Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA BỆNH DÃN PHẾ QUẢN TẠI<br />
BỆNH VIỆN CHỢ RẪY VÀ BỆNH VIỆN CẤP CỨU TRƯNG VƯƠNG TRONG 10<br />
NĂM (1998-2007)<br />
Nguyễn Công Minh*, Nguyễn Đức Khuê*, Vũ Hữu Vĩnh*, Hoàng Văn Thiệp*, Đồng Lưu Ba**<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Dãn phế quản, một bệnh do nhiễm khuẩn phổi và tắc nghẽn phế quản gây nên, ngày nay ñã<br />
giảm hẵn ở các nước công nghiệp phát triển. Nhưng ñó vẫn còn là vấn nạn mà chúng ta phải ñối mặt. Qua<br />
ñây, chúng tôi trình bày thực trạng lâm sàng và kinh nghiệm cắt phổi, biến chứng, tử vong cũng như những<br />
kết quả ñạt ñược trong ñiều trị bệnh lý này tại BV Chợ Rẫy và BV.cấp cứu Trưng Vương.<br />
Phương pháp nghiên cứu Trong 10 năm (1998-2007), chúng tôi có 262 BN dãn phế quản ñã ñược<br />
cắt phổi (122 nam và 140 nữ). Tuổi trung bình là 47,5 (nhỏ nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 71).<br />
Kết quả: Tất cả BN ñều có TC ho ra máu mà ñiều trị nội khoa thất bại. Hầu hết (243/262) có khái<br />
huyết lượng ít, trong số ñó có 4/262 BN áp xe phổi. 53 BN dãn phế quản 2 bên, chủ yếu là tổn thương thùy<br />
dưới (144 BN). Một trăm tám mươi lăm bệnh nhân phải cắt thùy, 2 BN phải cắt toàn bộ 1 phổi, 28 BN cắt<br />
phổi giới hạn. Biến chứng và tử vong sau mổ lần lượt là 29BN (11%) và 3 BN (1,1%). Phẫu thuật cắt trọn<br />
thương tổn ñã mang lại thành công cho 235 BN, chiếm tỷ lệ 90%. Trên 148 BN ñược theo dõi thì 75% BN<br />
không còn triệu chứng, 4% ho ra máu tái phát, phải nhập viện ñể mổ lại cắt thùy hoặc bơm tắc ñộng mạch<br />
phế quản cầm máu.<br />
Kết luận: Với bệnh dãn phế quản còn khu trú, phẫu thuật cắt phổi vẫn còn giá trị, hiệu quả, biến<br />
chứng và tỷ lệ tử vong thấp. Phải luôn ghi nhớ rằng không phải mổ cắt phổi xong là hết, mà phải ñiều trị<br />
nội khoa nhiễm khuẩn hô hấp và theo dõi BN sau mổ mới mang lại thành công mỹ mãn.<br />
Từ khóa: Dãn phế quản, ñiều trị ngoại khoa.<br />
ABSTRACT<br />
<br />
SURGICAL TREATMENT FOR BRONCHIECTASIS AT CHORAY AND TRUNG VUONG<br />
HOSPITALS IN 10 YEARS (1998-2007)<br />
Nguyen Cong Minh, Nguyen Duc Khue, Vu Huu Vinh, Hoang Van Thiep, Dong Luu Ba<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 2 - 2010: 46 - 51<br />
Objective: Bronchectasis, that is caused by pulmonary infection and bronchial obstruction, has<br />
dereased significantly in industrialized countries. It is still a problem in our country. We reviewed the<br />
clinical profile and our recent experience with pulmonary resection for this condition, the morbidity,<br />
mortality and the outcome of treament in ChoRay and trưng Vương hospital.<br />
Methods: During 10 years (between 1998-2007), 262 patients (122 male and 140 female patients)<br />
underwent pulmanary resection for bronchiectasis. The mean age was 47,5 years (range 19-71 years).<br />
Results: all patients were hemoptysis and were failed of medical therapy. Most of them (243/262)<br />
were minor hemoptysis and 4/262 lung abcess. 53 patients was bilateral lung disease and mainly confined<br />
to the lower lobe in 144. One hundred and eighty five patients had a lobectomy, 2 had a pneumonectomy.<br />
28 had a limited resection. Operative morbidity mortality were seen in 29 (11%) and in three (1,1%)<br />
patients, respectively. Complete resection was achieved in 235 patients (90%). Follow-up was complete in<br />
148 patients: 75% was asymtomatic and 4% rehospitalized with residive hemoptysis that have to controlled<br />
bleeding by operation on the other lobe or arterial occluded catheterization.<br />
Conclusion: Surgical treament of bronchiectasis is more effective in patient with localized disease,<br />
with the low morbidity and mortality. It should be in mind that there is not finished after pulmonary<br />
resection, the performance of the medical treatment associated respirated physical therapy, after operation<br />
will be the optimal results in our reseach.<br />
* Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương<br />
** Bệnh viện Chợ Rẫy TP. HCM<br />
Tác giả liên hệ: PGS. TS. Nguyễn Công Minh<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
46<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Key words: Bronchectasis, surgical treatment.<br />
PHẦN MỞ ĐẦU<br />
Bệnh dãn phế quản có tử vong cao, ngang với các bệnh ác tính trong những ngày ñầu thế kỷ. Với<br />
kháng sinh thích hợp, bệnh ñã ñược cải thiện rõ suốt hơn 50 năm qua, tuy nhiên với BN ñiều trị nội không<br />
ñáp ứng, phẫu thuật cắt bỏ luôn ñóng vai trò quan trọng.<br />
Dãn phế quản (DPQ) ñược ñịnh nghĩa là tình trạng dãn và biến dạng các phế quản trung bình không<br />
hồi phục, kèm theo sự hủy hoại thành phế quản (PQ), biểu hiện bằng hiện tượng viêm dầy. Chẩn ñoán chủ<br />
yếu dựa vào lâm sàng của ho “ñàm mạn tính” và hình ảnh học của CT scan. Mục ñích nghiên cứu là ghi<br />
nhận ñặc ñiểm lâm sàng của bệnh DPQ có chỉ ñịnh phẫu thuật, phương thức mổ và hiệu quả của ñiều trị kết<br />
hợp sau mổ tại BV Chợ Rẫy và BV. Cấp cứu Trưng Vương.<br />
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br />
Đối tượng<br />
Bệnh nhân (BN) dãn phế quản ho ra máu tái ñi tái lại, không ñáp ứng với ñiều trị nội. *Sau PT cắt bỏ,<br />
chúng tôi tiếp tục ñiều trị nội và vật lý hô hấp, so sánh với số BN chỉ mổ cắt bỏ phổi ñơn thuần. *Ho ra<br />
máu ñược ñược gọi là *trầm trọng (ho máu sét ñánh) khi lượng khái huyết trên 300ml trong 24 giờ; *lượng<br />
nhiều: nếu mất từ 150-300 ml/ 24 giờ; gọi là *lượng vừa: nếu < 150 ml/24 giờ và *lượng ít nếu có máu trộn<br />
lẫn trong ñàm.<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Mô tả cắt ngang có ñối chứng.<br />
Tư liệu nghiên cứu<br />
Từ tháng 1/1998 ñến tháng 12/2007, hồi cứu 1006 trường hợp dãn phế quản nhập viện, trong ñó có<br />
262 BN có chỉ ñịnh phẫu thuật, chiếm tỷ lệ 26% BN DPQ ñến viện.<br />
Tuổi<br />
Người cao tuổi nhất là 71 và thấp nhất là 19; tuổi trung bình là 47,5. Đỉnh Cao từ 35-65 tuổi, chiếm<br />
72,5%. (P< 0,001).<br />
Giới<br />
140 Nữ, chiếm tỷ lệ 53%. 122 Nam, 47%. Nữ nhiều hơn nam. (P> 0.05).<br />
Lâm sàng lúc vào viện<br />
Khảo sát trên 262 BN ñược mổ cho thấy BN ho ra máu, kèm ñàm nhiều và kéo dài chiếm tỷ lệ cao<br />
nhất, 83%.<br />
Mức ñộ ho ra máu trước mổ<br />
Lượng ít chiếm ña số: 243 BN (92,7%). Lượng vừa: 17 (6,5%). Lượng nhiều 2 BN (0,8%). (P<<br />
0,001). Chúng tôi không có BN ho ra máu sét ñánh.<br />
Thời gian mắc bệnh<br />
Người mắc bệnh lâu nhất là 7 tháng và lâu nhất là 20 năm. BN nằm ít nhất là 1 lần, nhiều nhất là 20<br />
lần.<br />
Các bệnh lý tại phổi kèm theo<br />
74% (194/262 BN) DPQ ñơn thuần. Các BN còn lại có tổn thương kết hợp: 16% (41 BN)có bóng khí,<br />
8% (22 BN)viêm mạn tính xơ hóa và 2% (4 BN)có áp xe phổi.<br />
Trên CT scan<br />
DPQ dạng nang nhiều nhất, 45%. Dạng trụ, 27%. Dạng kết hợp, 28%. (P< 0,05).<br />
Khảo sát vi khuẩn học trong ñàm<br />
Trên 97 BN, cho thấy: nhiều nhất là Pseudomonas aeruginosae (19 BN, 20%). Pseudomonas putida<br />
(14 BN, 14%). Streptococcus pneumoniae (15, 15%).<br />
Vị trí sang thương<br />
•DPQ phổi T nhiều hơn phổi P: *209 BN (80%) bị dãn PQ 1 bên phổi. *53 BN (20%) DPQ 2 bên. (P<<br />
0,001). •Dãn PQ thùy dưới (2 phổi) là 144 BN, chếm tỷ lệ 55%.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
47<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Số BN bị dãn PQ ở thùy dưới phổi T gần gấp ñôi thùy dưới phổi P (136 BN và 70 BN).(P< 0,001).<br />
Chỉ ñịnh ngoại khoa<br />
Tất cả BN của chúng tôi có chỉ ñịnh cắt thùy phổi do ho ra máu, mà ñiều trị nội kéo dài, không<br />
ñáp ứng. Có 4 BN áp xe phổi-ho ra máu, chỉ ñịnh cắt thùy phổi và KQ GPBL(sau mổ) là DPQ.<br />
Phương pháp mổ<br />
Cắt thùy là chủ yếu, 185 BN (71%); Cắt liên thùy: 47 BN (17%); Cắt phổi giới hạn: 28 BN (11%); Cắt<br />
toàn bộ phổi: 2 BN (1%).<br />
Biến chứng sau mổ<br />
Biến chứng sớm<br />
28 BN, chiếm tỷ lệ 11%. Trong ñó xẹp phổi chiếm nhiều nhất (14BN, 5,3%).<br />
Biến chứng muộn<br />
Trong 68 BN DPQ 2 bên: sau khi ñã cắt phần phổi gây ho ra máu thì có 6 BN trở lại mổ tiếp bên ñối<br />
diện, phải sử dụng bơm tắc kết hợp, cũng do ho ra máu DPQ.<br />
Tử vong sau mổ<br />
Tỷ lệ tử vong: 3 BN, chiếm tỷ lệ 1,1%: *2 viêm phổi-suy hô hấp. *1 mủ-dò phế quản-màng phổi.<br />
Kết quả sau mổ<br />
235 BN ñược cắt trọn ñạt hiệu quả sau mổ, chiếm tỷ lệ 90%.<br />
Theo dõi<br />
148 BN ñược theo dõi sau 3 tháng ñến 5 năm:<br />
- 175% (11/148 BN) không còn ho ñàm hoặc máu, (P< 0,001).<br />
- 20% (31/148) vẫn còn ho nhiều ñàm.<br />
- 4% (6 BN) ho máu lại: 4 phải bơm tắc, 2 mổ cắt thêm 1 thùy phổi.<br />
BÀN LUẬN<br />
Vài nét về lịch sử<br />
Năm 1819, Laennec lần ñầu tiên mô tả bệnh này… Mãi ñến năm 1922, Sicard và Forestier mới thiết<br />
lập chẩn ñoán chính xác bằng phương pháp chụp phế quản cản quang. Gần ñây, với vai trò của CT scan<br />
không xâm lấn, chẩn ñoán tương ñối dễ dàng và giá trị hơn[6]. DPQ là bệnh lý còn tồn tại ở các nước ñang<br />
phát triển[1,7]. Mặc dù rất nhiều tiến bộ của ngành phẫu thuật, nhưng chọn phương thức ñiều trị lý tưởng cho<br />
bệnh lý này, ngày nay vẫn còn bàn cãi.<br />
Đặc ñiểm bệnh nhân<br />
Suất ñộ<br />
Trong 10 năm (1998-2007) chúng tôi có 262 BN có chỉ ñịnh mổ. Trong một thống kê của<br />
Balkanli[2]Thổ Nhĩ Kỳ cũng trong 10 năm (1992-2001), có 238 BN có chỉ ñịnh mổ.<br />
Tuổi<br />
Vì BV chúng tôi chỉ nhận ñiều trị BN người lớn, chúng tôi không có số liệu của trẻ em dưới 15 tuổi.<br />
Tuổi trung bình là 44. Theo Kutlay[7]Thổ Nhĩ Kỳ thì BN nhỏ nhất ñược mổ cắt phổi là 7 tuổi. Và<br />
Agasthian[1] thì BN nhỏ nhất là 4 tuổi.<br />
Giới<br />
Công trình này, nữ nhiều hơn nam, 53% so với 47%. (P> 0.05). Với Kutlay[7]: 55% nữ và 45% nam.<br />
Với Agasthian[1] ở Minnesota, Mỹ thì 59% nữ và 41% nam. Nhưng với Balkanli[2] Thổ Nhĩ Kỳ thì ngược<br />
lại: 86,13% là nam và 13,02% là nữ.<br />
Bệnh học<br />
Dãn PQ là 1 bệnh phổi mãn tính, biểu hiện bằng hiện tượng dãn PQ, kết hợp với tình trạng nhiễm<br />
khuẩn thành PQ và các tổ chức nhu mô phổi xung quanh. Nguyên nhân nhiễm khuẩn có thể còn tiếp diễn<br />
hay ñã hết, nhưng tổn thương dãn và hủy hoại phế quản vẫn còn tiến triển[8,15]. Khảo sát tử thiết cho thấy tỷ<br />
lệ DPQ bị bỏ quên trên thực tế cao hơn nhiều so với các thống kê phát hiện trên người sống. Và có một<br />
ñiều rõ ràng rằng: dãn PQ nặng hoặc dãn toàn bộ không thể dung nạp cho 1 cuộc sống lâu<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
48<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ñược[6,12,13,14,15,16,17]. 1/3 các trường hợp DPQ chỉ có 1 thùy; 1/3 gặp ở 1 bên nhưng chiếm cả 2 thùy; và 1/3<br />
các trường hợp ở 2 bên[6].<br />
Hình ảnh CT scan<br />
BN của chúng tôi: 45% dạng túi và 28% dạng kết hợp và 27% dạng trụ.<br />
Về mặt bệnh học và hình ảnh học, năm 1950, Reid phân thành 3 dạng theo diễn tiến tự nhiên của bệnh.<br />
Trên thực tế lâm sàng và ứng dụng ñiều trị gần ñây, chỉ còn chia thành 2 dạng[12,13].<br />
Dạng trụ: (dạng ống)<br />
Biến thể của dạng trụ là dạng chuỗi tràng hạt[6,12]: các phế quản dãn phình ra không ñều ñặn giống như<br />
một búi tĩnh mạch dãn[11,12,13].<br />
Dạng túi hoặc dạng nang<br />
Là thể nặng nhất. PQ bị cắt cụt ñột ngột, mà phần tận cùng của phế quản dãn tạo thành 1 hốc chứa mủ,<br />
dưới dạng chùm nho.<br />
DPQ dạng trụ (dạng ống) thường là hậu quả của viêm lao, trong khi DPQ dạng túi (dạng nang) thường<br />
là hậu quả sau cùng của sự nhiễm khuẩn và tắc nghẽn[6,10,11,12].<br />
Các dạng này có thể xuất hiện riêng lẻ hoặc phối hợp. Dạng nào cũng có thể hồi phục nhiều hoặc ít,<br />
nhưng dạng túi, là dạng nặng nhất[6,12].<br />
Thời gian mắc bệnh<br />
Thực tế của chúng tôi mang ñặc trưng của bệnh dãn PQ người lớn, người mắc bệnh lâu nhất là 7 tháng<br />
và lâu nhất là 20 năm. Thời gian ñiều trị nội, BN phải nhập viện nhiều nhất là 20 lần. BN của Agasthian[1]<br />
có thời gian kéo dài trung bình là 6 năm.<br />
Cơ chế ho ra máu trong bệnh dãn phế quản<br />
-92,7% BN của chúng tôi là ho ra máu lượng ít và chỉ có 6,5% là ho máu lượng vừa.<br />
-Do hậu quả của quá trình viêm kéo dài, tuần hoàn phế quản phát triển phong phú. Những ĐM<br />
phế quản nối với phế quản-phổi, rộng khắp, phì ñại và dản to (gấp 3 lần khẩu kính bình thường),<br />
ngoằn ngoèo, tạo ra nhiều nhánh thông nối rộng khắp với tuần hoàn phổi. Do ñó trong ñợt viêm cấp,<br />
các mạch máu ngoằn ngoèo dãn to ấy dễ bị loét khuyết, vỡ vào trong các nhánh phế quản, là nguyên<br />
nhân của ho ra máu[6].<br />
Lâm sàng và chẩn ñoán<br />
TC thường gặp của dãn PQ là ho ñàm mạn tính với mùi hôi hoặc mủ. Lượng ñàm ñôi lúc lên ñến 250500 ml/ ngày. BN của chúng tôi lúc nhập viện: TC ho ñàm nhiều nhất (83%) sau ñó là ho ra máu (75%).<br />
Chúng tôi không có BN nào có ngón tay vùi trống. •Agasthian[1] 94,5% ho nhiều ñàm, trong ñó 50,9% ho<br />
ra máu. •Trong công trình của Barker[3] trên 103 BN dãn PQ cho thấy ho ñàm chiếm 78%, khó thở, 5062%, viêm xoang mũi, 73%, khái huyết, 27% và 2% có ngón tay vùi trống. •Trước kỷ nguyên kháng sinh<br />
thường gặp tình trạng suy hô hấp mạn (ngón tay dùi trống, xanh tím, tâm phế mãn).<br />
Bởi vì có ñến 7-20% DPQ có phim phổi bình thường[12,13], do ñó CT scan ña lớp cắt, nhất là CT scan<br />
xoắn ốc với ñộ phân giải cao hiện nay rất giá trị, giúp phát hiện dản phế quản từ mức ñộ nhẹ ñến trung<br />
bình, khu trú hoặc lan tỏa và tình trạng nhu mô phổi xung quanh[1,7,11]. Chúng tôi chỉ căn cứ trên hình ảnh<br />
của CT scan và KQ nội soi phế quản.<br />
Nên nhớ rằng không phải dãn PQ nào cũng có biểu hiện lâm sàng, do ñó không cần phải cắt những<br />
vùng dãn PQ không gây triệu chứng mặc dù chính nó sau này sẽ bị nhiễm khuẩn và trở thành có triệu<br />
chứng. Ngược lại nếu xác ñịnh là dãn PQ 2 bên thì không nhất thiết từ chối ngoại khoa, ñể cắt bỏ ñúng thùy<br />
hoặc phân thùy bị bệnh[6,12,13].<br />
Vị trí phế quản dãn<br />
•Với các tác giả Thỗ Nhĩ Kỳ[1,7] thì tỷ lệ tổn thương thùy dưới chiếm nhiều nhất, 56%; Còn theo<br />
Balkanli[4] là 68% và DPQ xuất hiện ở 2 phổi là 13%. Thùy dưới (T) gấp 3 lần thùy dưới (P)[12,14,17]. Tại sao<br />
? Vì phế quản gốc (T) hẹp hơn phế quản gốc (P). Hơn nữa dẫn lưu chất tiết phế quản (qua thao tác ho hoặc<br />
khạc ñàm) của thùy dưới ở tư thế nằm (theo nguyên tắc trong lực) thì kém nhất, kế mới ñến thùy lưỡi (T)<br />
và thuỳ giữa (P). Dẫn lưu tư thế tốt nhất vẫn là các thùy trên[12,13].<br />
Khảo sát vi khuẩn học:<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
49<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Các nghiên cứu này cho thấy Pseudomonas aeruginosae tương ñối nhiều hơn các loại vi khuẩn khác<br />
20%. Bởi vì ñây là 1 bệnh mạn tính, cho nên theo các tác giả[3,4,9] thì Pseudomonas aeruginosae và<br />
Hemophilus influenzae chiếm ña số. Trong 1 công trình của Balkanli[2] thì Pseudomonas aeruginosae vẫn<br />
chiếm ưu thế (21%), sau ñó mới ñến Hemophylus influenzae (16%).<br />
Điều trị<br />
●Từ khi KS ra ñời, DPQ ñã gần như ñược ñiều trị hiệu quả 1 cách ngoạn mục. Ngày nay LS của DPQ<br />
cũng nhẹ ñi, trừ phi có cơ ñịa bẩm sinh. Đặc biệt nhất là từ khi có thuốc chủng ngừa (ho gà…) thì ở Mỹ các<br />
trường hợp dản phế quản do ho gà trẻ em gần như không còn ñược nhắc ñến[6,12,13,16,17]. Nên luôn nhớ rằng:<br />
ñiều trị ban ñầu của bệnh lý DPQ là nội khoa-kháng sinh và vật lý hô hấp ñúng ñắn. Nếu ñiều trị nội khoa<br />
thất bại hoặc ho ra máu thường xuyên hơn thì nên mổ cắt phổi. Và phải hiểu rằng sau khi cắt phổi, phải<br />
ñược theo dõi và ñiều trị nội nhiều năm. Hầu hết các tác giả khuyên rằng: muốn ñiều trị phẫu thuật thành<br />
công: 1.Nên chỉ ñịnh mổ ở “giai ñoạn khô”. 2.Trong khi mổ, nếu vùng nhu mô phổi nghi ngờ, không xác<br />
ñịnh ñược, nên cắt trọn.<br />
●Trong 10 năm qua (1998-2007), chúng tôi có 1006 trường hợp dãn phế quản, trong ñó có 262 BN có<br />
chỉ ñịnh phẫu thuật, chiếm tỷ lệ 26%. Tại Mỹ, trong 13 năm (1976-1993) tại Mayo Clinic có 3.421 BN dãn<br />
phế quản, trong ñó chỉ có 3,9% ñược cắt phổi[1].<br />
●Quan ñiểm ñiều trị dãn PQ hiện nay<br />
-Chỉ ñịnh mổ không nên sớm quá cũng ñừng nên ñể quá trễ, làm suy sụp tổng trạng, gây ức chế tâm lý,<br />
thiếu tự tin trong cuộc sống cho BN.<br />
-Trước kia, chỉ ñịnh mổ trên các BN dãn PQ khu trú có ho khạc ñàm mủ kéo dài hoặc ho ra máu lượng<br />
lớn. Điều này ñúng với các trường hợp BN nhiều tuổi kèm theo viêm phế quản mạn. Bởi vì cắt rộng nhu<br />
mô phổi trong dản phế quản 2 bên, nếu bỏ quên, không ñiều trị nội tiếp, phần phổi còn lại tiến triển xấu dần<br />
do giảm chức năng hô hấp.<br />
Gần ñây, quan ñiểm này ñã bị thay ñổi. Phẫu thuật(PT) cắt nhiều thùy hoặc 2 bên, với chọn bệnh kỹ ñã<br />
giảm tử vong ñáng kể. Cắt bỏ phần nhu mô phổi ñã bị teo, mất chức năng thì phần phổi còn lại sẽ phì ñại<br />
hoặc dản nở bù trừ. PT cắt liên thùy ñã mang lại thành công, nhất là trên BN trẻ[4,6,8,9,10,12,13,17].<br />
Với chủ trương tiết kiệm nhu mô phổi lành, chúng tôi chủ trương ưu tiên cắt thùy phổi.<br />
Kết quả phẫu thuật<br />
80% BN của chúng tôi có tổn thương khu trú, có thể PT cắt trọn. Kết quả tốt ñến 90%. Số liệu của<br />
chúng tôi không khác biệt nhiều với các tác giả khác[1,7]. Như vậy PT cắt bỏ hiệu quả, biến chứng, tử vong<br />
chấp nhận ñược. Agasthian[1] cắt toàn bộ phổi ñược theo dõi thì 86,7% tốt; 13,3% vẫn còn ho ñàm do cắt<br />
còn sót thương tổn bên ñối diện. Kutlay[7] thành công sau PT cắt trọn là 88%; Và với Balkanli[2] chỉ có<br />
4,7% là thất bại sau phẫu thuật cắt bỏ.<br />
Trong một nghiên cứu ña trung tâm, KQ cho thấy: 80% tốt, 15% cải thiện 1 phần và 5% tệ hơn trước<br />
mổ. Tử vong < 1% nếu làm ñúng qui trình trên[6].<br />
Nguyên nhân tái phát<br />
Có 2 nguyên nhân tái phát: cắt giới hạn (bỏ sót thương tổn) và không tiếp tục ñiều trị nội với kháng<br />
sinh thích hợp[6,12,13].<br />
Trong 22 BN viêm mãn tính xơ hóa thì có ñến 19 BN có tiền căn lao phổi cũ. Những BN này thường<br />
có tổn thương lan tỏa, là nguồn gốc của những thất bại, hoặc tái phát sau khi cắt bỏ.<br />
Cố gắng bảo tồn tối ña phần phổi lành và phải giải phóng càng nhiều càng tốt các tổn thương hư hoại.<br />
Biến chứng xuất hiện trong và sau mổ thường là do tổn thương gần rốn phổi. Trong những trường hợp ñó,<br />
tốt nhất là nên nên ñấp mõm cắt bằng màng phổi thành. Chú ý không ñể lại mõm cắt phế quản quá dài[6].<br />
Chúng tôi có 2 trường hợp phải ñấp mõm cắt, ñều thành công. DPQ là 1 bệnh lý của phế quản phân thùy,<br />
do ñó cắt thùy hoặc liên thùy ñều hiệu quả. Trong trường hợp có nhiều vùng DPQ cùng trên 1 phổi, thì nên<br />
cắt phần phổi xấu nhất. Các trường hợp này thường cho kết quả tốt nhờ cải thiện chức năng hô hấp từ sự<br />
bảo tồn của phần phổi còn lại và phổi bên ñối diện.<br />
Tử vong và biến chứng sau mổ<br />
Chúng tôi có 3 BN tử vong sau mổ, tỷ lệ 1,1%, do viêm phổi-suy hô hấp và biến chứng dò phế quảnmủ màng phổi. Theo hầu hết các tác giả[4,5,13] tử vong sau mổ < 3%.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
50<br />
<br />