DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ<br />
TS. Nguyễn Thị Tuyết<br />
Khoa Giáo dục đại cương - Trường Đại học Văn Hiến<br />
<br />
<br />
1. Các nguyên lý cơ bản trong đào đạo theo hệ thống tín chỉ<br />
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng<br />
hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ”, và yêu cầu năm 2011 là hạn chót để các trường chuyển<br />
đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Một năm sau đó, ngày 30-9-2008 Thủ tướng chính phủ<br />
đồng thời phê duyệt đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống quốc dân giai đoạn 2008-<br />
2020” với những quy định mới về việc dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục thuộc<br />
hệ thống giáo dục quốc dân. Những điều trên thể hiện rất rõ quyết tâm đổi mới giáo dục,<br />
coi trọng vấn đề chất lượng trong giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết TW2<br />
Khóa VIII đã nhấn mạnh cần đổi mới phương pháp giáo dục-đào tạo, khắc phục lối truyền<br />
thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các<br />
phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện<br />
và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.<br />
Những tư tưởng chỉ đạo nêu trên của Đảng đã nêu rõ nguyên lý cơ bản của việc đào<br />
tạo theo hệ thống tín chỉ. Nguyên lý thứ nhất đó là nguyên lý dân chủ hóa. Nguyên lý này<br />
đã mang lại sự thay đổi rất lớn về quan niệm giáo dục. Đó là không phải người dạy mà<br />
người học có quyền quyết định nội dung đào tạo cho chính họ và quyền tích lũy kiến thức<br />
theo nhu cầu và sở thích của họ. Mục tiêu đào tạo lấy người học làm trung tâm được thể<br />
hiện trong nguyên lý này.<br />
Nguyên lý thứ hai, Nguyên lý đại chúng hóa giáo dục đại học đã tạo cơ hội cho mọi<br />
công dân thực hiện quyền được học suốt đời. Đây là một biện pháp nâng cao trình độ dân<br />
trí để tạo ra một nguồn nhân lực mới có tri thức cao đáp ứng được yêu cầu phát triển của<br />
xã hội, đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế.<br />
Nguyên lý thứ ba là nguyên lý dạy học tích cực. Nội dung trong Nghị quyết TW2<br />
Khóa VIII chỉ ra tầm quan trọng của nguyên lý dạy học tích cực trong đào tạo theo học chế<br />
tín chỉ. Luật Giáo dục nhấn mạnh đổi mới phương pháp giáo dục là phải phát huy tính tích<br />
cực, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của lớp học, môn học, bồi<br />
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động<br />
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho từng học sinh. Nguyên lý dạy học<br />
tích cực được cho là mục tiêu quan trọng của học chế tín chỉ. Theo GS.TSKH. Lâm Quang<br />
Thiệp, “Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn nhập và<br />
xử lý thông tin từ môi trường xung quanh”, “Dạy là việc giúp cho người học tự mình chiếm<br />
lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc tăng cường tình cảm, thái độ.” Dạy và<br />
học là một quá trình của hai hành động song song và có tác động qua lại lẫn nhau.<br />
Tôi xin được trình bày quan điểm của mình về nguyên lý thứ ba thông qua việc đánh<br />
giá, phân tích cách học tiếng Anh của sinh viên, việc dạy tiếng Anh của giảng viên và vài<br />
ý kiến liên quan đến chuẩn đầu ra tiếng Anh, phương pháp dạy học Blended Learning và<br />
lựa chọn giáo trình giảng dạy tiếng Anh.<br />
2. Vị trí, vai trò và trách nhiệm của sinh viên<br />
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương pháp đào tạo tiên tiến. Nó ra đời vào<br />
năm 1872 tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ (the United States Credit System, USCS). Người<br />
học không còn ở vị trí bị động mà là ở vị trí chủ động, là người vận động chính trong quá<br />
trình đào tạo. Điều này đòi hỏi sinh viên phải có khả năng tư duy, suy luận, có kỹ năng tự<br />
học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên dựa trên thực tế ở Việt Nam, sinh viên được chia ra thành<br />
năm nhóm dựa vào tinh thần, thái độ và ý thức trong học tập.<br />
- Nhóm thứ nhất, là nhóm được đánh giá có tinh thần, thái độ học tập độc lập, tự<br />
giác cao. Việc học tập tự giác, có ý thức của sinh viên không chỉ thể hiện ở trên lớp, mà<br />
ngoài giờ học họ còn tự tìm thêm tài liệu, đọc thêm sách báo bằng tiếng Anh, tìm cơ hội<br />
tiếp cận người nước ngoài để nâng cao khả năng ngôn ngữ cho mình. Sinh viên thuộc nhóm<br />
này nếu gặp thầy giỏi, môi trường thuận lợi có thể học cao hơn để trở thành nhà nghiên<br />
cứu.<br />
- Nhóm thứ hai, sinh viên có ý thức rất tốt đối với việc học. Họ tin rằng tinh thần tự<br />
giác trong học tập là điều thực sự cần thiết không những cho việc có được một kết quả học<br />
tập tốt mà còn thuận lợi cho nghề nghiệp tương lai của họ. Động cơ nghề nghiệp sẽ mang<br />
lại nhiều hứng thú học tập cho họ. Sinh viên thuộc nhóm này thường đi học chuyên cần,<br />
làm bài đầy đủ, tích cực tham gia xây dựng bài. Theo họ, môi trường học tập trên lớp thực<br />
sự mang lại hiệu quả cao. Họ học tự giác và thường đạt kết quả cao trong học tập. Kiến<br />
thức tốt có được ở đại học sẽ giúp họ cơ hội vào một vị trí tốt, với lương bổng hậu hĩnh<br />
trong công việc sau này.<br />
- Nhóm thứ ba, sinh viên thiếu tinh thần kỷ luật tự giác. Hành động của họ thiếu<br />
chủ động, không biết tự sắp xếp thời gian một cách hợp lý. Nhóm này thường học qua kinh<br />
nghiệm nhiều hơn là thích ngồi học một cách nghiêm chỉnh trên lớp. Họ hay bỏ học, lười<br />
học và học tùy tiện, chủ quan. Mục đích học của họ chỉ đơn giản là lấy được bằng tốt<br />
nghiệp để đi xin việc. Trên thực tế, sinh viên thuộc nhóm này khá phổ biến. Giảng viên<br />
giảng dạy theo phương pháp kiểu dạy nêu vấn đề với nhóm này thường dễ bị thất bại.<br />
- Nhóm thứ tư, sinh viên thuộc nhóm này thường thích học vẹt. Họ lĩnh hội tri thức<br />
khoa học chỉ bằng con đường thuộc lòng những ý, những câu có sẵn chứ không chịu tìm<br />
tòi, nghiên cứu để tìm ra lôgic của vấn đề. Nhóm sinh viên này bị ảnh hưởng rất nhiều của<br />
lối học theo truyền thống cũ. Sinh viên thuộc nhóm này đi học khá chăm chỉ. Họ ghi chép<br />
và thuộc lòng bài giảng của giảng viên, họ có thể học thuộc các vấn đề viết trong giáo trình.<br />
Họ sẽ được điểm cao nếu như đề thi chỉ đơn thuần mang tính “trả bài”. Họ sẽ gặp lúng<br />
túng, thậm chí bỏ giấy trắng nếu câu hỏi lệch đi hay đề thi mang tính suy luận. Xét về góc<br />
độ nhận thức, hành vi nhớ được xem là cấp độ thấp nhất của quá trình nhận thức, vì đây<br />
chỉ là quá trình tái tạo lại những kiến thức đã ghi nhận một cách máy móc.<br />
- Nhóm thứ năm, sinh viên thuộc nhóm này bị đánh giá là có lòng tự trọng thấp. Họ<br />
luôn ỷ lại, không muốn tự làm bài mà chỉ thích chờ người khác làm xong là chép và thuộc<br />
lòng. Họ thường mang tài liệu vào phòng thi và copy bài của người khác mà không cảm<br />
thấy áy náy. Nhóm sinh viên này chỉ biết dùng giáo trình và tài liệu do giáo viên cung cấp.<br />
Họ hầu như không tự học tập, nghiên cứu thêm.<br />
Nói tóm lại, để biến đổi mình, sinh viên phải hiểu học là lĩnh hội tri thức mang tính<br />
độc lập trí tuệ cao. Giáo trình hay, thầy giỏi chưa đủ, họ phải biết củng cố, mở rộng tri thức<br />
bằng việc tự nghiên cứu, đọc thêm nhiều sách báo để tìm hiểu sâu vấn đề. Sinh viên còn<br />
phải tập kỹ năng phân tích, tổng hợp vấn đề, chuyển hóa thành tri thức của mình và biết áp<br />
dụng nó vào thực tiễn.<br />
Qua phân tích năm nhóm sinh viên trên, ta thấy rõ học tập thành công hay không<br />
phụ thuộc vào hành vi, trách nhiệm của chính sinh viên. Điều này hoàn toàn đúng theo quan<br />
điểm của triết học là “Sự vật muốn phát triển phải tự thân vận động”. Và đây cũng là mục<br />
đích mà dạy học theo hệ thống tín chỉ hướng tới.<br />
3. Vị trí, vai trò, trách nhiệm người thầy<br />
Đào tạo đại học, cao đẳng theo hệ thống tín chỉ là một cuộc cách mạng lớn. Nó đã<br />
đảo ngược vị trí, vai trò và trách nhiệm của trò và thầy. Trước đây giảng viên chỉ dùng lời<br />
nói của mình để truyền đạt cho sinh viên một khối lượng kiến thức một cách thụ động, máy<br />
móc. Vai trò của thầy ở vị trí số một. Không thầy đố mày làm nên. Cách dạy này gọi là kiểu<br />
phương pháp dạy thông báo. Trên thực tế còn rất nhiều giảng viên dùng phương pháp này.<br />
Tệ hơn nữa, họ còn đưa thêm phần ngữ pháp, phần phát âm… bên ngoài để giảng giải<br />
thêm. Như vậy giờ học tiếng Anh đáng lý ra phải là giờ rèn luyện bốn kỹ năng đã trở thành<br />
giờ giảng lý thuyết. Tài liệu, giáo trình giảng dạy tiếng Anh ở các trường đại học, cao đẳng<br />
đa phần là sách nước ngoài. Đây là điều hết sức thuận lợi. Qua giảng dạy, nghiên cứu tôi<br />
nhận thấy các tác giả đều là những nhà chuyên môn và nhà sư phạm giỏi. Vấn đề họ đưa<br />
ra có logic từ câu đầu đến câu cuối của từng bài, từng chương. Mọi mục tiêu của tác giả<br />
đều phải thông qua bốn kỹ năng. Nếu sinh viên được giảng viên hướng dẫn, gợi mở, tiếp<br />
cận nội dung một cách tự nhiên theo kiểu dạy học nêu vấn đề, sinh viên sẽ mạnh dạn, tự<br />
tin, chủ động, tránh việc chỉ ngồi nghe, lười biếng trong suy nghĩ. Theo Albert Einstein<br />
“Việc đánh giá giá trị đào tạo và giáo dục ở một trường đại học và cao đẳng không phải<br />
chỉ là ở đây học được cái gì về mặt kỹ thuật hay nghề nghiệp mà còn là được huấn luyện<br />
cách tư duy mà không thể học được từ sách vở”.<br />
Điểm khác cơ bản của đào tạo theo hệ thống tín chỉ so với đào tạo theo niên chế là<br />
thay đổi phương pháp dạy học. Nếu như người dạy không thay đổi quan niệm đào tạo mới<br />
này, họ sẽ rất lúng túng vì không thể giảng giải khối lượng kiến thức trong 45 tiết thay vì<br />
180 tiết như trước kia. Họ sẽ tìm cách cắt giảm nội dung chương trình, phần còn lại giao<br />
sinh viên tự nghiên cứu. Với sĩ số sinh viên đông như hiện nay thì việc kiểm tra bài làm<br />
ngoài giờ học đối với thầy là công việc không dễ dàng. Làm vậy thì việc đào tạo theo hệ<br />
thống tín chỉ chỉ là hình thức, kiểu bình mới rượu cũ. Giờ làm việc trên lớp bị giảm xuống<br />
không đồng nghĩa với việc cắt giảm chương trình. Người dạy phải thiết kế đề cương chi<br />
tiết môn học, tuân thủ nó để nội dung giảng dạy đạt được mục tiêu như đã đề ra. Người dạy<br />
phải chủ động, tích cực nghiên cứu khoa học, tham gia các hội thảo khoa học để không<br />
ngừng cập nhật thông tin mới liên quan đến vấn đề mình giảng dạy và để có cơ hội học<br />
hỏi, tiếp thu được những phương pháp giảng dạy mới.<br />
Người thầy bên cạnh việc giỏi về chuyên môn, họ còn phải có kỹ năng sư phạm.<br />
Thầy phải biết lắng nghe, biết khuyến khích, quan tâm đến từng thành phần sinh viên khác<br />
nhau. Thầy phải rất công bằng trong đánh giá sinh viên. Thầy phải có nghệ thuật truyền<br />
đạt kiến thức sao cho phát huy được tính tích cực, độc lập, chủ động của sinh viên, giúp họ<br />
dần làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, biết cách học kiểu đại học.<br />
4. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên<br />
Việc đánh giá năng lực ngoại ngữ của người học trước kia dựa vào các kỳ thi lấy<br />
chứng chỉ A,B,C. Ngày nay, trước sự phát triển xã hội và toàn cầu hóa, Bộ Giáo dục và<br />
Đào tạo đã đề nghị dùng khung tham chiếu trình độ ngoại ngữ chung châu Âu CEFR<br />
(Common European Framework of Reference for Languages: Teaching, Learning &<br />
Assessment) làm hệ thống tiêu chuẩn và quy chiếu trong việc đào tạo, học tập và đánh giá<br />
ngoại ngữ. Khung trình độ năng lực ngoại ngữ gồm 6 bậc. Mỗi bậc tương thích với các bậc<br />
trình độ ngoại ngữ quốc tế. Do vậy việc thi lấy chứng chỉ TOEIC của IIG (Tổ chức Khảo<br />
thí và Kiểm định chất lượng quốc tế) người học được công nhận có chứng chỉ tiếng Anh<br />
quốc tế.<br />
Việc đánh giá kết quả học tập môn tiếng Anh được thực hiện qua quyết định chuẩn<br />
đầu ra của Ban giám hiệu. Cụ thể, đầu ra tiếng Anh của ngoại ngữ không chuyên hệ cao<br />
đẳng là 350 điểm TOEIC, tương đương với khung A2, với hệ đại học chuẩn đầu ra là 450<br />
điểm TOEIC, tương đương B1. Việc cấp chứng chỉ tiếng Anh quốc tế cho sinh viên khi ra<br />
trường sẽ nói lên uy tín, chất lượng của cơ sở đào tạo.<br />
Để có chuẩn đầu ra đạt chuẩn quốc tế, người dạy ngoài đòi hỏi phải thích ứng với<br />
phương pháp giảng dạy mới, còn phải thiết kế được chương trình đào tạo và lựa chọn giáo<br />
trình nước ngoài được biên soạn trên cơ sở dùng CEF như một công cụ tham chiếu.<br />
5. Dạy và học tiếng Anh theo phương pháp Blended Learning<br />
Dạy và học theo hệ thống tín chỉ rất thích hợp trong thời đại công nghệ thông tin<br />
đang được sử dụng rộng rãi. Không phải ngẫu nhiên và tùy tiện khi thời gian dành cho các<br />
môn học nói chung và tiếng Anh nói riêng chỉ còn 45 tiết, tức 3 tín chỉ. Người học một giờ<br />
học trên lớp phải học ở nhà hai giờ mới có được kết quả học tập khả quan. Người dạy phải<br />
làm việc với người học cả trên lớp và cả ngoài giờ học. Như vậy có nghĩa là phương pháp<br />
dạy học theo hệ thống tín chỉ người thầy yêu cầu người thầy ngoài làm việc trực tiếp trên<br />
lớp với người học kiểu “face to face”, còn phải quản lý người học trực tuyến-online mà ta<br />
hiểu đó là dạy theo phương pháp E-learning. Với E-learning, sinh viên có thể dễ dàng tương<br />
tác với thầy ngoài giờ học, giảng viên có thể thường xuyên kiểm tra, đánh giá các bài làm<br />
ở nhà của sinh viên qua online. Sự kết hợp đồng thời của hai phương pháp “face to face”<br />
và “E-learning” được gọi là phương pháp “Blended learning”, được hiểu đây là phương<br />
pháp dạy học hỗn hợp hay phương pháp tích hợp. “Blended learning” rất phù hợp với việc<br />
dạy học theo hệ thống tín chỉ. Nó làm thay đổi tư duy và thói quen lâu nay của người dạy<br />
và người học. Nó làm thay đổi cách dạy đơn thuần thông báo, cách học vẹt, thụ động mà<br />
ngược lại, nó làm thay đổi quan niệm của người dạy và tăng tính tự tin, tự giác, có ý thức<br />
của người học. Để đạt mục tiêu đào tạo, vấn đề phương pháp giảng dạy, giáo trình, chuẩn<br />
đầu ra phải được kết hợp song song, đồng bộ và chặt chẽ, khoa học. Cụ thể:<br />
- Hãy lựa chọn giáo trình nước ngoài đã được biên soạn dựa theo khung CEF. Hiện<br />
nay ngoài bìa các loại sách dùng giảng dạy tiếng Anh của các nhà xuất bản Longman,<br />
Oxfort, Cambridge, McGraw-Hill… thường ghi rõ ký hiệu khung CEFR A1, A2, B1, B2<br />
hay C1, C2.<br />
- Lựa chọn giáo trình có dùng phương pháp “Blended Learning”<br />
- Không nên dùng sách luyện thi TOEIC với tư cách là giáo trình giảng dạy. TOEIC<br />
viết tắt của Test of English for International Communication. Đó là một bài thi lấy chứng<br />
chỉ Anh văn giao tiếp quốc tế chứ không phải là một môn học. Muốn thi TOEIC đạt điểm<br />
theo ý muốn, sinh viên ngoài việc học giáo trình và sử dụng thêm tài liệu liên quan đến<br />
phát triển 4 kỹ năng ngôn ngữ, phải tiếp cận với các giáo trình Business English. Các bộ<br />
giáo trình này giúp sinh viên hiểu biết và xử lý các tình huống trong giao tiếp quốc tế.<br />
6. Kết luận<br />
Việc đào tạo theo học chế tín chỉ là quá trình đào tạo tiến tiến đem lại rất nhiều lợi<br />
ích cho người học. Với cách đào tạo mới này, tất cả mọi người đều có thể chủ động học<br />
tập theo năng lực, điều kiện của mình và hơn nữa, năng lực tự nghiên cứu của người học<br />
được phát huy tối đa. Việc nắm vững chuyên môn và giao tiếp tiếng Anh lưu loát sẽ giúp<br />
sinh viên khi ra trường có đủ điều kiện cạnh tranh khi xin việc và trở thành nguồn nhân lực<br />
chất lượng cao, đủ sức đáp ứng sự phát triển của xã hội và toàn cầu hóa.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. All scales CEFR.DOC<br />
2. Framework_en.pdf<br />
3. Quyết định số: 51 /QĐ-ĐHQG-ĐH&SĐH<br />
4. Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT ngày 28/02/2011 của Bộ GDĐT ban hành Quy chế<br />
đào tạo trình độ thạc sĩ<br />