intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá thay đổi kiến thức về dự phòng loét ép của người chăm sóc chính cho người bệnh đột quỵ não tại Nam Định sau giáo dục can thiệp

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

87
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của bài viết là đánh giá thay đổi kiến thức về loét ép và dự phòng loét ép của người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não (ĐQN) sau can thiệp giáo dục. Phương pháp: thực hiện chương trình can thiệp giáo dục kiến thức về loét ép và dự phòng loét ép cho đối tượng là người chăm sóc chính của người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá thay đổi kiến thức về dự phòng loét ép của người chăm sóc chính cho người bệnh đột quỵ não tại Nam Định sau giáo dục can thiệp

t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2018<br /> <br /> ĐÁNH GIÁ THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ DỰ PHÒNG LOÉT ÉP<br /> CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC CHÍNH CHO NGƯỜI BỆNH<br /> ĐỘT QUỴ NÃO TẠI NAM ĐỊNH SAU GIÁO DỤC CAN THIỆP<br /> Vũ Văn Thành*; Phạm Thị Thúy Liên*<br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: đánh giá thay đổi kiến thức về loét ép và dự phòng loét ép của người chăm sóc<br /> chính người bệnh đột quỵ não (ĐQN) sau can thiệp giáo dục. Phương pháp: thực hiện chương<br /> trình can thiệp giáo dục kiến thức về loét ép và dự phòng loét ép cho đối tượng là người chăm<br /> sóc chính của người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Kết quả: sau can thiệp,<br /> đa số đối tượng đã có kiến thức đúng về yếu tố nguy cơ loét ép; > 80% đối tượng nghiên cứu<br /> có kiến thức đúng về nguyên nhân, dấu hiệu và vị trí loét. Điểm trung bình chung kiến thức về<br /> loét ép và dự phòng loét ép cải thiện rõ rệt lần lượt là 6,68 ± 0,95 và 12,74 ± 1,5. Kết luận: kiến thức<br /> về loét ép và dự phòng loét ép của người chăm sóc chính người ĐQN cải thiện đáng kể sau<br /> can thiệp giáo dục. Cán bộ y tế cần thường xuyên áp dụng chương trình giáo dục sức khỏe<br /> trong quy trình chăm sóc người bệnh<br /> * Từ khóa: Đột quỵ não; Kiến thức; Người chăm sóc chính.<br /> <br /> Evaluation of the Changes of Knowledge about Pressure Ulcer of<br /> Major Caregivers of Stroke Patients after Educational Intervention in<br /> Namdinh Province<br /> Summary<br /> Objectives: To evaluate the changes of knowledge about pressure ulcer and prevention of<br /> pressure ulcer of the primary caregivers of stroke patients after educational intervention.<br /> Method: Implement the educational intervention program on pressure ulcer and prevention of<br /> pressure ulcer for subjects who are primary caregivers of stroke patients at Namdinh General<br /> Hospital. Results: After the intervention, the majority of subjects had the correct knowledge<br /> about the risk factors of pressure ulcers; More than 80% of the subjects had right knowledge<br /> about the cause, signs and ulcer. The mean score of general knowledge about pressure ulcer<br /> and prophylaxis for peptic ulcer improved significantly, which were 6.68 ± 0.95 and 12.74 ± 1.5,<br /> respectively. Conclusion: The knowledge of pressure ulcers and pressure ulcer prevention<br /> of primary caregivers of cerebral stroke has been significantly improved after educational<br /> intervention. Health staff should regularly implement health education in the care of patients.<br /> * Keyworks: Stroke; Knowledge; Major caregivers.<br /> <br /> * Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định<br /> Người phản hồi (Corresponding): Vũ Văn Thành (vuthanhdhdd@gmail.com)<br /> Ngày nhận bài: 27/12/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/03/2018<br /> Ngày bài báo được đăng: 29/03/2018<br /> <br /> 7<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2018<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Loét do đè ép là một tổn thương gây<br /> ra do hậu quả của việc đè ép liên tục, gây<br /> thiếu máu nuôi dưỡng, dẫn đến làm chết<br /> các mô bị đè ép, thường gặp ở các vùng<br /> xương nông. Đây là một trong những thương<br /> tật thứ cấp hay gặp trên người bệnh ĐQN,<br /> ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình<br /> điều trị và hồi phục của người bệnh [2].<br /> Ở Mỹ, hàng năm có hơn 2,5 triệu người<br /> gặp phải tình trạng loét ép. Phòng chống<br /> loét ép là một thách thức quan trọng<br /> trong việc chăm sóc cấp tính. Kết quả<br /> nghiên cứu của Cẩm Bá Thức và CS<br /> (2012) cho thấy 24,6% người bệnh bị loét<br /> ép và mức độ loét tương quan thuận với<br /> mức độ hạn chế vận động của người<br /> bệnh [3]. Do đó, để hạn chế thương tật<br /> loét ép cho người bệnh, công tác dự phòng<br /> và chăm sóc cần được chú trọng; đặc biệt<br /> nâng cao kiến thức cho người chăm sóc<br /> chính. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên<br /> cứu này với mục tiêu: Đánh giá thay đổi<br /> kiến thức về loét ép và dự phòng loét ép<br /> của người chăm sóc chính người bệnh<br /> ĐQN tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam<br /> Định năm 2016 sau can thiệp giáo dục.<br /> ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tượng nghiên cứu.<br /> Tiêu chuẩn lựa chọn: người chăm sóc<br /> chính người bệnh ĐQN, tuổi ≥ 18, có nhận<br /> thức bình thường và đồng ý tham gia<br /> nghiên cứu. Thời gian chăm sóc người<br /> bệnh ĐQN tối thiểu được 05 tháng<br /> * Thời gian và địa điểm nghiên cứu:<br /> nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Đa<br /> khoa tỉnh Nam Định từ tháng 5 đến 9 - 2016.<br /> 8<br /> <br /> 2. Phương pháp nghiên cứu.<br /> * Mẫu và phương pháp chọn mẫu:<br /> Chọn toàn bộ đối tượng đủ tiêu chuẩn<br /> tham gia nghiên cứu. Tổng số đối tượng<br /> đủ tiêu chuẩn lựa chọn 62 người.<br /> * Thiết kế nghiên cứu:<br /> Nghiên cứu đánh giá trước và sau can<br /> thiệp không có nhóm chứng<br /> - Đánh giá lần 1 (trước can thiệp):<br /> đánh giá kiến thức của đối tượng về dự<br /> phòng loét ép ở người bệnh đột quỵ bằng<br /> phương pháp phỏng vấn trực tiếp, thông<br /> qua phiếu khảo sát chuẩn bị sẵn.<br /> - Tiến hành can thiệp: can thiệp giáo<br /> dục sức khỏe thông qua cung cấp nội<br /> dung kiến thức chung về loét ép và kiến<br /> thức dự phòng loét ép. Hình thức truyền<br /> thông trực tiếp. Nhóm nghiên cứu tiến<br /> hành tư vấn cho từng đối tượng về kiến<br /> thức có liên quan. Bên cạnh đó các đối<br /> tượng được cung cấp tờ rơi và sách nhỏ<br /> về những nội dung liên quan.<br /> - Đánh giá lần 2 (sau can thiệp): trước<br /> khi người bệnh ra viện từ 02 - 03 ngày,<br /> đánh giá kiến thức của đối tượng về dự<br /> phòng loét ép cho người bệnh đột quỵ<br /> bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp,<br /> thông qua phiếu khảo sát chuẩn bị sẵn<br /> (giống như lần 1).<br /> * Công cụ và phương pháp thu thập số<br /> liệu:<br /> Bộ công cụ được xây dựng dựa trên bộ<br /> công cụ “Nâng cao chất lượng chăm sóc”<br /> của Dan Berlowitz và Carol Vandeusen<br /> (2010) [4]. Trong đó, kiến thức chung về<br /> loét ép gồm 8 câu hỏi, phần kiến thức dự<br /> phòng loét ép gồm 15 câu hỏi. Trước khi<br /> đưa vào sử dụng, bộ công cụ đã thử nghiệm<br /> <br /> t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2018<br /> trên thực tế, kiểm tra độ tin cậy. Phương<br /> pháp thu thập số liệu: sử dụng phương<br /> pháp phỏng vấn trực tiếp.<br /> * Tiêu chuẩn đánh giá:<br /> Các đối tượng nghiên cứu tham gia trả<br /> lời phiếu điều tra với mỗi câu trả lời đúng<br /> được 1 điểm, sai không có điểm.<br /> Tiêu chuẩn xác định đúng/sai dựa trên<br /> những kiến thức sẵn có về loét ép và dự<br /> phòng loét ép. Đánh giá thay đổi kiến<br /> thức sau can thiệp dựa trên mức chênh<br /> về tổng điểm quy đổi và tỷ lệ các câu trả<br /> lời đúng của đối tượng.<br /> * Quản lý, xử lý và phân tích số liệu:<br /> Số liệu sau khi được thu thập được<br /> làm sạch và nhập bằng phần mềm<br /> EpiData 3.1. Các số liệu được xử lý bằng<br /> phần mềm SPSS trước khi đưa vào phân<br /> tích. Sử dụng tỷ lệ phần trăm, bảng, biểu<br /> để tóm tắt biến số giới tính, nghề nghiệp…<br /> Sử dụng test ghép cặp để so sánh thay<br /> đổi về kiến thức của đối tượng trước và<br /> sau can thiệp.<br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ<br /> BÀN LUẬN<br /> 1. Thông tin chung của đối tượng<br /> nghiên cứu.<br /> * Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu<br /> (n = 62):<br /> - Tuổi: người chăm sóc tập trung nhiều<br /> nhất ở lứa tuổi 31 - 60 (66,2%), tiếp đến<br /> là lứa tuổi > 60 (27,3%), lứa tuổi 18 - 30<br /> thấp nhất (6,5%), kết quả này phù hợp<br /> với nghiên cứu của Nguyễn Văn Lệ, do đây<br /> là độ tuổi còn trẻ, ít có kinh nghiệm chăm<br /> sóc người bệnh [2].<br /> - Nghề nghiệp và nơi ở: đa số đối<br /> tượng sống tại khu vực nông thôn (74,2%),<br /> <br /> 25,8% sống tại thành thị. Sự phân bố này<br /> phù hợp với nghề nghiệp của đối tượng<br /> nghiên cứu, khi tỷ lệ người chăm sóc là<br /> nông dân chiếm tỷ lệ cao nhất (56,4%),<br /> thấp nhất là viên chức (chỉ 9,8%), công<br /> nhân và hưu trí có tỷ lệ lần lượt là 12,9%<br /> và 20,9%.<br /> 2. Kiến thức chung về loét ép của<br /> đối tượng nghiên cứu.<br /> Bảng 1: Kiến thức chung về loét ép<br /> (n = 62).<br /> Biến số<br /> <br /> Trước can thiệp<br /> <br /> Sau can thiệp<br /> <br /> n (đúng)<br /> <br /> %<br /> <br /> n (đúng)<br /> <br /> %<br /> <br /> Định nghĩa<br /> <br /> 15<br /> <br /> 24,2<br /> <br /> 49<br /> <br /> 79,1<br /> <br /> Phân loại<br /> <br /> 9<br /> <br /> 14,5<br /> <br /> 53<br /> <br /> 85,5<br /> <br /> Nguyên<br /> nhân<br /> <br /> 17<br /> <br /> 27,4<br /> <br /> 52<br /> <br /> 83,9<br /> <br /> Dấu hiệu<br /> <br /> 19<br /> <br /> 30,6<br /> <br /> 53<br /> <br /> 85,5<br /> <br /> Vị trí<br /> <br /> 17<br /> <br /> 27,4<br /> <br /> 55<br /> <br /> 88,7<br /> <br /> Thực trạng kiến thức loét ép của người<br /> chăm sóc chính còn thấp. Chúng tôi tiến<br /> hành xây dựng chương trình can thiệp<br /> phù hợp với mỗi đối tượng nhằm giúp họ<br /> nâng cao kiến thức về vấn đề loét ép.<br /> Sau can thiệp giáo dục, tỷ lệ trả lời đúng<br /> về kiến thức chung loét ép đã cải thiện<br /> đáng kể với > 80% trả lời đúng các nội<br /> dung được hỏi.<br /> Bảng 2: So sánh điểm trung bình kiến<br /> thức loét ép trước và sau can thiệp (n = 62).<br /> Điểm trung<br /> bình chung<br /> kiến thức về<br /> loét ép<br /> <br /> Trước<br /> can thiệp<br /> <br /> Sau<br /> can thiệp<br /> <br /> p (Wilcoxon)<br /> <br /> 2,65 ± 1,2<br /> <br /> 6,68 ± 0,95<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> Sau khi đánh giá thực trạng kiến thức<br /> của đối tượng trên từng nội dung riêng<br /> biệt, chúng tôi xác định điểm trung bình<br /> chung kiến thức của đối tượng trước và<br /> 9<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2018<br /> sau can thiệp. Có thể thấy kiến thức<br /> chung về loét ép đã cải thiện rõ rệt, từ<br /> 2,65 ± 1,2 điểm trước can thiệp tăng<br /> <br /> thành 6,68 ± 0,95 sau khi nhận chương<br /> trình can thiệp giáo dục, sự khác biệt có<br /> ý nghĩa thống kê (p < 0,01).<br /> <br /> 3. Kiến thức dự phòng loét ép.<br /> Bảng 3: Kiến thức về tầm quan trọng dự phòng loét ép (n = 62).<br /> Kiến thức<br /> Tốt (> 80%)<br /> Trung bình (50 - 80%)<br /> Kém (< 50%)<br /> <br /> Trước can thiệp<br /> <br /> Sau can thiệp<br /> <br /> n (đúng)<br /> <br /> %<br /> <br /> n (đúng)<br /> <br /> %<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1,6<br /> <br /> 26<br /> <br /> 41,9<br /> <br /> 52<br /> <br /> 83,6<br /> <br /> 36<br /> <br /> 58,1<br /> <br /> 9<br /> <br /> 14,8<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Việc nhận thức được tầm quan trọng của dự phòng loét ép là yếu tố quan trọng<br /> trong công tác chăm sóc và dự phòng loét ép. Tuy nhiên, thực trạng kiến thức của<br /> người chăm sóc chính còn rất hạn chế. Vì vậy, chương trình can thiệp được xây dựng<br /> với mục đích giúp người chăm sóc chính có kiến thức cần thiết trong công tác dự<br /> phòng loét ép. Sau can thiệp, kết quả đạt được với 41,9% có kiến thức tốt, 58,1% có<br /> kiến thức trung bình và không còn đối tượng có kiến thức kém.<br /> <br /> Biểu đồ 1: Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về thời gian xoay trở người bệnh.<br /> Đối với việc dự phòng loét ép, thời gian thay đổi tư thế cho người bệnh là yếu tố<br /> quan trọng nhất và quyết định nguy cơ loét ép. Trước can thiệp, chỉ > 20% đối tượng<br /> trả lời đúng về thời gian cần thiết để thay đổi tư thế cho người bệnh. Kết quả này<br /> cho thấy đa số người chăm sóc chưa được đào tạo và bổ sung kiến thức cơ bản về<br /> chăm sóc; điều này không chỉ gây ảnh hưởng xấu tới quá trình điều trị, mà còn làm<br /> tăng nguy cơ biến chứng cho người bệnh. Sau khi nhận chương trình can thiệp phù hợp,<br /> tỷ lệ người chăm sóc trả lời đúng về thời gian xoay trở cho người bệnh được cải thiện,<br /> với hai tư thế người bệnh ngồi và nằm, tỷ lệ trả lời đúng tương ứng 85,5% và 72,6%.<br /> 10<br /> <br /> t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2018<br /> Bảng 4: Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về vai trò vệ sinh, vận động với dự<br /> phòng loét ép (n = 62).<br /> Thời điểm<br /> <br /> Vệ sinh<br /> <br /> Vận động<br /> <br /> Tốt<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Kém<br /> <br /> Tốt<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Kém<br /> <br /> Trước can thiệp<br /> <br /> 1,8<br /> <br /> 42,9<br /> <br /> 55,3<br /> <br /> 0<br /> <br /> 40,3<br /> <br /> 59,7<br /> <br /> Sau can thiệp<br /> <br /> 54,8<br /> <br /> 43,5<br /> <br /> 1,7<br /> <br /> 61,3<br /> <br /> 30,6<br /> <br /> 8,1<br /> <br /> Chúng tôi nhận thấy đa số người chăm sóc còn chưa nhận thức đúng vai trò của vệ<br /> sinh thân thể hay cải thiện vận động cho người bệnh để hạn chế loét ép, phù hợp với<br /> nghiên cứu của Tamam Mahmoud El-Daharja và Fathia A. Mersal [5, 6]. Vì vậy, cần<br /> cung cấp kiến thức về vệ sinh để cải thiện kiến thức của đối tượng nghiên cứu với<br /> 54,8% đạt mức tốt, 43,5% mức trung bình, chỉ còn 1,7% ở mức kém. Kết quả này phù<br /> hợp với nghiên cứu của Phùng Thu Hương [1]. Bên cạnh đó, kiến thức của đối tượng<br /> nghiên cứu về vận động cũng cải thiện đáng kể với 61,3% đạt mức tốt, 30,6% trung<br /> bình và 8,1% kém.<br /> Bảng 5: So sánh điểm trung bình kiến thức dự phòng loét ép trước và sau can thiệp<br /> (n = 62).<br /> Điểm trung bình chung<br /> kiến thức dự phòng loét ép<br /> <br /> Trước can thiệp<br /> <br /> Sau can thiệp<br /> <br /> p (Wilcoxon)<br /> <br /> 6,67 ± 1,73<br /> <br /> 12,74 ± 1,5<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> Sau khi phân tích và đánh giá trên từng phần kiến thức riêng biệt về dự phòng loét<br /> ép, chúng tôi tiến hành tính điểm trung bình chung kiến thức của toàn bộ đối tượng<br /> nghiên cứu. Điểm trung bình trước can thiệp đạt 6,67 ± 1,73, tăng lên 12,74 ± 1,5 sau<br /> can thiệp (theo thang điểm 15), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.<br /> KẾT LUẬN<br /> Kiến thức về loét ép và dự phòng loét<br /> ép của người chăm sóc chính người bệnh<br /> ĐQN được cải thiện đáng kể sau can thiệp<br /> giáo dục:<br /> - Sau can thiệp, > 80% đối tượng có<br /> kiến thức đúng về định nghĩa, phân loại,<br /> nguyên nhân, dấu hiệu và vị trí loét ép<br /> (tỷ lệ này ở trước can thiệp đều dưới 31%).<br /> - Điểm trung bình chung kiến thức về<br /> loét ép tăng từ 2,65 ± 1,21 lên 6,68 ± 0,95<br /> <br /> sau can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa<br /> thống kê với p < 0,01.<br /> - 85,5% người chăm sóc chính có kiến<br /> thức đúng về thời gian thay đổi tư thế dự<br /> phòng loét ép và đa số đối tượng có kiến<br /> thức ở mức tốt và trung bình về vai trò vệ<br /> sinh, vận động trong dự phòng loét ép.<br /> - Điểm trung bình chung kiến thức về<br /> dự phòng loét ép của đối tượng nghiên<br /> cứu tăng từ 6,67 ± 1,73 lên 12,74 ± 1,5<br /> sau can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa<br /> thống kê, p < 0,01.<br /> 11<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1