intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá sự thay đổi BIS trong gây mê TCI bằng propofol

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

54
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung nghiên cứu với mục tiêu nhằm đánh giá sự thay đổi chỉ số BIS trong gây mê tĩnh mạch TCI bằng propofol. Nghiên cứu tiến hành thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 70 bệnh nhân trong thời gian từ 7/2011 đến 07/2013.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá sự thay đổi BIS trong gây mê TCI bằng propofol

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI BIS TRONG GÂY MÊ TCI BẰNG PROPOFOL <br /> Nguyễn Văn Chinh*, Nguyễn Văn Chừng* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Đặt vấn đề: Theo dõi chỉ số độ mê (BIS) và gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích (TCI) bằng thuốc gây <br /> mê Propofol là những kỹ thuật mới, có nhiều tiến bộ đã được chứng minh trong các nghiên cứu ở các nước. Các <br /> kỹ thuật mới được áp dụng tại Việt Nam. Hiện tại, thực tế trên lâm sàng chúng ta theo dõi các yếu tố như: nhịp <br /> tim, huyết áp, nhịp thở, độ sâu hô hấp, trương lực cơ, chảy nước mắt, dấu hiệu của nhãn cầu,…để đánh giá mức <br /> độ mê của bệnh nhân. Nhưng các yếu tố này không trực tiếp và không cụ thể mà có thể thay đổi tùy theo bệnh lý, <br /> thuốc dùng và tình trạng phẫu thuật. Phần lớn cũng thay đổi tùy theo mỗi bệnh nhân.  <br /> Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá sự thay đổi chỉ số BIS trong gây mê tĩnh mạch TCI bằng Propofol. <br /> Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 70 bệnh nhân trong thời gian <br /> từ 7/2011 đến 07/2013. Các bệnh nhân được gây mê toàn diện để phẫu thuật. Mạch, huyết áp, nhịp thở và tình <br /> trạng sức khỏe của bệnh nhân được theo dõi trước và sau khi gây mê. Theo dõi chặt chẽ trong và sau phẫu thuật <br /> để phát hiện và xử trí kịp thời những tai biến biến chứng xảy ra. <br /> Kết quả: Thời gian mất ý thức: 82,14 ± 10,42 giây. Mất ý thức tại thời điểm: Cp: 1,42 ± 0,27 mcg/ml, BIS: <br /> 63,66 ± 5,53. Giai đoạn khởi mê: liều Propofol: 1,47 ± 0,06 mg/kg, BIS: 44,11 ± 2,63. Giai đoạn duy trì mê: Cp: 3 <br /> mcg/ml, BIS: 40 – 60. Gây mê kiểm soát nồng độ đích: liều khởi mê thấp, mất ý thức nhanh, khởi mê êm dịu, thời <br /> gian hồi tỉnh ngắn, trong quá trình gây mê BIS ổn định và ít thay đổi huyết động. Không ghi nhận các tác dụng <br /> phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng.  <br /> Kết luận: Gây mê kiểm soát nồng độ đích bằng Propofol là phương pháp gây mê an toàn và hiệu quả cho <br /> phẫu thuật. Sự theo dõi chặt chẽ độ mê BIS trong quá trình gây mê kiểm soát nồng độ đích sẽ góp phần cho sự <br /> thành công cuộc gây mê.  <br /> Từ  khóa:  Gây mê kiểm soát nồng độ đích (TCI), đánh giá độ sâu trong gây mê (BIS), nồng độ thuốc mê <br /> trong huyết tương (Cp), nồng độ thuốc mê tại đích tác dụng (Ce). <br /> <br /> ABSTRACT <br /> EVALUATION A CHANGE OF BIS IN PROPOFOL TCI ANESTHESIA  <br /> Nguyen Van Chinh, Nguyen Van Chung <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 66 ‐ 71 <br /> Introduction: BIS (Bispectral Index) and Propofol TCI (Target Controlled Infusion) anesthesia, which have <br /> been  appreciated  in  foreign  research,  are  a  newly  applicated  techniques  for  anesthesia  in  Vietnam.  In  today’s <br /> clinical practice: Heart rate, blood pressure, respiratory rate, rhythm & depth, muscle tone, tears, ocular signs,… <br /> are all used for monitoring anaesthetic adequacy. All are indirect & non‐specific & may vary over a wide range <br /> depending on disease, drugs and surgical technique. There is also large inter‐patient variability.  <br /> Objectives:  This  study  is  performed  to  evaluate  a  change  of  Bispectral  Index  (BIS)  in  target  controlled <br /> infusion (TCI) anesthesia.  <br /> Methods:  Prospective  study  on  70  patients  from  July  2011  to  July  2013.  All  of  them  have  undergone <br /> general anesthesia. Pulse, blood presure, resspiratory rate and health status of the patients were monitored right <br /> * Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh <br /> Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Văn Chinh ‐ ĐT: 0903885497 ‐ Email: chinhnghiem2006@yahoo.com  <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br /> 67<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013<br /> <br /> before and after anesthesia. Close careful monitoring during and after the operation must be applied in order to <br /> detect and manage in time complications. <br /> Results:  Loss of consciousness time: 82,14 ± 10,42 sec. Loss of consciousness at Cp: 1.42 ± 0.27 mcg/ml, <br /> BIS: 63.66 ± 5.53. Induction: Propofol doses: 1.47 ± 0.06 mg/kg, BIS: 44.11 ± 2.63. Maintenance: Cp: 3 mcg/ml, <br /> BIS:  40  –  60.  TCI  had  lower  induction  doses,  quick  loss  of  consciousness,  smooth  inductions,  short  recovery <br /> times, stable BIS and less hemodynamic changes in anesthesia. Side‐effects, accidents and complications were not <br /> noted. <br /> Conclusions: Propofol target controlled infusion is safe and effective. Close careful BIS monitoring during <br /> target controlled infusion will contribute to succesful method. <br /> Keywords:  Target  Controlled  Infusion  (TCI),  Bispectral  Index  (BIS),  Plasma  Concentration  (Cp),  Effect <br /> Concentration (Ce).  <br /> tôi  thực  hiện  đề  tài  “Đánh  giá  sự  thay  đổi  BIS <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> trong gây mê TCI bằng propofol”, với mục tiêu  <br /> Có  nhiều  phương  pháp  vô  cảm  cho  bệnh <br /> Đánh giá sự thay đổi chỉ số BIS trong gây mê <br /> nhân  khi  phẫu  thuật.  Phương  pháp  gây  mê  là <br /> tĩnh mạch TCI. <br /> phương  pháp  phổ  biến,  được  áp  dụng  từ  lâu <br /> Khảo sát sự thay đổi huyết động theo chỉ số <br /> trong  chuyên  ngành  gây  mê  hồi  sức.  Phương <br /> BIS qua các giai đoạn trong gây mê. <br /> pháp này có thể dùng các loại thuốc mê hô hấp <br /> hay  thuốc  mê  tĩnh  mạch  phối  hợp  với  các  loại <br /> thuốc giảm đau trung ương và thuốc dãn cơ để <br /> duy trì mê nhằm đảm bảo bệnh nhân được giảm <br /> đau,  dãn  cơ  và  ngủ  đủ  độ  mê  trong  suốt  quá <br /> trình phẫu thuật. <br /> Phương  pháp  gây  mê  tĩnh  mạch  kiểm  soát <br /> nồng  độ  đích  (TCI)  ra  đời  trong  thời  gian  gần <br /> đây  đã  cho  thấy  những  lợi  điểm  như:  an  toàn, <br /> ổn  định  huyết  động  và  nhất  là  ổn  định  độ  mê <br /> qua việc theo dõi được nồng độ thuốc trong não. <br /> Hệ thống TCI điều khiển bằng vi tính giúp kiểm <br /> soát  quá  trình  gây  mê  hiệu  quả  và  liên  tục. <br /> Phương pháp này cho phép người gây mê chọn <br /> và điều chỉnh nồng độ thuốc mê ở đích tác dụng <br /> là não để kiểm soát độ mê. Hơn nữa khắc phục <br /> các  nhược  điểm  của  các  loại  thuốc  mê  hô  hấp <br /> như: ô nhiễm môi trường phòng mổ, gây sốt cao <br /> ác  tính,…Vì  vậy  phương  pháp  này  đang  được <br /> nhiều  nhà  gây  mê  quan  tâm  và  chọn  lựa.  Tuy <br /> nhiên, liệu phương pháp này có thật sự an toàn <br /> và  kiểm  soát  độ  mê  tốt?  Phương  pháp  này  có <br /> những tác dụng không mong muốn gì? Chính vì <br /> những câu hỏi trên mà khi bệnh viện trang bị hệ <br /> thống  theo  dõi  độ  mê  (BIS),  một  công  cụ  cho <br /> phép  người  gây  mê  điều  chỉnh  độ  mê  theo  các <br /> thông số hiển thị trên máy theo dõi, nên chúng <br /> <br /> 68<br /> <br /> Ghi  nhận  những  tác  dụng  không  mong <br /> muốn của phương pháp này <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Thiết kế nghiên cứu <br /> Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng. <br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu <br /> Những  bệnh  nhân  được  gây  mê  để  phẫu <br /> thuật tại bệnh viện Đại học Y Dược và bệnh viện <br /> Nguyễn Tri Phương TP. Hồ Chí Minh từ tháng <br /> 07/2011 đến tháng 07/2013. <br /> <br /> Kỹ thuật chọn mẫu <br /> Tiêu chuẩn nhận <br /> Chỉ định gây mê toàn diện mổ chương trình. <br /> Bệnh nhân thuộc nhóm ASA I, II, III <br /> Tuổi từ 16 tuổi trở lên. <br /> <br /> Tiêu chuẩn loại <br /> Đang tình trạng sốc. <br /> Suy tim, suy gan, suy thận. <br /> Có bệnh lý thần kinh, tâm thần. <br /> Đang dùng thuốc có tác dụng tương tác với <br /> thuốc mê. <br /> Cuộc mổ dự kiến kéo dài.  <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 <br /> Phương tiện và phương thức tiến hành <br /> Thuốc  và  dịch  truyền:  thuốc  mê,  thuốc  cấp <br /> cứu,  dịch  truyền  dùng  trong  gây  mê  hồi  sức <br /> thông thường. <br /> Phương  tiện  gây  mê,  theo  dõi  và  hồi  sức: <br /> dụng cụ đặt nội khí quản, máy gây mê, nguồn <br /> dưỡng  khí,  ống  nghe  tim  phổi,  máy  đo  HA <br /> động  mạch,  nhiệt  độ,  kim  luồn  20G,  18G,  … <br /> Máy  monitor  theo  dõi  các  thông  số  trong  gây <br /> mê hồi sức… <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> trong  quá  trình  duy  trì  mê  và  giai  đoạn  hồi <br /> tĩnh...  Tất  cả  các  số  liệu  đều  được  ghi  lại  trong <br /> phiếu theo dõi nghiên cứu và nhập vào máy vi <br /> tính.  Quản  lý  và  xử  lý  tất  cả  các  số  liệu  theo <br /> chương trình SPSS 13.0. <br /> Tính tần suất và tỷ lệ phần trăm cho các biến <br /> định tính. <br /> Tính trị số trung bình và độ lệch chuẩn cho <br /> các biến liên tục. Các chỉ số được biểu hiện bằng <br /> số trung bình ± độ lệch chuẩn. <br /> <br /> Dụng  cụ  chuyên  dùng:  bơm  tiêm  điện  liên <br /> tục TCI, máy theo dõi độ mê BIS. <br /> <br /> Tính  trị  số  P  value  và  khác  biệt  có  ý  nghĩa <br /> thống kê khi p 0,05. Về thời gian mất ý thức trong nghiên cứu <br /> chúng  tôi  thấp  hơn  so  với  các  tác  giả  khác  với <br /> 82,14 ± 10,42 giây và 90 – 110 giây, có lẽ do thể <br /> trạng chung bệnh nhân chúng tôi nhỏ hơn bệnh <br /> nhân các nước phương tây. <br /> <br /> Giai đoạn khởi mê <br /> Bảng 4 <br /> Nghiên cứu<br /> Chúng tôi<br /> Macquaire<br /> Struys<br /> <br /> Liều Propofol<br /> (mg/kg)<br /> 1,47 ± 0,06<br /> 1,41 ± 0,09<br /> 1,31 ± 0,11<br /> <br /> Giá trị BIS<br /> 44,11 ± 2,63<br /> 40 – 60<br /> 40 – 60<br /> <br /> Giai  đoạn  khởi  mê  (bảng  4):  Liều  khởi  mê <br /> của Propofol trong nghiên cứu chúng tôi là 1,47 <br /> ± 0,06 thấp hơn so với việc dùng không có kiểm <br /> soát nồng độ đích, nghĩa là liều khởi mê  thông <br /> thường  chúng  tôi  dùng  là  2  –  2,5mg/kg.  Điều <br /> này cũng  phù  hợp  theo  nghiên  cứu  của  các  tác <br /> giả Macquaire(5) và Struys(10) 1,41 ± 0,09 và 1,31 ± <br /> 0,11. Giá trị BIS cũng tương đương nhau và nằm <br /> trong giới hạn cho phép là 44,11 ± 2,63. Điều này <br /> cho  thấy  khởi  mê  với  TCI  nhanh,  êm  dịu,  an <br /> toàn  và  tiết  kiệm  thuốc  mê  hơn  so  với  phương <br /> pháp khởi mê tĩnh mạch thông thường, điều này <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> cũng  được  khẳng  định  bởi  nghiên  cứu  của  các <br /> tác  giả  Châu  Thị  Mỹ  An,  Nguyễn  Ngọc  Anh, <br /> Nguyễn Văn Chừng(2), và Ngô Văn Chấn, Phan <br /> Tôn Ngọc Vũ, Nguyễn Văn Chừng(7). <br /> <br /> HA trung<br /> bình<br /> <br /> SpO2<br /> <br /> 10,6 ± 1,8<br /> <br /> 99,1 ± 2,7<br /> <br /> Giai đoạn duy trì mê <br /> Bảng 5 <br /> Nghiên cứu<br /> Chúng tôi<br /> Irwin<br /> Ngai Liu<br /> Struys<br /> <br /> Cp (mcg/ml)<br /> 3<br /> 3,82<br /> 3,8<br /> 5,4<br /> <br /> Giá trị BIS<br /> 40 – 60<br /> 45<br /> 40 – 60<br /> 40 – 60<br /> <br /> Giai  đoạn  duy  trì  mê  (bảng  5):  nghiên  cứu <br /> của chúng tôi chọn lựa nồng độ duy trì mê Cp: 3 <br /> mcg/ml  thấp  hơn  so  với  các  nghiên  cứu  khác <br /> như Irwin(3) Cp: 3,82mcg/ml, của Ngai Liu(6) Cp: <br /> 3,8  mcg/ml  và  của  Struys(10)  Cp:  5,4  mcg/ml <br /> nhưng tất cả nghiên cứu trên đều có giá trị BIS <br /> nằm trong khoảng 40 – 60. Đặc điểm này chứng <br /> tỏ  gây  mê  TCI  giúp  ổn  định  nồng  độ  thuốc  ở <br /> não hơn nên an toàn hơn và tránh được những <br /> trường hợp gây mê quá nông hay  quá  sâu  đều <br /> không tốt cho bệnh nhân(8). <br /> <br /> Giai đoạn thức tỉnh <br /> Bảng 6 <br /> Nghiên cứu<br /> Chúng tôi<br /> Leslie<br /> Sandin<br /> <br /> Khả năng thức tỉnh và nhớ lại sau mổ<br /> Không BN nào thức tỉnh trong mổ và nhớ<br /> lại sau mổ<br /> Mức Cp mất ý thức sẽ loại bỏ khả năng<br /> nhớ lại sau mổ<br /> Nhớ lại trong gây mê khoảng 0,16%<br /> <br /> Giai đoạn thức tỉnh (bảng 6): nghiên cứu của <br /> chúng tôi không bệnh nhân nào thức tỉnh trong <br /> mổ và nhớ lại sau mổ. Trong khi nghiên cứu của <br /> Leslie(4): mức Cp mất ý thức sẽ loại bỏ khả năng <br /> nhớ  lại  sau  mổ  và  nghiên  cứu  của  Sandin(9)  thì <br /> nhớ lại trong gây mê khoảng 0,16%. Điểm chung <br /> của các nghiên cứu là gây mê TCI ngưng truyền <br /> thuốc  mê  là  bệnh  nhân  tỉnh  nhanh  và  êm  dịu. <br /> Hơn nữa, bản thân thuốc Propofol cũng là thuốc <br /> mê tĩnh mạch có tác dụng nhanh, mau ngủ, mau <br /> tỉnh,  kết  hợp  với  kỹ  thuật  TCI  thì  vừa  ổn  định <br /> nồng độ thuốc vừa giảm nguy cơ tích lũy thuốc <br /> mê nên càng  phù  hợp  để  chọn  lựa  gây  mê  cho <br /> bệnh nhân(2). <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br /> Thay đổi huyết động trong các giai đoạn mê <br /> Bảng 7 <br /> Thay đổi huyết<br /> Mạch<br /> động<br /> Trước khi tiền mê 71,6 ± 2,6<br /> Trước khi khởi mê 73,5 ± 2,8<br /> <br /> 9,7 ± 1,5<br /> <br /> 99,2 ± 3,1<br /> <br /> Sau khi đặt NKQ<br /> <br /> 81,6 ± 4,1<br /> <br /> 9,6 ± 1,4<br /> <br /> 99,5 ± 3,3<br /> <br /> Trước rạch da<br /> <br /> 74,6 ± 2,9<br /> <br /> 8,6 ± 1,1<br /> <br /> 99,2 ± 3,1<br /> <br /> Sau rạch da<br /> <br /> 77,8 ± 3,4<br /> <br /> 8,7 ± 1,1<br /> <br /> 99,0 ± 2,6<br /> <br /> Trong duy trì mê<br /> <br /> 76,6 ± 3,2<br /> <br /> 10,8 ± 1,9<br /> <br /> 98,5 ± 2,1<br /> <br /> Giai đoạn hồi tỉnh 87,5 ± 4,9<br /> <br /> 9,7 ± 1,5<br /> <br /> 97,2 ± 2,0<br /> <br /> Thay đổi sinh hiệu qua các giai đoạn gây mê <br /> như tiền mê, khởi mê, sau đặt nội khí quản, duy <br /> trì mê và giai đoạn hồi tỉnh (bảng 7) không có ý <br /> nghĩa thống kê, nghiên cứu chúng tôi không có <br /> trường hợp nào thay đổi huyết động quá 20% so <br /> với ban đầu. điều này cũng phù hợp theo các tác <br /> giả  Macquaire(5)  (15,2%).  Theo  Struys(10)  thì  sự <br /> biến đổi huyết động ở nhóm TCI ít hơn gây mê <br /> không  kiểm  soát  nồng  độ  đích  là  19,7%  so  với <br /> 28,8% (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2