11,Tr.<br />
Số115-125<br />
4, 2017<br />
Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 11, Số 4,Tập<br />
2017,<br />
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH<br />
CỦA CÁC HỘ TRONG CÁC LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TỈNH BÌNH ĐỊNH<br />
NGUYỄN THỊ HẠNH 1*, NGUYỄN HÀ THANH THẢO1<br />
1<br />
Khoa TCNH & QTKD, Trường Đại học Quy Nhơn<br />
TÓM TẮT<br />
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày nghiên cứu ứng dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu<br />
(DEA) cho việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất kinh doanh trong các làng<br />
nghề thủ công Bình Định. Kết quả chỉ ra rằng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ trong làng nghề<br />
Bình Định khá cao, phần lớn các hộ đã có quyết định quy mô sản xuất hợp lý. Tuy nhiên, có sự chênh lệch<br />
lớn về hiệu quả của các hộ trong các làng nghề khác nhau, việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển<br />
làng nghề từ năm 2006 đến nay chưa có tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ,<br />
và việc kết hợp với phát triển du lịch cũng chưa đem lại sự cải thiện về hiệu quả. Cuối cùng, nghiên cứu<br />
đã đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ trong các làng nghề thủ<br />
công Bình Định.<br />
Từ khóa: Phương pháp phân tích bao dữ liệu, hiệu quả kỹ thuật, làng nghề thủ công, hộ sản xuất<br />
kinh doanh.<br />
ABSTRACT<br />
Measuring Production Efficiency of Households in Handicraft Villages of Binh Dinh Province<br />
In this paper, we present the research on application of Data Envelopment Analysis (DEA) to evaluate<br />
production efficiency of households in handicraft villages of Binh Dinh province. The results indicate that<br />
the efficiency of production households in Binh Dinh village is quite high, the majority of households<br />
already had decided reasonable scales to produce. However, there is a large difference in the efficiency<br />
index of the households in the villages, the implementation of general development plan of villages from<br />
2006 until now has no positive impact on the efficiency of production and business of households, and the<br />
combination with the tourism development also has not brought any improvement in efficiency. Finally,<br />
researchers have proposed a number of solutions to improve the efficiency of production households in<br />
Binh Dinh handicraft villages.<br />
Keywords: Data Envelopment Analysis, technical effeciency, handicraft village, production<br />
household.<br />
<br />
1. <br />
<br />
Giới thiệu<br />
<br />
Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định có 50 làng nghề được quy hoạch phát triển với<br />
tổng số 7.285 hộ tham gia sản xuất, chiếm 29,1% so với số hộ trong các làng nghề, giải quyết việc<br />
làm cho hơn 16.000 lao động, chiếm 29,01% tổng số lao động trong làng nghề với mức thu nhập<br />
bình quân từ 14 - 24 triệu đồng/lao động/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp của các làng nghề<br />
chiếm khoảng 5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. [14]<br />
Email: nguyenthihanh@qnu.edu.vn<br />
Ngày nhận bài: 15/6/2017; Ngày nhận đăng: 12/7/2017<br />
*<br />
<br />
115<br />
<br />
Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Hà Thanh Thảo<br />
Tỉnh Bình Định đang triển khai Quy hoạch phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh đến năm<br />
2020, định hướng đến năm 2030. Để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu bảo tồn và phát triển<br />
làng nghề, phát huy vai trò của làng nghề trong bối cảnh mới, rất cần thiết có những nghiên cứu<br />
đánh giá thực hoạt động và đặc biệt là đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ trong<br />
làng nghề. Dù vậy, cho đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu khoa học đánh giá hiệu quả sản xuất kinh<br />
doanh của các hộ trong làng nghề thủ công ở Bình Định và đây là khoảng trống cần nghiên cứu<br />
mà các tác giả quan tâm.<br />
Nghiên cứu này là tổng hợp và hệ thống những lý luận cơ bản về làng nghề thủ công, đánh<br />
giá thực trạng hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu<br />
quả sản xuất kinh doanh của các hộ trong các làng nghề thủ công tỉnh Bình Định thời gian tới.<br />
Bài báo gồm 4 phần, sau phần 1 - giới thiệu, phần 2 trình bày phương pháp nghiên cứu,<br />
phần 3 trình bày kết quả nghiên cứu và bàn luận, cuối cùng, phần 4 là kết luận và một số đề xuất.<br />
2. <br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
<br />
2.1. Dữ liệu nghiên cứu<br />
Các tác giả trên cơ sở dữ liệu thống kê về 50 làng nghề với tổng số 7.285 hộ [14], tiến hành<br />
chọn 9 làng nghề theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo địa phương, cụ thể trình<br />
bày ở Bảng 1. Sau đó, trong mỗi làng nghề được lựa chọn, chọn ngẫu nhiên 7 hộ tham gia sản xuất<br />
kinh doanh thông qua danh sách các hộ tham gia sản xuất được địa phương cung cấp.<br />
Bảng 1. Các làng nghề được chọn khảo sát và số lượng mẫu<br />
<br />
Nguồn: Khảo sát thực tế của các tác giả<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Trong nghiên cứu này, phương pháp phân tích bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis DEA định hướng dữ liệu đầu ra (Output - Orientated DEA Model) được ứng dụng để đo lường<br />
116<br />
<br />
Tập 11, Số 4, 2017<br />
hiệu quả kỹ thuật không đổi theo quy mô (CRS_TE), hiệu quả kỹ thuật thay đổi theo quy mô<br />
(VRS_TE) và hiệu quả phân bổ (SCALE).<br />
Phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA) là một trong hai phương pháp tiếp cận ước lượng<br />
biên được sử dụng khá phổ biến trong đánh giá hiệu quả hiện nay. Khác với phương pháp phân<br />
tích biên ngẫu nhiên (SF) sử dụng các mô hình kinh tế lượng, DEA dựa trên phương pháp phân<br />
tích chương trình phi toán học để ước lượng cận biên sản xuất.<br />
Hiệu quả kỹ thuật lần đầu tiên được giới thiệu bởi Farrell vào năm 1957 [5] dựa trên các<br />
nghiên cứu của Debreu năm 1951 [3] và Kopman năm 1951 [6]. Nhưng, cho đến khi Charmes,<br />
Cooper và Rhodes vào năm 1978 [2] giới thiệu phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA) thì nó<br />
mới thực sự được mở rộng và ngày nay đã trở thành một ứng dụng lớn trong phân tích kinh tế.<br />
Gọi là phương pháp phân tích bao dữ liệu vì DEA sử dụng những biến đầu ra tốt nhất ứng mới<br />
mức đầu vào xác định để tạo thành một đường bao biên và coi đó là giới hạn hiệu quả kỹ thuật<br />
của ngành.<br />
Một cách đơn giản, hiệu quả (mang tính kỹ thuật) của việc sử dụng các yếu tố đầu vào xi<br />
để thu được yếu tố đầu ra yj có thể được đo lường theo công thức:<br />
<br />
Khi áp dụng cho một tổ chức sản xuất (hay gọi chung là DMU) có k yếu tố đầu vào và sản<br />
xuất ra m kết quả đầu ra, thì cần phải dựa trên giá cả pi và wj của các yếu tố đầu vào/đầu ra đó để<br />
tính toán. Tuy nhiên, việc xác định giá cả của từng yếu tố đầu vào/đầu ra thường rất phức tạp, do<br />
vậy, để đơn giản, có thể giả thiết là mỗi DMU sẽ sử dụng những trọng số nhất định ui và vj sao<br />
cho điểm hiệu quả TE của nó là cao nhất, nói cách khác, ui và vj là những trọng số giúp cho DMU<br />
đó tiến gần đến đường giới hạn khả năng sản xuất PPF nhất. Vì vậy, ui và vj được gọi là “giá ẩn”<br />
để phân biệt với pi và wj là giá cả thực và đóng vai trò như giá cả trong việc tính toán hiệu quả kỹ<br />
thuật TE.<br />
Một cách tổng quát, với bài toán có n DMU, mỗi DMU sử dụng k yếu tố đầu vào xk để tạo<br />
ra m yếu tố đầu ra ym, việc xác định hiệu quả TEo của DMUo bất kỳ sẽ được tính toán như sau:<br />
<br />
<br />
<br />
Ui, vj ≥ 0, i =1, …, m, j = 1, …, k<br />
<br />
Charnes và ctg năm 1978 [2] đã áp dụng phương pháp tối ưu hóa tuyến tính phi tham số<br />
(non-parametric linear optimization) vào việc giải quyết công thức tổng quát trên với giả thiết<br />
hiệu quả không đổi theo quy mô (CRS). Sau đó, Banker và ctg (1984) đã phát triển bài toán này<br />
cho trường hợp hiệu quả thay đổi theo quy mô (VRS). Cho đến nay, nhiều mô hinh DEA khác đã<br />
được phát triển như Malmquist DEA, network DEA, SBM DEA,…<br />
Trong nghiên cứu này, để ước lượng hiệu quả kỹ thuật của các hộ sản xuất kinh doanh trong<br />
các làng nghề truyền thống ở Bình Định, các tác giả sử dụng tổng vốn kinh doanh (ký hiệu là<br />
117<br />
<br />
Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Hà Thanh Thảo<br />
vonkd, đơn vị tính là triệu đồng), tổng số lao động (ký hiệu là tld, đơn vị tính là người), mức độ<br />
trang bị kỹ thuật/lao động (ký hiệu là muctb, đơn vị tính là triệu đồng/người) làm các biến đầu vào<br />
của mô hình, phản ánh các chi phí vốn, lao động và kỹ thuật công nghệ. Các biến đầu ra bao gồm<br />
doanh thu bán hàng (ký hiệu là dtbh, đơn vị tính là triệu đồng ), lợi nhuận ròng (ký hiệu là lnr, đơn<br />
vị tính là triệu đồng và thu nhập bình quân tháng (ký hiệu là tnbq, đơn vị tính là triệu đồng/người),<br />
phản ánh các kết quả về thị trường, tài chính và xã hội. Tất cả các biến số trên là giá trị trung bình<br />
được tính trên số liệu thu thập được trong 3 năm 2013, 2014 và 2015.<br />
3. <br />
<br />
Kết quả nghiên cứu và bàn luận<br />
<br />
Thống kê cơ bản của 63 hộ sản xuất kinh doanh ở 9 làng nghề được khảo sát được trình<br />
bày ở Bảng 2. Kết quả cho thấy vốn trung bình của một hộ sản xuất kinh doanh là 33 triệu đồng,<br />
quy mô lao động trung bình là 2,5 người cho thấy quy mô sản xuất kinh doanh của các hộ là nhỏ.<br />
Mức độ trang bị kỹ thuật trung bình là 3,66 triệu cho một lao động cho thấy công nghệ sản xuất<br />
thô sơ, chủ yếu là thợ làm bằng các phương pháp thủ công. Doanh thu bán hàng trung bình là 314<br />
triệu đồng/năm, lợi nhuận ròng là 89 triệu đồng/năm cho thấy quy mô kinh doanh của các hộ là<br />
nhỏ nhưng tỉ suất doanh lợi doanh thu thì rất cao (28,20%).<br />
Bảng 2. Các biến số sử dụng cho mô hình DEA<br />
Biến<br />
<br />
Số quan sát Trung bình<br />
<br />
Ðộ lệch<br />
chuẩn<br />
<br />
Thấp nhất<br />
<br />
Cao nhất<br />
<br />
Vonkd<br />
<br />
63<br />
<br />
33,027<br />
<br />
44,264<br />
<br />
1,000<br />
<br />
270,000<br />
<br />
Tld<br />
<br />
63<br />
<br />
2,520<br />
<br />
1,207<br />
<br />
1,000<br />
<br />
6,500<br />
<br />
Mtbkt<br />
<br />
63<br />
<br />
3,659<br />
<br />
4,900<br />
<br />
0,200<br />
<br />
25,714<br />
<br />
Dtbh<br />
<br />
63<br />
<br />
315,972<br />
<br />
325,850<br />
<br />
10,800<br />
<br />
1.658,250<br />
<br />
Lnr<br />
<br />
63<br />
<br />
89,098<br />
<br />
106,601<br />
<br />
0,000<br />
<br />
753,750<br />
<br />
Tnbq<br />
<br />
63<br />
<br />
4,745<br />
<br />
3,769<br />
<br />
0,593<br />
<br />
23,558<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Theo tính toán của các tác giả<br />
<br />
Các hộ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề thủ công Bình Định phần lớn có quy mô<br />
vốn nhỏ, sử dụng ít lao động, chủ yếu là lao động gia đình. Đây là đặc trưng chung của các làng<br />
nghề truyền thống Việt Nam nói chung, làng nghề miền Trung nói riêng. Qui mô sản xuất manh<br />
mún hạn chế sự đầu tư cho cải tiến công nghệ sản xuất, chất lượng lao động, nghiên cứu phát triển<br />
sản phẩm, tiếp thị sản phẩm, mở rộng thị trường, xây dựng và phát triển thương hiệu,… Do vậy,<br />
sự phát triển của các làng nghề Bình Định sẽ thiếu đi tính bền vững.<br />
Thu nhập bình quân của lao động trong làng nghề là 4.745.000 đồng/người/tháng. So với<br />
mức thu nhập bình quân của lao động làm công ăn lương trong khu vực Nhà nước phân trong lĩnh<br />
vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản ở cùng thời kỳ là 4.545.200 đồng (Tổng cục Thống kê)<br />
thì mức thu nhập này là cao hơn, tuy nhiên, chênh lệch không quá lớn không tạo kích thích để giữ<br />
chân lao động lâu dài ở các làng nghề, đặc biệt là trong điều kiện môi trường và trang thiết bị lao<br />
động rất hạn chế.<br />
Độ lệch chuẩn của các biến vốn kinh doanh và mức trang bị kỹ thuật rất lớn, lần lượt là<br />
44,264 triệu và 4,9 triệu/người cho thấy sự phân tán của vốn kinh doanh và mức trang bị kỹ thuật<br />
là rất lớn so với giá trị trung bình. Trong khi đó, số lượng lao động trong các hộ gia đình nhìn<br />
118<br />
<br />
Tập 11, Số 4, 2017<br />
chung là thấp, biến thiên từ 1 đến 6,5 người trong một hộ và khá tập trung ở mức trung bình 2,5<br />
người/hộ.<br />
Kết quả ước lượng hiệu quả của các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề được trình bày<br />
ở Hình 1 cho thấy có 15 hộ đạt hiệu quả không đổi theo quy mô (CRS_TE =1),chiếm 23,81%, 23<br />
hộ đạt hiệu quả thay đổi theo quy mô (VRS_TE =1),chiếm 36,51%, và 20 hộ đạt hiệu quả qui mô<br />
(SCALE =1), chiếm 31,75%.<br />
<br />
Nguồn: Theo tính toán của các tác giả<br />
Hình 1. Hiệu quả không đổi theo quy mô, hiệu quả thay đổi theo qui mô và hiệu quả qui mô<br />
của các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề<br />
119<br />
<br />