năng gây<br />
tụt huyết áp của propofol tùy thuộc vào<br />
phương cách đưa thuốc vào cơ thể. Krugliak P<br />
và cộng sự ghi nhận tụt huyết áp dưới 20%<br />
huyết áp nền chiếm 37% thời gian của thủ<br />
thuật (3). Gasparovic S và cộng sự thống kê<br />
trên 1104 bệnh nhân được sử dụng propofol<br />
trong nội soi tiêu hóa, kết quả huyết áp tâm<br />
thu trung bình từ 149,8 mmHg trước thủ thuật<br />
giảm còn 111,2 mmHg trong quá trình làm thủ<br />
thuật, trong đó có 5 trường hợp huyết áp<br />
giảm dưới 60 mmHg được xử trí truyền 500<br />
ml dung dịch NaCl 0,9% (2). Stonell và cộng sự<br />
theo dõi huyết áp tâm thu mỗi 3 phút và nhận<br />
thấy số lần huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg<br />
<br />
310<br />
<br />
trung bình cho mỗi bệnh nhân ở nhóm TCI là<br />
0,8 ± 1,4, với nhóm tiêm propofol ngắt quãng<br />
là 3,0 ± 3,2 (p = 0,007) (9).<br />
Bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi<br />
đều có tình trạng sức khỏe ổn định (ASA I – II)<br />
nên việc tụt huyết áp dưới 20% so với huyết áp<br />
nền tuy có ý nghĩa về mặt thống kê nhưng<br />
không có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Chúng tôi<br />
không xử trí gì đặc hiệu mà chỉ điều chỉnh giảm<br />
nồng độ đích ở nhóm 1 và tăng khoảng cách<br />
tiêm thuốc ở nhóm 2. Tuy nhiên, có một số<br />
trường hợp tụt huyết áp dưới 30% so với huyết<br />
áp nền, do đó cần chú ý đối với bệnh nhân lớn<br />
tuổi hoặc bệnh nhân có phân loại ASA ≥ III. Tụt<br />
huyết áp trong khi nội soi đại tràng dưới an<br />
thần với propofol có thể giải thích là do tác<br />
dụng dãn mạch và ức chế tim mức độ nhẹ của<br />
thuốc và tình trạng mất nước, điện giải ở bệnh<br />
nhân đã được chuẩn bị đại tràng trước đó.<br />
Độ bảo hòa oxy mao mạch của 3 nhóm<br />
không khác nhau tại các thời điểm nghiên cứu.<br />
Trong quá trình soi đại tràng, ở nhóm 2 có 4<br />
trường hợp (chiếm 13,3%) SpO2 giảm dưới 90%<br />
được xử trí bằng cách ngữa đầu nâng cằm, tăng<br />
liều oxy lên 4 – 6 lít/ phút, tất cả bệnh nhân này<br />
đều ổn định. Không có trường hợp nào phải<br />
thông khí hỗ trợ (bóp bóng qua mặt nạ hoặc đặt<br />
nội khí quản).<br />
Gasparovic S và cộng sự nghiên cứu 1104<br />
bệnh nhân nội soi tiêu hóa với propofol, có 27<br />
trường hợp SpO2 giảm dưới 90%. Trong đó có 7<br />
bệnh nhân phân loại ASA III với bệnh lý tim<br />
phổi đi kèm. Bệnh nhân giảm SpO2 < 90% đều<br />
thuộc nhóm có chỉ định nội soi đường tiêu hóa<br />
trên, tai biến này chỉ thoáng qua và không cần<br />
phải thông khí hỗ trợ (2). So với kết quả của<br />
Gasparovic S, tỉ lệ giảm SpO2 < 90% trong nhóm<br />
tiêm propofol ngắt quãng của chúng tôi có 4 / 30<br />
trường hợp. Nguyên nhân có thể là do tốc độ và<br />
liều lượng propofol tiêm cho những bệnh nhân<br />
này chưa phù hợp. Khi so sánh tai biến tụt SpO2<br />
< 94% giữa 2 nhóm nội soi đại tràng có an thần<br />
bằng propofol, Stonell CA và cộng sự nhận thấy<br />
số lần SpO2 < 94% trung bình của mỗi bệnh nhân<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />