VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
DẤU ẤN VĂN HÓA QUA CÁCH XƯNG HÔ<br />
TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI PHÁP<br />
TRỊNH THỊ XOAN*<br />
*<br />
Học viện Khoa học Quân sự, trinhminhxoan80@gmail.com<br />
Ngày nhận bài: 08/5/2018; ngày sửa chữa: 30/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/6/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Gia đình là một tế bào xã hội, một môi trường đặc biệt góp phần hình thành và nuôi dưỡng nhân<br />
cách của mỗi thành viên. Văn hóa ứng xử trong gia đình nói chung, văn hóa xưng hô trong gia<br />
đình nói riêng thể hiện những nét đặc trưng của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu cách xưng hô<br />
trong gia đình Việt Nam và Pháp dưới góc độ ngôn ngữ-văn hóa cho thấy những điểm tương đồng<br />
và khác biệt thú vị trong quan niệm cũng như cách ứng xử của hai dân tộc; từ đó vận dụng hiệu<br />
quả kiến thức ngôn ngữ và văn hóa trong quá trình giao tiếp với người bản xứ.<br />
Từ khóa: đại từ nhân xưng, gia đình, giao tiếp, người Việt, người Pháp, văn hóa, xưng hô<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ minh lâu đời của Châu Âu, với tôn giáo chính là<br />
đạo Thiên chúa giáo và nền dân chủ, đề cao cái tôi,<br />
Gia đình là một môi trường đặc biệt, nơi đó bản ngã cá nhân trong xã hội thì Việt Nam lại điển<br />
hình thành và nuôi dưỡng nên nhân cách mỗi con hình cho một đất nước đang phát triển với nền sản<br />
người. Dù ở bất cứ chế độ xã hội nào, điều kiện xuất nông nghiệp lâu đời và ảnh hưởng mạnh mẽ<br />
địa lý và hoàn cảnh kinh tế nào thì gia đình vẫn bởi nền tư tưởng Nho giáo, đạo Khổng.<br />
giữ nguyên những đặc trưng với các mối quan hệ<br />
huyết thống, thân thuộc, yêu thương. Tình yêu, sự Xuất phát từ hai đặc trưng này mà trong phạm<br />
quan tâm, kính trọng,… tất cả luôn hiện diện và vi gia đình, mỗi quốc gia sẽ có những nét đặc trưng<br />
trường tồn như một sợi dây vĩnh cửu gắn kết các trong cách xưng hô giữa các thành viên trong gia<br />
mối quan hệ gia đình giữa vợ-chồng, cha mẹ-con đình. Hiện nay, nhiều gia đình Việt còn chung sống<br />
cái, anh-chị-em, ông bà-cháu chắt. với bốn thế hệ nhưng đa số tồn tại hình thái gia<br />
đình ba thế hệ. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết<br />
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến này, chúng ta sẽ đi sâu vào thói quen xưng hô trong<br />
dấu ấn văn hóa của hai quốc gia ở hai vùng khác gia đình ba thế hệ ông/bà-con-cháu của hai dân tộc<br />
biệt về cả văn hóa, lãnh thổ địa lý thể hiện trong Pháp-Việt. Khám phá ra những dấu ấn văn hóa và<br />
cách xưng hô giữa các thành viên trong gia đình. mang đến những giải đáp thú vị cho từng cách sử<br />
Nếu Pháp là một đất nước phát triển với nền văn dụng loại ngôn ngữ trong môi trường đặc biệt này<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 14 - 7/2018 61<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về văn hóa mỗi quốc gia, Từ những định nghĩa và quan điểm trên, có<br />
góp phần giảm thiểu được những rào cản văn hóa thể thấy, trong quá trình giao tiếp, các cá thể có<br />
trong giao tiếp. thể đổi vai người nói (phát ngôn) và người nghe<br />
và các đại từ nhân xưng cũng được luân phiên sử<br />
2. HỆ THỐNG ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG<br />
dụng hết sức linh hoạt trong quá trình giao tiếp<br />
VÀ CÁCH XƯNG HÔ TRONG GIA ĐÌNH<br />
giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Riêng ngôi thứ<br />
NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI PHÁP<br />
ba, vì không thuộc phạm trù xưng-hô nên sẽ không<br />
2.1. Khái niệm xưng hô và đại từ xưng hô có sự thay đổi trong quá trình giao tiếp.<br />
<br />
Trong quá trình giao tiếp, xưng hô là hành vi Liên quan đến cách xưng hô, chúng ta cần có<br />
ngôn ngữ xuất hiện liên tục trong mỗi lời thoại của sự phân biệt khái niệm đại từ nhân xưng và danh<br />
người tham gia giao tiếp. Ngôn ngữ xưng hô cho xưng. Đại từ nhân xưng thuộc phạm trù ngôn ngữ,<br />
phép ta định rõ các vai, thứ bậc, mối quan hệ của là một phần không thể thiếu đối với một ngôn ngữ<br />
các đối tượng tham gia vào cuộc trò chuyện, giao và đều có điểm chung trong mọi ngôn ngữ là gồm<br />
tiếp. Xoay quanh cuộc giao tiếp đó, ngôn ngữ xưng ba ngôi: thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Ở đây, chúng<br />
hô sẽ xoay quanh ba trục cơ bản: người nói-người tôi sẽ tập trung nghiên cứu cách xưng hô trong<br />
nghe-người thứ ba được nhắc đến trong câu chuyện.<br />
gia đình và cách sử dụng các danh xưng trong các<br />
Theo Lê Hoàng Sang (2014, tr.9), “xưng” là cuộc giao tiếp trực tiếp của các thành viên, tức là<br />
sự quy chiếu đến người nói, là cách mà người nói các danh xưng được sử dụng ở ngôi thứ nhất và<br />
tự gọi mình khi trò chuyện với người khác. Hành ngôi thứ hai. Danh xưng hay cụ thể là các danh<br />
động “xưng” được thực hiện thông qua một từ xưng thân mật trong cách xưng hô của các thành<br />
xưng hô ở ngôi thứ nhất số ít, hai người xưng trở viên trong gia đình là những đặc trưng riêng của<br />
lên với ngôi nhân xưng thứ nhất số nhiều. “Hô” là mỗi cộng đồng ngôn ngữ, mỗi gia đình, thậm chí<br />
sự quy chiếu đến người nghe, là cách mà người nói là của mỗi cá thể tham gia giao tiếp. Tìm hiểu về<br />
gọi người đang trò chuyện với mình. Hoạt động cách xưng hô trong gia đình, chúng ta sẽ khám phá<br />
“hô” được thực hiện thông qua một từ xưng hô ở ra những nét đặc sắc, dấu ấn văn hóa hay cá tính<br />
ngôi thứ hai, một người nghe ứng với ngôi thứ hai của mỗi một cộng đồng hay cá thể sử dụng ngôn<br />
số ít, từ hai người nghe trở lên ứng với ngôi thứ ngữ đó.<br />
hai số nhều. Từ “xưng hô” ở ngôi thứ ba dùng để<br />
quy chiếu đến người thứ ba được nhắc đến trong 2.2. Hệ thống đại từ nhân xưng và cách xưng<br />
cuộc hội thoại. hô trong gia đình người Việt và người Pháp<br />
Như vậy “Xưng hô” là tự xưng mình và cách 2.2.1. Đại từ nhân xưng<br />
gọi người khác bằng những danh xưng tương ứng<br />
khi giao tiếp nhằm biểu thị thứ bậc, mối quan hệ, Xét về khía cạnh ngôn ngữ, cả hai quốc gia<br />
sắc thái tình cảm, cảm xúc… giữa những cá thể đều có nguồn gốc ngôn ngữ là hệ chữ La tinh. Tuy<br />
tham gia vào cuộc đối thoại. nhiên, tiếng Việt lại mang âm sắc của chữ Nôm,<br />
Theo Từ điển Giáo dục Việt Nam (2001, một ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của tiếng Hán<br />
tr.497): “Đại từ nhân xưng (còn gọi là đại từ xưng (Trung Quốc). Trước khi đi sâu vào phân tích các<br />
hô) là đại từ dùng để tự xưng (ngôi thứ nhất), để dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình,<br />
gọi người đối thoại (ngôi thứ hai) và để gọi người chúng ta cùng tìm hiểu sơ lược về hệ thống đại từ,<br />
hay sự vật thứ ba (ngôi thứ ba), bao gồm số ít và phương tiện ngôn ngữ không thể thiếu trong hoạt<br />
số nhiều”. động giao tiếp đặc biệt này.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
62 Số 14 - 7/2018<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
Bảng 1: Hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Pháp và tiềm thức từ bao đời nay, nên trong cách xưng hô<br />
tiếng Việt của người Việt thường ý nhị và sâu sắc. Do đó, các<br />
danh xưng thân mật không đa dạng và phong phú so<br />
Đại từ Tiếng Tiếng Việt với ngôn ngữ phương Tây và thường được sử dụng<br />
nhân xưng Pháp chủ yếu trong mối quan hệ gia đình. Trong phần<br />
này, với những kiến thức và trải nghiệm thực tế đã<br />
Ngôi thứ nhất Je Tôi, em, mình, tớ, tao,<br />
số ít con… thu lượm được trong đời sống, chúng ta sẽ cùng<br />
tìm hiểu cách xưng hô trong gia đình Việt xoay<br />
Ngôi thứ hai Tu/Vous Cậu, bạn, em, mình, quanh bốn mối quan hệ cơ bản của gia đình là: vợ-<br />
số ít mày, con, cháu… chồng, cha/mẹ-con cái, anh/chị-em, ông/bà-cháu.<br />
Ngôi thứ ba Il/Elle Anh ấy, hắn, cô ấy, bà<br />
số ít ấy, chị ấy, gã, y, thị… Cách xưng hô giữa vợ và chồng<br />
Ngôi thứ nhất Nous Chúng tôi, chúng ta, Đây là mối quan hệ thiêng liêng, khởi điểm<br />
số nhiều chúng tớ, bọn mình,<br />
cho việc hình thành và phát triển của một gia đình.<br />
bọn tao…<br />
Cách xưng hô cũng như các danh xưng giữa vợ<br />
Ngôi thứ hai Vous Các anh, các chị, các chồng của người Việt thay đổi theo từng giai đoạn<br />
số nhiều bạn, bọn mày, bọn<br />
của cuộc đời.<br />
bay…<br />
Ngôi thứ ba Ils/Elles Các anh ấy, các bà ấy, Vợ chồng trẻ những năm đầu sau khi cưới,<br />
số nhiều các ông ấy, bọn nó, khi xưng hô với nhau vẫn hay sử dụng những từ<br />
chúng nó… xưng hô thân mật như lúc trước khi kết hôn. Cách<br />
xưng hô thân mật giữa các cặp vợ chồng rất đa<br />
Quan sát bảng hệ thống đại từ nhân xưng trên,<br />
dạng. Tuy nhiên, người Việt không có thói quen sử<br />
có thể nhận thấy hệ thống đại từ của tiếng Việt<br />
dụng danh xưng thân mật khi có mặt người thứ ba.<br />
phức tạp hơn của tiếng Pháp rất nhiều. Về cơ bản,<br />
Thông thường, sau kết hôn, các cặp vợ chồng sẽ<br />
trong tiếng Pháp, đại từ nhân xưng đơn giản và ổn xưng hô “anh-em”, “vợ-chồng”.<br />
định trong các tình huống giao tiếp. Trong khi đó,<br />
tiếng Việt lại tùy mối quan hệ giữa những người Giới trẻ hiện nay thường có xu hướng từ<br />
tham gia giao tiếp sẽ có đại từ phù hợp. Ví dụ, giữa trước khi kết hôn đã xưng hô với nhau là “vợ-<br />
bạn bè là tớ-cậu, tôi-ông, bà-tui… giữa vợ chồng: chồng”, “ông xã-bà xã”, “vợ yêu-chồng yêu”...<br />
mình-em/anh, vợ-chồng. Ngoài ra còn hay dùng những từ theo phương Tây<br />
như “honey”, “baby”…<br />
2.2.2. Danh xưng và cách xưng hô trong gia<br />
đình người Việt Đến khi hết thời kỳ vợ chồng son, các cặp vợ<br />
chồng cũng thể hiện sự gần gũi, thân thương bằng<br />
Trong gia đình người Việt, do hệ thống đại từ tiếng “mình” (mình - anh/em).<br />
không những phong phú mà còn rất tinh tế và thay<br />
đổi phức tạp theo mục đích giao tiếp khác nhau, - Mình ơi nhớ về ăn cơm sớm nhé.<br />
với mỗi đối tượng khác nhau. Đối với người nước<br />
ngoài mới học tiếng Việt và chưa sinh sống ở Việt - Anh chưa biết được, còn tùy công việc nữa<br />
Nam thì đây là một rào cản khá lớn, vì họ chưa thể mình ạ.<br />
thấu hiểu được cái tinh túy, lễ nghĩa, tình cảm…<br />
trong giao tiếp của người Việt. Vợ chồng khi bước vào tuổi làm cha mẹ lại có<br />
cách xưng hô thân mật khác. Lúc này vợ chồng<br />
Do ảnh hưởng của nền văn hóa phương Đông gọi nhau thường hay gọi theo quan hệ với con như:<br />
và nền giáo dục Nho giáo đã tồn tại và ăn sâu vào “mẹ thằng Cún”, “bố cu Bi”, “má nó”, “ba nó”…<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 14 - 7/2018 63<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
hay với cháu: “bà cu Bo”, “ông ngoại Sóc”. còn ở các tỉnh miền Tây Nam bộ là “tía/má-con”.<br />
Có thể nói, các danh xưng giữa cha mẹ và con cái<br />
- Má nó nhớ qua nhà bà ngoại chiều nay nhé. trong gia đình Việt hết sức phong phú. Trên đây<br />
Hình như bà ốm đấy. chỉ là những danh xưng mang tính phổ biến nhất.<br />
- Bố Cún về chưa vậy? Em đợi ở nhà nhé. Các danh xưng mà bố mẹ dành cho con cái<br />
cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của<br />
Khi đã lên ông, lên bà, tiếng “anh-em” hay<br />
đứa con. Khi mới sinh ra, nhiều em bé đã có cả tên<br />
“mình-anh/em” sẽ được thế chỗ cho cách xưng hô<br />
khai sinh và tên thân mật dùng để gọi khi ở nhà.<br />
thay cho các cháu.<br />
Thế hệ trước có thói quen gọi là Cu, Cò, Tũn… với<br />
- Ông nội Nil ơi, tôi ra chợ mua mớ rau nhé! con trai và Hĩm, Gái, Đĩ… với con gái. Ngày nay,<br />
các em bé có nhiều hơn những danh xưng thân mật<br />
Khi cùng nói chuyện với nhau, ở tuổi cao người như: Honey, Coca, Bon, Bánh bao, Cà phê, Bào<br />
Việt cũng thường xưng hô “ông/ông nó-tôi”, “bà/ Ngư… tùy vào sở thích của bố mẹ.<br />
bà nó-tôi”, thể hiện mình đã ở tuổi lên ông lên bà,<br />
cách xưng hô anh-em như thời trẻ dần được thay thế. Cách xưng hô giữa anh/chị và em<br />
<br />
- Đấy, tôi nói rồi mà bà không nghe, nó lại bỏ Xưng hô trong mối quan hệ này vẫn chủ yếu<br />
đi rồi. là dùng cặp đại từ “anh-em”. Thực tế, ở nhiều gia<br />
đình anh chị còn gọi em là “mày” xưng “tao”,<br />
- Ông nó cứ bình tĩnh, việc đâu còn có đó. tuy nhiên cách nói này không được khuyến khích<br />
và không phải là chuẩn mực của danh xưng trong<br />
Thực tế, cách xưng hô và danh xưng trong mối gia đình, trừ trong gia đình của các dân tộc thiểu<br />
quan hệ vợ chồng hết sức phong phú theo từng số, nơi mà người dân sử dụng tiếng nói của cộng<br />
cung bậc cảm xúc và trong những ngữ cảnh khác đồng mình.<br />
nhau. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng ta chỉ<br />
tìm hiểu cách xưng hô chuẩn mực và phổ biến nhất Danh xưng thân mật giữa anh/chị-em là rất ít.<br />
trong các gia đình Việt. Ở miền Nam, đặc biệt là ở những vùng sông nước<br />
thì gọi anh, chị, em ruột thịt theo thứ tự trong gia<br />
Cách xưng hô giữa cha mẹ và con cái đình cùng với tên của người đó ví dụ như: “Út<br />
Nga”, “Tư Thọ” hoặc ngắn gọn hơn thì chỉ gọi<br />
Thông thường, danh xưng phổ biến nhất trong theo thứ tự trong gia đình: “Chị Hai”, “Anh Ba”.<br />
mối quan hệ này của người Việt là: “bố/mẹ-con”<br />
(miền Bắc); “ba/má-con” (miền Nam). Khi đã trưởng thành và có con cái, cách xưng<br />
hô giữa anh-chị-em lại có sự thay đổi, đó là cách<br />
Tuy nhiên, xét về lịch sử, trong gia đình Việt sử dụng đại từ xưng hô thay cho con.<br />
xưa cũng có nhiều cách xưng hô khác nhau.<br />
Trong các gia đình giàu có, người Việt xưa xưng - Cô thấy chị nhà anh/tôi đợt này thay đổi<br />
hô là:“cậu/mợ - con”, hay là “cậu/mợ-anh/chị”. nhiều không? (Anh nói với em gái).<br />
Còn trong các gia đình bình dân thì có những danh<br />
xưng như: “thầy/bu-con” hay “thầy/u-con, “thầy/ Cách xưng hô này cho ta thấy rõ sự hiện diện<br />
đẻ-con”… của thế hệ thứ ba, các con, cháu với cha mẹ, ông<br />
bà, cô dì, chú bác cứ mặc định trong các cuộc giao<br />
Xét về vùng miền địa lý, trong gia đình Việt tiếp giữa các thành viên một cách tự nhiên, làm<br />
cũng có những điểm khác biệt nhất định. Người phong phú thêm các danh xưng trong gia đình.<br />
Việt ở các gia đình vùng cao thường hay xưng<br />
hô:“bố/mế-con. Ở miền Trung là: “ba/má-con” Cách xưng hô giữa ông bà và cháu<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
64 Số 14 - 7/2018<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
Ở miền Bắc và theo tiếng phổ thông, cách hệ: vợ-chồng, cha mẹ-con cái, anh/chị-em và ông/<br />
xưng hô “ông/bà-cháu” phổ biến nhất trong các bà-cháu chúng ta sẽ phát hiện ra những nét tinh tế<br />
gia đình. Ở miền Nam, cháu gọi ông bà nội hay và sự đa dạng của từ loại này.<br />
ông bà ngoại thường rút gọn lại còn tiếng “nội”,<br />
“ngoại” (chung cho cả ông và bà) để nói chuyện Cách xưng hô giữa vợ và chồng<br />
với nhau. Rất nhiều ông bà dùng tiếng“con” để<br />
Trong tiếng Pháp, trong mối quan hệ thân mật<br />
gọi cháu. Ngược lại cũng rất nhiều cháu dùng<br />
thì cặp đại từ xưng hô “je-tu” giữ vị trí độc tôn.<br />
tiếng “con” để xưng với ông bà.<br />
Như chúng ta đã biết đại từ “tu” là ngôi thứ hai<br />
- Con chào nội, con về ạ. số ít trong hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng<br />
Pháp, sử dụng trong mối quan hệ với người ít tuổi<br />
- Nội chào con, đi cẩn thận nghe con. hơn, có địa vị thấp hơn và đặc biệt là trong mối<br />
quan hệ thân thiết như bạn bè hay người yêu. Khi<br />
Có thể thấy rằng, các danh xưng và cách chưa kết hôn, còn là người yêu và dĩ nhiên đến khi<br />
xưng hô của các thành viên gia đình Việt vô cùng là vợ chồng thì người Pháp vẫn giữ nguyên cách<br />
phong phú và không ngừng thay đổi theo sự phát dùng hai đại từ này. Theo thống kê, trong mối quan<br />
triển, lớn mạnh về số lượng các thành viên trong hệ liên quan đến tình yêu nam nữ, vợ-chồng thì các<br />
gia đình. Từ thời điểm chỉ có “hai vợ chồng son” danh xưng thân mật hết sức phong phú và được sử<br />
đến khi nên ông nên bà, cách xưng hô có một quá dụng với tần suất cao. Tham khảo tại trang web<br />
trình phát triển hết sức tự nhiên, thú vị nhưng cũng smooze.com thì danh xưng thân mật được sử dụng<br />
mang đậm nét văn hóa, sự gắn kết của tình cảm với tần suất cao nhất là từ “Chéri(e)” (Người yêu/<br />
ruột thịt đầy yêu thương, trìu mến. Anh yêu/Em yêu). Tiếp theo là từ “mon cœur”<br />
(trái tim của anh/em), “mon amour” (tình yêu của<br />
2.2.3. Danh xưng và cách xưng hô trong gia<br />
em/anh), “bébé” hay “mon bébé” (người yêu bé<br />
đình người Pháp<br />
nhỏ), “ma puce” hay “mon doudou” (cục cưng<br />
Đối với người Pháp, đại từ nhân xưng được sử của anh/em)… Những danh xưng đầy yêu thương,<br />
dụng gần như duy nhất trong mối quan hệ giữa các âu yếm này xuất hiện thường xuyên của các cặp vợ<br />
thành viên trong gia đình là ngôi “je-tu” hay “moi- chồng ở mọi lứa tuổi trong gia đình Pháp.<br />
toi” (tutoyer). Trong văn chương cổ và trong các<br />
gia đình quý tộc xưa, người Pháp cũng có sử dụng Cách xưng hô giữa cha mẹ và con cái<br />
cặp đại từ “je-vous” hay “moi-vous” (vouvoyer).<br />
Trong mối quan hệ này, đại từ nhân xưng “je-<br />
Tuy nhiên, thói quen này hiện không còn trong gia<br />
tu” hay đại từ xưng hô “moi-toi” được sử dụng<br />
đình hiện đại.<br />
trong các cuộc giao tiếp hàng ngày. Danh xưng<br />
Thế hệ ông bà (grands-parents) gồm có ông thân mật thể hiện sự âu yếm, chở che, yêu thương<br />
bà nội (grands-parents paternels) và ông bà ngoại của bố mẹ dành cho con cái cũng chiếm vị trí hết<br />
(grands-parents maternels). Sau đó đến bố (père) sức quan trọng trong cách xưng hô này.<br />
và mẹ (mère) và các con gồm: anh/em trai (frère)<br />
Danh xưng “papa” và “maman” được cả hai<br />
và chị/em gái (sœur). Trong tiếng Pháp, trường<br />
cá thể sử dụng hết sức tự nhiên. Mẹ nói với con:<br />
hợp là anh/chị sẽ thêm từ grand(e) (lớn) ở trước<br />
mỗi danh xưng thành grand-frère và grande-sœur, - Sophie, viens ici avec maman! (Sophie, lại<br />
nếu là em trai/gái sẽ thêm tiền tố petit(e) (nhỏ) và đây với mẹ nào!)<br />
chuyển thành petit-frère và petite-sœur. Đi sâu vào<br />
tìm hiểu các danh xưng thân mật qua các mối quan Hay con nói với bố:<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 14 - 7/2018 65<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
- Papa, tu peux me montrer la Tour Eiffel?(Bố ơi, từ “maman” hay “papa” được sử dụng thường<br />
bố có thể chỉ cho con xem tháp Eiffel được không?) xuyên với những vai trò vị trí khác nhau trong câu<br />
thì giữa anh-chị-em thứ bậc không được xác định<br />
Những danh xưng mang đầy sự yêu thương, rõ ràng, người Pháp sẽ gọi tên và xưng hô “je-tu”.<br />
thân thiết giữa cha mẹ và con cái của người Pháp<br />
cũng rất phong phú và thú vị như là: “mon trésor” - Pierre, tu veux quoi pour ton anniversaire?<br />
(kho báu của bố/mẹ), “mon ange” (thiên thần của<br />
bố/mẹ), “mon coeur” (trái tim của bố/mẹ),... và ý (Pierre, em/anh thích gì vào ngày sinh nhật<br />
nghĩa của những danh xưng này cũng rất sâu sắc... nào?)<br />
Niềm tự hào và vui sướng của người làm cha mẹ<br />
- Julie, tu vas partir en Italie cet été?<br />
còn thể hiện qua các danh xưng như : “ma beauté”<br />
(nàng xinh đẹp), “ma fleur” (đóa hoa), “ma (Julie, chị/em sẽ đi Ý hè này à?)<br />
princesse” (công chúa)… dành cho con gái hay<br />
“mon beau prince” (hoàng tử), “mon capitaine” Phân tích hai câu trên, nếu không đặt trong<br />
(thuyền trưởng)… đối với con trai. ngữ cảnh cụ thể, thật khó để chúng ta phân biệt<br />
được thứ bậc, có thể là anh/chị nói với em và có<br />
Ngoài cách gọi con bằng những danh xưng thể ngược lại. Ta cũng không thể xác định rõ quan<br />
thân mật dễ thương và nhiều ý nghĩa như trên, hệ của hai nhân vật: anh/chị em hay bạn bè, đồng<br />
người Pháp còn hay gọi con mình bằng những nghiệp. Một điểm lưu ý là trong mối quan hệ anh-<br />
danh xưng theo tên của các con vật yêu, gần gũi em, dâu-rể thì ngôi “je” và “tu” vẫn là đại từ xưng<br />
với tâm hồn trẻ thơ như “mon petit loup” (con sói hô duy nhất. Có thể lý giải đây là mối quan hệ mà<br />
bé nhỏ), “mon chaton” (miu con), “ma crevette” thứ bậc, tuổi tác không được đánh giá quan trọng<br />
(tôm con)… như cha mẹ vợ/chồng và con dâu/rể.<br />
Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa con dâu/con Cách xưng hô giữa ông bà và cháu<br />
rể với bố mẹ chồng/vợ, dù vẫn là quan hệ gia đình<br />
song khi giao tiếp với bố mẹ chồng/vợ, người con Cặp đại từ nhân xưng “je-tu” và “moi-toi”<br />
không sử dụng đại từ nhân xưng “tu” mà sử dụng vẫn là cặp đại từ duy nhất được sử dụng trong mối<br />
đại từ “vous” (số ít) như trong trường hợp xưng hô quan hệ này. Điều đó thể hiện rằng, ông bà và cháu<br />
với những người có khoảng cách, thứ bậc, quan hệ tuy tồn tại sự chênh lệch về khoảng cách tuổi tác,<br />
xã giao (thầy-trò, cấp trên-cấp dưới…). Họ cũng thế hệ nhưng tình cảm ruột thịt vẫn vô cùng gần<br />
không xưng hô “Papa”, “Maman” như khi xưng gũi và thân thiết.<br />
hô với bố mẹ đẻ mình mà gọi tên bố mẹ chồng/<br />
vợ. Ví dụ: Cũng giống như các cuộc đối thoại giữa cha<br />
mẹ-con cái, giữa ông bà-cháu, các danh xưng thân<br />
Con dâu nói với bố chồng: mật được sử dụng thường xuyên, thể hiện sự yêu<br />
thương, trìu mến.<br />
- Vincent, est-ce que vous voulez voyager au<br />
Vietnam avec nous? (Vincent, bố có muốn đi du - Mémé, raconte-moi cette histoire! (Bà ơi, bà<br />
lịch ở Việt Nam với chúng con không?) kể cho con nghe câu chuyện này nhé)<br />
<br />
Cách xưng hô giữa anh/chị và em - Pépé, tu vas pêcher avec moi? (Ông ơi, ông<br />
đi câu cùng cháu được không?)<br />
Trong mối quan hệ này, ngôi “je” và “tu”<br />
vẫn là đại từ chỉ ngôi duy nhất được sử dụng. - Papi, tu me manques beacoup. (Ông ơi, con<br />
Tuy nhiên, khác với mối quan hệ cha mẹ-con cái, nhớ ông nhiều lắm)<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
66 Số 14 - 7/2018<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
- Mamie, je vais te voir cette semaine. (Bà ơi, lành canh chẳng ngọt” có thể xưng hô“tôi-anh/<br />
tuần này cháu sẽ về thăm bà nhé.) cô” mặc dù đây không phải là những cách xưng<br />
hô chuẩn mực. Đối với người Pháp, cách xưng hô<br />
Những danh xưng mà các cháu sử dụng khi nói trong mối quan hệ này luôn luôn sử dụng đại từ “je<br />
với ông, bà không nhiều và cũng không có sự phân - tu/vous” trong bất cứ hoàn cảnh và tình huống nào.<br />
biệt ông bà nội/ngoại nhưng luôn là biểu hiện của<br />
tình yêu thương, quý trọng của các cháu đối với Có lẽ sắc thái biểu cảm chứa đựng qua cách sử<br />
thế hệ ông bà mình. Đối với các cháu, ông bà cũng dụng đã làm cho hệ thống đại từ nhân xưng tiếng<br />
thường xuyên sử dụng những danh xưng thân mật Việt luôn phong phú, đa dạng và có thể trở nên<br />
như bố mẹ gọi con cái: mon trésor, ma puce, mon phức tạp với một số người sử dụng. Đây chính là<br />
petit loup, mon chatton… biểu hiện của văn hóa, lối tư duy tỉ mỉ, quan niệm<br />
thứ bậc, phép tắc trong giao tiếp của người Việt.<br />
3. DẤU ẤN VĂN HÓA QUA CÁCH XƯNG<br />
HÔ TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT VÀ 3.2. Thói quen sử dụng danh xưng thân mật<br />
NGƯỜI PHÁP<br />
Một điểm chung thứ hai của hai cách xưng hô,<br />
Xưng hô là một hành động được thực hiện nhờ đó là tần suất và thói quen sử dụng các danh xưng<br />
các phương tiện ngôn ngữ đặc trưng, nhưng vì là thân mật với các con trong mỗi gia đình Việt và<br />
hoạt động giao tiếp nên cách thức xưng hô và cách Pháp. Đối với người Pháp, việc sử dụng những<br />
sử dụng các danh xưng cũng thể hiện những đặc danh xưng đáng yêu, dễ thương, mang nhiều ý<br />
trưng văn hóa của mỗi cộng đồng sử dụng ngôn nghĩa đã tồn tại và phổ biến trong cách xưng hô<br />
ngữ đó. Qua phần tìm hiểu về xưng hô trong gia giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và các cháu<br />
đình người Pháp và Việt, chúng ta đã phần nào của mình. Đối với gia đình Việt, nếu như ngày xưa<br />
thấy được ẩn chứa trong hành động giao tiếp đặc các “tên yêu” được dùng để gọi các con, cháu là<br />
biệt này những dấu ấn văn hóa của hai dân tộc. nhằm dễ nuôi, dễ gọi thì ngày nay xu hướng “Âu<br />
hóa” rất rõ qua các danh xưng. Những cái tên thân<br />
3.1. Sắc thái biểu cảm qua cách sử dụng đại mật như Tom, Nicky, Nil… xuất hiện khá nhiều.<br />
từ nhân xưng Bên cạnh đó, cũng giống như tên yêu trong tiếng<br />
Pháp, những cái tên mang tên các con vật yêu,<br />
Nhìn nhận tổng quan về các đại từ nhân xưng<br />
nhân vật hoạt hình như Mickey, Miu, Cún, Ben…<br />
chỉ ngôi và trường từ vựng liên quan đến các thành<br />
cũng rất quen thuộc. Bên cạnh đó, còn có những<br />
viên trong gia đình, hai ngôn ngữ đều không có<br />
tên độc đáo gắn liền với câu chuyện riêng từ thuở<br />
điểm khác biệt. Tuy nhiên, các đại từ nhân xưng<br />
trong bào thai cho đến khi ra đời của mỗi đứa trẻ<br />
của tiếng Việt vô cùng phong phú và mang giá trị<br />
như: Bánh Bao, Cô Ca, Hạt Xoài, Cà Phê … cũng<br />
biểu đạt sắc thái cảm xúc, ý đồ của người giao tiếp<br />
rất riêng và thú vị. Có một điểm chung nằm trong<br />
rất cao. Nếu trong tiếng Pháp chỉ có hai đại từ ngôi<br />
điều cấm kỵ trong gia đình người Pháp cũng như<br />
thứ hai “tu” và “vous” có thể thay thế để biểu đạt<br />
người Việt, đó là gọi tên tục của cha mẹ để xưng<br />
về mối quan hệ thân mật hay có khoảng cách giữa<br />
hô. Tuy nhiên, nếu với người Pháp là một nguyên<br />
các cá thể giao tiếp thì trong tiếng Việt cả ba ngôi<br />
tắc theo suốt cuộc đời thì với người Việt có sự thay<br />
đều chứa rất nhiều đại từ mà trong mỗi ngữ cảnh<br />
đổi theo giai đoạn. Khi còn nhỏ, các em bé vẫn nói:<br />
cụ thể, với tâm trạng nhất định, các đối tượng giao<br />
tiếp sẽ chọn lựa sử dụng. Ví dụ, giữa cha và con, - Mẹ Linh ơi, Ken yêu mẹ nhất trên đời!<br />
bình thường sẽ xưng hô: “bố-con” nhưng khi con<br />
phạm lỗi, trong cơn giận dữ bố có thể xưng hô: Nhưng trong gia đình Pháp, đối với ngôi thứ<br />
“tao-mày” (bậc làm con thì không được phép nói hai mà là ông bà, cha mẹ thì con cháu không gọi<br />
ngược lại với bố), hay vợ chồng khi “cơm chẳng tên mà chỉ dùng danh xưng thân mật: “papa/<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 14 - 7/2018 67<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
maman” hay “mémé/papi”. Với người Việt, khi 3.3. Đặc tính lịch sự, lễ phép và tôn ti, trật<br />
trưởng thành, con cũng tránh gọi tên của bố mẹ, tự trong xưng hô<br />
ông bà mà chỉ đơn giản gọi là “bố/mẹ”, “ông/bà”.<br />
Thái độ lễ phép, kính trọng trong xưng hô của<br />
Nếu cách xưng hô bằng danh xưng tên yêu đối người Việt được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ<br />
với con, cháu trong các gia đình là một thói quen gia đình. Đầu tiên phải kể đến tính thứ bậc rõ ràng<br />
phổ biến thì cách xưng hô giữa vợ và chồng của và tuyệt đối trong xưng hô. Tiếp đó là các từ bổ<br />
người Việt và người Pháp có nhiều điểm khác biệt. sung trong các phát ngôn như “thưa” hay từ “ạ”<br />
Đối với người Pháp, do ảnh hưởng nền văn minh ở đầu và cuối các câu thoại.<br />
phương Tây đề cao cách thể hiện tình cảm tự nhiên,<br />
- Thưa bố, thưa mẹ, con xin phép được trình<br />
cái tôi cá nhân và đời sống tình cảm luôn được bày một việc ạ.<br />
thể hiện tự nhiên, công khai, nên cách xưng hô<br />
giữa vợ chồng và cách thể hiện tình cảm cũng hết - Bà ơi, bà đã ăn cơm chưa ạ?<br />
sức cởi mở. Để thể hiện tình cảm, sự yêu thương,<br />
người Pháp xưng hô không ngại ngần bằng những Như vậy, trong cách xưng hô với người trên<br />
danh xưng thân mật (surnoms intimes). Từ lúc còn nói chung và đặc biệt giữa các thành viên trong gia<br />
yêu nhau cho đến lúc kết hôn và khi đã lớn tuổi đình ẩn chứa những dấu ấn của lễ giáo, lễ nghĩa hết<br />
thì người Pháp vẫn giữ thói quen xưng hô bằng sức truyền thống từ xa xưa để lại. Những yếu tố<br />
những danh xưng thân mật như “chéri(e)”, “mon ngôn ngữ dù rất nhỏ đi kèm với các danh xưng này<br />
amour”, “ma puce”… giúp người nghe xác định ngay được mối quan hệ<br />
và thứ bậc của các cá thể tham gia giao tiếp đồng<br />
Người Việt, với sự ảnh hưởng của đạo Nho, thời đánh giá được nhân cách, đạo đức của các cá<br />
đạo Khổng, cái tôi bản ngã luôn ẩn dấu sau những thể đó. Chuẩn mực này trong giao tiếp luôn được<br />
mối quan hệ lớn hơn như đạo vua-tôi, thầy-trò… duy trì và phát triển qua các thế hệ gia đình Việt.<br />
và đời sống tình cảm riêng tư là những điều mà Những sắc thái này thực sự không tìm thấy trong<br />
trong truyền thống không được thể hiện ồn ào, cách xưng hô của người Pháp. Thật đơn giản, chỉ<br />
công khai, phải ý nhị, tinh tế. Trong ngôn ngữ xưa, có cặp đại từ “je” - “tu” là đủ cho một mối quan<br />
những danh xưng thường được sử dụng là “chúa hệ thân thuộc trong gia đình. Có lẽ sắc thái biểu<br />
công-thiếp”, “nàng-ta” là những chuẩn mực trong cảm qua ngôn ngữ chỉ được nhận biết qua ngữ<br />
giao tiếp. Xu hướng hiện đại thì những danh xưng điệu, cách nhấn nhá trong phát ngôn mà thôi.<br />
thường được sử dụng là “anh-em”, thân mật hơn<br />
là “mình-em/anh”. Khi đã có con, người Việt xưng Một nét nổi bật trong xưng hô của người Việt<br />
hô theo cách xưng hô “hộ con”. Con cái chính là là thể hiện rõ tính tôn ti, thứ bậc của các thành<br />
sợi dây gắn kết tình vợ chồng, là kết tinh của hạnh viên trong gia đình. Trong mối quan hệ giữa vợ<br />
phúc vợ chồng. Thói quen này thể hiện tình cảm vợ và chồng, dù có từ “mình” thể hiện sự bình đẳng<br />
chồng của người Việt được ẩn đằng sau niềm vui có trong xưng hô nhưng sau từ mình đó thì người<br />
con cái đề huề, có người nối dõi, đó là quan điểm “xưng” nếu là vợ vẫn phải nói là “em”, và dù vợ<br />
ăn sâu vào tiềm thức người Việt từ xưa đến nay. có hơn tuổi chồng thì danh xưng “anh” vẫn là bắt<br />
buộc khi nói với chồng.<br />
Đối với người Việt, tình yêu vợ chồng và niềm<br />
tự hào ấy thể hiện qua danh xưng “mình-em”, “anh- Trong mối quan hệ anh/chị và em trong gia<br />
em” rồi đến “bố nó-mẹ nó” và khi về già thì gọi đình Việt, đặc điểm này được thể hiện rõ rệt nhất,<br />
nhau là “ông nội-bà nội/ông ngoại-bà ngoại” (cu do ảnh hưởng của Nho giáo, quan hệ anh/chị-em<br />
Tý). Cứ như vậy, hình ảnh con cháu len lỏi vào trong cũng là một chuẩn mực: phải có trật tự, tôn ti.<br />
các danh xưng của người Việt lúc nào không hay. Trong gia đình Việt, do tư tưởng trọng nam khinh<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
68 Số 14 - 7/2018<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
nữ từ xưa để lại và cũng do đặc điểm người con 3.4. Mối quan hệ giữa bố mẹ chồng/vợ với<br />
gái khi đi lấy chồng “là con, là ma nhà người ta” con dâu/rể<br />
nên chỉ người con trai trưởng mới có quyền lực<br />
cao nhất trong đại gia đình. Khi còn nhỏ được gọi Trong gia đình người Pháp cũng có một mối<br />
là anh Cả, anh Hai, khi trưởng thành luôn gọi là quan hệ mà cách xưng hô thể hiện khoảng cách,<br />
Bác Trưởng, người có quyền thay cha mẹ quyết thứ bậc mặc dù màu sắc biểu cảm ấy không giống<br />
định những việc lớn trong gia đình. Khi người anh cách xưng hô của người Việt, đó là mối quan hệ<br />
Cả không đảm đương nổi vai trò của mình thì có giữa bố mẹ chồng/vợ với con dâu, rể.<br />
thể người em thứ thay anh gánh vác nhưng dù sao<br />
vẫn phải hỏi ý kiến vì người Việt quan niệm “Anh Qua cách xưng hô, ta thấy rõ quan niệm con<br />
Cả giả cha”. Những lý giải ở trên cho ta hiểu tại đẻ-con dâu/rể và bố mẹ chồng/vợ được phân biệt<br />
sao trong anh chị em người Việt luôn yêu cầu phải rất rạch ròi. Trong mối quan hệ đặc biệt này ngôi<br />
xưng hô anh ra anh, em ra em, không được “cá mè “vous” sẽ được con dâu/con rể sử dụng để xưng<br />
một lứa”. hô với bố mẹ chồng/vợ, con bố mẹ chồng/vợ với<br />
con dâu rể thì vẫn xưng ngôi “tu” đúng theo thứ tự<br />
So sánh với cách xưng hô của gia đình Pháp tuổi tác như ngoài xã hội. Đối với cha mẹ chồng/<br />
ta có thể thấy dấu hiệu của tôn ti trật tự thể hiện vợ cũng vậy, cách xưng hô này trở thành hiển<br />
qua các danh xưng là hoàn toàn không mang đặc<br />
nhiên bởi chính bố mẹ cũng quan niệm đó không<br />
trưng riêng như người Việt. Với người Pháp, chỉ<br />
phải là con trai hay con gái đẻ (fils hay fille) của<br />
đơn giản là gọi tên và xưng hô ngôi “tu” là đủ.<br />
họ mà trong tiếng Pháp, người Pháp có thêm một<br />
Tuy nhiên, khác với quan hệ cha mẹ-con cái, anh/<br />
tính từ “beau/belle” (đẹp) để chỉ gia đình thông<br />
chị-em dâu/rể trong gia đình sử dụng đại từ “tu”<br />
để xưng hô với nhau, giữa họ không phân biệt thứ gia (belle famille, beaux - parents, beau - fils, belle<br />
bậc và trật tự rõ ràng cũng như quan hệ ruột thịt - fille). Nếu con dâu/rể xưng ngôi “tu với bố mẹ<br />
hay không. Có lẽ đây là quan niệm mang tính cộng chồng/vợ thì được coi là một sự vô lễ. Ngược lại,<br />
đồng giữa những người trẻ được duy trì trong đại con dâu/rể cũng không bao giờ sử dụng danh xưng<br />
gia đình. Trong thực tế, giữa anh/chị-em, ngay từ thân mật “Papa”/“Maman” với bố mẹ chồng mà<br />
nhỏ, một đứa trẻ đã ý thức mình là một cá thể trong sẽ gọi tên hoặc thậm chí dùng từ trang trọng như<br />
xã hội, mối liên hệ anh/chị-em là khá lỏng lẻo, từ xưng hô ngoài mội trường xã hội là “Monsieur”/<br />
việc ở phòng riêng biệt, sử dụng đồ đạc, đồ dùng, “Madame” (Ông/Bà).<br />
sở thích khác nhau cho đến khi lập gia đình và<br />
sống riêng. Mỗi cá thể đó độc lập với cả bố mẹ Trong khi đó, đối với người Việt, thường đôi<br />
của mình. Người Pháp không quan niệm phải quá trẻ khi yêu nhau gặp cha mẹ chồng/vợ tương lai<br />
quan tâm đến những vấn đề riêng của anh em, trừ thì xưng là “bác-cháu” (vous-tu). Tuy nhiên, sau<br />
khi người đó sẵn sàng chia sẻ và cần được sẻ chia. khi kết hôn, danh xưng sẽ thay đổi ngay là “bố/<br />
Có vẻ như mối quan hệ này giống mối quan hệ bạn mẹ-con”, hai danh xưng này không khác gì với bố<br />
bè-đồng nghiệp hơn trừ sợi dây liên kết giữa họ là mẹ đẻ.<br />
những cuộc họp mặt gia đình trong những sự kiện<br />
lớn (ngày lễ, đám cưới, đám tang…) Sự thay đổi trong cách xưng hô này vẫn nằm<br />
trong trường tư tưởng có thêm con là có thêm<br />
Như vậy, một lần nữa, ngoài điểm giống nhau phúc. Hơn nữa, cho đến nay, có thể vì lý do kinh<br />
duy nhất là lối xưng hô thân mật (tutoyer) trong tế một phần, nhưng phần lớn là vì sợi dây tình cảm<br />
mối quan hệ anh/chị-em thì giữa hai hình thái gia mà người Việt vẫn có xu hướng ở cùng cha mẹ sau<br />
đình đã có sự khác biệt rất rõ nét. Điều này xuất khi kết hôn. Những đại gia đình tứ đại, tam đại<br />
phát chính từ ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền đồng đường vẫn là niềm tự hào của người Việt.<br />
thống, văn hóa, lối sống của mỗi dân tộc. Người Việt có quan niệm “dâu con, rể khách” có<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 14 - 7/2018 69<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
nghĩa là con dâu mới là con nhà mình vì sau hôn Giữa họ có một sự “dân chủ”, bình đẳng và độc lập<br />
nhân theo lẽ tự nhiên người con gái thường theo đã được mặc định. Vả lại, với một đất nước phát<br />
chồng về ở cùng gia đình chồng, tuân theo nền triển thì gánh nặng kinh tế không phải là quá lớn<br />
nếp, thói quen sinh hoạt và đảm trách mọi công với mỗi gia đình, đặc biệt là với trẻ em và người<br />
việc nhà chồng như một người con trong gia đình già, hai đối tượng được phúc lợi xã hội ưu ái về<br />
đồng thời được yêu thương, chăm sóc như người mọi mặt: giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe. Vì<br />
con gái trong gia đình chồng. Với con rể, họ luôn vậy, quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” gần như<br />
được đón tiếp trọng vọng, chu đáo mỗi khi về nhà không tồn tại. Các cháu một năm có thể chỉ gặp<br />
bố mẹ vợ giống như nhà “có khách” vậy. Đó là vì ông, bà một hai lần vào những ngày lễ hay sự kiện<br />
với mỗi bậc cha mẹ Việt, trách nhiệm với con rồi trọng đại của gia đình, còn lại họ sẽ thể hiện sự<br />
với cháu là trọng trách đi suốt cuộc đời, quan niệm quan tâm bằng cách điện thoại hỏi thăm hay những<br />
mình có tốt với con rể thì con rể sẽ yêu thương, đối hình thức liên lạc tương tự mà không nhất thiết<br />
tốt với con gái mình. Còn với con dâu, mình có coi phải sống cùng nhau. Có lẽ vì vậy mà người Pháp<br />
như con gái thì con mới hòa nhập, yêu thương và không nhất thiết phải phân biệt rõ vì đại từ “tu” là<br />
gắn bó với gia đình nhà chồng. đủ cho mối quan hệ thân thiết, ruột thịt.<br />
<br />
3.5. Sự gắn kết thế hệ qua cách xưng hô 4. KẾT LUẬN<br />
<br />
Có lẽ chỉ trong xã hội của những đất nước Á Ngôn ngữ luôn chứa đựng trong nó những dấu<br />
Đông mới phổ biến cách sống tứ đại, tam đại đồng ấn văn hóa, lối tư duy và nếp sống của cộng đồng<br />
đường. Người Việt có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy sử dụng ngôn ngữ đó. Trong mọi cuộc giao tiếp,<br />
con”, vì vậy khi còn nhỏ, cha mẹ là chỗ dựa chính, dù là bằng ngôn ngữ nào thì với lần đầu tiên gặp<br />
duy nhất, lúc về già, không còn sức khỏe để lao mặt, việc giới thiệu, tự giới thiệu của các cá thể<br />
động và đối mặt với bệnh tật, tuổi già thì con cái là tham gia giao tiếp là hết sức quan trọng để từ đó<br />
chỗ dựa duy nhất. Sau khi kết hôn, khi có đứa con mỗi người xác định được cách xưng hô hợp lý,<br />
đầu tiên, cả đại gia đình hai bên nội/ngoại luôn sẵn tránh rơi vào tình trạng lúng túng, gẫy nhịp và hiện<br />
sàng giúp đỡ, chăm sóc con, cháu. Và sự gắn kết tượng ”sốc văn hóa” trong giao tiếp. Tiếng Việt là<br />
giữa ông bà và cháu lại một lần nữa được thắt chặt. ngôn ngữ khá phức tạp, đặc biệt là sắc thái biểu<br />
Cách sống gần gũi, đầy tình thương nhưng cũng cảm qua ngôn ngữ, mỗi người Việt tự tìm hiểu và<br />
đầy trách nhiệm giữa các thế hệ người Việt được sử dụng hợp lý, hiệu quả các danh xưng và tuân thủ<br />
thể hiện rõ trong mối quan hệ này. những chuẩn mực trong giao tiếp là hết sức quan<br />
trọng. Hiểu biết một ngôn ngữ, chúng ta cần tìm<br />
Đặc trưng của sự gắn kết này được thể hiện hiểu những yếu tố văn hóa ẩn sau mỗi cách dùng<br />
qua cách xưng hô có sự phân biệt rõ ông/bà nội/ từ, diễn ngôn của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó.<br />
ngoại thể hiện sự gần gũi giữa hai thế hệ đồng thời So với tiếng Việt, tiếng Pháp đơn giản hơn trong<br />
thể hiện sự khu biệt rõ ràng với những người họ trường từ liên quan đến cách xưng hô. Ngược lại,<br />
hàng hay hàng xóm ở tuổi ông/bà mà trẻ gặp gỡ, cách biểu đạt tình cảm bằng các danh xưng thân<br />
xưng hô. Những tiếng gọi thân thương này trong mật giữa vợ chồng và cha mẹ con cái lại được diễn<br />
ngôn ngữ Việt thể hiện rất rõ sự gắn bó và vai trò ra hết sức tự nhiên, thường xuyên. Xưng hô và các<br />
của người ông, người bà trong cả tuổi thơ và kể cả danh xưng trong gia đình Việt và gia đình Pháp sẽ<br />
khi trưởng thành của người Việt. còn nhiều nữa những điều thú vị mà trong khuôn<br />
khổ bài viết này chưa thể trình bày và phân tích<br />
Khác biệt với gia đình Việt, hầu hết những sâu. Xuất phát từ những kiến thức ngôn ngữ, trải<br />
người Pháp trưởng thành đều sống khá độc lập với nghiệm thực tế, hy vọng bài viết sẽ bước đầu gợi<br />
cha mẹ sau khi đã trưởng thành. Cha mẹ không mở được những nghiên cứu, trao đổi tiếp theo về<br />
can thiệp nhiều vào đời sống cá nhân của các con. mảng ngôn ngữ đặc biệt này./.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
70 Số 14 - 7/2018<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo: và tiếng Trung, Đại học Ngoại ngữ - Đại học<br />
Huế.<br />
Bùi Hiền, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Văn Gia, Nguyễn<br />
Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt,<br />
Hữu Quỳnh (2001), Từ điển Giáo dục học,<br />
NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.<br />
NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.<br />
Nguyễn Lân Trung (2006), Một số vấn đề về Ngôn<br />
Nguyễn Văn Khang (2013), Ngôn ngữ học xã hội, ngữ học đối chiếu Việt-Pháp, NXB Đại học<br />
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. Quốc gia, Hà Nội.<br />
Lê Hoàng Sang (2014), Đặc điểm ngôn ngữ văn Guilbert, L. (1976), Grand Larousse de la langue<br />
hóa từ xưng hô trong gia đình của Tiếng Việt française , Tome 5, Larousse, Paris.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CULTURAL IMPRINTS IN INTER-FAMILY ADDRESSING IN VIETNAMESE<br />
AND FRENCH FAMILIES<br />
TRINH THI XOAN<br />
Abstract: A family is an original cell of a social life, a primary environment that contributes to<br />
the formation and nurturing character of each family member. Culture behavior in the family in<br />
general and the manner of addressing each other among the family members essentially express<br />
the characteristics of each country and nation. Studying the way family members addressing each<br />
other in Vietnamese and French culture from a linguistic perspective shows interesting similarities<br />
and differences in the conception and behavior of the two nations; thus it help learner to apply<br />
effectively knowledge of language and culture in communicating with the native speakers.<br />
Keywords: intimate name, personal pronouns, family, communication, culture, vocabulary,<br />
system<br />
Received: 08/5/2018; Revised: 30/5/2018; Accepted for publication: 20/6/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 14 - 7/2018 71<br />