intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dạy học lấy người học làm trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông

Chia sẻ: Minh Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

44
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài báo này, các tác giả trình bày một số thách thức, cản trở việc thực hiện quan điểm lấy người học làm trung tâm trong dạy học, đặc biệt trong dạy học khi đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT). Bài báo cũng chỉ ra các giải pháp khắc phục qua những nội dung cần làm cụ thể. Những giải pháp đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ICT trong tương lai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dạy học lấy người học làm trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci. 2012, Vol. 57, No. 4, pp. 32-40 DẠY HỌC LẤY NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Nguyễn Tân Ân Trường Đại học Sư phạm Hà Nội E-mail: nguyentanan@yahoo.com Tóm tắt. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày một số thách thức, cản trở việc thực hiện quan điểm lấy người học làm trung tâm trong dạy học, đặc biệt trong dạy học khi đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT). Bài báo cũng chỉ ra các giải pháp khắc phục qua những nội dung cần làm cụ thể. Những giải pháp đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ICT trong tương lai. Từ khóa: Người học, trung tâm, đào tạo, nhân lực ICT, truyền thông. 1. Mở đầu Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, thầy cô giáo và học trò đánh giá cao quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm (DH NHTT), coi đó là hướng đi đổi mới, cách mạng trong hoạt động dạy và học. Họ cho rằng cần phải quán triệt quan điểm này một cách sâu sắc hơn nữa. Đã có nhiều công trình nghiên cứu lí thuyết, thử nghiệm khẳng định ưu điểm của quan điểm này. Thực tế, việc giảng dạy theo tinh thần lấy người học làm trung tâm cũng đã thể hiện những ưu điểm của nó. DH NHTT rất phù hợp với nền giáo dục hiện hiện đại, khi mà khoa học kĩ thuật đang có những tiến bộ như vũ bão, lượng tri thức tăng rất nhanh theo thời gian. Phương pháp dạy cổ điển chưa chú trọng đến hoạt động của người học đã không còn phù hợp. Thay vào đó, người thầy phải dùng các phương pháp tiến bộ hơn nhằm phát huy cao độ vai trò của người học, tạo điều kiện cho họ có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình đào tạo; biến quá trình dạy dỗ thành quá trình làm người học chủ động tìm kiếm tri thức, nâng cao trình độ và từng bước hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên việc thực hiện quan điểm DH NHTT cũng có nhiều thách thức. Về lí luận có rất nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bàn luận và thống nhất. Trong thực tiễn, tùy từng cấp độ, với từng môn học, bài dạy, “Làm thế nào để thực hiện lấy người học làm trung tâm?” vẫn là câu hỏi khó. Trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực ICT, DH NHTT còn nhiều điểm cần thống nhất. Ngày nay ICT có vai trò quan trọng trong nhiều mặt của đời sống, sự tiến bộ nhanh của Công nghệ Thông tin và Truyền thông đòi hỏi những người làm ICT phải không 32
  2. Dạy học lấy người học làm trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực... ngừng bồi dưỡng chuyên môn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ICT cũng phải không ngừng được đổi mới. Bài báo này nêu một số thách thức, cản trở và các giải pháp khắc phục việc thực hiện DH NHTT, đặc biệt là trong đào tạo nguồn nhân lực ICT, đồng thời chỉ ra những biện pháp để thực hiện quan điểm DH NHTT trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ICT đạt hiệu quả cao hơn. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những thách thức đối với việc thực hiện DH NHTT trong đào tạo nguồn nhân lực ICT 2.1.1. Về nhận thức Thế nào là DH NHTT? Đã có nhiều tác giả bàn về vấn đề này. Hầu hết các tác giả lớn đã coi dạy học lấy người học là trung tâm như một quan điểm, một cách tiếp cận quá trình dạy và học, theo đó quá trình dạy và học phải đặt người học vào vị trí trung tâm, coi người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể của hoạt động dạy - học. Theo quan điểm này, trong quá trình dạy học vai trò và nhu cầu của người học trong hoạt động nhận thức được đề cao; nguời học phải tự giác, hoạt động nhiều hơn. Quá trình đào tạo được chuyển biến tiến gần với quá trình tự đào tạo. Người dạy giữ vai trò chủ đạo dẫn dắt quá trình học tập của người học, giúp họ bồi dưỡng, củng cố động cơ học tập và cung cấp nguồn tri thức đồng thời chỉ cho người học đích cần đạt đến và các phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó; tổ chức các hoạt động học tập theo hướng khơi dậy và phát huy vai trò của người học. Trái với DH NHTT, dạy học lấy người dạy làm trung tâm (DH NDTT) là quan điểm nhấn mạnh vai trò của người dạy và xem nhẹ vai trò người học. Ở đây, người dạy chủ yếu diễn giảng những điều có sẵn trong sách vở. Người thầy nói những điều mình đã học đã biết và học trò chỉ việc nghe, ghi chép lại và học thuộc lòng còn khi thực hành chỉ bắt chước, làm theo. Việc trao đổi qua lại giữa thầy trò chỉ dừng lại ở mức người học hỏi lại cho rõ những điều mình chưa hiểu, không có chuyện học trò thảo luận với thầy và càng không có trường hợp trò đưa ra ý kiến, quan điểm trái với ý kiến, quan điểm của thầy. DH NDTT là quan điểm đã cũ nhưng không phải mọi quan điểm cũ đều là DH NDTT. Vì thế khi bàn về DH NHTT không nên xem nhẹ và bỏ hết những quan điểm đã cũ hoặc cổ điển. Ngược lại những ý tưởng tuy rằng cũ nhưng theo đó mà phát huy tốt vai trò người học vẫn phải được xem xét, kế thừa. Hiện nay trong dạy học nói chung và trong đào tạo nguồn nhân lực ICT nói riêng, nhiều người chưa hiểu đúng thế nào là DH NHTT. Có người cho rằng DH NHTT là một phương pháp dạy học. Như đã nói phải coi đây là một tư tưởng, một quan điểm, một cách tiếp cận đối với quá trình dạy học. Xét về góc độ phương pháp thì có một hệ thống các phương pháp nhằm coi trọng và phát huy vai trò của người học. Tất cả các phương pháp đề cao vai trò chủ động trong hoạt động nhận thức của người học, kích thích hoạt động 33
  3. Nguyễn Tân Ân tích cực của người học hoặc yêu cầu người học phải hoạt động nhiều hơn như phương pháp giảng dạy nêu vấn đề, phương pháp Cémina, phương pháp hội thảo, phương pháp thực hành, phương pháp thí nghiệm, các phương pháp cá thể hóa, chia nhỏ lớp... nếu thực hiện theo tinh thần DH NHTT đều thuộc nhóm này. Không nên đặt ra một phương pháp dạy học có tên là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm. Một số ít người khác khi bàn về DH NHTT lại nhấn mạnh người học một cách quá đáng, coi người học là thống soái, xem nhẹ vai trò của người dạy. Họ cho rằng cần phải chiều theo người học, dạy những cái người học cần chứ không phải dạy những cái người thầy có theo kiểu dịch vụ đào tạo chiều theo ý khách hàng. Thực ra dạy học phải là quá trình hoạt động dưới sự chủ đạo của người thầy. Dạy học lấy người học làm trung tâm cũng không phải là một ngoại lệ. Nội dung, chương trình, phương pháp dạy học, hình thức đánh giá,... đều phải được quyết định bởi hệ thống giáo dục đào tạo và phải được triển khai thông qua các nhà trường và đội ngũ những người giảng dạy. Lấy thầy làm trung tâm hay lấy trò làm trung tâm cũng do người thầy quyết định. Trong DH NHTT vai trò và trách nhiệm của người thầy được nâng lên rất cao chứ không bị xem nhẹ. Đối với lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực ICT, nhu cầu của người học rất đa dạng. Mục tiêu đào tạo của các trường không trùng nhau. Cùng đào tạo trình độ đại học có trường nặng về đào tạo nghề, những môn nặng về lí thuyết bị bỏ. Cán bộ tốt nghiệp ở những trường này dễ xin việc ở các doanh nghiệp nhưng sẽ gặp khó khăn khi thi vào các hệ đào tạo thạc sĩ để học tiếp lên. Có trường đào tạo nặng về hàn lâm, phần thực hành bị xem nhẹ. Cán bộ tốt nghiệp những trường này dễ thi đỗ cao học nhưng khó được các doanh nghiệp chấp nhận. Nhu cầu đa dạng về lí thuyết về thực hành của người học làm cho một chương trình đào tạo cụ thể khó có thể đáp ứng. Tuy nhiên việc dạy cái gì là do hệ thống đào tạo và người thầy quyết định chứ không thể để người học quyết định. Tất nhiên hệ thống đào tạo gồm các chuyên gia, những nhà quản lí giáo dục phải cân nhắc rất kĩ, và phải chú ý thỏa đáng tới nhu cầu của xã hội. Người học chắc chắn sẽ được hỏi ý kiến nhưng không thể quyết định vấn đề này và trong DH NHTT, người học được chú ý tới nhiều hơn, được thể hiện mình nhiều hơn nhưng cần phải đi theo hướng mà người thầy chỉ dẫn. Nhận thức không đúng dẫn đến hành động không đúng. Đã có những nhận thức không đúng của người học và người dạy đã dẫn đến những hậu quả tai hại phản giáo dục. 2.1.2. Về điều kiện hoàn cảnh Hiện nay khi khoa học kỹ thuật nói chung và khoa học ICT nói riêng đang phát triển rất nhanh, lượng thông tin mới mỗi ngày tăng theo hàm mũ. Nhiều người đã dùng từ “bùng nổ thông tin” giống như trong Trí tuệ nhân tạo và một số môn người ta dùng từ “bùng nổ tổ hợp” để nói không gian tìm kiếm lời giải mở rộng rất nhanh, khi đó độ phức tạp tính toán sẽ có cấp độ hàm mũ. Vì thế khối lượng kiến thức cần truyền đạt ngày một nhiều. Những ý kiến cho rằng chương trình đào tạo quá nặng, thời gian đào tạo quá ngắn,... không phải không có căn cứ. Tình hình này rất thích hợp với DH NHTT. Tuy nhiên thực tế áp dụng DH NHTT cũng cho thấy nhiều khó khăn xuất hiện. Qũy thời gian có hạn, nội 34
  4. Dạy học lấy người học làm trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực... dung kiến thức nhiều đòi hỏi hệ thống đào tạo và từng người dạy cụ thể phải hết sức cân nhắc, chọn lựa mục tiêu, chương trình, nội dung và từng bước thực hiện tiến độ sao cho phù hợp. Trong hoàn cảnh đó nhiều thầy phải lo làm sao chạy cho hết chương trình để hoàn thành nhiệm vụ, chưa thể nghĩ nhiều tới việc phát huy vai trò của người học bởi vì chia nhóm, yêu cầu học sinh tìm hiểu, nghiên cứu trước, thảo luận, củng cố, tiến hành thí nghiệm, kiểm thử, ... và những hình thức khác để phát huy vai trò của người học đều cần có thời gian. Những hiện tượng thầy chuẩn bị sẵn các slide chiếu lên bảng, vừa nhàn vừa nhanh và tình trạng thấy chiếu, trò chép xuất hiện cũng một phần do tình hình này mà có. Nhu cầu học tập của người dân mỗi ngày một cao, các lớp học ở vùng đồng bằng và thành phố đều đông. Do số lớp nhiều, học sinh đông, phòng học ít nên rất khó có thể tổ chức cho các lớp hoạt động theo nhóm nhỏ. Trong điều kiện thầy ít, trò đông, trừ một số lớp đặc biệt như lớp chuyên, lớp chọn, lớp luyện đội tuyển, các lớp thạc sĩ hay nghiên cứu sinh, hay các lớp học thêm luyện thi còn lại với các lớp đại trà việc cá biệt hóa trong dạy học là không thể thực hiện. Trang thiết bị còn hạn chế. Phòng học thiếu, máy tính thiếu, mạng máy tính, internet chậm, máy chiếu và các máy móc thiết bị, phần cứng, phần mềm,.. rất ít so với yêu cầu mà còn cũ và lạc hậu, điều kiện để người học tham gia thực hành, thí nghiệm hoặc hoạt động theo nhóm nhỏ là rất khó. Phần mềm đơn giản nhất như Windows, Microsoft Office hiện nay ở hầu hết các phòng thực hành cho các cử nhân Công nghệ Thông tin tương lai, các giáo viên tin học tương lai vẫn là các phiên bản cũ, trong đó ngoài cuộc sống, thông thường khi mua máy mới, trong máy đã có bản quyền Windows 7 và Microsoft office 2010. Phòng máy với nhiều máy xuống cấp mà chưa được thay, phòng thực hành mạng với hệ thống mạng yếu, thử nghiệm tính toán hiệu năng cao với những máy cấu hình không đủ cao,... đều là những khó khăn không thể vượt qua khi muốn mọi người học đều được trải nghiệm, đều được thể hiện mình qua những hoạt động do chính mình thực hiện. Các chương trình thực tập của sinh viên đều rất bị động do nhiều doanh nghiệp ICT không muốn sinh viên đến thực tập. Không có cơ chế nào quy định nhiệm vụ của họ phải tiếp nhận sinh viên thực tập. Hoặc nếu tiếp nhận, nội dung thực tập phải do họ quyết định, sao cho có lợi cho công việc của họ trong giai đoạn cụ thể khi sinh viên đến. Có chương trình đi thực tế bị biến thành chương trình tham quan du lịch. Đoàn sinh viên đi thực tế chỉ cần đi qua cơ sở chuyên môn cần tham quan chiếu lệ để lấy giấy chứng nhận đã đến đó làm chứng từ thanh toán, phần lớn thời gian còn lại buộc phải dành cho việc vãn cảnh ở danh thắng gần đó. Có muốn tham quan sâu hơn về chuyên môn cũng không được. Đời sống giáo viên khó khăn trong khi đó dạy học lấy người học làm trung tâm đòi người dạy phải làm việc tích cực hơn nhiều. Chuẩn bị bài giảng, tìm nguồn tài liệu nhất là các tài liệu mới, phân học sinh thành các nhóm, thiết kế kịch bản cho các giờ dạy,... là những công việc mất rất nhiều thời gian và công sức. Giảng dạy các môn tin học đòi hỏi các thầy cô giáo phải luôn luôn cập nhật thông tin. Kiến thức được đào tạo trước đây nhiều môn đã lạc hậu, kiến thức giảng dạy năm trước không thể giảng dạy cho năm sau,... 35
  5. Nguyễn Tân Ân làm cho thầy cô giáo luôn phải chịu những áp lực trong công việc. Tất cả những cái đó ít nhiều đều cản trở việc thực hiện ý tưởng lấy người học làm trung tâm của người dạy. 2.1.3. Về cách đánh giá và mục đích đánh giá trong giáo dục còn lạc hậu, chạy theo thành tích hình thức Cơ chế đánh giá mặt giảng dạy trong công tác thi đua còn lạc hậu, chỉ chú ý đến việc người giáo viên có hoàn thành nội dung chương trình theo quy định hay không. Cách đánh giá như vậy chỉ khuyến khích những người dạy dựa vào máy chiếu trình chiếu bài giảng để truyền đạt đủ các bài và nội dung từng bài phải giảng. Những kết quả phát huy vai trò của người học mà công sức đầu tư cho nó rất lớn chưa được nhìn nhận và đánh giá thỏa đáng. Kết quả dạy học vẫn chủ yếu dựa vào kết quả điểm số của sinh viên. Đối với học sinh hình thức kiểm tra còn lạc hậu. Các đề bài chỉ nhằm kiểm tra học thuộc, làm theo mà ít kiểm tra khả năng tư duy, tinh thần sáng tạo, tư chất rất riêng của người học. Cách đánh giá hiện nay nặng về kiểm tra bề ngoài chưa đánh giá được bản chất của quá trình dạy học. Cách đánh giá đó tạo ra lớp học sinh học để ứng thí và tạo điều kiện cho bệnh thành tích phát triển. 2.2. Một số giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện DH NHTT trong đào tạo nguồn nhân lực ICT 2.2.1. Xây dựng động cơ thái độ học tập đúng đắn cho người học Để người học chủ động vươn lên trong học tập chủ động vươn lên hoàn thiện bản thân, đáp ứng mọi yêu cầu của cuộc sống, cần phải xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho người học. Động cơ học tập gồm có động cơ bên trong và động cơ bên ngoài. Với động cơ bên trong người học muốn học tập để hoàn thiện bản thân, vươn lên chiếm lĩnh những tầm cao mới của kho tàng tri thức, nhằm đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Họ học để lập thân, lập nghiệp. Với động cơ bên ngoài, người học học để làm vui lòng cha mẹ, thầy cô và làm đẹp thành tích của nhà trường, của dòng họ, của quê hương. Hai loại động cơ này cũng khó có thể tách bạch một cách rạch ròi. Muốn làm vui lòng cha mẹ, họ hàng, bạn bè, nhà trường,... phải hoàn thiện bản thân và hoàn thiện bản thân sẽ làm đẹp lòng cha mẹ, họ hàng, bạn bè, nhà trường,... Nhiều học sinh chỉ học để đạt được những chỉ tiêu làm đẹp truyền thống của nhà trường và làm hài lòng các cấp có quyền cấp giấy khen, cấp giấy chứng nhận. Nếu người học không có động cơ học tập đúng đắn họ sẽ không chủ động học tập và mọi cố gắng để lấy họ làm trung tâm sẽ rất khó thực hiện. Biện pháp thì rất nhiều. Vai trò của ICT trong thời đại của tri thức, xử lí tri thức (chứ không phải xử lí dữ liệu) đang là lĩnh vực rất hiện đại, những thành tựu đáng tự hào của ICT, những tấm gương sáng trong lĩnh vực toán học ứng dụng và ICT, truyền thống của Trường, của Khoa,... là những hỗ trợ rất đắc lực cho việc giáo dục truyền thống, giáo dục lòng yêu nghề, yêu lĩnh vực mà người học cần khát khao nắm vững. Ở đây vai trò của các tổ chức đoàn thể, vai trò của các buổi ngoại khóa, vai trò của các thầy cô giáo thông 36
  6. Dạy học lấy người học làm trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực... qua từng bài dạy,... phải được phát huy. Trong từng bài giảng và toàn bộ giáo trình, từng thầy cô giáo và cả hệ thống đào tạo cần hành động, giảng cho học sinh thật hiểu, thật nắm vững kiến thức, làm chủ tri thức sẵn sàng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của xã hội. Nếu nắm được toàn bộ bức tranh ICT, có khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ chuyên môn, có thể lập thân, lập nghiệp vững vàng nhờ ICT người học sẽ yêu thích ICT, yêu thích công việc học tập và đến với công việc học tập bằng nhu cầu tự thân. Với những đối tượng có động cơ học tập đúng đắn, DH NHTT rất có điều kiện để thực hiện. 2.2.2. Xây dựng, cập nhật mục tiêu đào tạo thường xuyên theo tinh thần DH NHTT Mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra phải thể hiện tinh thần đáp ứng được các yêu cầu của cuộc sống. Người học sau khi tốt nghiệp, dễ hòa nhập ngay vào cuộc sống sôi động biến đổi hàng ngày của ICT. Đối với lĩnh vực ICT mục tiêu đào tạo cũng cần điều chỉnh nhiều hơn. Muốn thế phải có mục tiêu cứng và mục tiêu mềm. Mục tiêu cứng là những mục tiêu về phẩm chất, đạo đức, thái độ. Mục tiêu mềm gồm mục tiêu về năng lực, lĩnh vực. Do sự phát triển nhanh chóng của ICT các mục tiêu này dần phải thay đổi. Ví dụ, hiện nay ở Đại học Sư phạm Hà nội, với mã ngành cử nhân công nghệ thông tin, chỉ đào tạo công nghệ thông tin nói chung. Tương lai chắc sẽ phải tách ra thành nhiều mã ngành nhỏ chẳng hạn như đào tạo chuyên về quản trị mạng, đào tạo chuyên về công nghệ phần mềm,... Với mã ngành đào tạo giáo viên tin học, hiện nay khoa Sư phạm Kĩ thuật đang đề nghị mở mã ngành đào tạo giáo viên dạy nghề tin học. Mã ngành này và mã ngành Sư phạm Tin của khoa Công nghệ thông tin là khác nhau thể hiện sự linh hoạt, đang tách ra theo yêu cầu của xã hội. Mục tiêu đào tạo nhân lực ICT không nên để cố định trong một thời gian dài. 2.2.3. Xây dựng nội dung chương trình phù hợp và mềm dẻo, dễ điều chỉnh theo từng năm Nội dung chương trình phải phù hợp với mục tiêu đào tạo. Tuy nhiên trong từng học phần, tín chỉ phải coi trọng những môn cơ sở, cơ bản đồng thời phải chú ý đúng mức đến những môn có nhiều thực hành. Đảm bảo đủ thời lượng thực hành, thực tế. Phải chú ý đến những môn mới. Phải có cơ chế để dễ bổ sung những môn mới, hiện đại. Ví dụ những vấn đề như điện toán đám mây mấy năm trước ít được nhắc đến thì nay đã trở thành phổ biến. Cần điều chỉnh chương trình, bổ sung kịp thời những nội dung mới để sinh viên không bị bỡ ngỡ với những lĩnh vực như thế. Phải tăng cường các bài tập lớn, bài tập nghiên cứu nhằm buộc sinh viên phải độc lập hoạt động nhiều hơn. Nội dung của các đề tài phải luôn mang những hơi thở của lĩnh vực, cập nhật những vấn đề mới hiện đại của chuyên môn. Về quản lí cần có biện pháp kiểm tra (xây dựng các phần mềm kiểm tra) xem mức độ sao chép của các bài tập lớn, các luận văn, luận án đã quá mức cần kế thừa chưa. 37
  7. Nguyễn Tân Ân 2.2.4. Khuyến khích các phương pháp dạy học theo tinh thần DH NHTT Cần có quan niệm đúng về phương pháp theo tinh thần DH NHTT. Không có phương pháp chung nào cho mọi giờ dạy với tên là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm. Các phương pháp cổ điển và các phương pháp hiện đại được áp dụng đúng lúc, đúng chỗ với liều lượng thích hợp mà phát huy được vai trò của người học, đưa người học vào cuộc, biến quá trình nhận thức thụ động thành quá trình nhận thức chủ động đều được sử dụng. Kịch bản các giờ dạy, các câu hỏi, các bài tập lí thuyết và thực hành đều phải được suy nghĩ, chuẩn bị công phu theo tinh thần lấy người học làm trung tâm. Cần tăng cường các phương pháp mới, các hình thức dạy học mới kể cả dạy học qua mạng, dạy học qua các hệ dạy học được ghi trên đĩa như các hệ chuyên gia giúp người học tự học và tự kiểm tra kiến thức đều phải được huy động tối đa. Cần tăng cường thảo luận, hoạt động theo nhóm. Nghệ thuật điều khiển các buổi thảo luận phải được coi trọng. Tăng cường cho sinh viên tập dượt nghiên cứu khoa học. Những hình thức như tuần khoa học sinh viên, hội nghị khoa học sinh viên cần được duy trì thường xuyên. Các hội nghị trao đổi kinh nghiệm học tập nhằm vinh danh những sinh viên học tốt và chia xẻ những kinh nghiệm học tập cần được duy trì trở lại. Tránh lạm dụng các phương tiện kĩ thuật như máy chiếu, dạy máy chiếu với các bài giảng chuẩn bị đơn giản kém hiệu quả sẽ dẫn đến cách dạy thầy chiếu trò ghi mà nhiều người đang lên án. Người thầy phải làm chủ quá trình dạy học, định hướng đúng, chỉ ra nguồn tài liệu chuẩn trong số rất nhiều nguồn tài liệu, xây dựng từng bước và yêu cầu sinh viên từng bước thực hiện chặt chẽ yêu cầu đó cho đến khi hoàn thành mục tiêu học tập đề ra cho mỗi bài, mỗi chương và cả giáo trình. Trong một số giờ dạy thực hành công nghệ thông tin, người thầy cần theo dõi từng bước hoạt động trên các máy của sinh viên qua mạng nội bộ, đưa ra uốn nắn, hướng dẫn kịp thời các hoạt động đang thực hiện của sinh viên. 2.2.5. Quản lí, sử dụng tốt nguồn tài chính, hỗ trợ các phương tiện kĩ thuật cho các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ICT Để đào tạo nguồn nhân lực ICT có chất lượng, các cơ sở đào tạo cần được trang bị cơ sở vất chất đầy đủ. Phần cứng, phần mềm, tài liệu, mạng không những về số lượng mà còn đảm bảo cả về chất lượng. Cần quản lí tốt các cơ sở vật chất và nguồn tài chính phục vụ cho đào tạo. Phát huy tốt cơ sở vật chất hiện có, nếu cần phải nâng cấp kịp thời các trang thiết bị đã lạc hậu, nếu chúng chưa bị hỏng có thể chuyển mục đích sử dụng. 2.2.6. Chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng Giảng viên là những người đóng vai trò quyết định trong quá trình dạy học. Lấy người học hay người dạy làm trung tâm cũng do giảng viên thực hiện. Vì chất lượng, mức độ kết quả của lấy người học làm trung tâm phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất và trình độ của đội ngũ giảng viên. Do đặc thù chuyên môn nên đội ngũ giảng viên ICT phải không ngừng phấn đấu, thường xuyên cập nhật kiến thức, bắt kịp với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ vì thế cần tạo điều kiện cho họ để họ có thể học tập vươn lên. Có cơ chế, chính 38
  8. Dạy học lấy người học làm trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực... sách để đưa các giảng viên đến các công ty, doanh nghiệp thực tập, nắm bắt được mức độ triển khai các ứng dụng và những nhu cầu hiện tại và tương lai gần của thực tế. Tránh tình trạng để các giảng viên phải dạy quá nhiều không còn thời gian nghiên cứu khoa học, cập nhật kiến thức và chuẩn bị bài giảng một cách kỹ lưỡng theo tinh thần lấy người học làm trung tâm. 2.2.7. Về đổi mới đánh giá Nội dung đánh giá phải cho thấy đánh giá được khả năng toàn diện của người học: Hiểu, nhớ và vận dụng, và vận dụng có sáng tạo. Tránh các hình thức kiểm tra chỉ nhằm đánh giá mức độ thuộc và khả năng bắt chước, làm theo. Nên sử dụng hình thức trắc nghiệm và không lạm dụng hình thức này một cách quá mức. Theo chúng tôi nên kết hợp nhiều hình thức kiểm tra đánh giá để cho điểm cuối cùng. Ví dụ trắc nghiệm với những nội dung cần thiết để kiểm tra hiểu, nhớ và nhận lại, tự luận để kiểm tra kĩ năng tính toán, khả năng diễn đạt. Vấn đáp, hỏi khi thảo luận để kiểm tra sự linh hoạt nhanh nhạy trước những vấn đề mới phát sinh. Nên tăng cường các câu hỏi gắn với những vấn đề đặt ra trong thực tiễn cuộc sống. Chú ý khai thác các máy, các chương trình kiểm tra, qua đó người học có thể tự đánh giá hoặc nhận được kết quả đánh giá khách quan. Nên đưa vào các hình thức đánh giá mềm dựa trên cơ sở của lí thuyết tập mờ, đại số gia tử và các phương pháp tính toán mềm khác. Tránh đánh giá một cách hình thức chỉ dựa trên các con số vô hồn để làm nảy sinh bệnh thành tích, kéo theo kiểu học ứng thí rất bất lợi. 2.2.8. Cần làm tốt công tác dự báo để định hướng cho công tác đào tạo nguồn nhân lực ICT, hút người học đến với các lĩnh vực ICT một cách chủ động Dự báo là công việc rất quan trọng. Dự báo đúng sẽ dẫn đến những quyết sách đúng. Dự báo sai hậu quả sẽ khôn lường. Cần dự báo xu hướng phát triển và tương lai phát triển về lí thuyết và ứng dụng của ICT. Tương lai ICT sẽ phát triển theo hướng nào, ứng dụng để làm thay đổi cuộc sống ra sao. Ví dụ vấn đề bảo mật và an toàn thông tin trong tương lai sẽ quan trọng như thế nào. Nếu không bảo mật tốt thông tin, giữ gìn an toàn cho dữ liệu thì ICT chủ yếu chỉ phục vụ cho giải trí và những công việc không mấy quan trọng. Vấn đề lưu trữ thông tin trên các “đám mây” sẽ ảnh hưởng tới xu hướng phát triển phần cứng như thế nào? Vấn đề tìm kiếm tri thức và khai thác dữ liệu trong các kho dữ liệu khổng lồ một cách hiệu quả đang là nhu cầu cấp thiết sẽ hướng những người làm ICT tập trung nghiên cứu gì? Tóm lại cần phải đoán biết được nhu cầu của tương lai để định hướng quá trình đào tạo hiện nay. Cần dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực ICT trong tương lai hướng về đâu. Số lượng, lĩnh vực và chất lượng? Từ đó mới định ra chiến lược đào tạo hợp lí. Cũng cần nói thêm rằng chính khoa học tính toán sẽ làm cho công tác dự báo ngày 39
  9. Nguyễn Tân Ân một hiệu quả hơn. Ứng dụng ICT trong dự báo cũng là một lĩnh vực đáng quan tâm. Kết quả dự báo cần công bố để thảo luận công khai nhằm định hướng người học và hút người học tự thân tìm đến kiến thức. Đó cũng là việc cần làm để thực hiện DH NHTT. 3. Kết luận DH NHTT là quan điểm đúng đắn. Cần phải hiểu đúng bản chất của DH NHTT. Xem nhẹ vai trò người học, nhấn mạnh quá mức vai trò người học trong DH NHTT đều dẫn đến hậu quả không tốt. Trong đào tạo nguồn nhân lực ICT, DH NHTT tỏ ra thích hợp và thực tế có điều kiện áp dụng nhiều hơn các lĩnh vực khác. Chỉ có đi theo hướng này mới có thể phát huy tối đa vai trò của người học và mới có thể đào tạo những con người thích ứng được với nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nhất là xã hội, khi ICT đang có vai trò quan trọng. Tuy nhiên việc thực hiện DH NHTT trong ICT nói riêng và trong dạy học nói chung còn không ít thách thức. Một số giải pháp đã nêu chắc chắn sẽ là những gợi ý đáng suy nghĩ để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ICT. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Cường, Bernd Meier, 2010. Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông. Dự án phát triển giáo dục THPT Bộ Giáo dục & Đào tạo, LOAN No 1979. [2] Dự án phát triển giáo dục THPT, 2006. Đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của HS THPT. Một số ví dụ cho các môn học. Tài liệu sản phẩm dự án của nhóm chuyên gia PPDH. [3] Trần Bá Hoành, 2003. Dạy học lấy người học làm trung tâm nguồn gốc, bản chất, đặc điểm. Tạp chí Thông tin Khoa học Giáo dục, No. 96, pp. 1-7. [4] Trần Bá Hoành, 2006. Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [5] Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy, 1992. Phương pháp dạy học Toán. Nxb Giáo dục Hà Nội. [6] Lê Khắc Thành, 2008. Phương pháp dạy học chuyên ngành Công nghệ Thông tin. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. ABSTRACT Student-centered teaching in information technology and communications studies In this paper, we present some challenges that hinder student-centered teaching im- plementation, in particular, the teaching of ICT. The article also points out possible so- lutions.We hope that these solutions serve to improve ICT human resource quality in the future. 40
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2