intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề bài học kỳ: Phân tích các quy định về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước; tìm hiểu thực trạng năm 2015 và đề xuất pháp lý nhằm thực hiện tốt việc minh bạch hoạt động ngân sách nhà nước

Chia sẻ: Ngu Ngu Lu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:13

109
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề bài học kỳ "Phân tích các quy định về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước; tìm hiểu thực trạng năm 2015 và đề xuất pháp lý nhằm thực hiện tốt việc minh bạch hoạt động ngân sách nhà nước" được nghiên cứu với các nội dung: Khái quát về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước, thực trạng về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước trong năm 2015, đề xuất về việc thực hiện việc minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề bài học kỳ: Phân tích các quy định về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước; tìm hiểu thực trạng năm 2015 và đề xuất pháp lý nhằm thực hiện tốt việc minh bạch hoạt động ngân sách nhà nước

  1.  LỜI MỞ ĐẦU      Từ lâu, hệ thống chính sách công nói chung và chính sách công tài nói riêng đã được   quan niệm và sử dụng như là công cụ quan trọng để  nhà nước thực hiện các chức năng   kinh tế, xã hội của mình. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị  trường định hướng  xã hội chủ  nghĩa ở  nước ta, ngân sách nhà nước không chỉ  đảm bảo điều kiện vật chất   để thực hiện các chức năng của nhà nước mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô đối với nền  kinh tế, có tác động đối với sự  vận động của xã hội đi theo định hướng phù hợp với  chính sách của nhà nước. Các hoạt động ngân sách nhà nước luôn có phạm vi tác động  rộng lớn, liên quan đến tất cả các cấp, ngành. Chính vì vậy, minh bạch trong hoạt động   ngân sách là vấn đề  được toàn thể  xã hội quan tâm. Đặc biệt hơn trong bối cảnh nhà  nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới cải cách hành chính, chú trọng đến  việc phát huy tính chủ  động, tích cực tham gia của người dân trong việc đóng góp, xây   dựng đất nước thì yêu cầu về  minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước càng trở  nên quan trọng. Nhận thức được điều đó, em đã lựa chọn đề bài học kỳ:  “Phân tích các   quy định về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước; tìm hiểu thực   trạng năm 2015 và đề  xuất pháp lý nhằm thực hiện tốt việc minh bạch hoạt động   ngân sách nhà nước” NỘI DUNG I. Khái quát về vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước a. Khái niệm      ­ Ngân sách nhà nước:         Với vai trò là một tổ  chức đại diện cho người diện thực hiện các công việc ngoại  giao, an ninh – quốc phòng, kinh tế, giáo dục,… nhà nước cần có những khoản tài chính,  một quỹ tiền tệ tập trung để  có thể  tạo lập, duy trì bộ  máy của mình. Trên cơ sở sự  ra  đời, tồn tại, phát triển của nhà nước, sự  ra đời, tồn tại, phát triển của ngân sách nhà  nước là tất yếu, khách quan.       Theo các tài liệu nghiên cứu hệ thống về ngân sách, khái niệm “ngân sách nhà nước”   bắt đầu  hình thành đầu tiên  ở  nước Anh, sau đó được sử  dụng rộng rãi  ở  Pháp, với ý   nghĩa chỉ “túi tiền” của người thủ quỹ ngân khố. Theo đó, tất cả  những khoản thu – chi  mang tính chất “công” đều thuộc về  nhà nước, do nhà nước thực hiện và được gọi là   “ngân sách nhà nước”. Ngày nay, thuật ngừ “ngân sách nhà nước” được sử dụng rộng rãi  không chỉ trong các diễn đàn khoa học mà cả trong đời sống thực tiễn, với ngụ ý đề cao   ý thức chính trị  của dân chúng trong việc đóng thuế  cho quốc gia để  góp phần chia sẻ  gánh nặng chi tiêu với chính phủ; đồng thời, nhằm phân biệt giữa ngân sách của nhà  nước với ngân sách của hộ  gia đình, cá nhân và ngân sách của các tổ  chức, đoàn thể  xã  hội.          Trong cuốn “Tài chính công”, Philip E.Taylor đã đưa ra định nghĩa: “Ngân sách là   chương trình tài chính chính yếu của Chính phủ. Tài liệu này tạp trung các dự liệu thu và   chi trong khoảng thời gian của tài khóa, bao hàm các chương trình hoạt động phải hoạt   động phải thực hiện và các phương tiện tài trợ các hoạt động ấy.  1
  2.      Ngân sách nhà nước, trước hết là một khái niệm thuộc phạm trù kinh tế học hay hẹp   hơn là tài chính học. Xét từ góc độ này, ngân sách nhà nước được hiểu là bản dự toán các  khoản thu chi tiền tệ  của một quốc gia, được cơ  quan có thẩm quyền của nhà nước   quyết định để thực hiện trong một thời hạn nhất định, thường là một năm.      Trong khoa học pháp lý, khác với quan niệm về ngân sách nhà nước của các nhà kinh  tế, các nhà luật học lại quan niệm ngân sách nhà nước là một đạo luật đặc biệt do Quốc   hộ  ban hành để  cho phép Chính phủ thực hiện trong một thời hạn nhất định. Ngân sách  nhà nước là một đạo luật, bởi lẽ, nó được quyết định, phê chuẩn bởi cơ  quan lập pháp   theo một trình tự  luật định và có hiệu lực như  một văn bản pháp luật. Trong pháp luật   thực định nước ta, khái niệm ngân sách nhà nước được đề cập tại Điều 1 luật Ngân sách   nhà nước năm 2002: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ  các khoản thu, chi của nhà nước  trong dự  toán đã được cơ  quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định và được thực   hiện trong một năm để  bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ  của Nhà nước.”   Ngoài ra, tại khoản 14 Điều 4 luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (có hiệu lực từ  năm   ngân sách 2017), ngân sách nhà nước được định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ  các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian   nhất định do cơ  quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để  bảo đảm thực hiện các  chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.      ­ Minh bạch hoạt động ngân sách nhà nước:       Trước tiên, để hiểu về khái niệm minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước, ta  cần phải hiểu thuật ngữ “minh bạch”. Minh bạch là từ Hán – Việt, được ghép từ minh ­   sáng và bạch ­ trắng. Theo từ điển tiếng Việt, minh bạch là “rõ ràng, rành mạch”. Trong   hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và hoạt động ngân sách nhà nước nói riêng,   minh bạch nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất,   không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin.        Minh bạch là một trong những yếu tố quan trọng để khẳng định sự lành mạnh của cả  thể chế lẫn xã hội: Chúng ta đang sống trong thời đại mà khái niệm dân chủ được xem   như  một đặc tính chính trị. Trong việc tạo dựng một chính phủ  con người quản lý con  người, khó khăn lớn nằm  ở  chỗ  trước hết phải bảo đảm chính phủ  kiểm soát được   những người phải quản lý và tiếp theo bảo đảm chính phủ  phải kiểm soát được chính  bản thân mình. Vì vậy, một nền dân chủ  thực sự  chỉ  có khi quyền lực nhà nước được  kiểm soát, hạn chế bởi những thiết chế dân chủ, người dân được tham gia vào các quá  trình xã hội. Để  hạn chế  quyền lực nhà nước, các quốc gia áp dụng và thực thi những  phương thức hạn chế quyền lực nhà nước từ bên trong như Hiến pháp và hệ thống luật   pháp, tổ  chức bộ  máy theo các hình thức phân quyền và cơ  chế  kiềm chế, đối trọng  quyền lực khác nhau. Trong  đó, công khai, minh bạch  được coi là một trong những  phương thức hạn chế quyền lực nhà nước từ bên ngoài. Theo đó, nhà nước với tư cách là  chủ thể của quyền lực công phải công khai, minh bạch hoạt động của mình với toàn thể  xã hội và công chúng.        Minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước là một đòi hỏi tự  nhiên. Ngân sách  nhà nước được tạo lập chủ  yếu do người dân. Vì vậy, người dân có quyền được biết  nhà nước sử dụng tiền do mình đóng góp vào những công việc gì, có đúng theo luật định   hay không. Nếu như các hoạt động ngân sách rơi vào tình trạng kém minh bạch và trách   nhiệm giải trình không đầy đủ  sẽ  khiến cho Chính phủ  gặp phải những phản  ứng của   người dân trước mỗi đề  nghị cải cách thuế cũng như  mỗi khi đề xuất các dự án đầu tư  2
  3. có sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Còn nếu người dân nhìn thấy những đồng thuế mà   họ nộp cho nhà nước được chi tiêu một cách có trách nhiệm và hiệu quả thì có lẽ họ đã   không phản  ứng, đôi khi, đến mức cực đoan. Không những vậy, sự   ủng hộ  của người   dân còn là tiền đề quan trọng cho sự thành công trong các chính sách chi tiêu của Chính   phủ cũng như cho mọi cải cách.      Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, yêu cầu minh bạch lại càng cấp thiết, chúng ta   hội nhập càng sâu càng phải minh bạch. Càng ngày, sự  chú ý của thế  giới đối với tính   minh bạch của xã hội chúng ta sẽ càng ngày càng sâu dần, càng chuyên nghiệp dần. Các   nhà đầu tư cần thiết xem xét tính minh bạch của hoạt động ngân sách của ta, để qua đó  có thể đánh giá, quản lý rủi ro mang lại cho khoản đầu tư của họ vào nước ta.       Tóm lại, vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước là rất quan trọng, đòi   hỏi phải có sự xem xét, đánh giá, quan tâm ở một mức độ sâu rộng; cần thiết phải được  coi là chuẩn mực, yêu cầu của hoạt đông ngân sách nhà nước. b. Các quy định pháp luật về công khai, minh bạch trong hoạt động ngân sách   nhà nước      Hiến pháp 2013:       Minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước là một vấn đề  rất quan trọng,  ảnh   hưởng lớn đến tính hiệu quả của ngân sách nhà nước. Nó đã được luật hóa thành những  nguyên tắc cơ bản của việc thực thi ngân sách nhà nước . Khoản 1 Điều 55, Hiến pháp   2013 quy định:  “Ngân sách nhà nước, dự  trữ  quốc gia, quỹ  tài chính nhà nước và các   nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu   quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.” Điều khoản về  tài chính công  này là một điều khoản mới được bổ  sung vào Hiến pháp 2013. Việc yêu cầu về  tính   minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước được   Hiến pháp – bộ luật căn bản của  hệ thống pháp lý quy định cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này. Điều này sẽ là tiền   đề để vấn đề minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước được quy định cặn kẽ, sâu  rộng hơn trong hệ thống pháp luật nước ta.  Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 và luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (có   hiệu lục thi hành từ năm ngân sách 2017):      Tại Điều 3, luật Ngân sách năm 2002 quy định: “ Ngân sách nhà nước được quản lý  thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân   cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.” Ta thấy rằng nguyên tắc công khai minh   bạch là nguyên tắc có tính chi phối và ngự  trị  trong tất cả  các hoạt động về  ngân sách   nhà nước. Minh bạch cần được thể hiện ở tất cả các khâu của hoạt động ngân sách nhà   nước như: lập dự toán thu – chi; chi ngân sách hàng năm; phê duyệt dự toán; quyết toán  ngân sách; chế  độ  về  kiểm toán và công tác thanh tra. Nhà nước sử  dụng quyền lực do  người dân trao cho để dùng ngân sách do người dân đóng góp để thực hiện nhiệm vụ của   mình thì cần phải có trách nhiệm đối với những những việc làm thuộc quyền hạn của   mình. Khi các hoạt động ngân sách nhà nước được đảm bảo minh bạch sẽ  làm giảm   thiểu tình trạng tham những, hiệu quả  của việc sử  dụng ngân sách sẽ  được nâng cao,   góp phần phát triển đất nước. Tuy nhiên, một điều có thể  nhận thấy  ở  luật Ngân sách   năm 2002 và các văn bản hướng dẫn chưa quy định rõ nghĩa vụ giải trình, nội dung, hình  thức giải trình và trách nhiệm của các bên liên quan trong thực hiện nghĩa vụ giải trình.   Hiện nay, nghĩa vụ giải trình thường được thực hiện bằng hình thức chất vấn và trả lời   3
  4. chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc bằng văn bản là những   báo cáo của các cơ quan cấp dưới báo cáo cấp trên về số liệu thu – chi ngân sách nhưng  lại không có những giải trình kèm theo về kết quả thu được từ các hoạt động ngân sách   đó. Điều này gây nên những hạn chế trong việc công khai, minh bạch các hoạt động ngân  sách nhà nước, tạo điều kiện cho những mập mờ trong thu – chi hoặc những nhân tố của  hoạt động sử  dụng ngân sách (nhà thầu, nhà cung cấp hàng hóa – dịch vụ,…). Một hạn   chế nữa của luật Ngân sách năm 2002 có ảnh hưởng không tốt đến việc minh bạch hoạt   động ngân sách nhà nước đó là chưa có quy định rõ về sự tham gia trực tiếp của người   dân và các tổ chức chính trị ­ xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong các hoạt động   kiểm   tra,   giám   sát   các   vấn   đề   liên   quan   đến   ngân   sách   nhà   nước.   Thông   tư   số  21/2005/TT­BTC ngày 22/03/2005 của Bộ  Tài chính có ghi nhận: “…Mặt trận Tổ quốc   Việt Nam, tổ chức chính trị ­ xã hội, các tổ chức đoàn thể trong cơ quan, đơn vị và nhân   dân chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện công khai tài chính của các cơ   quan, đơn vị” và tại Thông tư  số  10/2005/TT­BTC ngày 02/02/2015 của Bộ  Tài chính   cũng ghi nhận việc giám sát công khai tài chính của người dân và các tổ  chức đại diện.  Tuy nhiên, việc thực hiện quyền giám sát hoạt động công khai, minh bạch trên thực tế  gặp rất nhiều khó khăn do những hạn chế nhất định như thiếu cơ chế thi hành, chưa có   biện pháp xử phạt khi xảy ra vi phạm. Bên cạnh đó, các quy định về chất vấn và trả lời   chất vấn trong các quy định của pháp luật vẫn còn hết sức chung chung khiến quá trình  giám sát gặp nhiều khó khăn.      Ngày 25/06/2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua luật ngân sách   năm 2015 (có hiệu lực từ năm ngân sách 2017). Trong luật sửa đổi này, vấn đề minh bạch   trong hoạt động ngân sách nhà nước được quy định tại  Khoản 1, Điều 8: “Ngân sách nhà  nước được quản lý thống nhất, tập trung dân chủ, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh   bạch, công bằng; có phân công, phân cấp quản lý; gắn quyền hạn với trách nhiệm của  cơ quan quản lý nhà nước các cấp.” Như vậy, minh bạch vẫn là một nguyên tắc cơ bản,  quan trong của các hoạt động ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, ta thấy có sự  thay đổi   khi quy định rõ hơn “gắn quyền hạn với trách nhiệm của cơ  quan quản lý nhà nước”.   Điều này đã quy định trực tiếp chính các cơ quan quản lý nhà nước các cấp phải có trách  nhiệm đối với hoạt động liên quan đến ngân sách nhà nước chứ không còn chung chung  như luật ngân sách nhà nước năm 2002. Ta thấy rằng hoạt động ngân sách nhà nước luôn   có một bên chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì vậy, việc bổ sung chi tiết  hơn này là hợp lý. Tuy nhiên ở cả hai luật Ngân sách nhà nước năm 2002 và năm 2015, dù  đã quy định về công khai ngân sách nhưng lại chưa quy định rõ công tác đánh giá và trách   nhiệm giải trình các số  liệu công khai của các bên liên quan, khiến cho việc công khai   hoạt động ngân sách nhà nước trở nên hình thức mà chưa chắc đã minh bạch.        Một trong những yêu cầu quan trọng của việc minh bạch, công khai ngân sách nhà   nước. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015   đã có rất nhiều bổ  sung, sửa đổi về  hoạt  động  công khai ngân sách nhà nước; trong đó, có các quy định về  đối tượng, nội dung,   cách thức và trách nhiệm công khai. So với luật Ngân sách nhà nước năm 2002, những   quy định về  công khai trong luật năm 2015 đã được quy định đầy đủ, chi tiết hơn. Luật   năm 2015 không chỉ quy định việc công khai trong dự toán, quyết toán, kiểm toán ở  các  cấp ngân sách mà còn yêu cầu công khai cả giai đoạn chấp hành dự toán, trong quy trình   thủ  tục kê khai, thu nộp, gia hạn các khoản thu, tạm  ứng và thanh toán ngân sách và bổ  sưng quy định về  báo cáo giải trình, thuyết minh kèm theo các tài liệu, thông tin ngân  sách nhà nước được công khai. Ví dụ, việc công khai minh bạch được nhấn mạnh tại   điều   15  “Công   khai   ngân   sách   nhà   nước   và   giám   sát   ngân   sách   nhà   nước   của   cộng  đồng”. Điều 15 thể  hiện khá đầy đủ  các yêu cầu về  nội dung công khai, phạm vi công  4
  5. khai, hình thức công khai và  trách nhiệm phải thực hiện công khai. Điều này chứng tỏ  được tầm quan trọng của nguyên tắc này trong các toàn bộ  các khâu của quy trình ngân  sách, bao gồm cả  lập dự toán và chấp hành dự  toán, cũng như trong kiểm tra, thanh tra,   giám sát việc chấp hành ngân sách của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.      Việc thực hiện công khai, minh bạch ngân sách nhà nước hiện nay được thực hiện   theo Thông tư  Số: 03/2005/TT­BTC   của Bộ  Tài Chính ngày 06 tháng 01 năm 2005 về  Hướng dẫn thực hiện quy chế công khai tài chính đối với các cấp ngân sách nhà nước và   chế độ báo cáo tình hình thực hiện công khai tài chính. Theo đó, việc thực hiện công khai  tài chính được áp dụng đối với các chủ thể sau:  các cấp ngân sách nhà nước, các đơn vị   dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, các dự  án đầu tư  xây   dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ   có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ có nguồn từ  các khoản đóng góp của nhân   dân. Hình thức công khai gồm có: công bố trong các kỳ họp thường niên của cơ quan, tổ   chức, đơn vị, phát hành  ấn phẩm; niêm yết công khai, thông báo bằng văn bản; đưa lên   trang thông tin điện tử; chất vấn và trả  lời chất vấn về công khai tài chính. Về chế  độ  giám sát, ngoài các cơ quan chức năng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị ­ xã hội,   các tổ  chức đoàn thể  và nhân dân cũng được tham gia giám sát thực hiện công  khai tài  chính.      Công khai, minh bạch ngân sách nhà nước là điều kiện cần để nâng cao hiệu quả của  ngân sách nhà nước và tăng cường khả  năng giám sát của cộng đồng và giảm lãng phí,   kém hiệu quả  do sự  tuỳ  tiện, thiếu trách nhiệm của các đơn vị  sử  dụng ngân sách gây   ra. Vì vậy, các quy định về  công khai, minh bạch và giám sát ngân sách nhà nước cần   thiết phải được  cụ thể hơn nữa, tránh tùy tiện và thực thi không đồng nhất giữa các địa  phương, các đơn vị lập và sử dụng ngân sách, và như vậy sẽ làm giảm hiệu lực của cơ  quan giám sát..  Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012:        Theo kết quả  đánh giá của Tổ  chức Minh bạch quốc tế  (TI) công bố, chỉ  số  cảm   nhận tham nhũng CPI của Việt Nam khá thấp (31/100 điểm, xếp thứ  19/175 – số  liệu   năm 2014). Tham nhũng nhiều khiến cho ngân sách nhà nước bị thâm hụt, ảnh hưởng đến  chất lượng, năng suất của các hoạt động sử  dụng ngân sách. Phòng chống tham nhũng  cũng là một trong những cách thức tăng minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước.  Vì vậy, ngoài quy định tại luật Ngân sách nhà nước, vấn đề  minh bạch trong ngân sách  nhà nước còn được đưa vào luật Phòng, chống tham nhũng 2012. Từ nhiều năm nay, nhất  là từ khi ban hành Luật Ngân sách nhà nước, các hoạt động ngân sách đã từng bước được  công khai hóa với các mức độ khác nhau. Trên cơ sở một số nội dung có tính nguyên tắc   về  công khai, minh bạch tài chính, ngân sách tại Luật Ngân sách nhà nước, các cơ  quan   có thẩm quyền đã tiếp tục ban hành nhiều văn bản pháp quy nhằm quy định cụ thể  nội  dung, trình tự, thủ  tục và các vấn đề  khác có liên quan đến công khai, minh bạch tài   chính, ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, các văn bản nói trên mới chỉ là văn bản dưới luật  và đề cập đến vấn đề  công khai, minh bạch tài chính, ngân sách dưới góc độ  pháp luật  tài chính. Vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng đã “pháp điển hóa” những quy định về  công khai, minh bạch tài chính, ngân sách hiện hành với các nội dung như sau: – Các cấp ngân sách, đơn vị dự toán ngân sách phải công khai chi tiết số liệu dự toán và  quyết toán đã được cơ  quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê chuẩn, kể  cả  khoản ngân sách bổ sung; 5
  6. – Đơn vị dự toán ngân sách có nguồn thu và các khoản chi từ các khoản đóng góp của tổ  chức, cá nhân theo quy định của pháp luật phải công khai mục đích huy động, kết quả  huy động và hiệu quả việc sử dụng các nguồn huy động; – Tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ  trợ phải công khai: số liệu dự toán, quyết toán;   khoản đóng góp của tổ  chức, cá nhân (nếu có); cơ  sở  xác định mức hỗ  trợ  và số  tiền   ngân sách nhà nước hỗ trợ; – Dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước phải công khai:   việc phân bổ vốn đầu tư trong dự toán ngân sách nhà nước được giao hằng năm cho các   dự án; dự toán ngân sách của dự án đầu tư  theo kế hoạch đầu tư  được duyệt, mức vốn   đầu tư của dự án được giao trong dự toán ngân sách năm; quyết toán vốn đầu tư  của dự  án hằng năm; quyết toán vốn đầu tư  khi dự  án hoàn thành đã được cấp có thẩm quyền   phê duyệt; – Quỹ  có nguồn từ  ngân sách nhà nước phải công khai các nội dung sau đây: quy chế  hoạt động và cơ  chế  tài chính của quỹ; kế  hoạch tài chính hằng năm, trong đó chi tiết  các khoản thu, chi có quan hệ  với ngân sách nhà nước theo quy định của cấp có thẩm  quyền; kết quả hoạt động của quỹ; quyết toán năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt; – Việc phân bổ, sử  dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước cho các dự  án, chương trình   mục tiêu đã được cơ  quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải công khai cho cơ  quan, tổ chức, đơn vị hữu quan và nhân dân nơi trực tiếp thụ hưởng biết. Có thể thấy nội dung công khai tài chính, ngân sách trên bao gồm một phạm vi rất rộng   về chủ thể có nghĩa vụ phải công khai và các loại thông tin phải công khai. Đây là cơ sở  pháp lý quan trọng để  các chủ  thể  có nghĩa vụ  thực hiện việc công khai thông tin cũng  như  để  cơ  quan, tổ  chức và người dân có thể  tiếp cận và giám sát các hoạt động tài   chính, ngân sách nhà nước.  Luật Đầu tư công năm 2014       Đầu tư  công là một trong những hoạt động trực tiếp sử  dụng ngân sách nhà nước.   Trên thực tế, số vốn mà nhà nước ta bỏ ra để đầu tư công là rất lớn, trải rộng trên nhiều   lĩnh vực. Các dự án đầu tư công không chỉ bao gồm những dự án thu lợi mà có cả dự án   phi lợi nhuận, nhằm thực hiện các mục tiêu vì cộng đồng. Công khai, minh bạch trong   hoạt động đầu tư công góp phần tăng tính cạnh tranh, tính công bằng trong huy động và   phân bổ  nguồn lực của nhà nước. Hơn nữa, công khai minh bạch là sơ  sở, điều kiện  quan trọng để thực hiện việc giám sát hoạt động đầu tư công được chặt chẽ và hiệu quả  hơn, hạn chế sự thất thoát, lãng phí trong đầu tư và xây dựng từ nguồn ngân sách. Trong   luật số  49/2014/QH13 luật Đầu tư  công, công khai, minh bạch cũng đã được quy định  thành nguyên tắc cơ bản của việc quản lý các dự án đầu tư  công, ghi nhận tại khoản 5,  Điều 12. Ngoài ra, luật cũng dành riêng một điều luật quy định về công khai minh bạch   trong đầu tư công:  “Điều 14. Công khai, minh bạch trong đầu tư công Nội dung công khai, minh bạch trong đầu tư công, bao gồm: a) Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý và   sử dụng vốn đầu tư công; 6
  7. b) Nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công; c) Nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ  xác định danh mục dự  án trong kế  hoạch đầu tư  công   trung hạn và hằng năm; d) Quy hoạch, kế  hoạch, chương trình đầu tư  công trên địa bàn; vốn bố  trí cho từng   chương trình theo từng năm, tiến độ  thực hiện và giải ngân vốn chương trình đầu tư   công; đ) Danh mục dự án trên địa bàn, bao gồm quy mô, tổng mức đầu tư, thời gian, địa điểm;   báo cáo đánh giá tác động tổng thể của dự án tới địa bàn đầu tư; e) Kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm theo từng nguồn vốn, bao   gồm danh mục dự án và mức vốn đầu tư công bố trí cho từng dự án; g) Tình hình huy động các nguồn lực và nguồn vốn khác tham gia thực hiện dự án đầu tư   công; h) Tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án; i) Tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án theo từng nguồn vốn; k) Kết quả nghiệm thu, đánh giá chương trình, dự án. Người đứng đầu cơ  quan, tổ  chức, đơn vị  phải thực hiện việc công khai các nội dung   đầu tư công theo quy định của pháp luật.”      Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến đề xuất chủ  trương đầu tư; quyết định chủ  trương đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt chương trình,  dự  án; theo dõi, đánh giá kế  hoạch, chương trình, dự  án đầu tư  công. Đồng thời, cũng   quy định rõ trách nhiệm và các chế tài xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân, cũng  như người đứng đầu các tổ chức, cơ quan có liên quan đến quản lý đầu tư  công. Có thể  nói, luật Đầu tư  công năm 2014 đã có nhiều điểm thực hiện khá tốt yêu cầu minh bạch   trong việc sử  dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này. Các văn bản dưới luật nên   tiếp tục quy định rõ hơn, tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc để  việc minh bạch  được thực hiện chặt chẽ nhất.  II. Thực trạng về  vấn đề  minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước   trong năm 2015      Hiện nay, thuận lợi trong vấn đề công khai, minh bạch: đã có những văn bản, những   điều khoản quy định về vấn đề công khai minh bạch ngân sách nhà nước, đó là nền tảng   để  các cơ  quan nhà nước cũng như  nhân dân có thể  biết được hoạt động thu chi ngân  sách nhà nước. Khó khăn trong vấn đề công khai, minh bạch đó là: mặc dù đã có quy định   về công khai, minh bạch trong ngân sách nhà nước nhưng thực tế không triệt để. Ngay 9­̀ 9­2015, Tổ chức Đối tác Ngân sách quốc tế công bô Ch ́ ỉ số  công khai ngân sách mở  của  Việt Nam năm 2015 chi la 18 đi ̉ ̀ ểm trên thang điểm 100, thấp hơn nhiều so với mức trung   bình toàn cầu la 45 đi ̀ ểm. Chi sô nay thâm chi còn thâp h ̉ ́ ̀ ̣ ́ ́ ơn một điêm so v ̉ ơi xêp hang ́ ́ ̣   năm 2014. Việt  Nam  chưa công bố  đề  xuất NS, báo cáo kiểm toán muộn so với tiêu   chuẩn quốc tế, công khai các tài liệu vẫn thiếu những thông tin cụ  thể. So với nhóm  quốc gia cùng có điểm số thấp (dưới 60 điểm) về minh bạch NS, Việt Nam đã công bố  5/8 tài liệu NS chủ chốt (so với 2­3 tài liệu của các quốc gia khác trong nhóm).  Mức độ  7
  8. ̣ thiêu công khai, minh bach v ́ ề ngân sach VN luôn đ ́ ứng gần chót bảng xếp hạng.  Rất khó  để có thể tìm kiếm các thông tin về ngân sách nhà nước. Cac sô liêu ngân sách nhà n ́ ́ ̣ ước   ̀ ̣ ̀ ma Bô Tai chinh th ́ ương công khai trên công thông tin đi ̀ ̉ ện tử, chưa thể  hiện được gì   nhiêu. ̀ Ở  câp đia ph ́ ̣ ương, vấn đề  công khai, minh bach ngân sach con t ̣ ́ ̀ ồi tệ  hơn nhiêu. Môt ̀ ̣  ̉ khao sat gân đây v ́ ̀ ới hơn 1,100 người dân tai năm tinh la B ̣ ̉ ̀ ắc Giang, Hòa Bình, Nam Định,  Quảng Trị và Bà Rịa – Vũng Tàu cua năm tô ch ̉ ̉ ưc xa hôi d ́ ̃ ̣ ươi s ́ ự bao tr ̉ ợ cua Uy ban Tai ̉ ̉ ̀  ́ ́ ̉ ́ ̣ chinh – Ngân sach cua Quôc hôi cho thây điêu đó. K ́ ̀ ết quả  tham vấn tại Bắc Giang cho   thấy, hơn 43% người dân được hỏi không biết rằng ngân sách được chi cho phát triển   kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng và đảm bảo hoạt động của bộ  máy nhà nước; tới  hơn 63% số người được hỏi không biết rằng ngân sách được chi trả nợ của nhà nước và   chi viện trợ. Trong khi đó, có gân 43% ng ̀ ười dân ở các tỉnh Hòa Bình, Quảng Trị, Vũng   Tàu và Nam Định cho biết họ có nghe hoặc có nhìn thấy báo cáo thu – chi ngân sách của   xã nhưng không nhớ hoặc không hiểu được những thông tin này. Đăc bi ̣ ệt, chi đầu tư xây   dựng cơ bản – thường chênh lệch tới 50% so với dự toán, vượt xa so với hướng dẫn về  thông lệ  tốt là duy trì chênh lệch chi tiêu  ở  mức không quá 5% dự  toán. Bình quân các   tỉnh miền núi phía Bắc chi cao hơn dự toán đến 42%, các tỉnh ở Tây Nguyên chi cao hơn   35%. Còn tại khu vực Đông Nam bộ  và đồng bằng sông Cửu Long, mức chi bình quân   cao hơn lần lượt là 7% và 9%. Bôi chi ngân sach nha n ̣ ́ ̀ ươc năm 2013 đã vot lên 6,6% ́ ̣   GDP, từ mưc 5,3% GDP đ ́ ược phê duyêt tr ̣ ước đo. Ban d ́ ̉ ự  thao đâu tiên cua Luât Ngân ̉ ̀ ̉ ̣   sách nhà nước năm 2015 tưng co điêu khoan x ̀ ́ ̀ ̉ ử ly trach nhiêm ca nhân cua nh ́ ́ ̣ ́ ̉ ững người   chi tiêu sai ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nội dung này lại không được Quôc hôi thông ́ ̣   qua.       Nỗ  lực của Bộ Tài chính cũng như  của Chính phủ  trong những năm qua nhằm làm   tăng tính minh bạch vấn đề huy động và sử dụng ngân sách nhà nước cho thấy những cải  cách đang đi đúng hướng và bước đầu có những kết quả nhất định. Chẳng hạn như Bộ  Tài chính thời gian qua luôn công bố  những báo cáo hàng tháng về  tình hình thực hiện  nhiệm vụ tài chính ­ ngân sách nhà nước và công bố kế hoạch, nhiệm vụ công tác trọng   tâm cho tháng tiếp theo của ngành tài chính; công bố  báo cáo sơ  kết tình hình tài chính  nửa năm; công khai các báo cáo dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm; và   nhiều chuyên mục thông cáo báo chí khác. Những báo cáo này trước đây thường chỉ được   gửi trực tiếp cho cấp có thẩm quyền và được sử dụng nội bộ, hiếm khi được công khai.   Việc công khai hóa các báo cáo này trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông  tin của Bộ Tài chính rõ ràng là một kết quả tích cực bước đầu đáng ghi nhận. Tuy nhiên,   nội dung các báo cáo này chủ yếu phù hợp cho công tác và chức năng điều hành, quản lý   kinh tế  của Chính phủ  chứ  chưa đáp  ứng được kỳ  vọng và yêu cầu của người dân về  phạm vi và chất lượng thông tin công bố. Những thông tin công bố trong các báo cáo này   chủ yếu chỉ mới dừng lại ở mức độ khái lược với các số  liệu tài chính ­ ngân sách tổng   quát, thiếu những phụ  lục chi tiết và nhiều nội dung cần phải được giải trình khác.   Chẳng hạn như  số  liệu công bố  mới chỉ  dừng  ở  mức độ  tổng thu, tổng chi và cân đối   ngân sách, tiến thêm một chút là số  liệu về  cơ  cấu thu và chi  ở  cấp độ  đơn giản nhất   trong khi hoàn toàn không thấy những báo cáo chi tiết và minh họa đính kèm về tình hình   phân bổ ngân sách phân theo cấp, ngành, lĩnh vực, đối tượng, đơn vị... Nếu căn cứ  theo   bản   Quy   tắc   Thực   hành   tốt   nhất   để   minh   bạch   ngân   sách   của   OECD   (OECD   Best  Practices for Budget Transparency) thì những công bố thông tin về tình hình ngân sách của   Việt Nam hiện nay còn rất lạc hậu và đơn giản, chưa đáp  ứng được phần lớn các nội  dung của những quy tắc này. 8
  9.  Đánh giá minh bạch ở Việt Nam của các tổ chức trong – ngoài nước      Trong những năm qua, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực nhằm tăng cường công tác công   khai, minh bạch trong hoạt động quản lý ngân sách nhà nước; từ việc xây dựng quy trình   ngân sách minh bạch, rõ ràng; xây dựng hệ  thống định mức phân bổ  ngân sách và các   định mức chi tiêu công khai, minh bạch; công khai và lấy ý kiến rộng rãi về các văn bản   luật, các chế  độ, chính sách lớn có tác động đến đông đảo người dân; công khai các số  liệu, tài liệu liên quan đến dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước; công khai các báo   cáo kiểm toán, kết luận thanh tra đối với việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước.      Trong báo cáo “Đánh giá minh bạch tài khóa của Việt Nam” được Ngân hàng Thế giới  công bố, các chuyên gia của WB cho rằng: Việt Nam đã tiến xa trong việc minh bạch tài   khóa, tiến được một bước dài trong việc cải thiện minh bạch về chính sách tài khóa và  ngân sách Nhà nước kể từ cuối thập kỷ 90 ­ thời điểm các văn bản ngân sách vẫn được   coi là bí mật Nhà nước. Theo đó, hiện nay, Việt Nam đã công bố một bộ văn bản và báo   cáo ngân sách tương đối chuẩn mực. Các tổ chức quốc tế khuyến nghị cần công bố  các   báo cáo liên quan đến ngân sách tại các khâu khác nhau trong quy trình ngân sách. Thực tế  trong 10 qua, Việt Nam đã cải thiện đáng kể hiệu quả thực thi của mình theo khía cạnh  này và đã công bố được ít nhất 4 báo cáo. Bao gồm: Báo cáo ngân sách được phê duyệt,  báo cáo tình hình thực hiện ngân sách hàng quý, báo cáo tài chính cuối năm, và báo cáo   kiểm toán bên ngoài. Ngoài ra, báo cáo của WB cũng ghi nhận những thông tin bổ  sung  được công bố riêng đem lại những thông tin tài khóa quan trọng, chưa được thể hiện đầy   đủ trong các báo cáo ngân sách. Tuy nhiên, theo tổ chức  Đối tác ngân sách quốc tế (IBP),  trong cuộc khảo sát hàng năm của mình nhằm so sánh mức độ minh bạch ngân sách của   các quốc gia trên thế giới, IBP đã tiến hành cuộc khảo sát ở hơn 100 quốc gia, sử dụng   140 chỉ báo tổng hợp để tính toán chỉ số OBI (Open Budget Index ­ hay còn gọi là Chỉ số  Minh bạch ngân sách) với thang điểm từ  0­100. Kết quả  được phân thành năm hạng  gồm: (i) rộng rãi (extensive) có điểm số  từ  81­100, (ii) đáng kể  (substantial) có điểm số  từ  61­80, (iii) hạn chế (limited) có điểm số  từ  41­60, (iv) rất ít (minimal) có điểm số  từ  21­40, và (v) hiếm hoi (scant and none) có điểm số từ 0­20. Kết quả xếp hạng chỉ số OBI   2015 của Việt Nam chỉ là 18 điểm, xếp ở nhóm cuối trong năm nhóm kể trên. Nếu so với   năm 2008 thì điểm số của Việt Nam đã cải thiện ít nhiều, từ  10 lên 18 điểm, nhưng so  với năm 2012 (19 điểm) thì hầu như  không cải thiện gì nếu không nói là có phần tụt  xuống.   So   với   các   nước,   Việt   Nam   chỉ   xếp   trên   vài   nước   như   Trung   Quốc   (14),   Campuchia (8), Venezuela (8), Iraq (3), Myanmar (2)... trong khi lại xếp sau, đặc biệt với  điểm số rất chênh lệch so với nhiều nước khác trên thế giới và ngay cả trong khu vực.  Công khai nhưng chưa chắc minh bạch      Một vấn đề đặt ra cho câu chuyện công khai, minh bạch các hoạt động ngân sách ở  nước ta đó là công khai nhưng chưa chắc đã minh bạch. Cần phải nhấn mạnh rằng, minh  bạch gắn liền với công khai, công khai là tiền đề của việc minh bạch. Tuy nhiên, chúng   ta mới chỉ  dừng lại  ở  mức độ  công khai dự  toán và quyết toán sau khi được Quốc hội,   Hội đồng Nhân dân phê duyệt. Trong khi minh bạch lại yêu cầu  ở  cả  hệ  thống ngân  sách, trải dài tất cả  các khâu của hoạt động ngân sách. Việc công khai  ở  ta hiện nay   mang quá nặng tính hình thức. chưa thuận lợi để người dân hiểu và bày tỏ  ý kiến, công   khai thông tin chưa gắn với cơ chế giải trình. Công khai thiếu minh bạch thường được   thể hiện dưới dạng: công khai ở chỗ tối; công khai, nhưng thiếu những dữ liệu cơ bản;   công khai dưới dạng chung chung... 9
  10.       Hiện nay, cách cung cấp thông tin, kênh tuyền tải thông tin chưa phù hợp và nội dung   thông tin, vừa thiếu, vừa khó hiểu và thiếu các biện pháp hỗ trợ người dân khi tiếp cận   với các thông tin mà họ  quan tâm. Người dân cũng không biết, không hiểu các thông tin  liên quan đến ngân sách nhà nước nói chung, việc phân bổ ngân sách nhà nước nói riêng,   cũng như chi tiết ngân sách chi thường xuyên cho các ban, ngành, đoàn thể hoặc chi cho   các chương trình mục tiêu quốc gia. Ví dụ như tại Bắc Giang (khảo sát năm 2015 – kết   quả  tham vấn cộng đồng cho dự  luật Ngân sách nhà nước), từ  37,7% đến 43,2% người  dân được hỏi không biết rằng ngân sách được chi cho phát triển kinh tế, bảo đảm an   ninh quốc phòng và hoạt động của bộ  máy Nhà nước; từ  59,7% đến 63,1% số  người  được hỏi không biết rằng, ngân sách được chi trả  nợ  của Nhà nước và chi viện trợ.   Thêm vào đó,  tại các địa phương lại chưa có những cơ  chế  giải đáp, tháo gỡ  kịp thời   những thắc mắc hoặc ý kiến của người dân, trừ  kênh tiếp xúc cử  tri, người dân không  biết hỏi ai do đó ngân sách công khai nhưng chưa thu hút sự  tham gia và quan tâm của   cộng đồng vào quá trình quản lý ngân sách ở địa phương.  Ta cũng thiếu các quy định về  việc kiểm tra, thanh tra các đối tượng có liên quan trong việc thực hiện chế độ công khai   ngân sách Nhà nước, chưa quy định rõ về  các hình thức xử  lý đối với các hành vi vi  phạm. Những điều này đã làm mất đi tính dân chủ trong việc minh bạch hoạt động ngân  sách nhà nước.    Những bất cập giữa chính sách và thực hiện      Ở Việt Nam, câu chuyện công khai và minh bạch đang được tiếp nhận như một chủ  trương lớn trong quy trình quản lý. Điều này được thể  hiện rất rõ trong Hiến pháp năm   2013 và quá trình xây dựng luật pháp, thực thi luật pháp và xây dựng thể  chế  kinh tế  trong thời gian gần đây. Chúng ta đang hướng tới công khai và minh bạch trong mọi khâu   quản lý.       Hiện nay, đòi hỏi của xã hội là “thông tin nhanh, kịp thời, chính xác”. Trong hoạt động   ngân sách nhà nước nói riêng, cần chủ  động cung cấp thông tin cho báo chí để  tạo sự  đồng thuận xã hội, cần thiết phải cung cấp thông tin các khâu của quá trình thực hiện  hoạt động ngân sách nhà nước, kể  cả  những việc làm được và làm chưa được. Đồng   thời, phải chú ý đến trách nhiệm giải trình, giải đáp của cơ  quan nhà nước đối với   những vấn đề nổi cộm, những việc chưa thông suốt, những chủ trương, chính sách mới.  Đặc biệt, khi ban hành chủ  trương, chính sách thì phải có trách nhiệm giải trình với   người dân.       Song, nhìn vào thực tế, lại thấy chủ trương thì có, nhưng thực thi lại chưa được bao   nhiêu. Mặc dù, về nguyên tắc vẫn là công khai mọi thứ thông tin quản lý, trừ các thông   tin thuộc diện bảo mật, nhưng chúng ta vẫn vướng vào một vấn đề rất cơ bản là: Công   khai cái gì? Công khai thế nào? Và vướng mắc nhất  ở khâu: Thế  nào là thông tin thuộc  diện bảo mật? Hiện tại, đã có hẳn một nghị  định của Chính phủ  quy định về  thông tin   nào thuộc diện "mật", "tối mật" và "tuyệt mật" (Nghị  định số  33/2002/NĐ­CP, ngày  28/3/2002). Tuy nhiên, ở đây có 2 vấn đề đang đặt ra: Thứ nhất, quy định về các độ  mật   đối với thông tin quản lý của từng ngành, từng lĩnh vực đã hợp lý chưa? Thứ  hai: thói  quen đóng dấu "mật" vào các công văn khi thấy cần thiết mang tính chủ quan, mà không   theo quy định của pháp luật.      Vừa qua, khi thảo luận về Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi ta thấy một điều chưa   hợp lý. Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải công khai toàn bộ  quá trình dự  thảo phân bổ  ngân sách để lấy ý kiến của người dân, vì ngân sách là tiền đóng góp của Nhân dân, nên   10
  11. họ có quyền tham gia vào dự định chi tiêu ngân sách. Song, một luồng ý kiến khác lại lập   luận rằng, quá trình này không thể công khai vì “nhạy cảm”. Trong Nghị định của Chính  phủ quy định về bảo mật thông tin trong lĩnh vực tài chính, ngân sách cũng đang quy định   dự  toán ngân sách trong quá trình dự  thảo thuộc diện bảo mật. Điều này có vẻ  chưa   được hợp lý. Về  nguyên tắc, thì dự  thảo kế  hoạch chi tiêu ngân sách không thể  thuộc  diện bảo mật, vì nếu là mật thì đồng nghĩa với việc công nhận có tồn tại khuất tất trong   quá trình "chia bánh ngân sách" – trong khi “bánh” là do toàn dân góp lại mà thành.       Như vậy, câu chuyện công khai, minh bạch về hoạt động ngân sách nhà nước ở nước   ta vẫn còn tồn tại khúc mắc. Dù cho tư duy lý luận có chuyển biến, nhưng thực tế triển   khai vẫn còn gặp nhiều thách thức đáng kể. III. Đề  xuất về  việc thực hiện việc minh bạch trong hoạt động ngân sách  nhà nước  Về phương thức và các biện pháp bảo đảm sự tham gia của người dân vào   quá trình giám sát minh bạch tài chính:      Có thể các văn bản pháp luật của ta đã đề cập đến sự tham gia của người dân vào quá  trình ngân sách nhưng thực tế, việc người dân thực hiện quyền này như  thế nào mới có   tính quyết định tính công khai, minh bạch của ngân sách.Thực tiễn thực hiện hoạt động  minh công khai, minh bạch ngân sách nhà nước cho thấy, những báo cáo liên quan đến  ngân sách (báo cáo dự  toán, quyết toán, chấp hành ngân sách) là những báo cáo chuyên   ngành, đòi hỏi đối tượng tiếp cận phải có một hiểu biết nhất định về tài chính thì mới có  thể  hiểu tường tận các thông tin về  số  liệu đã được công khai. Vì vậy, khi thực hiện   hoạt động công khia, minh bạch ngân sách nhà nước nên lựa chọn nội dung phù hợp với   từng đối tượng cụ  thể. Thông tin ngân sách công bố  cho người dân nên là tài liệu trình  bày dưới dạng thức đơn giản, không bao gồm hoặc rất ít các thuật ngữ kỹ thuật, nhằm  cung cấp cho người dân kế hoạch thu, chi ngân sách trong năm của Chính phủ. Ngân sách  có thể được chuẩn bị dưới nhiều dạng để có thể đăng báo, phát trên đài truyền hình, đài   tiếng nói hoặc trình bày trong các cuộc họp cộng đồng. Ngoài ra, khi công khai các thông  tin về hoạt động ngân sách nhà nước cũng cần phải có trọng tâm, nhấn mạnh đến những   nhóm thông tin được người dân quan tâm nhiều nhất, ví dụ như các thông tin về phân bổ  ngân sách nhà nước trước khi phê duyệt; các số liệu về chi thường xuyên,..     Cùng với đó, cần tăng cường cơ chế phản hồi thông tin để ý kiến phản hồi của người   dân được nhanh chóng chuyển đến cơ  quan có thẩm quyền và phản hồi về  biện pháp  điều chỉnh từ cấp trên xuống cấp dưới. Việc tăng khả  năng tiếp cận thông tin và phản  hồi thông tin sẽ tạo nên sự trao đổi qua lại,  thúc đẩy kỷ luật tài khóa, nâng cao hiệu quả  của việc minh bạch hoạt động ngân sách. Để làm được điều này, chúng ta cần quy định  rõ trách nhiệm, vai trò, quyền hạn của người dân và các cơ  quan đại diện trong hoạt  động kiểm tra, giám sát thực hiện công khai, minh bạch ngân sách nhà nước. Bên cạnh  đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật về ngân sách nhà nước, nâng cao nhận thức, sự  quan tâm của người dân đối với hoạt động ngân sách nhà nước.   Tăng cường quy định để tăng cường quyền hạn cho các cơ quan đại diện:      Xuất phát từ chức năng phản biện xã hội, giám sát của các cơ quan đại diện của nhân   dân và vai trò hỗ  trợ  người dân tham gia giám sát hiệu quả  trong việc công khai, minh  bạch hoạt động ngân sách nhà nước. Vì vậy, pháp luật cần tiếp tục mở rộng hơn nữa vai   11
  12. trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị ­ xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp theo   định hướng quy định về  phát huy giám sát cộng đồng của các tổ  chức này và huy động   các tổ  chức thành viên để  giám sát. Việc quy định rõ vai trò của các cơ  quan đại diện   trong việc tham gia lập, chấp hành, giám sát hoạt động công khai ngân sách nhà nước sẽ  nâng cao hiệu quả  trong việc sử  dụng nguồn ngân sách, phòng chống lãng phí và thất  thoát ngân sách nhà nước.  Đối với các quy định về thông tin công khai, minh bạch ngân sách:      Hiện nay, các thông tin về ngân sách nhà nước được Bộ Tài chính công khai có mức   độ tương đối chi tiết về phân bổ ngân sách và chi tiêu. Tuy nhiên, dù những dữ liệu này  đã được công bố kịp thời và rộng rãi nhưng lại không thể truyền tải một cách hoàn toàn  rõ ràng về  các mục tiêu, ý định chính sách của Chính phủ  hay hiệu quả  trong việc thực   hiện chính sách này. Như vậy, đặt ra yêu cầu là thông tin được công khai cần phải được   thể hiện đơn giản, dễ hiểu, kèm theo thuyết minh, giải trình và tập trung trọng tâm vào  vấn đề  người dân quan tâm như: tổng mức thu – chi ngân sách, các khoản chi vượt dự  toán ngân sách,…      Đồng thời, theo quy định của luật Ngân sách nhà nước năm 2015, tính minh bạch của   hoạt động công khai ngân sách nhà nước đã được tăng cường với quy định tại Điều 15:  Quy định về báo cáo thuyết minh kèm số  liệu công khai này sẽ giải thích cho cơ  sở lập   dự  toán và đánh giá kết quả  quyết toán, hiệu quả  chi ngân sách gắn với kết quả  thực   hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương, lĩnh vực, chương trình, mục tiêu mà các cơ quan,   tổ  chức, đơn vị  được giao phụ  trách. Đây là một quy định có ý nghĩa lớn đối với hoạt   động công khai, minh bạch ngân sách nhà nước nên các văn bản dưới luật cần chú ý để  hướng dẫn về quy định này được cụ thể hơn sau khi luật Ngân sách nhà nước năm 2015  chính thức có hiệu lực. Mặt khác, để cải thiện được điểm số của Việt Nam trong thang   điểm về Chỉ số đánh giá ngân sách OBI hay PEFA, phù hợp với các thông lệ quốc tế thì   cần phải xem xét các quy định về  thời gian công bố  các số  liệu tài chính ngân sách nhà   nước sau khi được cơ  quan có thẩm quyền phê duyệt. thời gian công bố  này phải kịp   thời và đảm bảo để  người dân có thể  tiếp cận ngay được những thông tin được công   khai, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động công khai ngân sách.  Quy định về trách nhiệm giải trình của các cấp ngân sách, các đơn vị dự  toán ngân sách, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tất cả các khâu: lập dự  toán, chấp hành dự toán, quyết toán, kiểm toán và kiểm tra, thanh tra:      Quy định này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình ở các cấp  ngân sách, các đơn vị dự toán, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến ngân sách  nhà nước. Vì vậy, cần tăng cường nội dung giải trình về ngân sách nhà nước vào các quy  định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân, đơn vị có  trách nhiệm trong hoạt động công khai, minh bạch ngân sách nhà nước và cả những chế  tài xử lý kèm theo.  Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công  dân: 12
  13.      Một trong những ý nghĩa quan trọng của việc công khai, minh bạch ngân sách là đảm  bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân. Do vậy, hoàn thiện các quy định của pháp  luật về quyền tiếp cận thông tin của người dân sẽ tọ tiền đề vững mạnh cho việc thực  hiện hoạt động công khai, minh bạch ngân sách. Tăng cường quyền tiếp cận thông tin là  đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động công khai, minh bạch trong lĩnh vực hoạt  động ngân sách nhà nước, góp phần đấu tranh chống tham nhũng, tăng cường khả năng  giám sát của người dân trong  quá trình xây dựng và phát triển đất nước.  Hoàn thiện hơn nữa các quy định về công khai tài chính đối với các dự án  đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng ngân sách nhà nước      Trong những năm gần đây, vốn đầu tư của Nhà nước vào các dự án xây dựng cơ bản   liên tục tăng và chiếm tỷ lệ khoagr 30% tổng sản phẩm quốc nội GDP. Qua đó tạo nên   sự  chuyển biến quan trọng về  vật chất – kỹ thuật, thúc đấy mạnh mẽ  chuyển dịch cơ  cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, cải thiện văn minh đô thị, đóng góp quyết định vào   sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội của đất nước. Tuy nhiên, việc quản lý và triển khai thực   hiện các dự án còn nhiều hạn chế, yếu kém dẫn đến hiện tượng thất thoát, lãng phí vốn   đầu tư và hiệu quả kinh tế của các dự án. Để khắc phục tình trạng này, cần hoàn thiện  cơ  chế  phân cấp, quản lý đầu tư  và đặc biệt là tăng cường kỷ  luật, kỷ  cương và trách  nhiệm của các cấp các tổ chức, cá nhân có liên quan thông qua hoạt động công khai việc   phân bổ, sử dụng nguồn vốn đầu tư đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có vốn là   ngân sách nhà nước. Như vậy, cần bổ sung quy định về  nhiệm vụ của các cơ  quan nhà  nước và trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch của các tổ chức, cá nhân trong lập,  thẩm định, phê duyệt chủ  trương đầu tư  công; lập, thẩm định, thông qua và giao kế  hoạch thực hiện; chấp hành kế hoạch gồm cả trách nhiệm thông báo về  việc công khai  và thực hiện việc công khai. Đồng thời, bổ  sung thêm quy định cung cấp thông tin về  đầu tư  các dự  án xây dựng cơ bản, đặc biệt là về  chương trình, dự  án và kế  hoạch sau  khi đã được phê duyệt hoặc thông qua yêu cầu của cơ  quan, tổ  chức, cá nhân có liên   quan. Bên cạnh đó, là quy định về  nội dung giám sát, kiểm tra, thanh tra về  hoạt động  đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó, quy định việc thực hiện công khai các hành vi vi phạm   nguyên tắc công khai, minh bạch trong đầu tư công và các hành vi bị cấm đầu tư. KẾT LUẬN      Minh bạch là một nguyên tắc quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt động ngân sách  nhà nước. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức cũng như hiệu quả của hoạt động ngân  sách nhà nước. Minh bạch được tôn trọng thực hiện sẽ  giúp cho người dân nắm bắt  được các chính sách, từ đó nâng cao sự ủng hộ của người dân đối với chính sách mà nhà   nước đưa ra. Minh bạch cũng giúp giảm tham nhũng, làm trong sạch hệ thống chính trị,  tăng lòng tin của người dân vào chính quyền, nâng cao hiệu quả  của các hoạt động sử  dụng ngân sách nhà nước. Yêu cầu về  minh bạch trong hoạt động ngân sách nhà nước  giờ đây là rất cấp thiết, cần có sự quan tâm sâu rộng không chỉ từ phía cơ quan nhà nước   mà còn là của các tổ chức chính trị ­ xã hội, của toàn thể nhân dân.        Trên đây, em đã trình bày những tì hiểu của mình về  vấn đề  minh bạch trong hoạt   động ngân sách nhà nước. Mặc dù có nhiều cố  gắng, nhưng do vốn hiểu biết và kiến  thức còn hạn hẹp nên bài viết của em không tránh khỏi thiếu xót, rất mong nhận được  sự góp ý của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0