intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo kế toán, kiểm toán trong nền kinh tế số

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

13
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đào tạo kế toán, kiểm toán trong nền kinh tế số" trình bày những nội dung cơ bản về kinh tế số; kế toán, kiểm toán trong nền kinh tế số và thực trạng đào tạo kế toán của Việt Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nhân lực kế toán, kiểm toán trong xu hướng số hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo kế toán, kiểm toán trong nền kinh tế số

  1. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ 20. ĐÀO TẠO KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TRONG NỀN KINH TẾ SỐ PGS.TS. Lê Thị Thanh Hải* ThS. Hoàng Thị Tâm* Tóm tắt Thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), kinh tế số là xu thế tất yếu khách quan, mang lại nhiều cơ hội và thách thức đối với hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kế toán, đặc biệt là nhân lực kế toán. Bối cảnh đó đòi hỏi nhân lực kế toán cần hội tụ được nhiều yếu tố từ tư duy, sáng tạo đến kỹ năng phân tích, tổng hợp, ngoại ngữ, tin học… Đứng trước những cơ hội và thách thức đó, các cơ sở giáo dục đại học đào tạo ngành Kế toán, Kiểm toán cần phải có những thay đổi căn bản trong đào tạo để có thể cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội. Bài viết trình bày những nội dung cơ bản về kinh tế số; kế toán, kiểm toán trong nền kinh tế số và thực trạng đào tạo kế toán của Việt Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nhân lực kế toán, kiểm toán trong xu hướng số hóa. Từ khóa: Kinh tế số; đào tạo; kế toán; kiểm toán 1. GIỚI THIỆU CHUNG Hội nhập quốc tế và CMCN 4.0 đang là xu hướng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của tất cả các lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực bị tác động nhiều nhất đó là kế toán, kiểm toán. Trọng tâm chính của CMCN 4.0 là chuyển đổi số, tích hợp của số hóa, kết nối hay siêu kết nối và xử lý dữ liệu thông minh sẽ tạo những cơ hội giúp kế toán, kiểm toán tiếp cận với nền kinh tế số, tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu và đóng góp tích cực cho tăng trưởng của đất nước. Điều này, đặt ra những yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực mới, khác hẳn so với trước đây khiến vai trò của các cơ sở giáo dục trong việc đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán cũng cần có những thay đổi phù hợp, bắt kịp xu thế toàn cầu. * Trường Đại học Thương mại 181
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2. KINH TẾ SỐ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ SỐ ĐẾN LĨNH VỰC KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN 2.1. Tổng quan về kinh tế số Nền kinh tế số (Digital economy) là một nền kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số, ở đó các hoạt động kinh tế có sử dụng thông tin số, tri thức số như là yếu tố sản xuất chính. Sử dụng mạng Internet, mạng thông tin làm không gian hoạt động, lấy dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin (ICT) là nòng cốt và động lực chính để tăng năng suất lao động, tối ưu hóa nền kinh tế. Nói đơn giản là nền kinh tế liên quan đến công nghệ số, sử dụng công nghệ số và dữ liệu số để tạo ra những mô hình kinh doanh mới và giá trị thặng dư siêu ngạch cho nền kinh tế. Kinh tế số là một quá trình phát triển lâu dài, là quá trình chuyển đổi số trên bình diện quốc gia ở những mức độ khác nhau, mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp, mọi cá nhân và Chính phủ đều có thể sử dụng công nghệ số để làm tốt hơn công việc của mình, thậm chí có sự đột phá để đem lại năng suất và hiệu quả vượt bậc. Theo nghiên cứu của Nhóm cộng tác kinh tế số Oxford, kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng...) mà công nghệ số được áp dụng. R.Bukht và R. Heeks đã đưa ra khái niệm tổng quan nhất về kinh tế số bằng cách đề ra hệ thống “Khung khái niệm về kinh tế số”. Khung khái niệm này nêu rõ phạm vi của kinh tế số lõi thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin truyền thông (Core Digital Economy), phạm vi hẹp là kinh tế số (Digital Economy) và phạm vi rộng kinh tế số hóa (Digitalised Economy). Trong đó: (i) kinh tế số lõi bao gồm chế tạo phần cứng, dịch vụ thông tin, phần mềm và tư vấn CNTT và truyền thông; (ii) kinh tế số bổ sung dịch vụ số (Digital services) và kinh tế nền tảng (Platform Economy) vào kinh tế số lõi. Hơn nữa, kinh tế số phạm vi hẹp còn bao gồm một bộ phận của kinh tế chia sẻ (Sharing Economy), kinh tế gắn kết lỏng (Gig Economy); (iii) kinh tế số hóa bổ sung kinh doanh điện tử, thương mại điện tử, Công nghiệp 4.0 (Industry 4.0), nông nghiệp chính xác (Precision agriculture), kinh tế thuật toán (Algorithmic Economy), phần còn lại của kinh tế chia sẻ, kinh tế gắn kết lỏng vào kinh tế số. Ở Việt Nam, tại “Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019”, kinh tế số được hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số, và phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Kinh tế số cũng có những đóng góp không nhỏ trong sự hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi công nghệ toàn cầu. Tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của CNTT và Internet giúp kết nối hóa các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, có thể định nghĩa nền kinh tế số là nền kinh tế mà các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nền kinh tế dựa trên ứng dụng công nghệ số; trong đó công nghệ số trên nền tảng phát triển của Internet và sự sáng tạo của con người là tài nguyên và nguồn lực chính để vận hành toàn bộ nền kinh tế. 182
  3. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Kinh tế số với những đặc trưng như: (i) được tập hợp trong ba quá trình xử lý chính đan xen với nhau, bao gồm: xử lý vật liệu, xử lý năng lượng và xử lý thông tin. Trong đó, xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng nhất và cũng là lĩnh vực dễ số hóa nhất; (ii) tính kết nối/siêu kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của CNTT và Internet giúp kết nối hóa các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. 2.2. Tác động của nền kinh tế số đến lĩnh vực kế toán, kiểm toán 2.2.1. Ảnh hưởng đến quy trình kế toán, kiểm toán Theo kết quả điều tra từ năm 2016 của Hiệp hội Kế toán công chứng Anh quốc (ACCA) về kế toán chuyên nghiệp tương lai diễn ra ở 22 quốc gia trên toàn cầu trong đó có Việt Nam đã cho thấy, các xu hướng dự kiến có tác động cao nhất trong 3 - 10 năm tới, có tới 55% số người được khảo sát cho biết sự phát triển của hệ thống kế toán tự động được đánh giá tác động mạnh mẽ nhất trong các xu hướng, bên cạnh những xu hướng như: hài hòa chuẩn mực kế toán (42%), sự xâm nhập của điện toán đám mây (41%), sự biến động kinh tế (42%)… Kết quả khảo sát cho thấy, quy trình xử lý của kế toán có thể hoàn toàn được thay thế bởi máy móc hoặc ứng dụng của các công nghệ hiện đại. Họ cho rằng, tự động hóa giúp cho việc loại trừ sự nhầm lẫn và tối thiểu hóa các lỗi kế toán, kiểm toán. Có thể dễ dàng nhận thấy thành tựu công nghệ mới từ cuộc CMCN 4.0 nói riêng và xu thế kinh tế số nói chung ảnh hưởng đáng kể đến quy trình kế toán, kiểm toán cụ thể như sau: Thứ nhất, với công nghệ số, tất cả các hoạt động liên quan đến chứng từ kế toán từ khâu lập, luân chuyển và lưu trữ chứng từ đều được số hóa hoàn toàn và được thay thế bằng chứng từ điện tử. Với chứng từ điện tử, việc ghi chép và hạch toán ban đầu hoàn toàn không thực hiện trên giấy tờ mà thực hiện thông qua quá trình nhập liệu và hệ thống chuyển giao dữ liệu điện tử, đồng thời việc xét duyệt được thực hiện thông qua việc nhập các mật mã hay chữ ký điện tử. Thứ hai, khi ứng dụng các thành tựu của CMCN 4.0 như: trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ Blockchain sẽ làm thay đổi toàn diện về cách thức và phương pháp xử lý dữ liệu kế toán thu thập được, cho phép bộ phận kế toán xử lý nhanh và đơn giản các nghiệp vụ thuộc các phần hành kế toán cũng như cho phép truy cập nhanh vào các dữ liệu trong một thời gian ngắn với tính bảo mật cao nhất. Công nghệ Blockchain tồn tại như một file lưu trữ rất nhiều các giao dịch được ghi chép lại gọi là khối (block). Công nghệ này cho phép sử dụng mật mã và các giao thức tin nhắn phân tán để tạo lập ra các thông tin kế toán chi tiết theo yêu cầu của kế toán. Hơn nữa, khi sử dụng công nghệ này thay thế hệ thống ghi sổ kép bằng hệ thống ghi sổ đa chiều. Các giao dịch sẽ được ghi nhận trực tiếp, tạo ra một hệ thống các bản ghi được xác minh tự động và có thể xem bởi mọi người dùng trong chuỗi khối đó theo thời gian thực. Thứ ba, công nghệ số tác động đến phương thức cung cấp thông tin kế toán, kiểm toán cho các đối tượng sử dụng thông tin. Với việc ứng dụng CNTT hiện đại, ứng dụng kỹ thuật số, các sản phẩm, các kết quả xử lý thông tin kế toán, kiểm toán có thể tích hợp được với nhiều sản phẩm dịch vụ thông tin phục vụ các nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, nhà quản lý và nhu cầu của xã hội. Quá trình này thậm chí còn được tự động hóa và triển khai một cách khoa học, hầu như không bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, từ đó có thể cung cấp các thông tin một cách kịp thời nhất cho nhà quản trị để đưa ra quyết định điều hành nhanh nhất, tối ưu nhất. Từ đó, cách thức cung cấp 183
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA thông tin kế toán sẽ có những thay đổi từ thông tin kế toán tài chính đến thông tin kế toán quản trị, những thông tin mà hiện nay thường bị các nhà quản lý coi là quá khô cứng, khó hình dung và khó hiểu, nên thường khiến các nhà quản trị bỏ qua. Thứ tư, công nghệ số tác động đến quy trình an toàn dữ liệu kế toán, kiểm toán. Một trong những vấn đề lo ngại của các doanh nghiệp hiện nay khi ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động kế toán là an toàn dữ liệu. Sự phát triển của Internet đặt ra những thách thức về bảo mật thông tin, đặc biệt thông tin kế toán quản trị. Tuy nhiên, những thành tựu của CMCN 4.0 như công nghệ Blockchain sẽ cho phép sử dụng mật mã và các giao thức tin nhắn phân tán để tạo lập các thông tin kế toán chi tiết theo yêu cầu kế toán. 2.2.2. Ảnh hưởng đến nhân sự làm kế toán, kiểm toán Với sự tác động của kinh tế số nói chung và công nghệ số nói riêng, sẽ có khá nhiều thay đổi trong công tác kế toán tại đơn vị kế toán, đặc biệt là các doanh nghiệp. Do quy trình kế toán, kiểm toán được tiến hành tự động hóa nên từng doanh nghiệp, từng nhân viên kế toán, kiểm toán viên cần có khả năng xử lý và phân tích thông tin. Những dịch vụ mang tính chất cơ bản như dịch vụ kế toán, cung cấp thông tin tài chính dạng số liệu cơ bản không còn là lợi ích lớn nhất mà kế toán mang lại. Các dịch vụ có tính chất nâng cao và chuyên sâu như cung cấp dữ liệu, phân tích tài chính… mới mang lại những giá trị mới và lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp. Công nghệ mới ảnh hưởng trực tiếp nhân sự kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp đó là: - Những công việc dễ được tự động hóa và thay thế bằng phần mềm như: nhập bút toán bằng tay, ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính cuối năm, lập báo cáo hoạt động kinh doanh, tiền lương, phân tích tài chính… Như vậy, thay vì thuê các kế toán viên đảm nhiệm các nhiệm vụ kế toán như hiện nay, hoạt động này có thể sẽ được tự động bằng công nghệ hoặc bằng các phần mềm thông tin. - Vai trò của kế toán và kiểm toán viên tập trung vào phân tích dữ liệu phục vụ cho quá trình ra quyết định của doanh nghiệp thay vì tập trung vào đảm bảo tính xác thực và sự phù hợp với các chuẩn mực kế toán của các giao dịch trong doanh nghiệp. Theo Kirstin Gillon, Giám đốc chuyên môn Ban CNTT, ICAEW cho rằng: “AI sẽ thay đổi rất lớn vai trò của người làm kế toán - kiểm toán trong tương lai. AI sẽ giúp người làm kế toán tập trung vào các giá trị thực sự của nghề này. Vai trò của chuyên gia kế toán, kiểm toán trong thời đại trí tuệ nhân tạo không phải chỉ là ghi chép sổ sách, mà là đưa ra các quyết định chính xác và giúp cho doanh nghiệp phát triển thịnh vượng, cũng như đảm bảo trách nhiệm giải trình của những người có liên quan”. Ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán đã làm cho các công việc của kế toán, kiểm toán viên chuyển trọng tâm sang phân tích. Do đó, các kế toán, kiểm toán viên có vai trò mới là những nhà tư vấn có các kỹ năng độc đáo trong phân loại và xử lý dữ liệu phục vụ cho quá trình ra quyết định của lãnh đạo doanh nghiệp. Xử lý và phân tích các con số tài chính của những kế toán, kiểm toán viên giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp hiểu sâu sắc hơn hoạt động của doanh nghiệp, điều mà giúp cho họ xác định được những khâu, lĩnh vực nào của doanh nghiệp sẽ phải cải thiện để gia tăng hiệu quả, giảm chi phí và quản lý rủi ro tốt hơn. 184
  5. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ 2.2.3. Ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kế toán, kiểm toán Sự bùng nổ của kinh tế số phát sinh rất nhiều vấn đề cần giải quyết trong việc quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán khi các hình thức kinh doanh, phương thức thanh toán mới xuất hiện, các nghiệp vụ kinh tế cũng phức tạp và đa dạng cần phải xử lý. Việc dự báo xu hướng và có cách thức quản lý hợp lý thời đại số không chỉ giúp cơ quan quản lý nắm được thông tin, cách thức để quản lý, mà còn phải làm sao không cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế này đòi hỏi trình độ cả về CNTT, chuyên môn không chỉ riêng người làm kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp mà cả cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước để nắm bắt, làm tốt công việc của mình. 2.3. Yêu cầu nhân lực kế toán trong nền kinh tế số Xu hướng thay đổi trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán trên phạm vi khu vực và thế giới trong nền kinh tế số là xu hướng tất yếu. Điều đó đặt ra yêu cầu cho các cơ sở đào tạo và bản thân doanh nghiệp thay đổi các chương trình đào tạo và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đây cũng là vấn đề lớn đối với sự phát triển lĩnh vực kế toán, kiểm toán của Việt Nam. Nền kinh tế số đặt ra yêu cầu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chắc về chuyên môn, vững về đạo đức, có năng lực làm chủ công nghệ, có tính sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của công nghệ trong nền kinh tế. Vì vậy, yêu cầu đối với nhân lực kế toán, kiểm toán không chỉ dừng lại ở trình độ hiểu biết và năng lực chuyên môn nghiệp vụ, mà còn cần có kỹ năng tổ chức, quản trị thông tin, quản trị mạng, kỹ năng phân tích đánh giá, dự báo, năng lực tư vấn, kỹ năng khai thác, vận hành mạng, sử dụng thông tin và bảo mật thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, tài chính do kế toán cung cấp và nhất là phải hiểu về các dữ liệu khoa học và dữ liệu trực quan hóa (Data visualisation) và cách AI “nghĩ”; am hiểu công nghệ (Tech savvy) về lập trình dữ liệu, thuật thống kê và phân tích... Đặc biệt là việc phát triển chuyên môn trong việc áp dụng công nghệ dữ liệu như: trí tuệ nhân tạo, Blockchain và điện toán đám mây… để giải quyết những vấn đề về tài chính - kế toán của doanh nghiệp. Trước hết, yêu cầu nhân lực kế toán cần có những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết như sau: Thứ nhất, để nhân lực ngành Kế toán - Kiểm toán có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng tốt và thích ứng với sự thay đổi của công nghệ và toàn cầu hóa thì kế toán - kiểm toán viên phải am hiểu kiến thức chuyên môn, trau dồi kinh nghiệm, thường xuyên cập nhật những thay đổi. Bên cạnh đó, cần giữ vững đạo đức nghề nghiệp, góp phần phát triển kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm và tầm nhìn cho các kế toán và kiểm toán viên. Thứ hai, phải ý thức được tầm quan trọng của công nghệ để ứng dụng phù hợp xu thế, tiết kiệm nguồn lực và gia tăng hiệu quả công việc. Dữ liệu lớn mang lại cho con người sự tiếp cận với nguồn kiến thức vô hạn, giúp con người có thể tìm hiểu bất kỳ điều gì cần biết, nhưng có hạn chế là nhiều thông tin không chính thống. Nó khiến chúng ta phải cẩn trọng khi tiếp cận với thông tin và sử dụng thông tin. Thứ ba, kế toán phải luôn cập nhật những thay đổi của công nghệ. Sự thay đổi theo lượt, theo phiên bản của phiên bản được tạo ra để làm cho thế giới hiện đại hơn, ví dụ như trong ngành Kế 185
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA toán và Kiểm toán, nay đã có phần mềm kế toán. Do đó, trong tương lai, mọi thứ sẽ thay đổi và tiến bộ hơn nữa, máy móc và phần mềm sẽ làm việc thay thế con người. Thứ tư, thích nghi với những thay đổi của công việc, các công việc mới dành cho ngành Kế toán cũng sẽ dần xuất hiện, chẳng hạn như phân tích dữ liệu, dự báo xu hướng phát triển và quản trị sự thay đổi mang lại hiệu quả tức thời cho doanh nghiệp. Sự phát triển của công nghệ mới sẽ luôn đi kèm với những vấn đề mới phát sinh. Với trí tuệ nhân tạo (AI), những công việc thủ công của nghề kế toán, kiểm toán, như: thu thập, xử lý, tính toán số liệu... đều có thể bị thay thế. Máy móc có thể thay thế con người trong công việc cụ thể được lập trình trước chứ không thay thế trong việc đưa ra nhận định, tư vấn trong các trường hợp phát sinh đặc biệt với tính chất mới mẻ. 3. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO KẾ TOÁN KIỂM TOÁN TẠI VIỆT NAM Xu hướng hội nhập quốc tế đã đặt ra những yêu cầu về khả năng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu thực hành nghề nghiệp. Các nghiên cứu thực nghiệm về kỹ năng nghề nghiệp kế toán, kiểm toán do Tucker và Lowe (2014), MD Shields (1997), Castanheira và ctg (2009), Engelbrecht và ctg (2001), Barac (2009), Burrit và cộng sự (2010), Sharma và Kelly (2015), Kavanagh và Drennan (2008), Jacking và de Lange (2009), Marshall và cộng sự (2010), Low và cộng sự (2016) thực hiện ở một số nước như Mỹ, Úc, Neweland cho thấy, các sinh viên ra trường thiếu các kỹ năng mà nhà tuyển dụng chờ đợi hoặc các nhà tuyển dụng mất khoảng 2 - 3 năm để đào tạo một người học vừa ra trường. Nghiên cứu của Bowden và Masters (1993), Khaled Abed Hutaibat (2012) cho rằng, khoảng cách này ngày càng lớn trước sự phát triển của xã hội và công nghệ. Thực tế hiện nay, do thiếu nhiều kỹ năng cần thiết cho công việc như kỹ năng sử dụng CNTT, tin học văn phòng..., khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc thực tế đối với các sinh viên ra trường chưa cao, đặc biệt là khả năng thích ứng với những yêu cầu của môi trường làm việc chuyên nghiệp, theo đó, cơ hội nghề nghiệp chưa được mở rộng. Nhận thức được thực trạng đào tạo và yêu cầu nhân lực kế toán, kiểm toán của Việt Nam trong xu hướng hội nhập. Các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc nâng cao chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán với tư duy đào tạo những gì mà xã hội cần chứ không đào tạo dựa trên những gì mình có thông qua việc không ngừng đổi mới từ chương trình đào tạo đến học liệu và phương pháp đào tạo cũng như tổ chức quá trình đào tạo, cụ thể như sau. 3.1. Về chương trình đào tạo Kế toán, kiểm toán là chuyên ngành được đào tạo tại nhiều trường đại học ở cả khối kinh tế và kỹ thuật. Chuyên ngành này thường thu hút số lượng sinh viên tuyển sinh có chất lượng tốt bởi định hướng nghề nghiệp cụ thể và cơ hội việc làm đa dạng, dễ dàng sau khi tốt nghiệp. Việt Nam có tới khoảng 7.000 sinh viên ngành Kế toán, Kiểm toán đang được tuyển sinh hàng năm tại các trường đại học trên cả nước. Trong đó, hầu hết chương trình đào tạo tại các trường này có học phần/môn học Kế toán nhằm trang bị kiến thức nền tảng về kế toán; nhóm các học phần trang bị kiến thức đáp ứng khung năng lực kế toán - các học phần này luôn được xác định là học phần bắt buộc, quan trọng trong chương trình đào tạo (Đặng Thị Huyền Hương, 2020). Hiện nay, bên cạnh khung chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán truyền thống, các cơ sở giáo dục đại học đã hiện đại hóa chương trình đào tạo theo hướng kết hợp lý thuyết theo chuẩn 186
  7. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ mực quốc tế và tăng cường khả năng ngoại ngữ trên cơ sở tham khảo các chương trình đào tạo ngành Kế toán của các trường đại học tiên tiến trên thế giới; ứng dụng các chương trình đào tạo chất lượng cao, chương trình liên kết quốc tế đưa vào chương trình giảng dạy một số môn học của các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán quốc tế ACCA. ICEAW, CPA Úc (chương trình kế toán tích hợp chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế). Tuy nhiên, nội dung chương trình đào tạo tại hầu hết các trường đại học đào tạo chuyên ngành Kế toán, Kiểm toán còn có một số hạn chế cụ thể sau: - Chương trình đào tạo tập trung quá nhiều vào kiến ​​ thức chuyên môn và việc trau dồi năng lực chuyên môn trong khi đó bỏ qua các kỹ năng nghề nghiệp và các giá trị nghề nghiệp.  Chỉ có một số ít trường nội dung đạo đức nghề nghiệp được lồng ghép trong chương trình giảng dạy, thậm chí tại một số trường nội dung đạo đức không được đưa vào bất cứ mức độ nào của chương trình đào tạo, mặc dù đạo đức là bắt buộc ở mọi mức độ của nghề kế toán. - Trong chương trình đào tạo ngành Kế toán, Kiểm toán chưa thực sự chú trọng đến các học phần liên quan đến quản trị doanh nghiệp, thiếu hụt các kiến thức về quản lý, quản trị rủi ro, xây dựng chiến lược, CNTT, phân tích dữ liệu. Đây là những kiến thức rất cần thiết nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng quản lý đối với người làm kế toán, kiểm toán. Hơn nữa, với nền kinh tế toàn cầu hóa, sinh viên kế toán đang phải đối mặt với công việc đa dạng trong tương lai và nhu cầu của xã hội về tài năng kế toán, kiểm toán đã không chỉ giới hạn ở kiến ​​ thức kế toán mà còn yêu cầu cao hơn đó là nắm được nội hàm của giao dịch kinh tế, có đạo đức nghề nghiệp, giá trị, và thái độ nghề nghiệp, bởi vậy, việc các đơn vị đào tạo kế toán, kiểm toán đưa học phần này vào giáo trình cốt lõi là rất quan trọng. - Bên cạnh đó, các nội dung được đào tạo trong các học phần trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán hiện nay vẫn chủ yếu là các nội dung kế toán truyền thống như doanh thu, chi phí, giá thành, dự toán, hoặc các phương pháp ra quyết định ngắn hạn… Các nội dung này mới chỉ cung cấp những kiến thức nền và căn bản mà chưa đáp ứng được yêu cầu nghề nghiệp của kế toán, kiểm toán trong thời đại số và xu hướng hội nhập kinh tế gồm: năng lực phát triển chiến lược, năng lực CNTT, năng lực phân tích dữ liệu, quản trị dữ liệu, ra quyết định kinh doanh và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra, các trường đại học mới chỉ chú trọng đến phát triển một số kỹ năng giao tiếp, ngoại ngữ mà chưa phát triển các kỹ năng quản lý, các kỹ năng quản trị dữ liệu, khai thác và phân tích dữ liệu, mô hình hóa các dữ liệu, kỹ năng quản lý mối quan hệ và tư duy tích cực, năng lực CNTT và phân tích, ra quyết định kinh doanh và chuẩn mực đạo đức; chưa thực sự chú trọng đến đào tạo khả năng ứng dụng CNTT trong công việc - kỹ năng mà thực tế đòi hỏi người làm kế toán, kiểm toán được trang bị trong bối cảnh nền kinh tế số. 3.2. Về học liệu Chất lượng và sự sẵn có giáo trình và các tài liệu giảng dạy được đánh giá là rất quan trọng cho hầu hết các học phần chuyên ngành Kế toán, Kiểm toán của các cơ sở giáo dục đại học. Đối với các trường có các chương trình tiên tiến, chương trình tích hợp chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế, một số học phần/môn học ngành chuyên ngành thông thường được giảng dạy theo giáo trình, 187
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA tài liệu nước ngoài. Giáo trình trong nước về kế toán còn chưa sâu, các nội dung liên quan đến kế toán quản trị, chiến lược kinh doanh đáp ứng yêu cầu khung năng lực kế toán còn hạn chế, vẫn còn phải cập nhật nhiều hơn để phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới... Học liệu phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ngành Kế toán, Kiểm toán chủ yếu được xây dựng dựa trên chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam, do Bộ Tài chính ban hành, tập trung nhiều vào kỹ thuật nghiệp vụ, ít được cập nhật, chuẩn hóa theo các tài liệu, chuẩn mực kế toán quốc tế. Các tài liệu còn ít các tình huống thực tiễn tại doanh nghiệp, hạn chế khả năng tư duy, suy luận logic và tư duy phản biện của sinh viên... Một số trường đại học cho biết không có giáo trình riêng cho các môn học liên quan tới quản trị công ty và đạo đức nghề nghiệp. Thư viện của tất cả các trường đại học chưa có bản mới nhất các chuẩn mực quốc tế đầy đủ và hiện hành. Tại một số trường đại học, tài liệu giảng dạy một số học phần cơ sở ngành/chuyên ngành Kế toán, Kiểm toán (giảng bằng tiếng Anh) chủ yếu là bài giảng/giáo án, chưa có giáo trình chuẩn, đôi khi sử dụng giáo trình do các trường biên soạn bằng tiếng Việt nhưng được chuyển tải và giảng dạy bằng tiếng Anh nên chưa thực sự phù hợp. 3.3. Phương pháp giảng dạy Mặc dù trong những năm qua, các trường không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, tuy nhiên, vẫn tập trung vào giảng dạy kiến ​​ thức chuyên môn và khả năng chuyên môn trong khi bỏ qua vai trò của thực hành giáo dục, dẫn đến nhiều vấn đề như thiếu hiểu biết về kinh nghiệm thực tế, ngắt kết nối nghiên cứu lý thuyết và thực hành kế toán. CNTT được ứng dụng còn hạn chế trong quá trình giảng dạy. Nhiều trường cũng mới chỉ sử dụng các phần mềm kế toán (Ví dụ như: Fast, Misa) để giảng dạy mà chưa ứng dụng các phần mềm chuyên sâu về kế toán quản trị. Trong quá trình đào tạo kế toán thực hành, với mục tiêu giúp sinh viên làm quen và bổ trợ cho công việc trong tương lai, một số trường đã thiết lập phòng thực hành mô phỏng (phòng kế toán ảo) để vận hành thực hành nghiệp vụ kế toán. Tuy nhiên, nội dung giảng dạy còn nhàm chán, phạm vi hẹp và hình thức đơn lẻ, ít có sự cộng tác trong các thử nghiệm, sinh viên có xu hướng mô phỏng nhiều vai trò khác nhau từ đầu đến cuối quá trình thực hành, nên hạn chế việc trau dồi khả năng giao tiếp, hợp tác, làm việc nhóm. 3.4. Về tổ chức quá trình đào tạo Theo cấu trúc chương trình đào tạo, hầu hết sinh viên chỉ được thực hành, tiếp cận thực tế khi thực tập tốt nghiệp cuối khóa; một số trường, doanh nghiệp tham gia hoạt động đào tạo thông qua các giờ báo cáo thực tế trong cấu trúc học phần cốt lõi của chương trình đào tạo. Tuy nhiên, chưa có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp, sự tham gia của các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo không thường xuyên và chưa thực sự là bộ phận chính yếu của quá trình đào tạo. 4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TẠI VIỆT NAM Xu hướng hội nhập và thời đại số mang lại sự chuyển biến của toàn nhân loại theo hướng tự động hóa, do đó, các yêu cầu năng lực chuyên môn cao trong mỗi ngành nghề là rất cần thiết. Nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cũng không nằm ngoài quy luật đó. So với trước đây, năng lực của người làm kế toán, kiểm toán thay đổi nhiều, đặc biệt là vùng kiến thức quản trị doanh 188
  9. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ nghiệp, quản trị rủi ro, kiểm soát. Ngoài ra, người làm kế toán, kiểm toán cần phải có kiến thức về CNTT, phân tích và thu thập dữ liệu, ứng dụng CNTT trong quá trình kế toán. Chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán cần có sự thay đổi cả về ba nội dung kiến thức, kỹ năng và thái độ. Để có được các năng lực đó, các trường đại học đào tạo kế toán, kiểm toán cần có sự thay đổi cả về ba nội dung này. 4.1. Nội dung kiến thức  chương trình đào tạo: Các trường đại học cần tích cực hơn nữa trong việc xây các Về chương trình đào tạo chuyên ngành Kế toán theo hướng thiết kế và xây dựng chương trình đào tạo chuyên nghiệp, mở rộng giữa các trường đại học và các tổ chức nghề nghiệp kế toán bao gồm các giai đoạn: (i) xác định lại phạm vi các yếu tố của chương trình đào tạo; (ii) thiết kế các yếu tố mới và đối chiếu với khung năng lực; và (iii) xây dựng các yếu tố mới của chương trình đào tạo và cập nhật đối chiếu với khung năng lực. Các trường đại học nên có lộ trình bổ sung, cập nhật một số nội dung cụ thể sau: - Các chương trình đào tạo cần cân nhắc, bổ sung thời lượng giảng dạy các nội dung liên quan đến xây dựng chiến lược ngắn hạn và dài hạn, quản trị rủi ro, chiến lược định giá sản phẩm, chuyển giá… tăng cường các học phần tự chọn liên quan đến chất lượng quản lý và kiểm soát. Bổ sung và tăng cường các nội dung liên quan đến hệ thống thông tin, quản trị dữ liệu, phân tích dữ liệu và thông tin tài chính, tự động hóa quy trình (RPA), ERP, các phần mềm kế toán (SAAS), ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong kế toán và phân tích dự báo… - Các cơ sở giáo dục đại học cần dành thời lượng đào tạo phù hợp giúp sinh viên nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của người làm nghề kế toán, kiểm toán cũng như thách thức và nguy cơ khi vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong xu hướng hội nhập. Mặc dù hiện nay, một số trường đại học có chuyên ngành Kế toán được đào tạo theo định hướng nghề nghiệp của các hiệp hội tổ chức quốc tế đã bắt đầu được đưa vào giảng dạy nội dung này. Tuy nhiên, đối với đa số chương trình đào tạo truyền thống, nội dung này vẫn chưa được bổ sung cập nhật.  học liệu: Các trường nên cải thiện chất lượng tài liệu giảng dạy như giáo trình, các nền Về tảng đào tạo số, các phần mềm giảng dạy kế toán, đây cũng là một nội dung quan trọng trong xây dựng chương trình đào tạo mở rộng. Có thể hình thành các nhóm giảng viên phát triển các tài liệu giảng dạy trong các lĩnh vực khác nhau (Ví dụ như: lập báo cáo tài chính, kiểm toán, quản lý tài chính, đạo đức nghề nghiệp).  phương pháp và tổ chức giảng dạy: Các trường cần tích cực đổi mới phương pháp Về giảng dạy, đa dạng hóa phương pháp đánh giá kết quả học tập nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu. Theo quan điểm “lấy sinh viên làm trọng tâm” bằng việc đưa ra các hoạt động nhóm và hoạt động nghiên cứu của sinh viên vào chương trình giảng dạy nhằm tăng cường các cơ hội học tập thực tế cho người học, tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo. 4.2. Nội dung kỹ năng Ngoài trình độ chuyên môn, một kế toán viên, kiểm toán viên chuyên nghiệp đòi hỏi phải thể hiện được các kỹ năng chuyên môn. Những kỹ năng này bao gồm: kỹ năng tư duy, kỹ năng làm 189
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA việc nhóm và tự làm việc, kỹ năng giao tiếp và tổ chức. Đây là những kỹ năng cần thiết để tìm ra các giải pháp giải quyết các vấn đề phi cấu trúc, đa chiều. Do đó, các cơ sở giáo dục đại học có thể xây dựng một số học phần kỹ năng riêng biệt hoặc giảng dạy lồng ghép kỹ năng trong các học phần chuyên môn. Để giảng dạy lồng ghép trong các học phần chuyên môn, cần tăng cường xây dựng tình huống trong các học phần, tổ chức giảng dạy theo hướng tích cực, khuyến khích tổ chức các hoạt động nhóm, hoạt động tương tác với người học để phát triển các kỹ năng như: kỹ năng giải quyết xung đột, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, quản trị sự thay đổi, hiểu được giá trị nghề nghiệp, phát triển, kỹ năng quản lý mối quan hệ và tư duy tích cực. Một trong những kỹ năng của kế toán, kiểm toán thời đại số được quan tâm nhất là kỹ năng trong quản trị dữ liệu, khai thác và phân tích dữ liệu, mô hình hóa các dữ liệu để có thể hiểu bản chất cũng như dự đoán về tương lai của doanh nghiệp. Học phần thiết kế phải giúp cho người học rèn luyện kỹ năng tìm kiếm các cơ hội để cải tiến liên tục, xác định các rủi ro liên quan đến thay đổi và điều chỉnh hoạt động kế toán để quản lý rủi ro, duy trì hiệu suất và hiệu quả cá nhân trong môi trường thay đổi và không xác định. Người làm kế toán, kiểm toán trong thời đại số không đơn thuần là một người lao động trong doanh nghiệp, mà cần trở thành đối tác của doanh nghiệp, có cùng chung lợi ích và trách nhiệm. Kế toán và kiểm toán viên cần có tầm ảnh hưởng tới cả các đồng nghiệp và đối tác và có ảnh hưởng trong quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, người làm kế toán, kiểm toán cần phát triển tư duy quản trị chiến lược, quản trị rủi ro để từ đó có thể hỗ trợ tổ chức có định hướng phát triển trong môi trường kinh doanh hiện tại trong ngắn hạn và dài hạn. Vì vậy, có thể đưa học phần phát triển tư duy chiến lược vào trong nhóm học phần tự chọn hoặc hoặc bổ trợ thêm ngoài chương trình ngoại khóa. 4.3. Nội dung về thái độ Các cơ sở giáo dục đại học cần hướng sinh viên theo tư duy đổi mới sáng tạo trong học tập, trong thu nhận kiến thức, chủ động học tập để phát triển khả năng học tập suốt đời bởi các kiến thức chuyên môn là vô hạn, thay đổi không xác định, người học cần trang bị bồi đắp thường xuyên trong quá trình làm việc sau này. Các cơ sở giáo dục đại học cần rèn luyện cho sinh viên có thái độ tích cực trong nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp tốt. Ngoài ra, thường xuyên tăng cường sự hợp tác của nhà trường và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ sinh viên trong thời gian tham gia thực tập tại doanh nghiệp, tăng khả năng làm việc thực tế, khả năng tuyển dụng và phát triển của sinh viên. Đồng thời, theo cách này, công ty được sử dụng lợi thế về công nghệ và các nhân tài của các trường đại học để mở rộng tầm nhìn học thuật và có được thông tin phát triển nghề nghiệp mới nhất. Các cơ sở giáo dục cần chủ động hợp tác với các đơn vị chuyên môn đào tạo về kế toán, kiểm toán của các tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, chuyên môn trong đào tạo. Thành lập cơ sở thực hành kế toán, kiển toán nhằm đào tạo khả năng giải quyết các vấn đề kế toán thực tế của sinh viên. Thường xuyên mời những chuyên gia kế toán đến thuyết trình để các bạn sinh viên nắm bắt được những thông tin mới nhất của ngành. Thúc đẩy sự hợp tác của kế toán giáo dục, nghề nghiệp và cộng đồng ngành, xây dựng phương thức giáo dục kế toán, kiểm toán mới và nâng cao chất lượng giáo dục kế toán, kiểm toán. 190
  11. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ 5. KẾT LUẬN Xu hướng hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ đặt ra thách thức đối với nguồn nhân lực trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Để đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán chất lượng cao và yêu cầu khung năng lực nghề nghiệp kiểm toán thì các cơ sở giáo dục đại học cần xem xét xây dựng, chỉnh sửa chương trình đào tạo ngành Kế toán cho phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đặt ra với kế toán trong điều kiện hiện nay cũng như thay đổi phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập cho phù hợp yêu cầu mới. Ngoài ra, người làm kế toán, kiểm toán không chỉ phát triển năng lực chuyên môn về kế toán mà còn phải trang bị các kỹ năng gồm: kỹ năng tổ chức, quản trị thông tin, quản trị mạng, kỹ năng phân tích đánh giá, dự báo, năng lực tư vấn, kỹ năng khai thác, vận hành mạng, sử dụng thông tin và bảo mật thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, tài chính do kế toán cung cấp, hiểu về các dữ liệu khoa học và dữ liệu trực quan hóa (Data visualisation) và cách AI “nghĩ”; am hiểu công nghệ (Tech savvy) về lập trình dữ liệu, thuật thống kê và phân tích... Đặc biệt là việc phát triển chuyên môn trong việc áp dụng công nghệ dữ liệu như: trí tuệ nhân tạo, Blockchain và điện toán đám mây… để giải quyết những vấn đề về tài chính - kế toán của doanh nghiệp và các kỹ năng cá nhân khác phục vụ cho công việc đảm bảo cho công tác kế toán, kiểm toán hoạt động có hiệu quả, thực hiện được vai trò của kế toán, kiểm toán trong tổ chức. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Andrew D. Chambers, Marjan Odar (2015), “A new vision for internal audit”; Managerial Auditing Journal, Vol. 30 No. 1, pp. 34 - 55. https://doi.org/10.1108/MAJ-08-2014-1073 2. Bùi Kim Thanh (2021), “Phát triển kinh tế số ở Việt Nam”; Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, số tháng 7/2021. 3. Castanheira, N., Lima Rodrigues, L., & Craig, R. (2009), “Factors associated with the adoption of risk-based internal auditing”; Managerial Auditing Journal, 25(1), 79 - 81. 4. Đặng Thị Huyền Hương (2020), “Năng lực nghề nghiệp kế toán quản trị trong thời đại số và yêu cầu đổi mới công tác đào tạo”, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 6/2020. 5. Đặng Văn Thanh (2018), “Đổi mới quy trình kế toán trong thời đại công nghệ số”, Đầu tư Chứng khoán số, T6/2018. 6. Kavanagh & Drennan (2008), “Management Accounting: Where From, Where Now, Where To?” Journal of Management Accounting Research, 2008. 7. Nguyễn Thị Việt Nga (2018), “Giải pháp phát triển công nghệ Blockchain trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 6/2018. 8. Tô Trọng Hùng (2021), “Nhận thức về kinh tế số và một số giải pháp phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam”. Tạp chí Công Thương, số tháng 6/2021. 9. Tucker & Lowe (2014), “An investigation of the research-practice gap in management accounting”. Accounting, Auditing & Accountability Journal, 26 February 2014. 191
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2