TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÍ LUẬN VÀ<br />
TỔ CHỨC THỰC HIỆN<br />
<br />
ĐỖ ĐỨC THÁI(*)<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chuyển toàn bộ hệ thống đào tạo đại học ở<br />
nước ta thành đào tạo theo tín chỉ. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã và đang triển khai<br />
những hoạt động thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó. Trong bài viết này, chúng tôi xin trình<br />
bày những hiểu biết về đào tạo theo tín chỉ, góp phần làm rõ hơn hình thức đào tạo này.<br />
Nhiều điều trong bài viết được đúc rút từ những năm giảng dạy và trao đổi nghiên cứu<br />
khoa học tại các trường đại học nước ngoài của tác giả.<br />
Từ khoá: giáo dục, đào tạo, tín chỉ, hệ thống, nghiên cứu, giảng viên, nguyên tắc,<br />
quản lí<br />
<br />
ABSTRACT<br />
The Ministry of Education and Training has decided to change the whole system of<br />
university training in our country into credit-based training. Hanoi University of<br />
Education has been carrying out the activities for this task. In this article, we will present<br />
some of our knowledge on credit-based training to clarify this form of training. Most of the<br />
materials in this article have been drawn from the writer’s years of teaching, doing<br />
scientific research, and exchanging experience at foreign universities.<br />
Key words: education, training, credit, system, do research, lecturer, rule, manage<br />
<br />
1. NHỮNG LÍ DO CHUYỂN TỪ HÌNH Để có thể tạo ra được những phát minh<br />
THỨC ĐÀO TẠO THEO NIÊN CHẾ mới, những tiến bộ khoa học và kĩ thuật<br />
SANG HÌNH THỨC ĐÀO TẠO mới - những nhân tố sống còn của nền kinh<br />
THEO TÍN CHỈ tế tri thức - đòi hỏi hệ thống giáo dục đại<br />
Đào tạo theo tín chỉ đã được áp dụng học của mỗi quốc gia phải cung ứng được<br />
từ lâu trong các trường đại học của Mĩ, một nguồn nhân lực trình độ cao và có khả<br />
Canađa, Nhật và một số nước châu Âu… năng thích ứng với những thay đổi đó.<br />
Sở dĩ các nước đó chọn sự chuyển đổi Điều đó tạo nên một sức ép lớn lên quá<br />
phương thức đào tạo như vậy vì nhiều trình đào tạo: sinh viên phải được học<br />
nguyên nhân. Ta có thể điểm ra đây một nhiều kiến thức hơn, kiến thức phải sâu<br />
vài nguyên nhân chính và đó cũng chính là hơn, năng lực vận dụng kiến thức đó vào<br />
những lợi ích cơ bản của phương thức đào thực tiễn phải tốt hơn… Trong khi đó, quỹ<br />
tạo theo tín chỉ. thời gian đào tạo lại đang có xu hướng<br />
1.1. Sự tiến bộ nhanh chóng của khoa giảm xuống. Đào tạo theo tín chỉ là phương<br />
học và kĩ thuật đã kéo theo sự bùng nổ của thức đào tạo có thể giải quyết được mâu<br />
tri thức nhân loại với tốc độ ngày càng lớn. thuẫn trên. Nó tạo ra một cơ chế, một<br />
chương trình đào tạo chủ động, linh hoạt<br />
(*)<br />
GS.TSKH, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
68<br />
cho người học và cho cả các nhà quản lí thế, nó có thể có ảnh hưởng đến chất lượng<br />
giáo dục. đào tạo Đại học từ quan điểm “toàn cục”<br />
1.2. Trong khoa học ngày nay, sự tích hơn là từ quan điểm “cục bộ”.<br />
hợp đan xen vào nhau giữa các lĩnh vực 2. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ CẤU<br />
trong cùng một ngành và giữa các ngành TRÚC CƠ BẢN CỦA HÌNH THỨC<br />
khoa học khác nhau đã và đang là một xu ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ<br />
thế chiếm vai trò chủ đạo. Có thể nói, khó 2.1. Chương trình đào tạo theo hình<br />
có những phát minh quan trọng nào mà thức tín chỉ<br />
không có dấu ấn của sự tích hợp đó. Vì thế, Chương trình đào tạo là một trong<br />
cần phải tạo ra cho sinh viên cơ hội được những vấn đề cốt lõi của quá trình đào tạo<br />
học những kiến thức ở nhiều lĩnh vực trong đại học. Có thể nói, tất cả các trường đại<br />
cùng một thời điểm. Tạo cho họ khả năng học có uy tín trên thế giới đều đã dày công<br />
nhìn nhận tri thức một cách tổng quan nghiên cứu và xây dựng cho mình một<br />
trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Quy chương trình đào tạo riêng và chương trình<br />
trình đào tạo theo niên chế nặng về sự tiện đào tạo cũng đã thực sự trở thành một<br />
lợi cho người quản lí hơn là vì quyền lợi trong những chỉ số quan trọng để đánh giá<br />
của người học. xếp loại các trường đại học (ĐH). Thế<br />
Nền kinh tế tri thức ngày càng đòi hỏi nhưng, việc thiết kế một Chương trình đào<br />
người lao động học tập suốt đời, cập nhật tạo như vậy lại là tích hợp của rất nhiều<br />
kiến thức và kĩ năng lao động mới suốt đời. nhân tố: đáp ứng quan điểm giáo dục, đáp<br />
Vì thế, song song với việc dạy cho sinh ứng chuẩn đào tạo sinh viên, đáp ứng<br />
viên khả năng và thói quen tự học, biến quá chuẩn nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu đòi<br />
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo thì hỏi của xã hội và của nền kinh tế, tuân thủ<br />
hệ thống giáo dục đại học cần phải thay đổi, các dự báo về nhu cầu sử dụng nguồn nhân<br />
tạo ra thể chế nhập học mềm dẻo để người lực chất lượng cao,v.v.<br />
học có thể học đại học bất cứ lúc nào và Vậy đâu là những quan điểm nền tảng<br />
không chỉ một lần trong suốt cả cuộc đời. khi thiết kế chương trình đào tạo đại học?<br />
Nhờ tính chủ động, linh hoạt cho người - Thực tế cho thấy khoa học và công<br />
học, phương thức đào tạo theo tín chỉ có thể nghệ phát triển rất nhanh, những gì sinh<br />
giải quyết được nhiệm vụ đó. Một sinh viên viên học được trong bốn năm ở trường ĐH<br />
vừa đi làm, vừa đi học, hay vì một điều chỉ là những phần cơ sở nhập môn của các<br />
kiện nào đó, có thể chọn cách đăng kí môn chuyên ngành học mà thôi. Vì vậy, điều<br />
học phù hợp để hoàn thành chương trình cử đặc biệt quan trọng là phải làm sao để sinh<br />
nhân trong thời hạn quy định. viên xác định được rằng những kiến thức<br />
1.3. Đào tạo theo tín chỉ tạo ra một cơ học được ở trường chỉ là phần mở đầu.<br />
chế thuận lợi trong việc liên thông giữa các Nhưng đó là phần mở đầu rất quan trọng,<br />
ngành, nghề khác nhau trong cùng một chuẩn bị cho họ kiến thức và kĩ năng để<br />
trường đại học và liên thông giữa các tiếp tục học suốt chặng đường tiếp theo,<br />
trường đại học khác nhau. ngay từ những ngày tháng đầu tiên rời ghế<br />
Nói chung, đào tạo theo tín chỉ phản nhà trường để đi vào cuộc sống. Chương<br />
ánh một triết lí giáo dục chứ không chỉ đơn trình đào tạo không nên quá nặng nề để<br />
thuần là một phương thức đào tạo, và vì khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên<br />
<br />
69<br />
cứu và biến quá trình đào tạo thành quá rất lớn, thậm chí đang là đòi hỏi bức thiết<br />
trình tự đào tạo. của Đảng và Nhà nước đối với Nhà trường<br />
- Thay vì tham vọng nhồi nhét các kiến chúng ta. Bên cạnh đó, nhu cầu của những<br />
thức chuyên ngành, điều có ích hơn là đạt ngành kinh tế đòi hỏi nhiều đến Toán học<br />
được một sự cân bằng nào đó giữa học như Toán tài chính, Toán công nghiệp cũng<br />
chuyên ngành và kĩ năng thích ứng với là rất lớn. Theo phát biểu của Phó Thủ<br />
cuộc sống. Chẳng hạn như: rèn luyện cho tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ<br />
sinh viên những kĩ năng phân tích, kĩ năng Giáo dục và Đào tạo, từ nay đến năm 2020,<br />
giao tiếp, kĩ năng trình bày, truyền đạt chúng ta cần khoảng một triệu nhân lực<br />
thông tin, các kĩ năng mềm về các lĩnh vực trình độ cao cho ngành Tài chính - Ngân<br />
làm việc độc lập cũng như làm theo nhóm, hàng - Thị trường chứng khoán. Sự thay đổi<br />
hợp tác tốt với đồng nghiệp, tâm lí chương trình đào tạo để đáp ứng yêu cầu<br />
học, v.v. “đào tạo theo nhu cầu xã hội” là công việc<br />
- Yêu cầu “đào tạo theo nhu cầu xã cấp thiết phải làm trong quá trình chuyển<br />
hội” là chính đáng, nhất là trong điều kiện đổi sang hệ thống đào tạo theo tín chỉ.<br />
Việt Nam; chúng ta còn quá nghèo để có Chúng ta cần hiểu rằng “đào tạo theo<br />
thể cho phép mình lãng phí, đào tạo sinh nhu cầu xã hội” không có nghĩa là đào tạo<br />
viên ra rồi không sử dụng được vào mục theo nhu cầu của một cơ sở sử dụng lao<br />
đích gì. động cụ thể nào, cho dù cơ sở sử dụng lao<br />
Điều này đặc biệt quan trọng đối với hệ động đó rất có quy mô và uy tín, mà là cần<br />
thống các trường Đại học sư phạm. Ta hãy phải thường xuyên cập nhật giáo trình,<br />
lấy ví dụ về đào tạo sinh viên chuyên ngành chương trình, đổi mới các môn học, ngành<br />
Toán ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. học. Đồng thời, phải duy trì mối quan hệ<br />
Rõ ràng, nhu cầu tuyển dụng giáo viên giữa trường ĐH và các cơ sở sử dụng lao<br />
Toán THPT ngày càng hạn hẹp do tỉ lệ tăng động thông qua hợp tác trong đào tạo và<br />
dân số của chúng ta đã được kiểm soát tốt nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tạo<br />
hơn và tỉ lệ số học sinh/một giáo viên điều kiện cho sinh viên thực tập và tìm việc<br />
không thể giảm ngay một lúc được. Hơn làm, v.v. Thông qua những mối quan hệ<br />
nữa, số các trường đại học (địa phương) có trường ĐH và cơ sở sử dụng lao động như<br />
đào tạo giáo viên toán THPT được thành thế, có thể tìm thấy những kĩ năng nào là<br />
lập ngày càng nhiều, nên thị phần của quan trọng nhất, cần thiết nhất trong quá<br />
Trường Đại học sư phạm Hà Nội trong việc trình hội nhập của sinh viên vào cuộc sống,<br />
đào tạo giáo viên Toán THPT trên thực tế để trên cơ sở đó thiết kế những chương<br />
ngày càng bị thu hẹp. Chúng ta không thể trình đào tạo sao cho sau khi tốt nghiệp<br />
cho phép mình lãng phí đào tạo sinh viên sinh viên dễ thích nghi với các điều kiện<br />
thành giáo viên Toán THPT, để rồi họ làm việc khác nhau.<br />
không thể kiếm được việc làm như thế. 2.2. Phân loại kiến thức trong Chương<br />
Trong khi đó, nhu cầu về đào tạo bậc cao trình đào tạo theo hình thức tín chỉ ở Mĩ<br />
như: đào tạo cán bộ giảng dạy Toán cho các Chương trình đào tạo theo hình thức<br />
trường đại học và cao đẳng, đặc biệt là các tín chỉ ở châu Âu và nhiều nước khác chủ<br />
trường đại học và cao đẳng mới được thành yếu bao gồm các tín chỉ về kiến thức<br />
lập; đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ, lại đang là chuyên ngành.<br />
<br />
70<br />
Khác biệt căn bản với Chương trình đào giáo dục kiến thức rộng bao gồm 3 nhóm<br />
tạo theo hình thức tín chỉ ở các nước đó, tín các môn học gọi là Tier I, Tier II và Tier III.<br />
chỉ trong Chương trình đào tạo theo hình Tier I bao gồm những môn về kĩ năng<br />
thức tín chỉ ở các trường đại học của Mĩ tính toán và tiếng Anh (tiếng Anh cho tất<br />
được chia ra làm hai loại: Tín chỉ về kiến cả các sinh viên, kể cả sinh viên Mĩ). Sinh<br />
thức rộng (general education requirement) viên phải học 1 môn toán (đại số sơ cấp,<br />
và tín chỉ về kiến thức chuyên ngành. lượng giác,…) và 2 môn tiếng Anh (viết<br />
Hệ tín chỉ ở Mĩ cho phép sinh viên tiểu luận) trong nhóm Tier I.<br />
được tự do lựa chọn môn học theo ý thích Tier II là nhóm các môn kiến thức rộng<br />
của mình nhưng phải tuân theo những quy thật sự, được phân bổ trong 5 lĩnh vực:<br />
tắc nhất định, tức là phải thoả mãn các yêu Khoa học ứng dụng và Công nghệ, tầm<br />
cầu của giáo dục kiến thức rộng và các yêu nhìn văn hoá đa dạng (cross cultural<br />
cầu của chuyên ngành. Cụ thể, sinh viên perspective), nghệ thuật và nhân văn<br />
phải chọn từ 25%-35% phân phối tương (humanities and fine arts), khoa học tự<br />
đối đều trong các lĩnh vực toán, ngôn ngữ, nhiên và toán học, khoa học xã hội. Sinh<br />
khoa học tự nhiên, văn học nghệ viên phải lấy được tổng cộng 30 tín chỉ<br />
thuật, khoa học xã hội,… của chương trình trong nhóm Tier II, trong đó phải thuộc ít<br />
giáo dục kiến thức rộng, và 35%-50% nhất là 4 trong 5 lĩnh vực kể trên, mỗi lĩnh<br />
trong các lĩnh vực chuyên ngành, số còn lại vực không ít hơn 4 tín chỉ nhưng không<br />
được chọn tự do không ràng buộc. nhiều hơn 12 tín chỉ.<br />
Do khái niệm tín chỉ về kiến thức Tier III bao gồm những môn học mà<br />
chuyên ngành được hiểu khá đồng nhất đòi hỏi các phương pháp tiếp cận khác<br />
giữa các trường đại học trên thế giới, nên nhau, từ các khía cạnh khác nhau, với các<br />
để bạn đọc hiểu rõ hơn khái niệm tín chỉ về loại kiến thức khác nhau, đến cùng một vấn<br />
kiến thức rộng, chúng tôi sẽ trích dẫn lại ở đề. Sinh viên phải chọn 1 môn trong nhóm<br />
đây những trình bày trong [2] về yêu cầu Tier III và chỉ các sinh viên năm cuối mới<br />
tối thiểu đối với kiến thức rộng ở các được đăng kí các môn trong nhóm này.<br />
trường đại học của Mĩ . Tổng khối lượng các môn học của chương<br />
Kiến thức rộng được định nghĩa ở đây trình giáo dục kiến thức rộng ở Đại học<br />
không phải là được học một số những pho Ohio chiếm khoảng 1/4 trong tổng số các<br />
sách kinh điển cụ thể nào, hay tiếp thụ tín chỉ cần có để tốt nghiệp.<br />
được những thông tin về những lĩnh vực cụ Như đã nói ở trên, hầu hết các trường<br />
thể nào, mà là tìm hiểu các giá trị văn hoá đại học ở châu Âu và nhiều nước khác<br />
khác nhau thông qua các lĩnh vực kiến thức không có yêu cầu về giáo dục kiến thức<br />
được phân phối trong nhiều lĩnh vực, các rộng trong chương trình đại học. Họ cho<br />
phương pháp nghiên cứu khác nhau được rằng sở dĩ ở Mĩ phải có yêu cầu giáo dục<br />
áp dụng cho các lĩnh vực đó như thế nào và kiến thức rộng là vì giáo dục phổ thông ở<br />
giá trị của các phương pháp đó. Yêu cầu về Mĩ chất lượng kém, do đó sinh viên đại học<br />
kiến thức rộng đó được cụ thể hoá trong phải mất một năm để học lại các kiến thức<br />
các chương trình giáo dục kiến thức rộng phổ thông. Những ý kiến đó có những cơ<br />
(general education program). sở nhất định, nhưng không hoàn toàn đúng,<br />
Ví dụ, ở Đại học Ohio, chương trình vì yêu cầu về kiến thức rộng tồn tại ở tất cả<br />
<br />
71<br />
các trường đại học ở Mĩ, kể cả những - Phải có quy định cụ thể về chương<br />
trường lớn như Harvard, và nó phản ánh trình giáo dục kiến thức rộng và danh sách<br />
một triết lí của giáo dục đại học hơn là một những môn nằm trong chương trình này.<br />
cách sửa chữa những khiếm khuyết của - Phải có quy định cụ thể về yêu cầu<br />
giáo dục phổ thông ở Mĩ. của các trường con và các khoa, danh sách<br />
Ví dụ, chương trình kiến thức rộng ở các chuyên ngành của các khoa (tên và mã<br />
ĐH Harvard, được gọi là chương trình lõi số của từng chuyên ngành), và các yêu cầu<br />
(core curriculum), cũng chiếm khoảng 1/4 cụ thể của từng chuyên ngành (số tín chỉ<br />
khối lượng các môn học mà một SV phải cần phải học về chuyên ngành, danh sách<br />
học để tốt nghiệp, và bao gồm các môn của các môn có thể lựa chọn, các hạn chế,<br />
trong những lĩnh vực: Văn hoá nước ngoài, một số lựa chọn mẫu để sinh viên tham<br />
Lịch sử, Văn học và Nghệ thuật, Luận đạo khảo,v.v).<br />
đức (moral reasoning), Luận tính toán Xây dựng chương trình là một công<br />
(quantitative reasoning), Khoa học và Phân việc lớn và phải huy động rộng rãi các<br />
tích xã hội. Cụ thể, một sinh viên ở Đại học giảng viên trong trường tham gia. Từ việc<br />
Harvard phải học tối thiểu 32 môn học tập hợp lại các môn hiện nay đang dạy, cấp<br />
tương đương với 32 half-courses để tốt cho mỗi môn một mã số hợp lí, viết một<br />
nghiệp (tương đương với 32 x 4 = 128 tín giới thiệu tóm tắt (không quá 200 chữ) cho<br />
chỉ của các trường đại học khác ở Mĩ), từng môn, quy định yêu cầu tiên quyết, số<br />
trong đó khoảng 1/2 các môn để thoả mãn tín chỉ v.v. đến việc cần phải thiết kế thêm<br />
yêu cầu chuyên ngành, khoảng 1/4 các một số môn học bổ sung phục vụ cho hệ tín<br />
môn để thoả mãn các yêu cầu về chương chỉ, cung cấp thêm cho các chương trình<br />
trình giáo dục kiến thức rộng (chương trình chuyên ngành và đặc biệt là cho các<br />
lõi), còn lại là những môn được hoàn toàn chương trình giáo dục kiến thức rộng để<br />
tự chọn theo ý thích hoặc để thoả mãn yêu sinh viên thực sự được lựa chọn, cho dù<br />
cầu của chuyên ngành thứ yếu (minor). còn là một lựa chọn hạn chế. Các trường<br />
2.3. Tổ chức xây dựng Chương trình nên khuyến khích giảng viên đề xuất các<br />
đào tạo theo hình thức tín chỉ môn học mới. Giảng viên nào cũng có<br />
Chương trình học theo hệ tín chỉ không quyền đề xuất môn học mới. Nên có những<br />
chỉ đơn thuần là một bản danh sách liệt kê quy định chi tiết về các thủ tục phải làm<br />
các môn học, mà phải là một quyển niên theo các mẫu có sẵn dành cho giảng viên<br />
giám của trường đại học đó với đầy đủ muốn đề xuất một môn học mới, trong đó<br />
chức năng, để làm sao mỗi sinh viên đều có có tên gọi và mã số của môn học, nội dung<br />
thể tìm thấy ở đó đầy đủ thông tin về các tóm tắt, sách giáo khoa sẽ sử dụng (nếu<br />
môn học, về các yêu cầu để được nhập học, có), v.v. Nếu môn học được thông qua, nó<br />
đăng kí học các môn, đăng kí chuyên sẽ được bổ sung vào chương trình học. Tùy<br />
ngành và tốt nghiệp, v.v. Cụ thể hơn, theo nhu cầu của sinh viên cũng như quyết<br />
Chương trình học theo hệ tín chỉ phải thoả định của trưởng khoa, nó có thể được dạy<br />
mãn các yêu cầu sau: cho sinh viên. Mặt khác, nếu một môn học<br />
- Mỗi một môn học đều phải có tên nào quá lâu không được dạy, và trường<br />
môn học, mã số, số tín chỉ, nội dung tóm cũng không còn giảng viên có thể dạy được<br />
tắt và yêu cầu tiên quyết. môn đó nữa, thì các tiểu ban về chương<br />
<br />
72<br />
trình học của các khoa có thể đề nghị bỏ số thứ nhất cho biết mức độ (level) của<br />
môn đó ra khỏi chương trình học. môn học. Các môn có mã số từ 101 đến<br />
Để cho công việc tiến hành có hiệu 499 là của chương trình cử nhân, các môn<br />
quả, đúng tiến độ, mỗi trường đại học phải từ 101 đến 199 đều có mức 1 (nói chung<br />
có một hội đồng chương trình phụ trách không nhất thiết số cao hơn nghĩa là mức<br />
chung việc xây dựng các chương trình học. cao hơn, bởi vì chỉ có số đầu tiên là số<br />
Trong hội đồng chương trình, cần có các đánh dấu mức, còn các số tiếp theo chỉ<br />
ban phụ trách chương trình giáo dục kiến dùng để phân biệt môn này với môn khác).<br />
thức rộng (nếu chúng ta đặt ra nó) và các Nếu môn học là một phần của một chuỗi<br />
chương trình chuyên môn, và mỗi trường kéo dài 2 học kì trở lên, thì sau phần số còn<br />
con, mỗi khoa phải có các ban xây dựng có thể có phần chữ để cho biết môn học đó<br />
các chương trình chuyên môn. Xây dựng nằm ở đâu trong chuỗi. Ví dụ, MATH263A<br />
các chương trình học phải là công việc là mã của môn tính vi tích phân (calculus).<br />
chung của đội ngũ giảng viên của toàn Phần chữ đầu (MATH) cho biết đây là môn<br />
trường. Các ban nói trên có trách nhiệm tổ Toán (mathematics), phần 263 chỉ rằng<br />
chức, phân công công việc đến các nhóm môn này có mức độ 2. Việc mã hoá các<br />
giảng viên để xây dựng các chương trình môn học nói chung tùy thuộc từng trường,<br />
học, chứ họ không phải trực tiếp làm công nhưng phương pháp nêu trên là phổ biến<br />
việc này. nhất. Ví dụ, yêu cầu chuyên ngành của văn<br />
Ở Mĩ, hàng năm các trường đại học bằng cử nhân khoa học sinh vật ở Đại học<br />
đều có các niên giám chương trình học cử Ohio là sinh viên phải học ít nhất 54 tín chỉ<br />
nhân và cao học (undergraduate catalog về ngành sinh vật (các môn có mã bắt đầu<br />
and graduate catalog). Các niên giám này bằng BIOS), trong đó ít nhất có 3 môn ở<br />
đều được in ra phát cho sinh viên và được mức độ 300-400.<br />
đăng trên website của trường. Trong các Ngoài ra, có một danh sách nhỏ những<br />
niên giám, tất cả các môn học trong trường môn bắt buộc trong nhóm các môn khoa học<br />
được liệt kê đầy đủ, kèm theo các mã tự nhiên và toán học đối với tất cả các sinh<br />
(code) của các môn học, các mô tả ngắn viên ngành sinh vật (gồm 4 môn sinh vật, 2<br />
gọn về nội dung, các yêu cầu tiên quyết môn hoá học, 2 môn toán, 1 môn thống kê<br />
(prerequisite). Cũng trong niên giám này, và 1 môn vật lí). Còn chuyên ngành sinh vật<br />
sinh viên có thể tìm thấy các hướng dẫn chi tế bào và phân tử (tên gọi: cellular and<br />
tiết về các yêu cầu chung của toàn trường, molecular biology, mã: BS2520) thì lại có<br />
các yêu cầu riêng của từng trường con và những yêu cầu riêng cụ thể hơn.<br />
từng khoa, các yêu cầu riêng về chương Nói chung, niên giám có thể thay đổi<br />
trình giáo dục kiến thức rộng của các loại hàng năm, như thêm các môn học mới, bỏ<br />
văn bằng (degrees) và các chương trình các môn không còn phù hợp nữa, thay đổi<br />
chuyên ngành (majors). yêu cầu giáo dục kiến thức rộng hay yêu<br />
Thông thường, mỗi môn học có một cầu của các chương trình chuyên ngành.<br />
mã (code) của môn học đó. Phần đầu của Các trường thường có quy định về niên<br />
mã là phần chữ, cho biết khoa hoặc ngành giám nhập học (catalog of entry) của sinh<br />
của môn học phần tiếp theo là phần số để viên. Theo định nghĩa, quyển niên giám<br />
phân biệt các môn học khác nhau, trong đó của năm có học kì đầu tiên mà một sinh<br />
<br />
73<br />
viên đăng kí học được gọi là niên giám sinh viên đi làm hoặc xin học tiếp cao học,<br />
nhập học và nó sẽ được áp dụng với sinh vì ở Mĩ bằng cấp chỉ là hình thức, còn<br />
viên này trong 5 năm. Nếu trong vòng 5 bảng điểm chính thức (official transcript)<br />
năm đó, nhà trường có thay đổi yêu cầu thì mới quan trọng. Khi xin việc hoặc khi xin<br />
những yêu cầu mới sẽ không áp dụng đối học tiếp cao học, người ta chỉ yêu cầu bảng<br />
với sinh viên có niên giám nhập học cũ. điểm chứ không yêu cầu bằng. Trong một<br />
2.4. Những thủ tục hành chính sinh số trường hợp mà họ yêu cầu bằng, chỉ cần<br />
viên phải thực hiện trong hình thức đào một thư xác nhận của trường, cho biết sinh<br />
tạo theo tín chỉ viên này đã thoả mãn mọi tiêu chuẩn để<br />
2.4.1. Ở Mĩ cũng như nhiều trường đại cấp bằng là được.<br />
học của châu Âu, phần lớn các sinh viên 2.4.3. Bắt đầu một học kì, mỗi sinh viên<br />
đều chọn cho mình một chuyên ngành tự quyết định các môn mà mình sẽ theo học<br />
(major) hoặc trường con (college or trong học kì đó nhằm thu được một số tín<br />
school) ngay khi nộp đơn vào trường. Tuy chỉ nhất định. Nếu học ít môn thì thời gian<br />
nhiên điều này là không bắt buộc. Sinh học sẽ kéo dài, tăng phí tổn và khó nhận<br />
viên có thể chọn trường con và ngành bất được học bổng (Học bổng được quyết định<br />
kì lúc nào trong hai năm đầu đại học, và trên cơ sở số tín chỉ và kết quả của các tín<br />
phải chọn trước khi tích lũy được 90 tín chỉ chỉ mà sinh viên thu được trong học kì<br />
(tức là khoảng gần 1/2 khối lượng tín chỉ trước). Nếu học nhiều môn thì sinh viên<br />
tối thiểu để tốt nghiệp). Mỗi sinh viên có không đủ sức lực và thời gian. Tuy sinh<br />
một thông báo kiểm tra bằng cấp gọi là viên được tự do đăng kí môn học, nhưng<br />
DARS (viết tắt của degree audit report muốn đăng kí một môn nào đó, họ phải thoả<br />
system). Cứ sau mỗi học kì thì nội dung mãn một số yêu cầu, trong đó có yêu cầu<br />
của DARS lại được thay đổi để phản ánh tiên định (prerequisite). Do đó, các giảng<br />
những kết quả học tập sinh viên đã đạt viên phải chấm bài và nộp điểm nhanh sau<br />
được, để chỉ ra sinh viên còn cần phải đáp khi cho thi cuối kì, để sinh viên có thể đăng<br />
ứng những yêu cầu nào để tốt nghiệp. kí học tiếp, vì việc đăng kí một số môn học<br />
2.4.2. Sinh viên khi đã tích lũy được phụ thuộc vào kết quả các môn học trước đó<br />
gần đủ số tín chỉ để tốt nghiệp có thể kiểm có tốt hay không. Có những quy định cụ thể<br />
tra DARS của mình để biết được đã hội đủ về thời hạn đăng kí môn học trong một học<br />
các điều kiện để tốt nghiệp chưa, và đăng kì. Thông thường, sinh viên được tự đăng kí<br />
kí xin tốt nghiệp (apply for graduation, or vào (add) hoặc đăng kí ra (drop) bất kì lúc<br />
declare candidacy for graduation). Việc nào trước 15 ngày sau khi học kì bắt đầu.<br />
đăng kí này giúp phòng giáo vụ của trường Nếu đăng kí muộn hơn quy định trên thì<br />
(registrar office) kiểm tra chính thức quá phải được sự đồng ý của giảng viên môn<br />
trình học của sinh viên để kết luận là đã đủ học và phải nộp một khoản lệ phí nhỏ. Nếu<br />
tiêu chuẩn để tốt nghiệp chưa. Ngay cả sinh viên không tự đăng kí vào một lớp nào<br />
trong trường hợp sinh viên đã hội đủ mọi đó được vì một lí do nào đó, ví dụ như vì<br />
tiêu chuẩn để tốt nghiệp, nếu không đăng không thoả mãn được các yêu cầu tiên định,<br />
kí xin tốt nghiệp thì vẫn chưa thể tốt hoặc vì lớp đã kín chỗ, đã hết hạn tự đăng<br />
nghiệp được và chưa được cấp bằng. Tuy kí, v.v, thì họ vẫn có thể đăng kí được nếu<br />
vậy, điều này không ảnh hưởng gì đến việc giảng viên của lớp đồng ý. Thậm chí, có<br />
<br />
74<br />
một số ít môn học, sinh viên chỉ có thể đăng thông báo thông qua mạng thời gian và địa<br />
kí vào học sau khi nhận được giấy đồng ý điểm dạy, thời gian và địa điểm thi hết<br />
của giảng viên. môn. Giáo vụ của cả trường đại học lập ra<br />
2.4.4. Cuối học kì, trước kì thi hết môn, lịch thi theo nguyên tắc công nghiệp, như<br />
mỗi sinh viên được phát một mẫu đánh giá sau: Tất cả những môn (trong toàn trường)<br />
giảng dạy. Sinh viên được nhận xét về học vào lúc T giờ các ngày Thứ A và Thứ<br />
những điều bổ ích hay chưa bổ ích của môn B đều thi vào ngày X lúc Y giờ.<br />
học, ưu điểm và nhược điểm của môn học, Mỗi giảng viên được giao một trợ lí,<br />
ưu điểm và nhược điểm của người dạy. làm việc chấm bài tập về nhà cho môn học<br />
Giảng viên không được can thiệp vào đánh mà mình dạy. Người này thường là sinh<br />
giá này. Trường đại học cũng có thể phần viên giỏi của năm trên, được đại học thuê<br />
nào dựa trên những đánh giá này để thay làm một phần thời gian. Nhiệm vụ của<br />
đổi một phần nội dung môn học, thông báo người này là chấm bài tập và lên điểm.<br />
lại cho giáo viên bản tổng hợp những đánh Cuối học kì, giảng viên đánh giá chất<br />
giá của sinh viên đối với họ. lượng công việc của người trợ lí. Trên cơ<br />
2.5. Nhiệm vụ của giảng viên trong sở đó, khoa sẽ quyết định có tiếp tục thuê<br />
hình thức đào tạo theo tín chỉ (xem [1], người này nữa hay thôi.<br />
[2]) Đề cương syllabus) môn học của giảng<br />
2.5.1. Xây dựng đề cương (syllabus) viên bao gồm những thông tin gì ?<br />
môn học Trước khi môn học bắt đầu, giảng viên<br />
Mỗi môn học đều có đề cương phải soạn một đề cương (syllabus) chi tiết,<br />
(syllabus) do khoa quy định và được đưa phát bản in của nó cho mỗi sinh viên trong<br />
lên mạng từ trước. Đề cương này nêu rõ: buổi học đầu tiên và đưa nó lên mạng. Nội<br />
Học theo sách nào, học những chương dung của những đề cương ngoài những quy<br />
trình nào, những tiết nào bắt buộc, những định chung của đại học (chẳng hạn như nội<br />
tiết nào tùy chọn, mỗi chương và mỗi tiết dung của môn học, sách tham khảo chính,<br />
chiếm thời lượng xấp xỉ bao nhiêu… Trên thời gian và địa điểm kì thi hết môn…) là<br />
thực tế, nếu làm đúng như đề cương đòi những quy định riêng của giảng viên đó<br />
hỏi, thì bài giảng của các giáo viên khác đối với sinh viên.<br />
nhau cũng không khác nhau nhiều và chất Điểm của môn học được quyết định<br />
lượng của môn học đã được đảm bảo chắc dựa trên điểm bài tập về nhà, điểm của hai<br />
chắn. Khoa cử một giảng viên có nhiều kì thi giữa học kì và điểm thi hết môn.<br />
kinh nghiệm làm điều phối viên cho mỗi Giảng viên được quyền quyết định tỉ lệ<br />
môn học. Nhiệm vụ của người này là trả phần trăm của những điểm thành phần nói<br />
lời những thắc mắc của các giảng viên ít trên trong điểm của môn học. Thời điểm<br />
kinh nghiệm hơn, thống nhất những quan thi giữa kì do giảng viên tự quyết định và<br />
điểm của các giảng viên cùng dạy môn này thường được thông báo ngay từ đầu học kì,<br />
và nhắc nhở mọi người về thời gian các kì trong đề cương của giảng viên.<br />
thi giữa và cuối kì. Họ thường làm tất cả Giảng viên phải bố trí cho mỗi lớp<br />
những trao đổi này qua email chứ không mình dạy mỗi tuần khoảng 2-3 lần, mỗi lần<br />
cần họp hành. Khi nhận phân công giảng 1 giờ cái gọi là “thời gian văn phòng”. Đó<br />
dạy một môn học, mỗi giảng viên được là lúc mà giảng viên có nghĩa vụ phải ở<br />
<br />
75<br />
phòng làm việc của mình để cho sinh viên nên vô nghĩa.<br />
có thể tới hỏi bài. Mỗi giảng viên ở châu Giảng viên có thể giao một vài vấn đề<br />
Âu và Mĩ đều có phòng làm việc riêng nên cho sinh viên tự đọc. Tuy nhiên, ít nhất là<br />
việc này không có gì phiền phức. Sinh viên đối với môn Toán, những vấn đề này<br />
cũng có thể liên lạc với giảng viên qua thường là không cốt yếu, không cần dùng<br />
email hoặc điện thoại để hẹn giờ hỏi bài tới trong phần còn lại của giáo trình.<br />
riêng nếu họ bận đột xuất vào “thời gian 2.5.3. Tổ chức kiểm tra đánh giá sinh<br />
văn phòng”. Giảng viên thông báo địa chỉ viên<br />
trang web cá nhân, nơi sinh viên nhận bài Việc thi và chấm thi được tiến hành thế<br />
tập và những lời dặn mỗi tuần, thông báo nào?<br />
thời gian nhận và trả bài tập về nhà hàng Giảng viên tự ra đề, tự coi thi và chấm<br />
tuần. Tất cả những thông tin trên đây đều thi tất cả các lần thi giữa kì và hết môn.<br />
được viết rõ ràng và chi tiết trong đề cương Phòng thi không cần tới 2 người coi thi. Bài<br />
môn học của riêng giảng viên và được đưa thi không cần rọc phách. Cũng có trường<br />
lên mạng từ đầu học kì. đại học quy định kì thi hết môn đối với các<br />
2.5.2. Phương pháp giảng dạy môn học môn học ở năm học đầu do một hội đồng<br />
Trên nguyên tắc, người ta khuyến của Khoa ra đề chung. Khi đó, điều kiện<br />
khích giảng viên đối thoại với sinh viên cần để hoàn thành môn học này là sinh viên<br />
trong lúc giảng bài. Việc giảng bài trên lớp phải đạt ít nhất 50% số điểm của kì thi hết<br />
tại các trường đại học ở châu Âu và Mĩ về môn. Điều kiện đủ thì do giảng viên tự<br />
cơ bản không khác với việc giảng bài tại quyết định. Tất cả các bài thi đều là tự luận,<br />
Việt Nam (ít nhất là về môn Toán). Điểm không thấy dùng hình thức thi trắc nghiệm.<br />
khác căn bản có thể là sinh viên các nước Điểm của môn học được quyết định thế<br />
đó không thích nói quá nhiều về lí thuyết, nào?<br />
họ đòi hỏi bài giảng lí giải ý nghĩa và ứng Như trên đã nói, mỗi giảng viên được<br />
dụng thực tế của vấn đề. Họ cũng chú trọng quyền tự quyết tỉ trọng của điểm bài tập về<br />
các kĩ năng thực hành. Họ có thể bình tĩnh nhà, điểm của hai kì thi giữa học kì và<br />
khi chưa thấu đáo ý nghĩa lí thuyết của vấn điểm kì thi hết môn trong điểm của môn<br />
đề, nhưng nếu không làm được bài tập thì học. Chẳng hạn, một số đồng nghiệp của<br />
sẽ kéo đến rất đông trong “giờ văn phòng” tôi tại Pháp đã cho bài tập về nhà 30 điểm,<br />
của giảng viên. Hàng tuần, sinh viên nhận kì thi giữa học kì lần lượt có điểm là 40<br />
bài tập được giao trên mạng. Bài tập có thể điểm và 50 điểm, kì thi hết môn 80 điểm,<br />
gồm 2 loại, loại dành cho luyện tập và trong tổng số 200 điểm của môn học.<br />
không phải nộp, loại khác phải nộp lại cho Giảng viên cũng có quyền cho phép hoặc<br />
giảng viên vào thời điểm đã hẹn của tuần không cho phép sinh viên được làm lại bài<br />
tiếp theo. Giảng viên chuyển các bài tập thi giữa kì và nộp cho giảng viên, nhằm ghi<br />
vào hòm thư của mình để người trợ lí tới thêm điểm. Chẳng hạn, cho phép sinh viên<br />
lấy, chấm bài, lên điểm và chuyển lại vào làm như thế để ghi thêm tối đa là 1/3 số<br />
hòm thư cho giảng viên. điểm mà sinh viên đó bị trừ trong lần thi<br />
Việc thường xuyên có mặt tại lớp giữa kì chính thức.<br />
không phải là một nghĩa vụ của sinh viên. Mỗi trường đại học quy định thống<br />
Do đó, việc điểm danh sinh viên đi học trở nhất một thang ghi điểm cuối cùng cho<br />
<br />
76<br />
môn học. Việc chuyển thế nào từ điểm cuối phản ánh lại trong DARS. Có rất nhiều<br />
cùng (bằng số thông thường) của môn học những chi tiết khác liên quan đến các yêu<br />
(chẳng hạn 155/200 điểm) sang thang ghi cầu khác nhau của các khoa, các chương<br />
điểm định trước cũng do giảng viên tự trình chuyên ngành, v.v.<br />
quyết định. Những trường ĐH nhỏ, với khoảng một<br />
Giảng viên tự lên điểm và gửi trực tiếp vài nghìn sinh viên, có thể vẫn vận hành<br />
bảng điểm cho giáo vụ của trường qua hệ được bằng những phương pháp thủ công<br />
thống thư tín, đôi khi cũng có thể gửi qua kết hợp với áp dụng vi tính văn phòng, việc<br />
thư kí của Khoa. Nếu còn lưỡng lự trong vào điểm và in các thông báo DARS cho<br />
việc có nên đánh trượt hay không một sinh một hoặc hai nghìn sinh viên. Công việc<br />
viên, giảng viên có thể thông báo trong này tuy rất vất vả và mất nhiều thời gian<br />
bảng điểm nộp cho giáo vụ rằng trường vẫn có thể làm được. Nhưng độ phức tạp<br />
hợp này chưa hoàn tất. Sau đó, giảng viên của công việc này tăng lên rất nhanh khi số<br />
có quyền đòi hỏi sinh viên ấy làm một số lượng sinh viên môn học và chuyên ngành<br />
bài tập bổ sung, hoặc viết thu hoạch về một lớn. Với những trường lớn trên 10 nghìn<br />
vấn đề liên quan, trên cơ sở đó mà quyết sinh viên và đào tạo theo hệ tín chỉ, nếu<br />
định điểm môn học cho sinh viên này, rồi không áp dụng công nghệ thông tin<br />
thông báo kết quả cho giáo vụ. Nếu bị đánh (CNTT) thì việc đăng kí học của sinh viên<br />
trượt, sinh viên sẽ phải học lại cả môn, chắc chắn sẽ rất lộn xộn. Các trường sẽ<br />
không có việc thi lại. phải đơn giản hoá thủ tục đến mức phải<br />
Ở nhiều trường đại học ở Mĩ, người ta thoả hiệp hầu hết các yêu cầu chặt chẽ về<br />
coi điểm là bí mật cá nhân của mỗi sinh đăng kí học, tức là làm cho hệ đào tạo<br />
viên. Điểm của mỗi sinh viên được giáo vụ không thực sự còn là hệ tín chỉ nữa!<br />
chuyển vào tài khoản (account) riêng của Công nghệ thông tin áp dụng trong<br />
sinh viên đó trong hệ thống internet của trường ĐH chủ yếu thông qua 3 bộ phần<br />
trường. Giảng viên có thể thông báo điểm mềm về nhân sự (HR), tài chính (finance)<br />
cho từng sinh viên, nhưng không được báo và hệ thông tin sinh viên (SIS). Nói chung,<br />
điểm của người này cho người khác. Nhưng những hệ này có thể được triển khai độc<br />
đa số các trường đại học của châu Âu và lập. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay ở các<br />
Nhật Bản thì lại không như vậy. Điểm của trường ĐH ở Mĩ là sử dụng các hệ thống<br />
sinh viên được thông báo công khai tại bộ phần mềm tích hợp tương tự như các hệ<br />
phận quản lí học tập của sinh viên. ERP (enterprise resource planning) của các<br />
2.6. Quản lí học tập của sinh viên doanh nghiệp. Hệ thông tin sinh viên đóng<br />
trong hình thức đào tạo theo tín chỉ vai trò như phần quan hệ khách hàng<br />
Khi chuyển sang đào tạo theo hệ tín (CRM) trong ERP của doanh nghiệp,<br />
chỉ, số lượng công việc liên quan đến nhưng nó có nhiều tính chất đặc thù, phức<br />
thông tin về sinh viên tăng lên một cách tạp hơn và nói chung là khác các hệ CRM<br />
đáng kể. Ví dụ, các thông báo DARS nói dành cho các doanh nghiệp. Rõ ràng rằng,<br />
đến ở trên cần phải được nhanh chóng cập trong lộ trình chuyển đổi từ hệ niên chế<br />
nhật sau mỗi học kì và gửi đến cho sinh sang hệ tín chỉ, các trường đại học cỡ trung<br />
viên, vì việc đăng kí các môn học tiếp theo bình và lớn ở Việt Nam sẽ phải có kế<br />
phụ thuộc vào kết quả học trước đó được hoạch áp dụng CNTT trong việc quản lí<br />
<br />
77<br />
học tập của sinh viên. nước đó được trả lương cao, tương xứng với<br />
3. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ TRỞ NGẠI lao động và đóng góp của họ cho xã hội.<br />
KHI CHUYỂN ĐỔI SANG HÌNH Chúng ta có trả được lương đủ sống cho các<br />
THỨC ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ giảng viên hay không?<br />
3.1. Trong mỗi học kì, mỗi môn học 3.5. Như đã nói ở trên, đào tạo theo tín<br />
đều được giảng bởi nhiều giảng viên khác chỉ đòi hỏi phải chi phí một lượng kinh phí<br />
nhau, ở nhiều lớp khác nhau, tại nhiều thời rất lớn nhằm vận hành trơn tru cỗ máy của<br />
điểm khác nhau. Vì thế, đào tạo theo tín chỉ cả trường đại học. Các trường đại học nước<br />
đòi hỏi một số lượng giảng viên rất lớn và ngoài có một nguồn tài chính dồi dào và đa<br />
cả một hệ thống cơ sở vật chất to lớn nhằm dạng, trong đó nguồn thu học phí giữ một<br />
vận hành trơn tru hình thức đào tạo này. phần quan trọng. Đối với các trường đại<br />
Nếu mỗi môn học vẫn chỉ tổ chức được 1-2 học sư phạm trong cả nước như Đại học Sư<br />
lớp thì sinh viên không có gì để chọn. Do phạm Hà Nội thì nguồn thu học phí là<br />
đó, những người theo học cùng một ngành không có. Chúng ta lấy đâu ra kinh phí để<br />
thì chỉ có khả năng chọn cùng một lớp như thực hiện đào tạo theo tín chỉ?<br />
nhau. Vì thế, tiếng là đào tạo theo tín chỉ, 3.6. Đối với hình thức đào tạo theo tín<br />
thực ra vẫn không khác gì đào tạo theo chỉ, sinh viên phải tự học, tự làm việc rất<br />
niên chế. Đây thực sự là một trở ngại lớn. nhiều. Số giờ lên lớp thực dạy của giáo<br />
3.2. Ở trên đã nói tới nghĩa vụ của các viên là giảm đi. Như thế, nếu sinh viên vẫn<br />
giảng viên là phải ở phòng làm việc của giữ thúi quen học thụ động, trông chờ vào<br />
mình để sinh viên có thể tới hỏi bài. Ở các bài giảng của thầy trên lớp thì chất lượng<br />
trường đại học nước ngoài mỗi giảng viên đào tạo sẽ có nguy cơ sụt giảm. Như thế sự<br />
đều có phòng làm việc riêng. Chúng ta có thành công của việc chuyển đổi sang hình<br />
đủ sức để cấp cho mỗi giảng viên một thức đào tạo theo tín chỉ còn phụ thuộc vào<br />
phòng làm việc không? năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh<br />
3.3. Để chuyển sang hình thức đào tạo viên ngay từ những năm học phổ thông.<br />
theo tín chỉ, công việc quản lí hành chính Thế nhưng đến bao giờ chúng ta mới có thể<br />
sẽ thay đổi căn bản theo hướng nặng lên rất trang bị cho các em học sinh phổ thông<br />
nhiều. Nó đòi hỏi phải có một đội ngũ quản những thói quen như vậy?<br />
lí và nhân viên hành chính được đào tạo bài 4. NHỮNG CÔNG VIỆC CẦN LÀM VÀ<br />
bản và chuyên nghiệp. Chúng ta có đủ sức SỚM TRIỂN KHAI ĐỂ CHUYỂN<br />
để thay đổi hệ thống quản lí (về cả phương ĐỔI SANG HÌNH THỨC ĐÀO TẠO<br />
diện chính sách và con người) hay không? THEO TÍN CHỈ<br />
3.4. Nhân tố quyết định cho sự thành 4.1. Nhóm giải pháp thứ nhất: Tin<br />
công của bất kì phương thức đào tạo đại học học hoá triệt để công tác quản lí của Nhà<br />
nào cũng là đội ngũ giảng viên giỏi. Nền trường<br />
giáo dục đại học của các nước châu Âu, Mĩ, Như đã trình bày trong phần trên, công<br />
Nhật Bản... sở dĩ đạt được những thành tựu nghệ thông tin giữ vai trò đặc biệt quan<br />
(mặc dù đầu vào của họ không được tuyển trọng trong tổ chức và quản lí đào tạo theo<br />
chọn căng thẳng như chúng ta) chủ yếu là tín chỉ. Vì thế, yêu cầu đầu tiên khi chuyển<br />
nhờ họ có được một đội ngũ giảng viên rất sang đào tạo theo tín chỉ, nơi đào tạo phải<br />
giỏi và chuyên nghiệp. Các giảng viên ở các gấp rút tiến hành tin học hoá một cách<br />
<br />
78<br />
nhanh chóng và triệt để trong nhà trường. thông tin tích hợp” phục vụ các nhu cầu<br />
Giải pháp thứ nhất: Nâng cao nhận hiện tại của trường như đưa tin, diễn đàn,<br />
thức và trình độ sử dụng công nghệ thông tra cứu tài nguyên… Cần tích hợp dần các<br />
tin của đội ngũ lãnh đạo, giảng viên và chức năng quản lí các hoạt động của trường<br />
nhân viên trong nhà trường. Mỗi cá nhân vào cổng thông tin và yêu cầu giáo viên,<br />
phải có “ý thức tin học”, nhận thức được nhân viên và sinh viên tích cực sử dụng.<br />
vai trò của mình trong dây chuyền quản lí 4.2. Nhóm giải pháp thứ hai: Xây<br />
của nhà trường; phải thấy được sự chậm trễ dựng đội ngũ giảng viên, đội ngũ cố vấn<br />
hoặc một tác động của cá nhân vào dữ liệu học tập và cơ sở vật chất của Nhà trường<br />
sẽ ảnh hưởng không tốt đến công việc Nhân tố quyết định cho sự thành công<br />
chung. Phải xác định được công nghệ của bất kì phương thức đào tạo đại học nào<br />
thông tin giúp cho xử lí thông tin nhanh và cũng là đội ngũ giảng viên giỏi. Nhà trường<br />
chính xác, góp phần rất lớn vào sự thành phải tạo mọi cơ hội để nâng cao điều kiện<br />
công của mỗi đơn vị, cá nhân. làm việc và đời sống cho họ. Đồng thời<br />
Giải pháp thứ hai: Tổ chức lại cơ sở phải có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ<br />
dữ liệu của trường. Tất cả đều phải được trẻ kế cận nhằm kế thừa và nâng cao hơn<br />
mã hoá: từ sinh viên, giảng viên cho đến nữa uy tín của nhà trường trong công tác<br />
phòng học, giờ học, môn học… Sau khi tổ đào tạo và nghiên cứu khoa học.<br />
chức lại cơ sở dữ liệu, cần nhập lại dữ liệu Cần có đội ngũ cố vấn học tập. Đội<br />
gốc theo cấu trúc mới. Phải xây dựng được ngũ này phải nắm vững tình hình của sinh<br />
một quy chế đào tạo chặt chẽ và chi tiết, viên mình phụ trách, tư vấn cho sinh viên<br />
một quy trình nghiệp vụ cụ thể cho hoạt chọn chương trình và tiến trình học phù<br />
động đào tạo của trường: quản lí sinh viên hợp và giúp cho sinh viên đăng kí học từng<br />
từ lúc nhập học đến khi ra trường, xếp lịch học kì. Cố vấn học tập có thể kiêm luôn<br />
giảng dạy cho giảng viên, tổ chức cho sinh nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm. Trong<br />
viên đăng kí học từng học kì, quản lí cho điều kiện hiện nay, mỗi cố vấn học tập có<br />
điểm quá trình, tổ chức thi và chấm thi học thể phụ trách từ 30 đến 60 sinh viên. Có<br />
kì, quản lí kết quả học tập của sinh viên, tổ thể sử dụng sinh viên giỏi của năm cuối<br />
chức cho điểm rèn luyện, xét khen thưởng làm cố vấn học tập.<br />
và xét tốt nghiệp, quản lí giờ dạy của giảng Khi học theo tín chỉ, sinh viên sẽ ở lại<br />
viên làm cơ sở cho việc tính công lao động trường nhiều giờ trong ngày vì có nhiều<br />
và tính thù lao giảng dạy. Trường phải đưa giờ trống xen giữa những giờ học. Vì vậy,<br />
ra được hệ thống các mẫu tổng kết, mẫu trường phải có nhiều nơi đủ cho sinh viên<br />
báo cáo, bảng biểu như thời khoá biểu, sử dụng các giờ trống đó, đặc biệt là thư<br />
phiếu dự thi, kết quả thi hết học kì của từng viện phải rộng và nhiều tài liệu, cantin phải<br />
sinh viên, bảng kết quả học tập của sinh thuận lợi cho sinh viên.<br />
viên tại từng thời điểm, giấy giới thiệu cho 4.3. Nhóm giải pháp thứ ba: Xây<br />
sinh viên, danh sách lớp học phần, nhật kí dựng lại chương trình đào tạo và quy chế<br />
giảng dạy theo lớp học phần … Tất cả các đào tạo<br />
báo cáo, bảng biểu đó đều có thể được in ra Chuyển chương trình đào tạo của từng<br />
sau những câu lệnh đơn giản. ngành từ niên chế sang tín chỉ. Công việc<br />
Giải pháp thứ ba: Xây dựng “Cổng cụ thể: rà soát lại chương trình cũ, chuyển<br />
<br />
79<br />
đơn vị đo học phần từ đơn vị học trình hơn cho người học.<br />
sang tín chỉ, xác định các học phần bắt Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành<br />
buộc, đưa thêm các học phần lựa chọn, xác Quy chế 43 về đào tạo theo tín chỉ (xem<br />
định điều kiện tiên quyết của từng học như quy chế khung). Quy chế đó nhìn<br />
phần, định rõ “cây tiến trình” cho từng chung khá mở, dành cho các trường nhiều<br />
ngành, soạn giới thiệu tóm tắt và đề cương quyền chủ động. Dựa trên quy chế này, nhà<br />
chi tiết của từng học phần. Phải coi đây là trường phải xây dựng quy chế đào tạo của<br />
cơ hội tốt để cấu trúc lại chương trình đào riêng mình thật chi tiết, rõ ràng và được<br />
tạo của các ngành theo hướng hiện đại hơn, phổ biến cho sinh viên khi nhập học.<br />
thiết thực hơn, có nhiều khả năng lựa chọn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Nguyễn Hữu Việt Hưng (2007), Đào tạo theo tín chỉ: Ghi nhận và suy ngẫm, Thông<br />
tin toán học, Tập 11 số 3, Tháng 9 năm 2007, trang 12-17.<br />
2. Eli Mazur & Phạm Thị Ly (2006), Mục tiêu sư phạm của hệ thống đào tạo theo tín chỉ<br />
Mĩ và nhũng gợi ý cho cải cách giáo dục đại học Việt Nam, lypham.net 08/10/2006.<br />
3. Vũ Quốc Phóng, Hệ tín chỉ: Từ đại học ở Mĩ đến đại học ở Việt Nam,<br />
vietnamnet.vn/giaoduc/2008/03.<br />
<br />
<br />
* Nhận bài ngày 29/12/2011. Sửa chữa xong 28/3/2012. Duyệt đăng 3/4/2012<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
80<br />