YOMEDIA
ADSENSE
Diễn biến cuộc chiến tranh Triều Tiên(1950-1953)_2
141
lượt xem 21
download
lượt xem 21
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Tham khảo bài viết 'diễn biến cuộc chiến tranh triều tiên(1950-1953)_2', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Diễn biến cuộc chiến tranh Triều Tiên(1950-1953)_2
- Diễn biến cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) 3/Giai đoạn 3:Tái chiếm Nam Hàn Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của Liên hiệp quốc, lực lượng Bắc Hàn tự nhận thấy mình có quân số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không quân và hải quân so với Hoa Kỳ. Để giảm sức ép đối với Vành đai Pusan, Tướng MacArthur, tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp quốc tại Triều Tiên, đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phòng tuyến của Bắc Hàn tại Inchon (인천; 仁川), một thành phố và là hải cảng lớn ven bờ biển tây của Hàn Quốc, gần Seoul. Thủy triều dữ tợn và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm. MacArthur bắt đầu hoạch định chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh khởi sự nhưng Ngũ Giác Đài mạnh mẽ bác bỏ kế hoạch này. Cuối cùng khi ông được phép, MacArthur tập họp Quân đoàn X Hoa Kỳ dưới quyền của Tướng Edward Almond gồm có 70.000 quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1 Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ
- và tăng phái với 8.600 quân người Triều Tiên và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Inchon trong Chiến dịch Chromite. Vào lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các du kích quân Nam Hàn, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo dài trước khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Bắc Hàn có rất ít quân đóng tại Inchon nên lực lượng Hoa Kỳ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ đổ bộ lên Inchon. Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi Quân đoàn X tiến công tràn ngập quân phòng thủ ít hơn và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Bắc Hàn. MacArthur nhanh ***ng tái chiếm Seoul. Quân Bắc Hàn gần như bị cắt đứt, nhanh ***ng rút lui về phía bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quay trở lại 4/Giai đoạn 4:tấn công Bắc Hàn Lực lượng Liên hiệp quốc đẩy lui quân Bắc Hàn ngược qua Vĩ tuyến 38. Mục tiêu của Hoa Kỳ cứu chính phủ Nam Hàn đã đạt được nhưng vì bị quyến rũ bởi sự thành công và viễn cảnh thống nhất Triều Tiên dưới tay chính phủ Lý Thừa Vãn nên lực lượng Liên hiệp quốc tiến quân vào Bắc Hàn. Chuyện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ quyết định đi xa hơn là chỉ đơn thuần "ngăn chặn" mối đe dọa thấy rõ của cộng sản. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm lý về việc tiêu diệt được một quốc gia cộng sản và giải thoát các tù nhân chiến
- tranh. Các lực lượng Liên hiệp quốc vượt qua biên giới vào Bắc Hàn đầu tháng 10 năm 1950. Quân đoàn X Hoa Kỳ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và Iwon. Hai nơi này đã bị quân Nam Hàn tiến công trên bộ chiếm được. Các lực lượng còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân Nam Hàn tiến quân phía bờ tây của Triều Tiên và chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Vào cuối tháng 10, quân đội Bắc Hàn nhanh ***ng tan rã, và quân Liên hiệp quốc bắt được 135.000 tù binh. Cuộc tiến công của Liên hiệp quốc gây quan ngại rất lớn cho Trung Hoa. Họ lo lắng là lực lượng Liên hiệp quốc sẽ không dừng lại ở Sông Áp Lục là ranh giới giữa Bắc Hàn và Trung Hoa và sẽ mở rộng chiến tranh vào Trung Hoa. Nhiều người ở Tây phương bao gồm Tướng MacArthur nghĩ rằng mở rộng chiến tranh vào Trung Hoa sẽ là điều cần thiết. Tuy nhiên, Truman và những nhà lãnh đạo khác không đồng ý, và MacArthur được lệnh là cẩn trọng khi tiến tới biên giới Trung Hoa. Dần dần, MacArthur không còn quan tâm đến lệnh của Tổng thống nữa và cho rằng quân đội Bắc Hàn sẽ được tiếp tế qua các căn cứ tại Trung Hoa cho nên các căn cứ đó phải bị dội bom. Tuy nhiên, trừ một vài dịp hiếm hoi, các máy bay ném bom Liên hiệp quốc vẫn cách xa tầm bay đến Mãn Châu trong suốt cuộc chiến. 5/Giai đoạn 5: Trung Quốc tham chiến
- Trung Hoa cảnh cáo các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ qua các nhà ngoại giao trung lập rằng họ sẽ can thiệp để bảo vệ nền an ninh quốc gia. Truman xem các lời cảnh báo này như "một mưu toan táo bạo để hù dọa Liên hiệp quốc" và không coi trọng nó lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến Đảo Wake để họp ngắn ngủi với MacArthur. Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là không thể nào. MacArthur, theo suy đoán của ông ta, thấy rằng ít rủi ro có một cuộc chiến với Trung Hoa. MacArthur giải thích rằng Trung Hoa đã mất dịp giúp Bắc Hàn xâm lược. Ông ước tính Trung Hoa có 300.000 quân tại Mãn Châu với khoảng từ 100.000-125.000 quân dọc theo Sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Hoa không có lực lượng không quân, vì thế, "nếu Trung Hoa cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc đại tàn sát." MacArthur nhận định rằng Trung Hoa muốn tránh bị thiệt hại nặng nề. Ngày 8 tháng 10 năm 1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38, Chủ tịch Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết Quân chí nguyện Trung Hoa. Bảy mươi phần trăm thành viên của Quân đội Tình nguyện Trung Hoa là quân đội hiện dịch của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Mao ra lệnh quân đội di chuyển đến sông Áp Lục, sẵn sàng vượt sông. Mao Trạch Đông tìm sự trợ giúp của Liên Xô và coi sự can thiệp vào Triều Tiên là một hành động tự vệ cần thiết: "Nếu chúng ta để cho Hoa Kỳ chiếm đóng toàn Triều
- Tiên...chúng ta phải chuẩn bị chờ Hoa Kỳ tuyên chiến với Trung Hoa," ông nói với Stalin như vậy. Thủ tướng Chu Ân Lai được phái đến Moscow để tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại của Mao. Mao trì hoãn trong lúc chờ đợi sự chi viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ cuộc tấn công đã hoạch định từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10. Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Các phi cơ MiG-15 của Nga trong màu sắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một sự thách thức nghiêm trọng đối với các phi công Liên hiệp quốc. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang MiG" (MiG Alley) do các lực lượng Liên hiệp quốc đặt, các phi cơ của Nga giữ ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo (Lockheed F-80 Shooting Stars) cho đến khi các phi cơ F- 86 (North American F-86 Sabre) được khai triển. Người Trung Hoa rất giận dữ trước việc tham chiến có giới hạn của Liên Xô vì họ cứ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không quân toàn diện. Hoa Kỳ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh một khả năng leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến tranh hạt nhân. Quân Trung Hoa đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25 tháng 10 năm 1950 với 270.000 quân dưới quyền tư lệnh của tướng Bành Đức Hoài khiến cho Liên hiệp quốc rất ngạc nhiên vì không lường trước
- được mức độ quân số đông đảo đến như vậy. Tuy nhiên, sau những vụ **ng độ ban đầu, các lực lượng Trung Hoa rút lui vào vùng núi. Các nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc coi sự rút lui của Trung Hoa như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Trung Hoa. Thế nên các lực lượng Liên hiệp quốc tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không đếm x**** gì đến những lời cảnh cáo của Trung Hoa. Tình báo Hoa Kỳ, sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã không hữu hiệu tại Bắc Hàn cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam Hàn trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan. Quân Trung Hoa hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của Trung Hoa gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An-tung ở Mãn Châu, phía bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Bắc Hàn trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày. Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được dấu đi hay ngụy trang.
- Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn hạ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này Cuối tháng 11, Trung Hoa đánh vào phía tây, dọc theo sông Chongchon, và hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn của Nam Hàn và thành công gây một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của Liên hiệp quốc. Sự bại trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử.[37] Tại miền đông, trong Trận hồ nước Chosin, một đơn vị 30.000 người của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của Trung Hoa và chẳng bao lâu bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương tổn 15.000 người. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ cũng bị đánh bại tại trận này và bắt buộc rút lui sau khi gây thiệt hại nặng nề cho sáu sư đoàn quân Trung Hoa.[38] Trong khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh ***ng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách của ông có tựa đề là "How Wars Are Won"
- (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh): Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn vị nhỏ của địch từ một trung đội 50 người đến một đại đội 200 người, bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng lẻ. Trong lúc một đội cắt đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả mặt trước và hai bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc tiến công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu diệt hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Hoa bò lên phía trước đến sườn mở nơi đóng chốt của trung đội kế tiếp và lập lại chiến thuật này. Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Hoa như sau: Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của các lực lượng Liên hiệp quốc.
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn