Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết Đề cập đến các khái niệm liên quan đến quản trị tri thức số và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới trong chu trình quản trị tri thức số. Phân tích các yếu tố có tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề đạo văn và kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số. Đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số tại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM Đào Mạnh Hiếu* - Trần Xuân Bản** 1 Tóm tắt: Bài viết Đề cập đến các khái niệm liên quan đến quản trị tri thức số và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới trong chu trình quản trị tri thức số. Phân tích các yếu tố có tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề đạo văn và kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số. Đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số tại Việt Nam. Từ khóa: Quản trị tri thức; Tri thức số; Đạo văn; Việt Nam. 1. KHÁI NIỆM QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ, CHU TRÌNH QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NGUỒN TRI THỨC ĐƯỢC TẠO MỚI 1.1. Khái niệm "quản trị tri thức số" Quản trị tri thức số: “Là quản trị tri thức nổi được thể hiện ở dạng số: sách số, báo số, văn bản số, âm thanh số, video số, các loại hình dữ liệu - thông tin đa phương tiện Multimedia… Việc quản trị này được thực hiện với mục đích phục vụ cho quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp, giáo dục, thư viện, xã hội, cá nhân và ở mọi loại hình (dữ liệu số, thông tin số, tri thức số)” (Nguyễn Hoàng Sơn, 2019). Theo lý thuyết của quản trị tri thức, quản trị tri thức cũng như quản trị tri thức số phát triển các hệ thống và các quá trình nhằm mục đích bổ sung và chia sẻ các tài sản trí tuệ. Nó làm tăng giá trị của các * Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. ** Thạc sĩ, Thư viện – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI Việt Nam 239 thông tin hữu ích, năng động và có ý nghĩa. Thêm vào đó, nó làm tối đa hóa giá trị nền tảng trí tuệ của một tổ chức thông qua nhiều chức năng khác nhau (Rigby, 2009). Mà các chức năng cơ bản đó của quản trị tri thức bao gồm: “Sản sinh ra tri thức mới, truy nhập tới các thông tin có giá trị từ các nguồn bên ngoài, sử dụng các tri thức có thể tiếp cận được trong việc ra quyết định, gắn tri thức vào các quá trình, sản phẩm và/ hoặc dịch vụ, thể hiện thông tin trong các tài liệu, cơ sở dữ liệu và trong các phần mềm, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tri thức thông qua văn hóa và sự khích lệ, truyền tri thức vào trong từng bộ phận của tổ chức, định giá trị tài sản tri thức và tác động của tri thức” (Ruggles và Holtshouse, 1999). 1.2. Chu trình quản trị tri thức và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới Trên cơ sở nghiên cứu, xác định các chức năng cơ bản của quản trị tri thức, nhiều nhà khoa học đã xây dựng chu trình của quản trị tri thức bao gồm các quá trình khác nhau như chu trình quản trị tri thức của Zack, Meyer, Williams, Bukowitz, McElroy, Wigg,... trong đó chu trình quản trị tri thức của Wigg được bàn đến nhiều nhất. Chu trình quản trị tri thức của Wigg (Dalkir, 2013) Theo chu trình của Wigg, quản trị tri thức bao gồm các quá trình: Xây dựng/ tạo ra tri thức, nắm bắt tri thức, tập hợp tri thức và sử dụng tri thức.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 240 Đối với quá trình đầu tiên của chu trình tri thức, ta có thể nhận thấy rằng việc tạo ra, sản sinh ra tri thức có sự tham gia của các cá nhân, nhiều tổ chức khác nhau như cơ quan về giáo dục, khoa học, xuất bản, doanh nghiệp,… và đây là khâu quan trọng bởi nó là khâu tạo yếu tố đầu vào và chất lượng của nguồn tri thức quyết định đến hiệu quả hoạt động của cả chu trình. Vì vậy, kiểm soát chất lượng của nguồn tri thức mới được sản sinh cũng là một nhiệm vụ quan trọng được đặt ra đối với các nhà quản trị tri thức, quản trị tri thức số. Xem xét về tính khoa học, tính đúng đắn của nguồn tri thức được tạo ra, đây là nhiệm vụ đã được giải quyết, được nghiên cứu rất nhiều bởi các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Trong nội dung của bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến một khía cạnh khác trong quản lý chất lượng của nguồn tri thức đó là kiểm soát đạo văn. Đạo văn là một hiện tượng phổ biến và là một vấn nạn đặc biệt nghiêm trọng đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo. Trên thế giới, đạo văn bị các nhà khoa học kịch liệt phê phán bởi nó thể hiện tính không trung thực, không liên minh trong nghiên cứu. Trong quản trị tri thức và đặc biệt là quản trị tri thức số, kiểm soát đạo văn cũng là một vấn đề được bàn nhiều trong những năm gần đây bởi một nguồn tri thức mang tính khoa học, tính đúng đắn mà vi phạm lỗi đạo văn thì cũng trở thành vô giá trị. 2. KHÁI NIỆM ĐẠO VĂN 2.1. Khái niệm "đạo văn" Đạo văn là gì? Khái niệm "đạo văn" được nhiều nhà khoa học bàn luận và đưa ra định nghĩa theo các quan điểm khác nhau. Theo Bách khoa thư Britannica: “Đạo văn là hành động lấy các tác phẩm của người khác và chuyển chúng thành một bản như là của riêng mình. Hành vi gian lận đó có liên quan chặt chẽ đến các hành vi giả mạo và vi phạm bản quyền, nói chung là vi phạm luật bản quyền”. Sox (2012) cho rằng:
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI Việt Nam 241 “Hành động đạo văn liên quan đến việc đánh cắp tác phẩm của người khác và sau đó làm sai lệch ý nghĩa của nó”. Một cách đầy đủ hơn Gert Helgesson và Stefan Eriksson (2015) đưa ra định nghĩa về đạo văn với hai khía cạnh đó là chiếm đoạt tác phẩm của người khác biến nó thành của mình mà không đưa ra những trích dẫn rõ ràng. Ngoài khái niệm "đạo văn", một số nhà khoa học còn đưa ra khái niệm "tự đạo văn". Khái niệm này được xuất hiện từ những năm đầu thập niên thứ hai của thế kỷ thứ XXI khi mà hệ thống phát hiện đạo văn như Turnitin và SafeAssign trở nên phổ biến ở các trường đại học và cao đẳng (Halupa, Breitenbach and Anast, 2016). Theo đó, tự đạo văn được xem xét như là một trường hợp đặc biệt của đạo văn, khi một ai đó đăng tải các sản phẩm mà có nội dung giống như lần công bố trước đó hoặc về cơ bản có nội dung gần giống (Jones et al., 2005). Như vậy, từ những quan điểm trên, ta có thể khái quát khái niệm "đạo văn" như sau: “Đạo văn là việc chiếm đoạt tác phẩm của người khác thành của riêng mình hoặc sao chép một phần tác phẩm của người khác mà không có những trích dẫn rõ ràng. Đạo văn cũng có thể tính đến khi một người sử dụng tác phẩm đã công bố trước đó của chính mình, hoặc một phần của tác phẩm, để đưa vào tác phẩm mới, đó là sự tự đạo văn”. Trong môi trường trường đại học, đạo văn là một vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc hơn. Trong quá trình học tập của mình, sinh viên (đối tượng người học đông đảo của các trường đại học) chịu sự áp lực từ nhiều phía như gia đình, bạn bè, người hướng dẫn,… để cạnh tranh cho các suất học bổng, sự khẳng định mình và đương nhiên là các vị trí công việc tốt trong xã hội. Họ thường coi bằng cấp là một nấc thang quan trọng để đưa đến sự thành công, và không phải lúc nào cũng là một quá trình tích cực. Bởi vậy, họ thường hướng đến kết quả cuối cùng trong các bài tập, tiểu luận, khóa luận của mình hơn là kỹ năng (Turnitin.com and Research Resources, 2017). Hệ quả là, hiện tượng đạo văn trở nên phổ biến đối với trường đại học. Chú trọng đến
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 242 kết quả, không quan tâm tới kỹ năng dẫn đến việc ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra của quá trình đào tạo của các trường đại học. 2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ đến việc kiểm soát đạo văn Bàn về các nhân tố ảnh hưởng đến việc kiểm soát đạo văn, các nhà khoa học đưa ra các nhân tố khác nhau trong đó bao gồm cả các nhân tố mang tính chất tích cực (giúp kiểm soát tốt tình trạng đạo văn) và nhân tố mang tính chất tiêu cực (làm gia tăng tình trạng đạo văn). Các nhóm nhân tố đó bao gồm: chính sách nội bộ, năng lực học thuật, các nhân tố mang tính chất cộng đồng, nhóm nhân tố thuộc về cá nhân và nhóm nhân tố thuộc về công nghệ (Husain, Al-Shaibani, Mahfoodh, 2017). Trong đó nhóm yếu tố công nghệ được bàn đến chủ yếu là nguồn truy cập mở và hệ thống phần mềm chống đạo văn (Ocholla D. and Ocholla L., 2016). 3. VẤN ĐỀ ĐẠO VĂN TRONG MÔI TRƯỜNG TRI THỨC SỐ Trong môi trường tri thức số, quản trị tri thức số, khi mà khối lượng tri thức khổng lồ được sản sinh ra, được cập nhật từng ngày, từng giờ cùng với những đặc trưng cơ bản vốn có của nó, đó là khả năng chia sẻ, khả năng truy nhập, con người có được cơ hội tiếp cận với nguồn tri thức đó một cách dễ dàng và nhanh chóng để khai thác, sử dụng, tham khảo, áp dụng vào thực tiễn hoặc tạo ra các nguồn tri thức mới. Tuy nhiên, điều đó vừa tạo ra thách thức, đồng thời tạo ra cơ hội cho việc kiểm soát vấn nạn đạo văn trong công tác quản trị tri thức số, quản lý chất lượng nguồn tri thức mới được tạo ra. 3.1. Vấn nạn đạo văn gia tăng nhanh chóng trong môi trường tri thức số Ngày nay, với việc sử dụng các máy tìm tin (search engines) phổ biến Google, Yahoo,… mỗi cá nhân đều có thể tìm được các thông tin mà mình cần một cách nhanh chóng, cùng với đó là sự phát triển lớn mạnh của hệ thống các nguồn truy cập mở. Vì thế, thông tin có thể được chia sẻ, được tham khảo một cách dễ dàng, và đương nhiên, hành vi đạo văn cũng trở nên dễ dàng hơn. Brandt (2010) khẳng định: “Trong tất cả các trường hợp xâm phạm bản quyền trong lĩnh vực khoa
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI Việt Nam 243 học, giáo dục những năm gần đây, các đoạn văn bản bị đạo văn có thể hoàn toàn tìm thấy trên mạng Internet”. Mức độ vi phạm lỗi đạo văn thô bạo nhất phải kể đến là đạo văn kiểu “copy-paste” (sao chép-dán) và mức độ vi phạm này khá phổ biến đối với đối tượng là học sinh, sinh viên với việc thực hiện các bài tập lớn, bài luận,… Một nghiên cứu của DeBell và Chapman (2001) đã chỉ ra rằng, có đến 72% sinh viên sử dụng mạng Internet cho việc làm bài tập. Thực tế là sinh viên thiếu các kiến thức cơ bản về các phương pháp tìm kiếm của thư viện. Việc sử dụng các công cụ truyền thống của thư viện đã bị chối bỏ do các máy tìm tin tựa Web, như Google. Việc sử dụng các máy tìm tin này giúp sinh viên có thể tiếp cận tới hàng triệu các nguồn thông tin cần thiết chỉ với một cái cái “click” chuột. Một đặc trưng cơ bản của thông tin số, tri thức số đó là khả năng truy nhập, thông tin có thể bị biến đổi, hoặc sao chép dễ dàng, chính vì vậy nạn đạo văn dạng “copy-paste” cũng trở nên khá phổ biến. Theo một nghiên cứu của Sisti (2007), có 35% sinh viên khẳng định rằng có vi phạm lỗi đạo văn dạng này, có nghĩa là họ sao chép nguyên cả đoạn văn bản rồi dán vào trong bài tập của mình mà không đưa ra các thông tin và nguồn được trích dẫn. Một dạng đạo văn khác ở mức ít thô bạo hơn nhưng cũng là việc làm đáng lên án trong nghiên cứu khoa học, đó là đạo văn ý tưởng. Theo Helgesson và Eriksson (2014), nếu một ai đó sử dụng ý tưởng của người khác và thể hiện rằng đó là ý tưởng của mình thì người đó đã vi phạm lỗi đạo văn. Loại đạo văn này thường khó phát hiện hơn do không phải lúc nào ý tưởng cũng được thể hiện ở dạng văn bản. Trong môi trường tri thức số, loại đạo văn này cũng trở nên phổ biến hơn bởi mỗi cá nhân có thể tiếp cận tới các nguồn tin, tham khảo một cách nhanh chóng và lấy cắp ý tưởng của người khác một cách dễ dàng rồi sau đó trình bày bằng văn phong của mình, biến ý tưởng đã lấy cắp thành ý tưởng của mình.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 244 3.2. Cơ hội của các nhà quản lý trong việc kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số Đối với quản trị tri thức truyền thống, việc phát hiện đạo văn trở thành một vấn đề khó khăn bởi những giới hạn về không gian và thời gian trong việc chia sẻ, lưu trữ và truy nhập thông tin. Có những trường hợp kiện tụng liên quan đến đạo văn chỉ được đề cập đến sau một khoảng thời gian dài khi các tác phẩm được công bố. Tuy nhiên, với tri thức số, vấn đề này lại được giải quyết một cách dễ dàng. Với khả năng chia sẻ nhanh chóng, không bị giới hạn bởi không gian địa lý, thông qua mạng Internet, tri thức mới được sản sinh có thể được tiếp cận ngay lập tức sau khi công bố, bởi số lượng lớn các thành viên trong cộng đồng. Từ đó thông tin được tái sử dụng đồng thời cũng được phản biện và từ đó các trường hợp vi phạm lỗi đạo văn có thể được phát hiện. Đối với vấn đề này, các nguồn thông tin truy cập mở đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các nguồn này được phổ biến trên mạng Internet, được truy cập thông qua các máy tìm tin (Search Engines), từ đó ai cũng có thể đọc được và phát hiện ra các việc đạo văn. Ở mức độ cao hơn, chuyên nghiệp hơn, môi trường tri thức số giúp các nhà quản lý có thể phát triển các hệ thống chống đạo văn với phương thức kiểm tra trùng lặp một cách tự động đem lại hiệu quả cao, chính xác và nhanh chóng. Các phần mềm chống đạo văn này được Purdy (2005) giải thích rằng: “Đó là các dịch vụ phát hiện đạo văn dựa trên mạng Internet cho phép người hướng dẫn (giáo viên) tìm ra các bằng chứng trực quan để kiểm tra bài viết của sinh viên, xác định xem nó có bao gồm các đoạn văn được sao chép trực tiếp từ các nguồn khác hay không…”. Hệ thống phát hiện đạo văn hoạt động trên cơ sở đối chiếu tài liệu đang cần được xem xét với các nguồn dữ liệu đối chiếu nội bộ (bao gồm các dữ liệu được các đơn vị sử dụng tải lên hệ thống, các nguồn mua từ các xuất bản) và các nguồn truy cập mở khác mà có thể tìm và khai thác được thông qua các máy tìm tin. Như vậy có thể thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chống đạo văn ngoài việc phụ thuộc vào tính năng, khả năng tùy biến của phần mềm thì nguồn dữ liệu đối chiếu là yếu tố hết sức quan trọng. Bên cạnh quy mô của nguồn dữ liệu đối chiếu nội bộ là sự gia tăng của các các nguồn truy cập mở.
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI Việt Nam 245 Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phần mềm chống đạo văn khác nhau được các nhà xuất bản, các công ty phần mềm, các đơn vị đào tạo, đơn vị nghiên cứu khoa học phát triển. Ngoài tính năng kiểm tra trùng lặp, phát hiện đạo văn, các phần mềm này có thể được phát triển kèm theo các tính năng phụ khác như kiểm tra ngữ pháp, đánh giá, cho điểm bài luận, tạo lớp ảo,… Các phần mềm này có thể mang tính thương mại hoặc sử dụng miễn phí. Các phần mềm được sử dụng nhiều phải kể đến như các hệ thống kiểm tra tiếng Anh: Turnitin, WordCheck, EVE2, WcopyFind hoặc các hệ thống kiểm tra ngôn ngữ Slavơ: AdvegoPlagitus, Double Conten Finder, Praide Unique Content Analyser 2. Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, một số trường đại học đã có nhiều nỗ lực phát triển các phần mềm chống đạo văn cho riêng mình hoặc với tham vọng phát triển một hệ thống đạo văn mang thương hiệu Việt, dùng chung cho việc kiểm soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật tại Việt Nam như: hệ thống phát hiện đạo văn của Đại học Cần Thơ (2014), phần mềm chống đạo văn của Đại học Quốc gia Hà Nội, DoIT (2016), hệ thống phát hiện đạo văn CopyChecker (2018) của Đại học Bách khoa Hà Nội. Một số trường mua các phần mềm của nước ngoài trong đó sử dụng nhiều là Turnitin và Ithenticate. Dù là phần mềm nước ngoài hay phần mềm nội địa, các phần mềm chống đạo văn đã thực sự mang lại những hiệu quả rõ rệt trong việc kiểm soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật, các tri thức mới được sản sinh trong môi trường tri thức số ở Việt Nam. 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM 4.1. Phát triển các hệ thống chống đạo văn trong môi trường tri thức số ở Việt Nam Như đã bàn ở trên, phương pháp kiểm soát đạo văn được các trường hướng tới đó là: tự phát triển các hệ thống kiểm tra đạo văn và sử dụng các phần mềm chống đạo văn mang tính thương mại. Với hướng thứ nhất, các trường đã phát triển được những phần mềm với những tính năng cơ bản nhất giúp giải quyết nhiệm vụ kiểm
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 246 soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật sản sinh ra từ hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của đơn vị mình. Tuy nhiên, vì “đi một mình” nên các phần mềm đó vẫn còn những hạn chế, đặc biệt là nguồn dữ liệu đối chiếu nội bộ ít ỏi, chưa đối chiếu được với các nguồn nội sinh của các đơn vị khác cũng như chưa bổ sung được các dữ liệu từ các nhà xuất bản, đặc biệt là các dữ liệu đối chiếu bằng tiếng Việt, chính vì vậy hiệu quả chưa thực sự cao. Với hướng thứ hai, phần mềm được phát triển lâu năm nên các tính năng được hoàn thiện hơn, nguồn dữ liệu đối chiếu lớn hơn do có nhiều đơn vị dùng và tải dữ liệu nội bộ lên hệ thống. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sử dụng vẫn còn e dè trong việc tải dữ liệu nội bộ lên do còn băn khoăn về vấn đề bản quyền, lo sợ dữ liệu sẽ bị lấy cắp, một vấn đề khác là nguồn dữ liệu đối chiếu bằng tiếng Anh rất lớn nhưng nguồn dữ liệu tiếng Việt lại rất hạn chế. Như vậy, để có thể phát triển hệ thống chống đạo văn cho môi trường tri thức số ở Việt Nam thì cần phải có sự chung tay của nhiều tổ chức khác nhau, nhiều cơ quan xuất bản, phát hành, cơ quan nghiên cứu khoa học và các trường đại học, cao đẳng,... Các đơn vị cùng nhau phát triển một hệ thống kiểm soát đạo văn thuần Việt, ngoài các tính năng cơ bản về kiểm tra trùng lặp, các vấn đề về bản quyền, quyền tác giả phải được đảm bảo, tạo niềm tin cho các đơn vị để họ cùng tham gia vào việc xây dựng nguồn dữ liệu đối chiếu tiếng Việt phong phú. 4.2. Tăng cường phát triển các nguồn tiếng Việt truy cập mở Nguồn truy cập mở có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chu trình quản trị thông tin số, nó giúp các nhà khoa học có thể tham khảo, nghiên cứu để tạo ra nguồn tri thức mới mà không phải trả phí; đồng thời, nguồn truy cập mở đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát đạo văn, đặc biệt là đối với các hệ thống kiểm tra đạo văn tự động. Chính vì vậy, để công tác kiểm soát đạo văn đạt hiệu quả cao hơn, các nguồn truy cập mở này cần phải được phát triển mạnh hơn. Ở Việt Nam, nguồn truy cập mở vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học trong khi xây dựng các
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI Việt Nam 247 cơ sở dữ liệu nội sinh mới chỉ dừng ở mức cung cấp các nguồn đó cho các thành viên trong đơn vị mình, không công bố ra bên ngoài. Trong những năm gần đây, khái niệm nguồn tài nguyên giáo dục mở được bàn đến nhiều hơn, rất nhiều hội thảo, nhiều nghiên cứu, nhiều chương trình về chủ đề này đã được triển khai. Năm 2008, Chương trình Tài nguyên Giáo dục Mở Việt Nam đã thiết lập trang Web VOER – www.voer.edu.vn, với mục tiêu: “xây dựng kho tài nguyên giáo dục mở cho người Việt Nam sử dụng và truy cập miễn phí nguồn tài liệu hữu ích, phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu, cũng như phục vụ cho toàn xã hội”. (Chu Ngọc Quế Chi, 2019). Chương trình đã nhận được sự ủng hộ và tham gia của các trường đại học, các học giả trong và ngoài nước và đã xây dựng được nguồn học liệu có giá trị. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm triển khai, nguồn học liệu này vẫn còn ở con số hạn chế với hơn 22.000 tên tài liệu. Vấn đề nhận thức về trách nhiệm đối với cộng đồng trong việc xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở theo mục tiêu mà Chương trình Giáo dục Mở Việt Nam đặt ra cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn truy cập mở đối với công tác kiểm soát đạo văn cần được các trường, đơn vị đào tạo, các cơ quan nghiên cứu khoa học, xuất bản, phát hành đặc biệt quan tâm. Từ đó tham gia một cách có trách nhiệm và xây dựng nguồn tài nguyên tiếng Việt truy cập mở phong phú hơn. 4.3. Tăng cường vai trò của Chính phủ, các bộ ngành trong công tác kiểm soát đạo văn Để công tác kiểm soát đạo văn thực sự đạt hiệu quả cần phải có sự chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp của các bộ ngành liên quan (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông) xây dựng các đề án, các chương trình mang tính quốc gia để giải quyết vấn đề này. Trước hết, cần xây dựng được một hệ thống chống đạo văn cho môi trường tri thức số Việt hóa mang tính Quốc gia. Đầu tư kinh phí, giao cho một hoặc một số đơn vị việc phát triển phần mềm dùng chung với đầy đủ các tính năng theo yêu cầu và đảm bảo vấn đề về bản quyền. Khuyến khích và qui định rõ trách nhiệm của các đơn vị tham gia, đặc biệt là trách nhiệm trong việc xây dựng nguồn dữ liệu đối chiếu chung. Đồng thời, bổ sung các nguồn dữ liệu khác từ bên ngoài.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 248 Các Bộ cần ra các văn bản quy định về trách nhiệm của các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học, cơ quan xuất bản, phát hành trong việc kiểm soát đạo văn đối với các nguồn tri thức mới được tạo ra. Tổ chức thường xuyên các hội thảo, hội nghị khoa học bàn về vấn đề đạo văn trong môi trường tri thức số nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng đối với vấn đề này. KẾT LUẬN Kiểm soát đạo văn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quản trị tri thức, và đặc biệt là trong quản trị tri thức số bởi nó ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn tri thức được tạo ra và cũng là dòng chảy trong chu trình quản trị tri thức. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề kiểm soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật sản sinh từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học đã được nhiều đơn vị, tổ chức chú ý đến, có sự đầu tư và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, để công tác kiểm soát đạo văn đạt hiệu quả cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp của các bộ ngành có liên quan về phát triển các đề án, các chương trình mang tính quốc gia nhằm xây dựng hệ thống chống đạo văn cho môi trường tri thức Việt, quan tâm và đầu tư đến yếu tố dữ liệu địa phương (tiếng Việt) trong các nguồn dữ liệu đối chiếu của hệ thống. Bên cạnh đó cần có các biện pháp nhằm nâng cao nhất thức của nhận thức của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng đối với vấn đề này, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng với việc xây dựng một môi trường khoa học trung thực, hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 10. Brandt, J., Gutbrod, M., Wellnitz, O., Wolf, L. (2010), Plagiarism detection in open access publications, paper presented at the Proc. Of the 4th Int. Plagiarism Conference. Retrieved 05 Sep 2020 from https://www.ibr.cs.tu-bs.de/papers/brandt-ipc10.pdf. 11. Chung Ngọc Quế Chi (2019), Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở trong hoạt động giáo dục đại học // Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2019.
- ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI Việt Nam 249 12. Dalkir, K (2013), Knowledge Management in theory and practice, Elsevier. 13. DeBell, M, Chapman, C. (2003), Computer and Internet use by children and adolescents in 2001: Statistical Analysis Report. National Center for Educational Statistics, US Department of Education, Publication number NCES 2004014. 14. Gert Helgesson & Stefan Eriksson (2015), plagiarism in research, Medicine, Health Care and Philosophy. 15. Husain, F.M., Al-Shainbani, G.K.S., Mahfoodh, O.H.A. (2017), Perceptions of and attitudes toward plagiarism and factors contributing to plagiarism: a review of studies, J Acad Ethics, published online: 30 March 2017. 16. Nguyễn Hoàng Sơn, …et al (2019), Quản trị tri thức số Quốc gia: Chính phủ - doanh nghiệp – thư viện số - xã hội số // Tối ưu hóa quản trị tri thức: Chính phủ - doanh nghiệp – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội. 17. Ocholla, D., Ocholla, L. (2016), Does open access prevent plagiarism in higher education?, African Journal ò Library, Archives and Information Science, October, 2016. 18. Purdy, J.P. (2005), Calling off the hounds: Technology and the visibility of plagiarism, Pedagogy, 5(2). 19. Rigby, D. (2009), Management Tolls 2009: An Executive’s Guide, http://www.bain.com/management_tools/home.asp 20. Ruggles, R., and D. Holtshouse (1999), The knowledge advantage. Dover, New Hampshire: Capstone Pubblishers. 21. Sisti, D.A. (2007),How do high school students justify Internet plagiarism?, Ethics &Behavior, Dec. 2008. 22. Sox, H.C. (2012), Plagiarism in digital age, Office of research Integrity Newsletter 20 (3). 23. Wiig, K.M (2000), Knowledge management: An emerging discipline rooted in a long history. In Knowledge management, ed. D. Chauvel and C. Despres, Paris: Theseus.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc nâng cao văn hóa chính trị trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay
8 p | 81 | 22
-
Lý luận và thực tiễn trong quản trị văn phòng: Phần 1
164 p | 99 | 16
-
Lý luận và thực tiễn trong quản trị văn phòng: Phần 2
142 p | 79 | 14
-
Chuyển đổi số trong quản trị nhà trường
7 p | 12 | 4
-
Quan điểm của Trần Trọng Kim về đạo đức
6 p | 75 | 3
-
Những nội dung cốt lõi trong quản trị trường đại học công lập hiện nay
5 p | 10 | 3
-
Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức cho sinh viên ở các trường cao đẳng - đại học hiện nay dựa vào quan điểm giáo dục định hướng phát triển năng lực
9 p | 5 | 3
-
Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược trong giảng dạy và học tập học phần Quản trị văn phòng doanh nghiệp
6 p | 53 | 3
-
Marketing trong tổ chức đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật Việt Nam hướng đến tự chủ
7 p | 55 | 3
-
Tăng cường hợp tác giữa cơ sở đào tạo và cơ quan, doanh nghiệp trong đào tạo cử nhân ngành quản trị văn phòng
5 p | 47 | 3
-
Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học cho sinh viên ngành Quản trị - Kinh doanh
6 p | 55 | 3
-
Tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
8 p | 61 | 3
-
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đào tạo và sử dụng trí thức ở nước ta hiện nay
5 p | 73 | 3
-
Nền tảng đại học số trong trường đại học: Những trở ngại và thách thức
5 p | 8 | 2
-
Nghiên cứu ảnh hưởng của văn hoá tổ chức, lãnh đạo chuyển đổi đến lợi thế cạnh tranh trong các trường đại học Việt Nam
6 p | 11 | 2
-
Hát ả đào: Nghệ thuật cung đình hay diễn xướng dân gian
9 p | 7 | 1
-
Vận dụng thuyết quản lý chất lượng tổng thể (TQM) trong quản lý chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị ở Học viện Chính trị khu vực II
7 p | 4 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn