intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

43
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bức tranh sinh hoạt đời thường vừa có sự đa tạp, buồn phiền với bao nhiêu cái xấu rình rập vừa chứa đựng biết bao triết lý nhân sinh về ý nghĩa cuộc đời, về cách làm người và trên hết vẫn là tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người, yêu thương cuộc đời của nhà văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017<br /> <br /> <br /> <br /> Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn<br /> Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới<br /> The theme of urban life in Ma Van Khang’s short stories in the renovation period<br /> ThS. Nguyễn Thị Thanh Xuân<br /> Trường Đại học Thủ Dầu Một<br /> <br /> Nguyen Thi Thanh Xuan, M.A.<br /> Thu Dau Mot University<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Từ những năm 1980 trở đi, với mảng văn học viết về đời sống đô thị, nhà văn Ma Văn Kháng đã thực<br /> sự khẳng định tài năng và sức bút của mình. Truyện của ông đã mở ra trước mắt người đọc một bức<br /> tranh toàn cảnh sinh động của cuộc sống con người. Bức tranh sinh hoạt đời thường vừa có sự đa tạp,<br /> buồn phiền với bao nhiêu cái xấu rình rập vừa chứa đựng biết bao triết lý nhân sinh về ý nghĩa cuộc đời,<br /> về cách làm người và trên hết vẫn là tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người, yêu thương cuộc đời<br /> của nhà văn.<br /> Từ khóa: đề tài, đời sống đô thị, truyện ngắn, Ma Văn Kháng, thời kỳ đổi mới.<br /> Abstract<br /> From the years 1980s onwards, in a part of Ma Van Khang’s short stories written about urban life, he<br /> has actually confirmed his talent and ability. His stories open up a a vivid panorama of human life. The<br /> panorama is not only about daily life with its difference kinds of complication, melancholy, evils but<br /> also contains lots of personal philosophy about the meaning of life, about how to act as a man and about<br /> the writer’s compassion, humanity, beneficence above all.<br /> Keywords: the theme, of urban life, short story, Ma Van Khang, renovation period.<br /> <br /> <br /> 1. Mở đầu hơn 200 truyện ngắn, tạp bút, tản văn cùng<br /> Ma Văn Kháng không chỉ là cây bút 3 tập sách viết cho thiếu nhi, một hồi ký<br /> truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng, mà văn chương. Với Ma Văn Kháng, viết là để<br /> còn là một nhà văn được đánh giá thành bảo vệ, khẳng định những giá trị chân<br /> công trên phương diện đề tài sáng tác (đề chính của cuộc sống, con người, nên dù ở<br /> tài đời sống miền núi và đời sống đô thị). đâu, viết về đề tài nào ông cũng dành<br /> Bắt đầu sáng tác từ năm 1961 với truyện những tình cảm ưu ái cho con người, vì<br /> ngắn Phố cụt, đến nay trên 50 năm miệt con người, bởi“con người là thước đo mọi<br /> mài lao động và sáng tạo nghệ thuật, Ma sự” [3; 377]. Đề tài viết về đời sống thành<br /> Văn Kháng đã chứng tỏ thương hiệu là một thị thời kinh tế thị trường đầy phức tạp<br /> cây đại thụ của văn học Việt Nam đương trong cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất<br /> đại. Ông đã tự khẳng định vị trí của mình nước sau chiến thắng 1975 hầu hết được<br /> bằng những tác phẩm văn chương đích Ma Văn Kháng sáng tác sau 1980, đây<br /> thực, gồm trên chục tiểu thuyết và khoảng cũng chính là đóng góp quan trọng của ông<br /> <br /> 86<br /> NGUYỄN THỊ THANH XUÂN<br /> <br /> <br /> mà với nó, ông được xếp vào đội ngũ thuật, cái nhìn sử thi trước đó đã được thay<br /> những cây bút tiên phong mở đường cho thế bằng cái nhìn tiểu thuyết, khoảng cách<br /> việc đổi mới nền văn xuôi nghệ thuật của giá trị giữa người kể chuyện và đối tượng<br /> dân tộc. Sự nổi tiếng của thương hiệu Ma trần thuật được rút ngắn tới mức tối thiểu.<br /> Văn Kháng là điều dễ hiểu bởi khả năng Với Ma Văn Kháng viết văn là “để nối lời,<br /> sáng tạo và thái độ lao động nghệ thuật tiếp lời, đúng hơn là để đối thoại, tranh<br /> nghiêm túc, cần mẫn của ông. biện với các ý thức xã hội, ý thức nghệ<br /> 2. Sự khẳng định sức bút với đề tài thuật của thời đại” [7; 5]. Dồn bút viết về<br /> về thành thị thời kinh tế thị trường cuộc sống đời thường nơi thành thị, thực sự<br /> Sau hơn 20 năm gắn bó với mảnh đất một “hiện tượng Ma Văn Kháng” đã gây<br /> Lào Cai - quê hương thứ hai của mình, Ma được ấn tượng mạnh trong lòng bạn đọc và<br /> Văn Kháng giã từ miền núi trở về Hà Nội giới phê bình khi ông liên tiếp cho ra đời<br /> với cuộc sống đô thị thời hội nhập. Xã hội các tập truyện ngắn: Ngày đẹp trời (1985),<br /> Việt Nam sau những năm 80, nhất là từ Heo may gió lộng (1992), Trăng soi sân<br /> năm 1986 bước vào thời kỳ đổi mới, nền nhỏ (giải thưởng văn học Đông Nam Á<br /> kinh tế thị trường cùng quá trình đô thị hóa 1995), Ngoại thành (1996), Vòng quay cổ<br /> đã góp phần thúc đẩy sự giàu mạnh về đời điển (1997), Đầm sen (1997), Một chiều<br /> sống vật chất của con người. Thế nhưng giông gió (1998), Một mối tình si (2001),<br /> cũng xuất phát từ đây nảy sinh nhiều vấn Trốn nợ (2008). Đọc tập truyện Ngày đẹp<br /> đề nhức nhối, nan giải, làm xáo trộn và gây trời cùng những sáng tác văn xuôi sau<br /> áp lực căng thẳng trong đời sống xã hội. những năm 1980 của Ma Văn Kháng ta<br /> Trong cơn lốc của thời kinh tế thị trường thấy cách nhìn cuộc sống và con người của<br /> nhiều giá trị văn hóa tinh thần truyền thống nhà văn “đã đạt tới một sự sâu sắc chín<br /> tốt đẹp có nguy cơ bị phai nhạt, đảo lộn, sự muồi đầy sự chiêm nghiệm đúc kết của một<br /> thờ ơ, lối sống đạo đức giả, sự bất ổn, phi nhà văn từng trải, sống hết mình với cuộc<br /> lý luôn đe dọa, rình rập, bám riết cuộc sống đời, trăn trở băn khoăn cho số phận con<br /> con người... khiến nhà văn bị ám ảnh và người” [2; 51].<br /> không khỏi bùi ngùi, lo lắng. Bức tranh 2.1. Với khả năng nắm bắt những vấn<br /> sinh hoạt đời thường vừa có sự đa tạp, đề của đời sống hiện thực một cách nhạy<br /> buồn phiền với bao nhiêu điều bất ổn vừa bén, tinh tế, Ma Văn Kháng đã bày tỏ<br /> chứa đựng bao triết lý nhân sinh về ý nghĩa những quan điểm tư tưởng nghệ thuật sâu<br /> cuộc đời, về cách làm người. Tất cả những sắc về mọi vấn đề liên quan tới cuộc sống<br /> câu chuyện tưởng chừng như vặt vãnh đó con người đô thị trong xã hội hiện đại và<br /> đã cho thấy: “nguyên tắc tư duy tiểu thuyết xoáy sâu vào các chủ đề thế sự nóng hổi.<br /> đã mở rộng tối đa khu vực tiếp xúc giữa Nhịp sống hối hả, nhộn nhịp của đô thị<br /> mảng truyện ngắn viết về đời sống thành đang từng ngày từng giờ chi phối vào một<br /> thị của Ma Văn Kháng với cuộc đời phồn bộ phận dân cư chỉ chạy theo lối sống thực<br /> tạp” [7; 18]. Viết về đề tài đời sống thị dụng, xô bồ, vật chất mà đánh mất lương<br /> thành thời hiện đại, bên cạnh các cây bút tri, đạo lí ở đời. Dưới tác động của đồng<br /> như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, tiền và sự xuống cấp của xã hội, các mối<br /> Nguyễn Huy Thiệp... Ma Văn Kháng đã có quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, bạn<br /> sự chuyển hướng rõ rệt trong tư duy nghệ bè, đồng nghiệp trở nên ngả nghiêng, chao<br /> <br /> 87<br /> ĐỀ TÀI ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TRUY N NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI<br /> <br /> <br /> đảo. Quan tâm sâu sắc tới vấn đề gia đình chỉ vì con người ta chỉ biết yêu mỗi bản<br /> thời mở cửa, trong tiểu thuyết Mùa lá rụng thân mình, vì thói vụ lợi, tính ích kỷ, vô<br /> trong vườn nhà văn đưa ra một câu hỏi nhân tính, mà anh trai có thể cướp vợ của<br /> nghi vấn chứa đựng luận đề: “Ôi... Gia em và đẩy em đến bước đường cùng, tâm<br /> đình... gia đình giọt nước của biển cả, cá thần, điên loạn (Mảnh đạn). Người chị gái<br /> thể của xã hội, liệu có vững vàng trong vô học nhưng may mắn được hưởng lạc<br /> cuộc sống xây dựng đang có nhiều khó trong cuộc sống giàu sang với thói “học<br /> khăn, lắm bê bối này?”. Tác giả còn đặt ra đòi hơi lố, cậy thế chồng” mà nhẫn tâm thờ<br /> cho người đọc vấn đề quan trọng: Làm thế ơ nguội lạnh trước cái chết của đứa em gái<br /> nào để giữ gìn gia đình, các nền tảng đạo nghèo hèn tội nghiệp (Trung du chiều<br /> đức truyền thống trước bão táp của nền mưa buồn). Đứa con gái có học mà nhẫn<br /> kinh tế thị trường và làm sao để dung hòa tâm với người cha già sớm hôm mòn mỏi<br /> được cuộc sống vừa có vật chất đầy đủ vừa đợi chờ héo hắt nơi quê nhà, để rồi người<br /> có một đời sống tinh thần tốt đẹp? Gia đình cha vô vọng đi về cõi chết mà đứa con vẫn<br /> là tế bào của xã hội. Mỗi con người khi theo hưởng lạc ăn chơi (Đợi chờ). Cừ là<br /> sinh ra đã gắn bó với bao tình thân máu mủ đứa con trai trái tính trái nết lại phản bội<br /> ruột rà hết sức thiêng liêng bền chặt. Vậy Tổ quốc quê hương gây bao xót xa, đau<br /> mà những tình cảm thiêng liêng ấy đang đớn, nhục nhã cho mẹ già (Mẹ già). Phú là<br /> ngày một bị thui chột bởi sự tha hóa của hiện thân của sự suy thoái nhân cách, vì<br /> con người, đặc biệt là một bộ phận lớp trẻ - cuộc sống xa hoa vật chất mà bội bạc với<br /> thế hệ của tương lai. Đời sống vật chất quê hương, Tổ tiên, cha mẹ, vợ con (Quê<br /> ngày càng no đủ thì dường như tình người nội)… Truyện Bồ nông ở biển chứa đựng<br /> có sự phai lạt, sự đánh mất gốc rễ đáng là triết luận về mối quan hệ bất hòa giữa mẹ<br /> điều phải lên án. Những truyện ngắn như chồng và nàng dâu, được triển khai từ lời<br /> Đợi chờ, Quê nội, Mẹ già, Ngày chủ nhật bài hát “Nàng dâu bắt chấy cho mẹ chồng<br /> mưa ngâu, Thầy của chúng em, Nhà nhiều bằng trông thấy bồ nông ở biển”.<br /> tầng… đã phản ánh rất rõ về vấn đề này. Câu chuyện Người giúp việc là nỗi<br /> Ma Văn Kháng đã đưa những câu suy tư ngậm ngùi về thân phận và cách ứng<br /> chuyện tưởng như vặt vãnh như: chuyện xử giữa con người với con người. Chuyện<br /> anh em, chị em, chuyện cô cháu, chuyện kể về bà cụ Mạ ở nông thôn ra thành thị<br /> xung đột giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa chị giúp việc cho gia đình Hoằng. Bà cụ Mạ là<br /> chồng em dâu, chuyện cô gái nhất thời hiện thân của sự hy sinh tần tảo, phúc hậu<br /> chạy theo bản năng mà lấy phải người giúp đỡ công việc nhà một cách chu đáo.<br /> chồng chẳng ra gì (Chọn chồng), chuyện Bà hết mực yêu thương hai cháu nhỏ như<br /> cô gái xinh đẹp bị người đời ganh ghét, đố người ruột thịt và chính bà như là bà tiên<br /> kị (Chị Thiên của tôi)... vào truyện ngắn cô Tấm của hai đứa con Hoằng. Thế nhưng<br /> của mình. Những câu chuyện buồn ấy như đáp lại công ơn của bà là thái độ hết sức<br /> dội vào mỗi chúng ta một nỗi lo lắng trăn phũ phàng, coi thường và xúc phạm, nhục<br /> trở trước những mối quan hệ giữa con mạ muốn đòi bà ra khỏi nhà của vợ và mẹ<br /> người ngày một đáng ghê sợ. Vì sao con vợ Hoằng. Và sau cuộc gây gổ của vợ,<br /> người ta lại chai sạn tàn nhẫn trước những Hoằng đành cho bà “nghỉ phép”. Cũng<br /> tình cảm máu mủ ruột thịt như vậy? Tất cả chính từ những “tệ hại quá quắt vì những<br /> <br /> 88<br /> NGUYỄN THỊ THANH XUÂN<br /> <br /> <br /> thói tật thâm căn cố đế cổ truyền không hiện thực. Từ đó nhà văn hướng vào<br /> sao gột rửa được” ấy là nguyên nhân khiến “khám phá cái ngả nghiêng chao đảo, sự<br /> ông Tường (Giải nguyền) phải chịu những vênh lệch, trật khớp của con người và đời<br /> oan ức vì bị hiểu lầm, tủi cực, đau đớn từ sống của con người”. Bởi vậy truyện ngắn<br /> trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong của Ma Văn Kháng thường không giới hạn<br /> cuộc sống hiện đại tồn tại đầy rẫy những kẻ ở mức độ miêu tả mà “mang chiều sâu của<br /> ngu dốt, đểu giả, ngô nghê, lố bịch. Chủ một triết luận nhân bản về đời sống” [7; 5].<br /> tịch xã Chiến là kẻ vô học lại đểu giả, hung Mảng truyện ngắn đặc sắc viết về đề tài đời<br /> hãn (Người đánh trống trường). Trong sống đô thị hiện đại của Ma Văn Kháng tạo<br /> truyện ngắn Vòng quay cổ điển những kẻ cho người đọc một cảm giác âu lo trước<br /> muốn đến chinh phục Uyển, từ những bậc nỗi đời bao chuyện đắng cay, khốn khó,<br /> lão thành như ông già góa vợ, ông chủ tịch đốn mạt, trước một thực tế cuộc sống thành<br /> huyện về hưu, ông trung tá công an tới bọn thị đầy những bất trắc. Sự thiếu hụt về<br /> thanh niên loai choai cậy quyền học đòi... nhân tính thói vụ lợi tầm thường, lối sống<br /> tất cả đều giống như một “lũ ngẩn ngơ” ích kỷ, căn bệnh lãnh cảm... tất cả là những<br /> hiếu danh, lố bịch. Cái Tý Ngọ là đứa “tiên nguyên nhân đang ngày một bào mòn<br /> thiên bất túc” đã xấu người lại xấu cả nết, những mối quan hệ hồn nhiên giản dị của<br /> nó là hiện thân của những kẻ vô học, yểu đời sống con người. Những tình cảm thiêng<br /> nhược chỉ biết lấy sự đê hèn làm phương liêng, sâu nặng như tình cha con, mẹ con,<br /> tiện để tồn tại, nó bị mọi người trong cơ tình thầy trò đang có nguy cơ bị thui chột ở<br /> quan khinh ghét đề nghị sa thải. May thay một bộ phận lớp trẻ tha hóa nhân cách. Các<br /> nhờ tấm lòng độ lượng của ông Hoàn giám truyện ngắn: Mảnh đạn; Trung du chiều<br /> đốc nâng đỡ nó và cho nó chỗ làm. Nào mưa buồn; Heo may gió lộng; Trăng soi<br /> ngờ nó là đứa ăn cháo đá bát, khi ông Hoàn sân nhỏ; Chọn chồng; Cô giáo chủ<br /> thôi chức giám đốc nó dựng chuyện bôi nhiệm; Đợi chờ; Mất điện; Quê nội; Mẹ<br /> xấu nhục mạ, vu cáo ông, nó bảo ông Hoàn già... đều thể hiện rõ về tinh thần ấy.<br /> “cho nó một thì lột của nó mười” và bảo 2.2. Cuộc sống đô thị trong cảm quan<br /> rằng ông Hoàn là “con dê cụ” đã từng gạ của nhiều người có những ma lực hấp dẫn<br /> gẫm nó (Cái Tý Ngọ). Có nhiều truyện lớn bởi đó là chốn phồn hoa với nhiều cơ<br /> ngắn xuất sắc của nhà văn thành công về hội đủ đầy, tốc độ kinh tế phát triển nhanh,<br /> đề tài này, thể hiện ngay từ các nhan đề: điều kiện sống tốt. Thế nhưng trong nhiều<br /> Chọn chồng, Nhà nhiều tầng, Mất điện, truyện ngắn của Ma Văn Kháng vấn đề<br /> Mẹ và con, Mẹ già, Cô giáo chủ nhiệm, không gian đô thị thực sự gợi mở nhiều<br /> Người giúp việc, Người đánh trống điều xót xa, cay đắng. Trong truyện ngắn<br /> trường, Một chốn nương thân, Bồ nông ở Một chốn nương thân, vợ chồng Huấn và<br /> biển, Trăng soi sân nhỏ, Khách trọ, Tổ Xuân ước ao có được một mái nhà để khỏi<br /> trưởng dân phố, Chuyến xe buýt cuối phải “ăn nhờ ở đậu” nhưng họ đã đi hết cửa<br /> ngày, Chị em gái, Trốn nợ, Nữ họa sĩ vẽ này đến cửa khác chỉ nhận được lời hứa<br /> chân dung... suông. Những giọt nước mắt của Huấn khi<br /> Ma Văn Kháng không chỉ kể lại mà chứng kiến cảnh vợ mình và bà Nông gây<br /> còn phân tích, lý giải luận bàn hết sức sâu chiến ở cơ quan là đỉnh điểm của sự khổ<br /> sắc hùng hồn về toàn bộ bức tranh đời sống nhục. “Huấn có ước ao điều gì quá lớn lao<br /> <br /> 89<br /> ĐỀ TÀI ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TRUY N NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI<br /> <br /> <br /> đâu. Mỗi một miếng ăn, một nơi trú ngụ, sinh trong đời sống thường ngày. Quả thật:<br /> một công việc - nỗi mong muốn nhỏ nhoi “Mảng truyện ngắn viết về cuộc sống<br /> mà sao giống như một công cuộc lớn, phải thành thị của Ma Văn Kháng không phải là<br /> bỏ vào đấy bao nhiêu tâm sức mà vẫn những tiếng reo hân hoan trước sự thăng<br /> không xong, trời hỡi, sao lại khổ cực thế hoa của tình đời, tình người. Đằng sau câu<br /> này!”. Những tưởng cái đói, miếng ăn, sự chữ của những tác phẩm ấy, người đọc<br /> tù túng bởi không gian sống chật hẹp, lối nhận ra tiếng nói ngậm ngùi, cảm khái<br /> sống ích kỷ, tị nạnh… chỉ bắt gặp trong xã chứa đựng tình thương và nỗi buồn mênh<br /> hội 30 - 45 trong những tác phẩm của Nam mông trước một nhân thế đang phai lạt<br /> Cao, Ngô Tất Tố… nào ngờ ở thời hiện nhân tình” [7, tr. 20]. Nhà văn đặc biệt<br /> đại, ngay chốn thị thành điều này lại được quan tâm tới số phận những con người bé<br /> thể hiện riết róng trong sáng tác của Ma nhỏ trong cuộc sống muôn vàn phức tạp<br /> Văn Kháng. Truyện ngắn Trốn nợ gửi tới đan xen hiện nay. Ông lách sâu ngòi bút<br /> người đọc triết lý: “Ôi! Nghèo khổ bần hàn vào chủ đề gia đình với các mối quan hệ<br /> là cái tội cái nợ, là nỗi đau đớn của cả kiếp phức tạp, tác giả cũng dành nhiều trang<br /> người. Của bao kiếp người! Nghèo khổ, cái viết về thân phận người trí thức trong xã<br /> nợ tông đồ! Cái gông xiềng của chúng hội hiện nay, đặc biệt ông dành nhiều tình<br /> sinh! Nhưng để thoát ra khỏi nó mà vẫn là cảm trân trọng yêu thương đối với số phận<br /> người lương thiện đâu có dễ dàng gì!”. người phụ nữ. Từ thân phận của những con<br /> Câu chuyện Thoạt kỳ thủy là nước kể về người nhỏ bé vô danh với cuộc sống mưu<br /> nhân vật Moan sống trong “một căn hộ ở sinh khó nhọc giữa đời thường, thông qua<br /> khu dân cư mới hình thành ở xa xôi tít tịt những câu chuyện vặt vãnh, mè nheo gắn<br /> phía nam thành phố”, nửa đêm thức dậy đi với sinh hoạt hằng ngày từ trong mỗi gia<br /> lấy nước máy nhưng chờ mãi, đợi mãi khi đình ra ngoài xã hội Ma Văn Kháng cất lên<br /> tới lượt mình thì bị mất nước. Nước rửa cả một tiếng nói thâm trầm về lẽ đời về tình<br /> một ngày trời trông đợi ở cả giây phút này người. Ông kêu gọi con người sống chan<br /> đây, dòng nước như dòng đời đang tuôn hòa và đừng đánh mất tình thương yêu<br /> chảy ào ào bỗng dưng tắc nghẹn và rồi bị giữa con người với con người.<br /> tịt hẳn. Cảnh dòng người đông hun hút 2.3. Đến với bức tranh đời sống thành<br /> thùng to, thùng nhỏ xếp hàng chờ nước, thị trong xã hội hiện đại của truyện ngắn<br /> những cuộc dành dật xô xát xảy ra. Đúng là Ma Văn Kháng người đọc vừa chứng kiến<br /> tấn bi kịch của đời thường, Moan thốt lên: những chuyện đời đầy phức tạp “thật lắm<br /> “Chao ôi! Cuộc sống thường nhật giản dị, đa đoan và buồn phiền”. Bên cạnh đó còn<br /> đơn điệu là vậy chứ có gì là phiêu lưu mạo có những mạch khuất lấp của cuộc sống<br /> hiểm đâu mà sao lại lắm kịch tính như vậy, đời thường ẩn chứa một niềm tin tưởng, lạc<br /> hả trời! Đơn giản làm sao cái việc hứng quan của tác giả về sự hồn nhiên và bản<br /> nước mà như neo cả số phận mình vào nó, tính lương thiện của con người thông qua<br /> mà như thấy cả kiếp người vật vã ở đó”. cuộc đời lao động vất vả kiếm sống mưu<br /> Chốn thị thành hiện lên trong từng tác sinh. Nhà văn hy vọng vào những điều tốt<br /> phẩm của Ma Văn Kháng thật phức tạp, đẹp xuất phát từ ý thức, lý trí và tính năng<br /> đầy những bon chen, cạm bẫy. Lối sống lọc động, hướng thiện cái căn cốt tiềm ẩn ở<br /> lừa, tàn nhẫn cùng bao nhiêu thói xấu nảy chiều sâu bản chất con người. Những sắc<br /> <br /> 90<br /> NGUYỄN THỊ THANH XUÂN<br /> <br /> <br /> thái trữ tình trong trang văn của ông toát người trí thức trước gánh nặng cơm, áo,<br /> lên những vẻ đẹp nhân sinh cao cả, là tiếng gạo, tiền và còn biết bao cạm bẫy chằng<br /> reo hân hoan trước sự thăng hoa của tình chịt giữa đường đời. Cuộc sống đô thị thời<br /> đời tình người. Điều đó có khả năng lan tỏa hiện đại thật bộn bề, chen lấn, người trí<br /> và thuyết phục lòng người. Đó là ông Nhân thức biết né tránh đi đâu giữa bão táp cuộc<br /> (Đợi chờ) cả cuộc đời hy sinh, lo lắng và đời. Vì muốn được giữ mình trong sạch<br /> dành tình yêu thương hết mực cho con, nên người trí thức đã rơi vào bi kịch cuộc<br /> mong cho con được hạnh phúc sung sướng. sống. Họ phải chịu biết bao buồn đau, tủi<br /> Là bà cụ Vi (Mẹ già) là bà mẹ luôn sống vì nhục, hạnh phúc bị tước đoạt, thất bại đớn<br /> con, sống nghĩa tình với bà con lối xóm. đau. Vậy nguyên nhân sâu xa là do đâu?<br /> Anh Thiều (Anh thợ chữa khóa) với Đó là do tình thế xã hội đảo điên, cái xấu<br /> “tiếng rao trẻ trung, tựa như lọt ra từ một cái ác lộng hành, những mưu toan đen tối,<br /> cơ thể tràn trề sinh lực và được nuôi thói a dua, xu nịnh vô đạo đức của một số<br /> dưỡng trong nâng niu trìu mến”, anh đã phần tử đội lốt trí thức. Cũng viết về người<br /> “tặng cho đời sống một nốt nhạc nhỏ, góp trí thức nhưng Nguyễn Huy Thiệp thường<br /> vào khúc hòa tấu vui vẻ của đời người”. chỉ thấy ở họ sự đê tiện thối nát và coi đó<br /> Bà cụ Mạ (Người giúp việc) với “một tình là “sự ngu dốt của bọn có học”, còn Ma<br /> yêu thương cao cả, tự nhiên”. Ông Thại Văn Kháng dường như luôn hướng ngòi<br /> (Tóc Huyền màu bạc trắng) là con người bút của mình tới cái chân - thiện - mĩ và tin<br /> “ở trên những buồn phiền, lo âu, ở ngoài rằng nó sẽ tồn tại trong cuộc đời. Nhà văn<br /> những nhọc nhằn đau đớn”. Bà mẹ và vợ tỏ lòng yêu quý, trân trọng và còn kỳ vọng<br /> anh Luyến (Mất điện) sống ngay thẳng, đối với những nhân cách cao đẹp biết gạt đi<br /> sẵn sàng làm việc vì người khác. Chị Hồng những vặt vãnh, vụn vặt đen tối của đời<br /> (Một mình đi trong mưa) dành hết thảy thường để sống đời trong sạch. Đó là thầy<br /> tình thương và sự hy sinh vì chồng vì con. Tụng (Thầy của chúng em) dù cuộc đời<br /> Chú bé Kiểm dẫu bị thiếu thốn, dập vùi gặp nhiều bất hạnh, tai ương, nghiệt ngã<br /> nhưng lòng tràn đầy vị tha và yêu thương nhưng thầy không thể chết vì có sự tiếp sức<br /> kẻ khác, dì ghẻ đối xử tàn tệ thì quyết ra đi cổ vũ của “những gương mặt học trò quen<br /> lập nghiệp, nhưng khi nghe tin dì bị đau thân vây quanh dường bệnh sát vai nhau<br /> yếu Kiểm lại quay trở về thăm hỏi và chăm như một tấm tường liền”. Nam trong<br /> sóc hai em (Kiểm chú bé - con người). Trăng soi sân nhỏ là một con người có<br /> Ông Khang và đứa cháu nội (Bát ngát trời nhân cách cao đẹp, là một nhà văn, nhà báo<br /> xanh) từ tình yêu loài vật “là đặc tính tự có cách sống đúng mực, ngại đua chen<br /> nhiên của con người” tới chân lý làm danh lợi, dửng dưng trước bạc tiền. Ông<br /> người “Sự sung sướng, vui vẻ của ta, rất Huynh (Thầy đàn) là một người tài hoa,<br /> không nên có trên nỗi đau tủi của kẻ sắc sảo, là một kẻ trí thức toàn năng, một<br /> khác”… Trong thế giới nhân vật của Ma kho báu hiểu biết về mọi lĩnh vực trong đời<br /> Văn Kháng, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, sống. Cuộc sống vốn là bức tranh muôn<br /> người trí thức luôn giữ vai trò quan trọng, màu, còn nhiều nỗi đắng cay, ngang trái<br /> là linh hồn và tư tưởng của nhiều tác phẩm. hiện hữu giừa đời thường nhưng những<br /> Nhà văn truyền vào lòng người đọc nỗi trang văn của Ma Văn Kháng vẫn ngời lên<br /> cảm thương sâu sắc, sự cảm thông đối với một niềm tin vào sự tốt lành, tin vào chiều<br /> <br /> 91<br /> ĐỀ TÀI ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TRUY N NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI<br /> <br /> <br /> sâu bản ngã ân tình, thủy chung của con kích bằng sự mô tả sát phạt những hiện<br /> người. Điều đó góp phần làm cho bức tranh thực trái ngang của cuộc sống, có lúc lại<br /> đời sống thêm sinh động, đa sắc màu khiến với một giọng văn thâm trầm, nhẹ nhàng,<br /> con người ta thấy có ý nghĩa và đáng sống nhân hậu, lúc lại "buông thả" mọi chuyện.<br /> hơn giữa cuộc đời. Cuộc sống giữa đời thường còn quá nhiều<br /> 3. Kết luận vất vả, khổ đau, nhọc nhằn thế nhưng ngòi<br /> Ma Văn Kháng hội tụ những nét sắc bút của Ma Văn Kháng luôn thiết tha bày<br /> sảo của văn phong đồng thời những vấn đề tỏ niềm yêu thương và tin tưởng với con<br /> được ông đề cập trong tác phẩm đã nâng người. Ông chắt lọc những gì tinh túy tốt<br /> lên nỗi ám ảnh nhức nhối khôn nguôi. đẹp của con người ẩn chứa sau những đa<br /> Sống trong môi trường đô thị thời kỳ tạp, buồn khổ, trái ngang của cuộc đời.<br /> chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, mối Nhà văn đã có những đóng góp thật mới<br /> quan tâm lớn nhất của nhà văn lúc này là mẻ, nổi bật, đặc sắc trong quan niệm nghệ<br /> số phận con người - những con người nhỏ thuật về con người, góp phần vào sự<br /> bé, bình thường trước thực trạng xã hội nghiệp đổi mới văn học hiện đại.<br /> ngày càng xuống cấp, nhân tình thế thái<br /> đảo điên, thiện - ác, thị - phi khó mà phân TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> biệt rạch ròi, đạo đức luân lý như bị đảo 1. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam<br /> lộn. Ngòi bút của nhà văn đã thực sự bám sau 1975, Nxb ĐH Sư phạm, Hà Nội.<br /> rễ vào cuộc sống hiện thực và ông đã mạnh 2. Nguyễn Thị Huệ (1998), “Tư duy mới về<br /> dạn đứng trên lập trường phê phán, bức nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng<br /> xúc với những tồn đọng, bất cập, tha hóa những năm 80”, Văn học, (2), tr. 51 - 57.<br /> của con người, xã hội. Quan tâm tới mọi 3. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ,<br /> chiều kích của cuộc sống đời thường, mảng in trong Ma Văn Kháng, tiểu thuyết tập 6,<br /> truyện ngắn viết về đề tài thành thị của Ma Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.<br /> Văn Kháng đã mở ra trước mắt người đọc 4. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn chọn lọc,<br /> Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.<br /> một bức tranh toàn cảnh sinh động. Nhà<br /> văn đã lựa chọn một hệ thống giọng điệu 5. Ma Văn Kháng (2008), Trốn nợ (tập truyện<br /> ngắn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.<br /> thống nhất nhưng hết sức biến hóa xuyên<br /> suốt trong các sáng tác của mình. Những 6. Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam<br /> sau 1975: những vấn đề nghiên cứu và giảng<br /> nỗi niềm cảm nhận từ bức tranh cuộc sống,<br /> dạy, Nxb Giáo dục Việt Nam.<br /> những cảnh đời éo le, ngang trái đã tạo nên<br /> 7. Lã Nguyên (2003), “Khi nhà văn đào bới bản<br /> một giọng văn hết sức tha thiết, trầm tư sâu thể ở chiều sâu tâm hồn”, Lời giới thiệu trong<br /> lắng và đầy chiêm nghiệm. Cũng có lúc Ma Văn kháng, truyện ngắn tập 1, Nxb Công<br /> nhà văn cất lên giọng điệu châm biếm đả an Nhân dân, tr. 5 - 30.<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 11/02/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 92<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2