BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
PHAN THỊ TÂM THANH
DIỄN NGÔN VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
(KHẢO SÁT QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
PHAN THỊ TÂM THANH
DIỄN NGÔN VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
(KHẢO SÁT QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN VĂN TOÀN
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu này
không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 12 năm 2022
Tác giả luận án
PHAN THỊ TÂM THANH
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Văn
Toàn, người đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu để hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các thầy, cô Tổ Bộ môn Văn học Việt
Nam, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đóng góp ý kiến và tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại Khoa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nơi đã cho tôi những cơ
hội học tập và phát triển bản thân trong những năm tháng dưới mái trường này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Tây Nguyên, Khoa Sư
phạm, Bộ môn Văn học đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin được cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và những người đã luôn giúp đỡ tôi
trong suốt những năm học tập vừa qua.
Hà Nội, tháng 12 năm 2022
Tác giả luận án
PHAN THỊ TÂM THANH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Kí hiệu viết tắt Viết đầy đủ
1 TLVĐ Tự Lực văn đoàn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 4
5. Đóng góp mới của luận án ........................................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận án .................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ......................................... 6
1.1. Giới thuyết chung về lý thuyết diễn ngôn ............................................................. 6
1.1.1. Định nghĩa diễn ngôn ........................................................................................ 6
1.1.2. Các khuynh hướng nghiên cứu diễn ngôn ........................................................ 6
1.1.3. Đặc điểm của diễn ngôn văn học ...................................................................... 9
1.1.4. Quan niệm diễn ngôn của luận án ................................................................... 12
1.1.5. Những thao tác phân tích diễn ngôn ............................................................... 14
1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề người phụ nữ trong văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX ....................................................................................................................... 17
1.2.1. Những nghiên cứu chung về vấn đề người phụ nữ ......................................... 17
1.2.2. Những nghiên cứu về vấn đề người phụ nữ từ góc nhìn diễn ngôn ................ 27
Chương 2: QUYỀN LỰC, TRI THỨC PHƯƠNG TÂY VÀ SỰ XUẤT HIỆN
DIỄN NGÔN MỚI VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ ................................................................. 29
2.1. Những điều kiện mới của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX ảnh hưởng tới
chủ thể thuộc địa .......................................................................................................... 29
2.1.1. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây với chủ nghĩa nhân văn và tinh
thần tự do, dân chủ .................................................................................................... 29
2.1.2. Ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới ............... 34
2.1.3. Ảnh hưởng của môi trường giáo dục dưới chế độ thuộc địa........................... 39
2.2. Sự xuất hiện diễn ngôn mới về người phụ nữ và mô hình nữ tính Việt ................. 44
2.3. Mối quan hệ của diễn ngôn nữ quyền với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá
nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá ......................................... 49
Tiểu kết ......................................................................................................................... 54
CHƯƠNG 3: NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ DÂN TỘC TRONG
SÁNG TÁC CỦA PHAN BỘI CHÂU VÀ NHẤT LINH, KHÁI HƯNG ............... 55
3.1. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Phan Bội Châu ............. 55
3.1.1. Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX và nhận thức mới về vấn đề phụ nữ .............. 55
3.1.2. Anh hùng hóa nữ tính và sự kiến tạo người nữ anh hùng trong sáng tác
của Phan Bội Châu .................................................................................................... 60
3.2. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Nhất Linh và
Khái Hưng ................................................................................................................... 72
3.2.1. Văn minh phương Tây và nỗ lực cải cách xã hội, hiện đại hóa dân tộc của Nhất
Linh, Khái Hưng .......................................................................................................... 72
3.2.2. Nam tính hóa nữ tính và sự kiến tạo bản sắc nữ tính mới trong sáng tác
của Nhất Linh, Khái Hưng ........................................................................................ 75
Tiểu kết ......................................................................................................................... 84
Chương 4: NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ CÁ NHÂN TRONG
SÁNG TÁC CỦA NHÀ NHO TÀI TỬ VÀ TRÍ THỨC TÂY HỌC ...................... 85
4.1. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong văn chương nhà nho tài tử
(Trường hợp Tản Đà) .................................................................................................. 85
4.1.1. Tản Đà – sự giao cắt giữa mẫu hình nhân cách nhà nho tài tử và con
người cá nhân tư sản ................................................................................................. 85
4.1.2. Tình yêu ngoài hôn nhân và hình tượng người tri kỷ ..................................... 91
4.2. Xung đột của diễn ngôn truyền thống và diễn ngôn cá nhân trong tiểu
thuyết “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách ................................................................. 97
4.2.1. Chủ đích sáng tác của Hoàng Ngọc Phách và diễn ngôn truyền thống ................. 97
4.2.2. Tiếp nhận của độc giả và diễn ngôn về cá nhân............................................ 105
4.3. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong sáng tác của Nhất Linh
và Khái Hưng ............................................................................................................ 109
4.3.1. Văn minh phương Tây và sự hình thành lối sống đô thị của con người cá
nhân tư sản .............................................................................................................. 109
4.3.2. Giải nhị phân thân/tâm và quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của
người phụ nữ ........................................................................................................... 115
Tiểu kết ....................................................................................................................... 124
CHƯƠNG 5: NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ MẶT TRÁI CỦA
HIỆN ĐẠI HOÁ/ÂU HOÁ TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
VÀ NGUYÊN HỒNG ................................................................................................ 125
5.1. Những mặt trái của hiện đại hoá /Âu hoá dưới góc nhìn của trí thức Nho
giáo và trí thức Tây học ............................................................................................ 125
5.1.1. Mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá dưới góc nhìn của trí thức Nho giáo ........ 125
5.1.2. Mặt trái của hiện đại hoá dưới góc nhìn của trí thức Tây học ...................... 130
5.2. Mô hình nữ tính suy đồi và tha hoá trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng,
Nguyên Hồng và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá ......................... 137
5.2.1. Sự suy đồi của người phụ nữ trong xã hội thượng lưu qua sáng tác của
Vũ Trọng Phụng ...................................................................................................... 137
5.2.2. Sự tha hoá của người phụ nữ dưới đáy xã hội trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng và Nguyên Hồng ............................................................................... 146
Tiều kết ....................................................................................................................... 147
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 153
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong một thời gian dài, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc, nghiên cứu văn học chủ yếu tập trung vào những quan hệ nội tại và xem nhẹ mối quan hệ giữa văn học với ý thức hệ xã hội. Chính trong bối cảnh đó mà hướng nghiên cứu diễn ngôn trong văn học xuất hiện. Nghiên cứu văn học từ góc độ diễn ngôn chủ yếu nghiên cứu tác phẩm trên phương diện tư tưởng, thế giới quan, nghiên cứu phương thức kiến tạo chân lí, kiến tạo bức tranh về thế giới. Đây là kiểu nghiên cứu liên ngành, nó cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng, giữa văn học và văn hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mĩ. Tại các nước Âu Mỹ, diễn ngôn đã trở thành khái niệm trung tâm của các khuynh hướng nghiên cứu đương đại như chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa hậu thuộc địa, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái… Cùng với việc giới thiệu lý thuyết diễn ngôn, nhiều nhà khoa học đã vận dụng nó để phân tích thực tiễn văn học và gặt hái được những thành tựu đáng kể, tiêu biểu như các công trình của Trần Đình Sử, Lã Nguyên, Trần Văn Toàn... Vì vậy, việc đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX được nảy sinh từ quá trình vận động và phát triển trong việc nghiên cứu và tiếp nhận lý thuyết nước ngoài ở Việt Nam.
1.2. Từ đầu thế kỷ XX đến 1945 là “thời kỳ vàng” của lịch sử văn học Việt Nam.
Nằm trong sự giao thoa của hai nền văn hóa Á- Âu, sự va chạm giữa các giá trị văn hóa
Đông - Tây, những xung đột xã hội trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước nửa đầu thế kỷ đã
trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt trong sáng tác văn học giai đoạn này, trong đó có đề
tài người phụ nữ. Cùng với những thay đổi của cơ cấu xã hội, những chuyển động của lịch
sử, văn học dân tộc đã chuyển mình mạnh mẽ để bước sang thời kì hiện đại. Văn học xuất
hiện nhiều khuynh hướng, trào lưu khác nhau, mà ở khuynh hướng, trào lưu nào cũng
hiện diện những cây bút xuất sắc với những tác phẩm xứng đáng được gọi là kiệt tác,
trong đó có nhiều tác phẩm đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp về vấn đề người phụ nữ. Khi các phong trào giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền và phong trào duy tân, giải phóng dân tộc ngày càng lan rộng trong xã hội, vấn đề phụ nữ đã trở thành vấn đề trung tâm của đời sống văn học nghệ thuật, chính trị xã hội, văn hóa và giáo dục. Hình tượng người phụ nữ giờ đây, trở thành điểm quy chiếu cho các vấn đề giai cấp, dân tộc, được phản ánh trên bình diện xã hội, triết học, mĩ học, mang những đặc điểm mới so với người phụ nữ trong văn học trung đại. Vận dụng lý thuyết diễn ngôn để tìm hiểu vấn đề phụ nữ trong văn xuôi
nghệ thuật giai đoạn này, không chỉ giúp nhận diện đặc điểm của giới nữ mà còn mở ra
2
khả năng lý giải cơ chế sáng tạo hình tượng người phụ nữ, khả năng lý giải vì sao người phụ nữ lại được miêu tả như thế trong văn học giai đoạn này? Trong những điều kiện,
hoàn cảnh nào, những nguyên tắc nào đã quy định sự kiến tạo hình tượng người phụ nữ
như thế? Nói cách khác, nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ trong văn học giai đoạn
này là hành trình giải mã cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và diễn giải bản sắc nữ tính của họ. Thực chất chính là phân tích, lý giải cơ chế hình thành phát ngôn về các mặt
giới tính, cả mặt xã hội và sinh học của người phụ nữ.
1.3. Hình tượng người phụ nữ góp phần giúp nhận diện chân dung con người
Việt Nam, nhân cách Việt Nam, văn hóa Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá hệ thống nhân vật nữ trong văn học với tư
cách là những nhân vật chính, những nhân vật tạo nên sự thành công của tác phẩm,
khẳng định sự sáng tạo độc đáo, góp phần làm sáng tỏ tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các nhà văn. Luận án của chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về
người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật nửa đầu thế kỉ XX, nghĩa là nghiên cứu văn
học ở phương diện ý thức xã hội chứ không chỉ ở ý thức nghệ thuật; nghiên cứu ở cấp
độ xã hội chứ không chỉ ở cấp độ cá nhân; nghiên cứu những nguyên tắc chi phối sáng
tác của cả giai đoạn chứ không phải chi phối mỗi tác giả. Việc nghiên cứu đề tài luận án
sẽ giúp cắt nghĩa hệ hình ý thức xã hội, cơ chế văn hóa, môi trường văn hóa và bối cảnh
lịch sử xã hội đã ảnh hưởng thế nào đến việc hình thành diễn ngôn về người phụ nữ trong
văn học giai đoạn này. Kết quả nghiên cứu của luận án giúp nhận diện tính chất đặc thù,
đa dạng của hình tượng người phụ nữ qua hệ thống các diễn ngôn, qua đó thấy được sự
vận động của lịch sử tư tưởng về vấn đề phụ nữ trong văn học qua các thời kỳ, góp phần
nhận diện đóng góp của dòng văn xuôi nghệ thuật giai đoạn 1900 - 1945 trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trong công trình này, chúng tôi chủ yếu vận dụng lý thuyết diễn ngôn của M. Foucault làm công cụ để khảo sát tập trung và có hệ thống cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và mô hình nữ tính mới trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu thuộc các trào lưu, khuynh hướng chính.
Luận án hướng tới những mục đích cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và sự xuất hiện mô
hình nữ tính mới trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
- Chỉ ra tính đặc thù, tính đa dạng của hình tượng người phụ nữ trong mối
3
quan hệ với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá.
- Chỉ ra những đóng góp và cả hạn chế của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX về các phương diện nói trên. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thuyết khái niệm diễn ngôn, đặc trưng của diễn ngôn văn học, các thao tác phân tích diễn ngôn văn học; làm rõ nội hàm của các khái niệm, thuật ngữ này và xem đó là công cụ then chốt trong quá trình nghiên cứu của luận án.
- Chứng minh cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và diễn giải bản sắc nữ tính mới qua việc phân tích các tương quan quyền lực/tri thức và sự giao cắt phức tạp của các tương quan này trong đời sống tư tưởng, văn hóa nửa đầu thế kỉ XX, bằng hệ thống các luận điểm, luận chứng cụ thể.
- Chỉ ra sự vận động trong tư tưởng của từng tác giả, khuynh hướng tư tưởng của thời đại đã tạo nên tính đặc thù, tính đa dạng của hình tượng người phụ nữ qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ
và bản sắc nữ tính mới trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chung của luận án là sáng tác của một số tác giả tiêu biểu trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Chúng tôi không có ý định bao quát toàn bộ tác giả, tác phẩm văn xuôi nghệ thuật giai đoạn này, mà thấy cần thiết phải tập trung vào sáng tác của một số tác giả tiêu biểu để có điều kiện phân tích sâu cơ chế kiến tạo cũng như khái quát được tính đặc thù của hình tượng người phụ nữ đối với mỗi tác giả, tác phẩm, mỗi trào lưu, khuynh hướng.
Chúng tôi tiến hành lựa chọn một số tác giả văn xuôi tiêu biểu ở mảng đề tài viết về phụ nữ thuộc các đối tượng được phản ánh khác nhau (phụ nữ bình dân, nghèo khổ, phụ nữ thượng lưu). Cụ thể, chúng tôi khảo sát các sáng tác đề cập trực tiếp đến vấn đề người phụ nữ trong mối quan hệ với các diễn ngôn thời đại và có chứa những nét biến đổi cơ bản trong quan niệm về người phụ nữ so với những sáng tác văn học trong quá khứ, đó là truyện ký và tiểu thuyết của Phan Bội Châu, truyện và ký sự của Tản Đà, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, truyện ngắn và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng.
4
Vấn đề người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một vấn đề lớn. Do giới hạn của một luận án nên chúng tôi xin phép tạm thời không đưa vào khảo sát chính sáng tác của một số tác giả ở miền Trung và miền Nam như Phan Thị Bạch Vân, Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hoà, Hồ Biểu Chánh,… mà chỉ đề cập đến như sự liên hệ, mở rộng để so sánh nhằm làm sáng rõ vấn đề trọng tâm của luận án.
Phạm vi nghiên cứu tuy đã được giới hạn nhưng vẫn đảm bảo tính phổ quát,
tính hệ thống của đề tài.
Về cơ sở lý luận, để giải quyết vấn đề đặt ra trong luận án, chúng tôi vận dụng chủ yếu lý thuyết diễn ngôn theo quan điểm của M. Foucault làm công cụ để xem xét vấn đề người phụ nữ vừa như một thực tại được phản ánh bằng ngôn ngữ nghệ thuật, vừa là cái biểu đạt cho văn hóa của một thời đại, được nhìn nhận như một thành tố của toàn bộ cấu trúc văn hóa xã hội. 4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài luận án đề ra, chúng tôi sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: nhằm định hình những đặc trưng cơ bản của mô hình nữ tính mới thông qua hệ thống các diễn ngôn cũng như xem xét sự vận động của vấn đề phụ nữ trên cả hai bình diện đồng đại và lịch đại.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Dựa vào một số khái niệm của thi pháp học để thấy được đặc điểm riêng về hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của từng tác giả, từng khuynh hướng, trào lưu là một việc làm cần thiết, bổ sung giá trị thẩm mĩ bên cạnh ý nghĩa xã hội học cho luận án khi nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: để nghiên cứu các quy tắc tư tưởng xã hội chìm sâu, hữu thức hoặc vô thức; các yếu tố xã hội, văn hoá, chính trị đã chi phối quá trình sáng tác của nhà văn, cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng, giữa văn học và văn hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mĩ.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: để thấy được tính chất ổn định cũng như biến đổi của hình tượng người phụ nữ, không thể không tiến hành so sánh, đối chiếu các sáng tác của cùng một tác giả, sáng tác của các tác giả ở các trào lưu, khuynh hướng khác nhau ở cả hai bình diện đồng đại và lịch đại.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thao tác để bổ trợ cho các phương pháp
nghiên cứu trên:
- Thao tác phân tích, tổng hợp: để phân tích các tương quan tri thức/quyền lực, sự biến đổi của khung tri thức thời đại, sự dịch chuyển của cơ cấu xã hội, các
5
loại hình tác giả,… và ảnh hưởng của chúng đối với sự hình thành diễn ngôn về người phụ nữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ khái quát thành những nhận định chung về cơ chế tạo lập cũng như mô hình nữ tính mới trong văn xuôi nghệ thuật nửa đầu thế kỉ XX.
- Thao tác thống kê, phân loại: để chọn lựa một số chi tiết nghệ thuật quan trọng nhằm làm rõ đặc trưng của hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm phục vụ cho mục đích nghiên cứu. 5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án là một trong những công trình chuyên biệt đầu tiên vận dụng lí thuyết diễn ngôn để nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của một số tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Luận án chỉ ra cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ qua việc phân tích các tương quan quyền lực/tri thức và sự giao cắt phức tạp của các tương quan này trong đời sống tư tưởng, văn hóa nửa đầu thế kỉ XX.
- Luận án diễn giải bản sắc nữ tính mới trong mối quan hệ với diễn ngôn dân tộc,
diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá.
- Luận án cung cấp thêm tư liệu cũng như tiền đề để nghiên cứu vấn đề diễn
ngôn về người phụ nữ trong văn học. 6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 5 chương: Chương 1. Tổng quan về đề tài nghiên cứu Chương 2. Quyền lực/ tri thức phương Tây và sự xuất hiện diễn ngôn mới về
người phụ nữ
Chương 3. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Phan Bội
Châu và Nhất Linh, Khái Hưng
Chương 4. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong sáng tác của nhà nho
tài tử và trí thức Tây học
Chương 5. Người phụ nữ và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá
trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng
6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thuyết chung về lý thuyết diễn ngôn
1.1.1. Định nghĩa diễn ngôn
Diễn ngôn (discourse) là một thuật ngữ được đề xuất bởi các nhà lí luận phương
Tây thế kỉ XX. Khó để đưa ra một định nghĩa thông suốt về khái niệm diễn ngôn vì nội
hàm phức tạp và không ngừng được mở rộng của nó. Theo từ điển mở
http://www.wikipedia.org, diễn ngôn được hiểu là “sự giao tiếp hay tranh luận bằng
ngôn ngữ nói hay viết. Diễn ngôn còn có thể được gọi bằng những tên khác như hội
thoại, tranh luận hay chuỗi lời nói”. Theo Collins Concise English dictionary (1988),
thì diễn ngôn được hiểu với những hàm nghĩa như sau: “Thứ nhất là sự giao tiếp bằng
lời nói, nói chuyện, hội thoại. Thứ hai là sự triển khai một vấn đề nào đấy bằng cách
nói hoặc viết theo một trật tự. Thứ ba, các nhà ngôn ngữ học thường sử dụng thuật ngữ
diễn ngôn để chỉ một đơn vị của văn bản – đơn vị ngôn ngữ lớn hơn câu” [82; tr.7]. Dù
có nhiều định nghĩa khác nhau, song hiểu một cách tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn
giao tiếp của con người trong xã hội, biểu hiện qua ngôn ngữ. Diễn ngôn là ngôn ngữ
trong hoạt động, ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Nói đến diễn ngôn là nói đến
những phương thức hoặc quy tắc đặc trưng của việc tổ chức hoạt động ngôn từ.
Diễn ngôn được tạo nên từ tri thức và những quan hệ quyền lực đa dạng trong cuộc
sống. Diễn ngôn đến lượt nó, cũng là phương cách tạo lập nên tri thức, cùng với
những thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể và các mối quan hệ quyền lực.
Bởi vậy sẽ không có tri thức nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn khách quan. Xét
đến cùng, mọi diễn ngôn đều là sản phẩm của văn hóa, xã hội.
1.1.2. Các khuynh hướng nghiên cứu diễn ngôn
Trong lí luận hiện nay có 3 khuynh hướng nghiên cứu diễn ngôn: ngữ dụng học
do các nhà ngữ dụng đề xuất, lí luận văn học do M.Bakhtin đề xuất và xã hội học do
M.Foucault khởi xướng.
Thứ nhất là hướng nghiên cứu diễn ngôn của các nhà ngôn ngữ học. Nhìn
chung đối với các nhà ngôn ngữ học, nghiên cứu diễn ngôn chính là nghiên cứu thực
tiễn ngôn từ, tức là nghiên cứu ngôn từ trong giao tiếp, ngôn từ trong sử dụng, ngôn từ
trong ngữ cảnh. Việc nghiên cứu diễn ngôn của các nhà ngôn ngữ học được xem như
là một phản ứng với ngôn ngữ học truyền thống vốn chỉ tập trung vào những đơn vị
thành tố và cấu trúc câu. Trong khi các nhà ngôn ngữ học truyền thống cho rằng điều
7
quan trọng nhất đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ là nghiên cứu câu thì những công
trình nghiên cứu về diễn ngôn lại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mô tả khả năng
giao tiếp; nhấn mạnh khả năng của chúng ta trong việc kết hợp các câu lại với nhau,
liên kết chúng một cách mạch lạc theo chủ đề của diễn ngôn. Các nhà phân tích diễn
ngôn chỉ ra rằng, hiếm khi một người giao tiếp với người khác bằng những câu đơn lẻ.
Mặt khác, nếu chỉ lắp ghép các câu đúng ngữ pháp với nhau thì ta vẫn chưa thực hiện
một hoạt động giao tiếp thành công, những kiến thức về hội thoại trong liên kết câu và
kết nối với ngữ cảnh phù hợp là một điều kiện cần thiết để giao tiếp thành công.
Thứ hai là hướng nghiên cứu diễn ngôn của các nhà nghiên cứu văn học do M.
Bakhtin đề xuất. Bakhtin không đồng ý với Saussure chỉ dừng lại phân biệt ngôn ngữ
và lời nói. Trong các công trình Những vấn đề thi pháp Dostoievski, Mĩ học sáng tạo
ngôn từ, Bakhtin cho rằng phát ngôn chính là đơn vị giao tiếp của lời nói bởi bản thân
lời nói chỉ tồn tại trong thực tế dưới hình thức những phát ngôn cụ thể của những
người nói riêng lẻ. Chính phát ngôn thể hiện bản chất sống động của ngôn ngữ trong
thực tiễn sử dụng vì qua những phát ngôn như thế, bản thân đời sống nhập vào ngôn
ngữ. Nếu Saussure cho rằng sau ngôn ngữ chung của xã hội (ngôn ngữ trong từ điển)
là đến lời nói cá nhân thì Bakhtin lại cho rằng lời nói của cá nhân không chỉ phụ thuộc
vào vốn ngôn ngữ chung của xã hội mà còn phụ thuộc vào môi trường văn hóa của
từng thời kỳ lịch sử. Nếu Saussure cho rằng, ngoài cấu trúc ra, các yếu tố khác như
hoàn cảnh lịch sử, ngữ cảnh… đều không quan trọng trong việc quy định nghĩa của
diễn ngôn thì Bakhtin cho rằng ý nghĩa của diễn ngôn, phương thức diễn ngôn (dùng
từ gì, dùng như thế nào?) không chỉ do cấu trúc ngôn ngữ hay do cá tính người phát
ngôn quy định mà còn do ngữ cảnh, do các quan hệ lời nói trong xã hội quy định. Diễn
ngôn gắn liền với kí hiệu nên gắn liền với xã hội, nó mang tính xã hội. Con người phải
nói theo quy tắc ngôn ngữ nhất định nếu muốn tồn tại trong xã hội. Tóm lại, trong
quan niệm của Bakhtin, diễn ngôn là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, ngôn
ngữ trong sử dụng, có tư tưởng, có tính hoạt động xã hội, tính thực tiễn. Diễn ngôn là
lời nói phát ra trong thực tế chứ không phải là ngôn ngữ trong từ điển, nó không thể
tách rời ý thức chủ quan của người nói, nó là sản phẩm của giao tiếp, là sản phẩm của
xã hội. Bản chất của diễn ngôn là mang tính đối thoại bởi nó là mảnh đất giao cắt, hội
tụ, tranh biện của những tư tưởng, quan niệm khác nhau về thế giới. Mỗi phát ngôn
của chúng ta chỉ được hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại, thường xuyên
và liên tục với những phát ngôn của các cá nhân khác. Trong Những vấn đề thi pháp
8
Dostoievski, M.Bakhtin có một chương chuyên nghiên cứu ngôn ngữ của Dostoievski.
Mở đầu chương này, ông tuyên bố muốn bàn đến lời văn, tức là ngôn ngữ trong tính
toàn vẹn cụ thể và sinh động của nó chứ không phải ngôn ngữ với tính cách là đối
tượng chuyên biệt của ngôn ngữ học. Cái gọi là chỉnh thể ngôn ngữ mà M. Bakhtin
hay dùng thực chất là diễn ngôn. Sự phân tích ngôn ngữ của Bakhtin thực chất là phân
tích diễn ngôn, ông nghiên cứu phần nội dung, ý nghĩa và sức mạnh do ngôn ngữ
mang lại. M. Bakhtin nêu xu hướng nghiên cứu “siêu ngôn ngữ học”, tức là lấy diễn
ngôn (lời nói, văn bản) làm đối tượng nghiên cứu, hình thành khuynh hướng “diễn
ngôn học”, mở ra một hướng mới trong cách tiếp cận ngôn từ văn học.
Thứ ba là hướng nghiên cứu diễn ngôn của các nhà xã hội học mà tiêu biểu là
M. Foucault. Foucault đã có công trong việc đưa diễn ngôn trở thành một khái niệm
thực sự có ý nghĩa trong lịch sử tư tưởng thế kỷ XX. Cái mà Foucault bận tâm không
phải là ý nghĩa nào ẩn chứa trong diễn ngôn mà là những quy tắc đã chi phối việc diễn
ngôn ra đời và vận hành trong đời sống. Trong các công trình như Kỉ luật và Trừng
phạt (Disipline and Punish), Lịch sử tính dục (The History of Sexuality), ông chỉ ra
mối quan hệ giữa tri thức và quyền lực trong việc kiến tạo ra diễn ngôn; tri thức hay
diễn ngôn chẳng qua chỉ là những sản phẩm cũng như công cụ để thực thi quyền lực.
Foucault cho rằng các nhóm thống trị xã hội thông qua diễn ngôn để tạo ra tri thức, tạo
ra chân lí, để áp đặt lên các nhóm bị trị những lĩnh vực tri thức đặc thù, những nguyên
tắc và giá trị của mình nhằm muốn hợp pháp hóa quá trình trị vì thiên hạ của mình.
Chính vì thế, những tri thức do diễn ngôn kiến tạo nên không thể mang tính khách
quan, trung tính bởi nó luôn là sản phẩm của các quan hệ quyền lực. Trong Khảo cổ
học tri thức (The Archaeology of Knowledge), theo Foucault, thực tại dù có trước,
song thực tại ấy chỉ có thể tái tạo thành diễn ngôn thì mới trở thành ý thức của con
người, con người sẽ hành xử với thế giới theo nội dung của diễn ngôn chứ không phải
theo bản chất tự nhiên, vốn có của nó. Thế giới khách quan vẫn tồn tại nhưng chúng
chỉ có nội dung, ý nghĩa cụ thể thông qua diễn ngôn. Đến lượt mình, mọi diễn ngôn
đều là kết quả của các quan hệ tri thức/quyền lực trong một thời đại cụ thể. Foucault
định nghĩa diễn ngôn như sau: “Thay vì giảm dần các nét nghĩa mơ hồ của từ diễn
ngôn, tôi tin rằng thực tế tôi đã bổ sung thêm ý nghĩa của nó: lúc thì coi nó như một
khu vực chung của tất cả các nhận định, lúc thì coi nó như một nhóm các nhận định
được cá thể hoá, và đôi khi lại xem nó như một hoạt động được qui ước nhằm tạo nên
một tập hợp các nhận định (statement)” [126, tr.47]. Như vậy, Foucault không nói diễn
9
ngôn về mặt ngữ học, mà nói trên ý nghĩa triết học và tư tưởng hệ. Theo diễn giải của
tác giả Trần Văn Toàn, định nghĩa diễn ngôn của Foucault được hiểu theo ba cấp độ.
Thứ nhất, diễn ngôn bao gồm tất cả các nhận định nói chung (tất cả các phát ngôn hoặc
văn bản mang nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực). Ở đây, diễn ngôn
được hiểu là công cụ để con người tri nhận thế giới, việc lựa chọn diễn ngôn nào sẽ
quy định cách hiểu của chúng ta về thế giới hiện thực. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
hiện thực là quan hệ lựa chọn, chứ không phải là quan hệ phụ thuộc. Thứ hai, diễn
ngôn là một nhóm các nhận định được cá thể hóa. Nghĩa là các nhận định được đặt
chung vào một nhóm khi chúng được tổ chức theo một quy ước chung, có một mạch
lạc và hiệu lực chung. Theo đó, chúng ta có thể sử dụng các cách diễn đạt như diễn
ngôn nữ quyền, diễn ngôn thực dân, diễn ngôn thuộc địa, diễn ngôn dân tộc… Đơn vị
của diễn ngôn có thể lớn hoặc nhỏ, thuộc các cấp độ khác nhau, diễn ngôn lớn như y
học lâm sàng, nhỏ như bệnh tâm thần… Thứ ba, diễn ngôn là một hoạt động được
kiểm soát/điều chỉnh nhằm tạo nên một tập hợp các nhận định. Theo ý nghĩa này thì
diễn ngôn còn bao gồm các nguyên tắc, cơ chế chi phối đến sự hình thành và vận hành
của một tập hợp các nhận định nào đó. Cơ chế kiểm soát/điều chỉnh diễn ngôn bao
gồm hệ thống loại trừ từ bên ngoài (external system of exclusion) và hệ thống loại trừ
bên trong (internal system of exclusion).
Như vậy, cả Foucault và Bakhtin đều là nhà lịch sử, nhà tư tưởng, nhà triết học
chứ không đơn thuần là nhà nghiên cứu văn học nên cả hai ông đều nhìn ngôn ngữ ở
góc độ xã hội, ngôn ngữ là sản phẩm của tư tưởng hệ. Họ khẳng định rằng chính hình
thái ý thức xã hội, trạng thái tri thức của con người và cơ chế quyền lực trong xã hội
đã trở thành cái logic nội tại, cái cơ chế thầm kín chi phối cách sử dụng ngôn từ của
con người.
1.1.3. Đặc điểm của diễn ngôn văn học
Về cơ bản, diễn ngôn văn học cũng mang những đặc điểm của diễn ngôn nói
chung, tuy nhiên, có một số đặc điểm thể hiện tập trung hơn, nổi bật hơn ở diễn ngôn
văn học. Trước hết, diễn ngôn văn học là hình thái nghệ thuật của tư tưởng. Diễn ngôn
văn học là một hình thái nghệ thuật ngôn từ trong đó có sự thống nhất hữu cơ giữa
hình thức và nội dung, giữa hình thức và tư tưởng. Ở diễn ngôn văn học, hệ thống diễn
đạt bao gồm hình tượng, loại hình ngôn ngữ, các phương tiện tu từ đều gắn với những
nội dung văn hóa, tư tưởng nhất định. Trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và triết học
ngôn ngữ, khi nghiên cứu về hình thức và tư tưởng của văn học, M. Bakhtin cho rằng
10
mọi ngôn ngữ đều là ngôn ngữ ý thức hệ. Các nguyên tắc thế giới quan sẽ chuyển
thành các nguyên tắc nghệ thuật chi phối hình thức biểu đạt của ngôn ngữ. Diễn ngôn
văn học gắn chặt với lịch sử tư tưởng, nó là một bộ phận của hệ hình tư tưởng, nó chịu
sự chi phối của các hình thái ý thức xã hội, của ý thức hệ, của triết học, văn hóa, thẩm
mĩ… Chẳng hạn cùng viết về số phận người kĩ nữ, song do lập trường tư tưởng, ý thức
hệ khác nhau, mỗi tác giả sẽ tạo ra những cấu trúc diễn ngôn khác nhau. Với Xuân
Diệu (Lời kĩ nữ), người kĩ nữ mang số phận bi kịch: cô đơn, không lối thoát. Ngược
lại, trong cái nhìn của Tố Hữu – một nhà cách mạng – thì người kĩ nữ (Tiếng hát sông
Hương) hoàn toàn có thể thay đổi số phận của mình, hòa nhập vào cuộc sống mới và
có một tương lai tươi sáng nhờ cách mạng.
Tư tưởng thời đại chi phối đến việc xây dựng diễn ngôn văn học. Mỗi thời đại
với tư tưởng khác nhau sẽ tạo nên khung tri thức khác nhau và từ đó sẽ tạo nên diễn
ngôn khác nhau. Trước đây, quan niệm chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, là tương lai
đáng mơ ước đã tạo ra một loạt diễn ngôn kiểu “trời mỗi ngày lại sáng” như trong
thơ Tố Hữu: “Năm năm mới bấy nhiêu ngày – Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều –
Dân có ruộng dập dìu hợp tác – Lúa mượt đồng ấm áp làng quê” (Ba mươi năm đời
ta có Đảng). Ngược lại, khi quan niệm về Cách mạng xã hội chủ nghĩa thay đổi,
không còn đơn giản, một chiều như thế thì một loạt diễn ngôn nhận thức lại kiểu như
Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,… cho thấy những hậu
quả đáng tiếc của chiến tranh. Tư tưởng thay đổi, hệ hình tư duy thay đổi sẽ dẫn đến
cách kiến tạo nhân vật, cách sử dụng từ ngữ, sử dụng phương thức tu từ của diễn
ngôn,… của văn học cũng thay đổi. Dưới chế độ phong kiến, nhân vật trung tâm của
những diễn ngôn văn học mang nặng ý thức hệ phong kiến thường là những “con đẻ”
của chế độ, một lòng phụng sự, bảo vệ lợi ích của chế độ ấy, những con người mang
nặng đạo đức và lễ giáo phong kiến như người quân tử, liệt nữ, trượng phu, tiết phụ.
Ngược lại vào thời điểm chế độ phong kiến suy vong, ý thức hệ phong kiến lung lay,
thì kiểu nhân vật trung tâm của văn học lúc này là những “đứa con phản nghịch” của
chế độ ấy như Từ Hải (Truyện Kiều), Bảo Ngọc, Đại Ngọc (Hồng lâu mộng), Thôi
Oanh Oanh (Oanh Oanh truyện), Lâm Xung (Thủy hử truyện)… Tóm lại, diễn ngôn
văn học là hình thức nghệ thuật của tư tưởng; nó là hình thức sử dụng ngôn từ để
hình tượng hóa, tri thức hóa tư tưởng của thời đại. Diễn ngôn chịu sự quy định của hệ
thống tri thức xã hội và thay đổi theo sự thay đổi của hệ thống tri thức xã hội. Qua
diễn ngôn văn học, ta có thể thấy được sự phát triển của lịch sử tư tưởng.
11
Thứ hai, diễn ngôn văn học là sự kiến tạo những thế giới quan mới. Cũng giống
như diễn ngôn nói chung, chức năng của diễn ngôn văn học là kiến tạo nên tri thức về
đời sống theo một quan niệm tư tưởng hệ nhất định. Điều đáng lưu ý là diễn ngôn văn
học không chỉ hướng tới kiến tạo một hiện tượng đời sống cụ thể, một ý kiến riêng lẻ
về đời sống mà là kiến tạo ra những nguyên tắc mới trong cách nhìn nhận về đời sống,
về con người. Trước đây, người ta tin rằng có một thực tại là cái tồn tại khách quan
trong vũ trụ, không phụ thuộc vào nhận thức của con người. Niềm tin này đã dẫn đến
tham vọng dùng văn chương để phản ánh thế giới một cách chân thực. Dưới ánh sáng
của lý thuyết diễn ngôn, các học giả đương đại cho rằng, thế giới là một hệ thống kí
hiệu, nó được tạo nên thông qua các diễn ngôn, không có cái nằm bên ngoài diễn
ngôn, bên ngoài văn bản. Qua diễn ngôn văn học, thực tại hiện lên không phải như nó
vốn có, mà bị biến dạng, thay đổi đi rất nhiều. Việc nhà văn miêu tả thế giới không
bao giờ là một hành động vô tư, chỉ thuần túy làm nhiệm vụ cung cấp thông tin mà nó
luôn bị nhào nặn bởi những quan hệ quyền lực, bởi ý thức hệ nhất định. Trong Đông
phương luận, Edward Said đã chỉ ra rằng các nhà văn du kí, các thi sĩ, tiểu thuyết gia
thế kỉ XIX đã kiến tạo nên một hình ảnh phương Đông như một thứ thuộc địa man di
mọi rợ, phi nhân tính. Với lập trường của kẻ thống trị, mong muốn hợp thức hoá quá
trình xâm lược các nước thuộc địa, các nhà văn đã kiến tạo nên hình ảnh một phương
Đông như một kho tàng của tri thức, kinh nghiệm phương Tây, chứ không phải là một
xã hội, một nền văn hóa vận hành theo kiểu riêng của nó. Có thể nói, ở một phương
diện nào đó, chính diễn ngôn văn học với việc kiến tạo nên thế giới quan mới đã có
khả năng thay đổi thói quen cảm nhận và đánh giá về thế giới của người đọc. Diễn
ngôn văn học tìm cách tạo ra ý nghĩa mới về sự vật, đem lại cho con người cách nhìn
mới về thế giới và vũ trụ. Những đánh giá này sẽ quy định cách lựa chọn từ ngữ, điểm
nhìn, giọng điệu, nhân vật và cả người nghe. Diễn ngôn văn học giải phóng con người
ra khỏi sự chuyên chế của thói quen.
Thứ ba, diễn ngôn văn học là hình thái phủ định trạng thái vô thức xã hội để
hướng tới một ý thức tự giác mới. “Vô thức xã hội” là khái niệm do Eric Fromm đưa ra,
thường được hiểu là một thế giới tư tưởng, tình cảm chưa được lên tiếng, chưa có tiếng
nói công khai trong xã hội, là tình trạng bị mất tiếng nói của các cá thể người bị đè nén.
Mỗi xã hội chỉ cho phép một số tư tưởng, tình cảm nào đó có thể đạt đến trình độ ý thức,
còn một số khác chỉ tồn tại trong trạng thái vô thức. Sự tiến bộ của đời sống đòi hỏi sự
cần thiết phải biến cái vô thức thành ý thức và các nhà văn phải góp phần vào việc thực
12
hiện sứ mệnh cao cả này, phải giúp con người ý thức được cái vô thức của mình, đưa
trạng thái tư tưởng của con người từ vô thức trở thành ý thức. Với AQ chính truyện, Lỗ
Tấn đã phơi bày phép thắng lợi tinh thần, sự vô thức của đám đông đã kìm hãm bước
tiến của một dân tộc vĩ đại. Phép thắng lợi tinh thần, luôn tự đánh lừa mình bằng ảo
tưởng này đâu chỉ là quốc dân tính của người Trung Hoa mà còn là nhân loại tính, nó
tồn tại khắp mọi nơi, trong mỗi chúng ta ai cũng có một chút AQ trong mình. Câu
chuyện Bộ áo mới của hoàng đế đã cho thấy quyền lực và nguyên tắc cấm kị khiến cho
cái sự thực không được nói ra: “Vô thức xã hội là một khái niệm mang nội dung tư
tưởng xã hội rất sâu sắc và nhân văn. Sự tiến bộ và lành mạnh của đời sống đòi hỏi biến
cái vô thức thành ý thức. Và đây là cội nguồn của diễn ngôn văn học. Nếu diễn ngôn văn
học chỉ nói theo cơ chế xã hội cho phép thì văn học ấy chỉ có thể là văn chương tuyên
truyền, giáo huấn, chỉ nói được những gì bề ngoài, phổ thông, chứ chưa phải những gì
sâu sắc có tính nhân loại” [99, tr.180]. Sứ mạng của khoa học và nghệ thuật là đưa trạng
thái tư tưởng của con người từ vô thức trở thành ý thức. Có thể nói với sứ mệnh phủ
định trạng thái vô thức xã hội để hướng tới một ý thức tự giác mới, diễn ngôn văn học
đã góp phần quan trọng vào việc làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nhân văn hơn.
Thứ tư, diễn ngôn văn học luôn tự phủ định mình, tạo ra cái khác mình, chống
lại sự sáo mòn, khuôn mẫu. Sự vận động của văn học suy cho cùng là sự vận của diễn
ngôn, hình thái diễn ngôn này phủ định hình thái diễn ngôn trước nó. Ở phương Tây,
diễn ngôn của chủ nghĩa lãng mạn với sự biểu cảm, tinh tế đã thay thế cho diễn ngôn
quy phạm, sáo mòn của chủ nghĩa cổ điển, diễn ngôn của chủ nghĩa hiện thực thay thế
diễn ngôn của chủ nghĩa lãng mạn. Diễn ngôn hiện thực kiểu Nam Cao, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… đối lập với diễn ngôn lãng mạn của tiểu
thuyết TLVĐ với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… Diễn ngôn mới ra đời thay thế
cho diễn ngôn giai đoạn trước đó.
1.1.4. Quan niệm diễn ngôn của luận án
Trên cơ sở lựa chọn, kết hợp những kiến giải về diễn ngôn của M. Bakhtin và
M. Foucault, chúng tôi đưa ra quan niệm diễn ngôn của luận án, làm cơ sở lý thuyết
cho việc triển khai đối tượng nghiên cứu của mình như sau:
Thứ nhất, diễn ngôn là một cấu trúc liên văn bản, liên chủ thể. Diễn ngôn căn
bản không phải là các văn bản cụ thể, các loại biểu đạt các nội dung cụ thể mà là cái
cơ chế tạo thành các văn bản cụ thể ấy; nó chính là cái nguyên tắc ẩn chìm chi phối sự
hình thành các văn bản như là sự kiện xã hội. Việc ai nói, nói cái gì và nói như thế nào
13
bị kiểm soát chặt chẽ bởi những cơ chế quyền lực, những luật lệ bên trong và bên
ngoài diễn ngôn. Điều này khiến cho chủ thể phát ngôn không còn là những chủ thể tự
do biểu lộ những ý kiến cá nhân, mà bị hạn chế và trói buộc trong một khung diễn
ngôn có trước.
Thứ hai, diễn ngôn là sản phẩm của môi trường sinh thái văn hóa. Diễn ngôn
không chỉ chịu sự chi phối của quy luật ngôn ngữ mà còn chịu sự chi phối của đời
sống, của quy ước xã hội. Mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền văn hóa, mỗi thể chế chính
trị xã hội có một quy ước thực tiễn diễn ngôn nhất định. Chỉ trong những quy ước và
chuẩn mực được mọi người đặt ra, được điều chỉnh và thừa nhận, diễn ngôn mới được
hình thành và vận hành: “Một người không phải bất cứ lúc nào, ở đâu, muốn nói cái gì
thì nói” [99, tr.176]. Mỗi khi môi trường sinh thái văn hóa thay đổi, diễn ngôn cũng sẽ
thay đổi. Chính vì vậy, qua mỗi diễn ngôn, ta có thể thấy bóng dáng của xã hội, của
thời đại lịch sử mà diễn ngôn đó ra đời.
Thứ ba, diễn ngôn là sự kiến tạo thế giới theo một quan niệm, tư tưởng hệ nhất
định. Trong tác phẩm Khảo cổ học tri thức, M. Foucault không phủ nhận rằng có một
thực tại khách quan tồn tại trước con người, vấn đề là chúng ta không cách nào chạm
được vào thế giới khách quan đó một cách trực tiếp; ta chỉ có thể biết về nó một cách
có hệ thống và có ý nghĩa thông qua diễn ngôn. Điều này có nghĩa là không có một trật
tự nội tại nào của thế giới ngoài cái trật tự mà ta áp đặt lên thế giới thông qua sự miêu
tả bằng ngôn ngữ về nó. Phân tích diễn ngôn cần thiết phải chỉ ra được sự kiến tạo cái
thực bởi các cấu trúc diễn ngôn.
Thứ tư, diễn ngôn là một cấu trúc biểu nghĩa khái quát mang nội hàm văn hóa,
ý thức hệ. Diễn ngôn là một cấu trúc biểu nghĩa, nó có tầng bậc của nó, nó được tạo
thành từ các cặp đối lập cơ bản. Trường tri thức của thời đại được tạo thành từ những
mô hình khái quát với những cặp đối lập nổi lên. Tất cả các mô hình biểu nghĩa (nhỏ là
một tác phẩm, lớn là một nền văn hóa) đều có thể phân tích dưới dạng cấu trúc này.
Từ những phân tích nói trên, chúng tôi tạm rút ra quan niệm về diễn ngôn như
sau: Diễn ngôn là những tổ chức ký hiệu, những cấu trúc ngôn ngữ mang nội dung tư
tưởng hệ, thể hiện nhãn quan giá trị, hệ thống quan niệm về thực tại của một thời đại,
của các nhóm xã hội khác nhau. Nó là một cấu trúc liên văn bản, liên chủ thể; một sản
phẩm của môi trường sinh thái văn hóa, nó chứa đựng bên trong một cấu trúc biểu
nghĩa khái quát mang nội hàm văn hóa, ý thức hệ. Nói đến diễn ngôn là ta nói đến một
sự kiện ngôn ngữ, đồng thời là một sự kiện xã hội, một sự kiện của văn hóa tư tưởng;
14
là cách kiến tạo thế giới bằng ngôn từ và cách kiến tạo này chịu sự chi phối của một
quan niệm tư tưởng, một ý thức hệ nhất định. Diễn ngôn gắn chặt với lịch sử tư tưởng,
là một hình thái để nắm bắt tư tưởng. Đi vào nghiên cứu diễn ngôn đòi hỏi phải khảo
cổ học tri thức để khám phá cơ chế sinh thái văn hóa đã sản sinh ra nó.
Có nhiều cách phân loại diễn ngôn tùy thuộc vào các tiêu chí khác nhau. Nếu
dựa vào chủ đề diễn ngôn, có thể chia diễn ngôn thành các loại: diễn ngôn về con
người, diễn ngôn về chiến tranh, diễn ngôn về lịch sử, diễn ngôn về văn hóa, diễn ngôn
về tính dục… Nếu xét về mặt lịch sử văn hóa, có thể chia ra diễn ngôn cổ điển, diễn
ngôn khai sáng, diễn ngôn cách mạng, diễn ngôn hiện đại, diễn ngôn hậu hiện đại…
Nếu xét về xã hội học, có thể chia ra diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn thực dân, diễn
ngôn hậu thực dân… Nếu dựa vào hình thái tri thức, lại có thể chia diễn ngôn thành
các loại: diễn ngôn văn học, diễn ngôn khoa học, diễn ngôn chính trị, diễn ngôn tôn
giáo, diễn ngôn báo chí, diễn ngôn đạo đức… Trong diễn ngôn văn học, lại có thể chia
thành diễn ngôn thơ, diễn ngôn tiểu thuyết… Tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang
tính tương đối, chúng không tách bạch rạch ròi mà có thể giao thoa với nhau vì diễn
ngôn gắn với văn hóa mà văn hóa là hệ thống thống nhất mọi tri thức của nhân loại.
1.1.5. Những thao tác phân tích diễn ngôn
Trong phạm vi luận án này, trên cơ sở tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên
cứu diễn ngôn đi trước, chúng tôi tạm đưa ra một số thao tác cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích tương quan quyền lực/tri thức (power/knowledge)
Diễn ngôn luôn hàm chứa trong nó một cách cắt nghĩa, một tri thức về thế giới và cùng với việc tạo nghĩa, diễn ngôn còn định hướng cho sự tác động đến hiện thực. Sự hình thành ý nghĩa trong các diễn ngôn hướng tới sự tác động, thay đổi thế giới, kiến tạo nên thế giới xã hội của con người. Vì vậy cách viết quyền lực/tri thức (diễn ngôn) chính là để biểu đạt sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền lực/tri thức và mối quan hệ hữu cơ giữa các khái niệm nói trên. Cái mà Foucault quan tâm là các quy tắc nào đã chi phối việc ra đời và vận hành của diễn ngôn đó trong đời sống. Theo tác giả Trần Văn Toàn: “Cái gọi là sự thật về đời sống hay con người theo Foucault, thực chất, cũng chỉ là sản phẩm của diễn ngôn được hình thành từ những tương quan quyền lực/tri thức của một giai đoạn, một thời kì lịch sử cụ thể. Thay cho việc đặt trọng tâm vào việc đặt câu hỏi: văn học đã làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa nó và thực tế đời sống thì giờ đây, chúng ta phải quan tâm đến câu hỏi: trong những tương quan quyền lực/tri thức nào mà những sự thật nào đó được quyền xuất hiện và miêu tả trong diễn ngôn văn học” [126, tr.48]. Như vậy, bản chất của phân tích diễn ngôn là phân tích cơ chế tạo lập diễn ngôn, phân tích những tương quan quyền lực/tri thức nào đã
15
tạo nên và vận hành diễn ngôn đó. Một tương quan quyền lực/tri thức chỉ tồn tại khi có sự đối lập giữa một cặp nhị phân như nam tính/nữ tính, phương Tây/phương Đông, hiện đại/truyền thống, tinh thần/thể xác, lý tính/cảm tính… với yếu tố đứng trước đóng vai trò trung tâm. Theo M. Foucault, từ sự bất bình đẳng của các tương quan quyền lực này mà các tri thức khoa học xã hội được tạo ra. Diễn ngôn văn học của mỗi giai đoạn thường xoay quanh một số cặp nhị phân cơ bản. Chính sự đối lập giữa các mặt của các cặp nhị phân này sẽ tạo nên bức tranh về thế giới, tạo nên mã diễn ngôn của tác phẩm văn học. Chẳng hạn, văn học lãng mạn thường xây dựng thế giới nghệ thuật dựa trên cặp đối lập: Tôi - Ta. Tôi là cái cá nhân, ta là cái xã hội. Tôi được coi là cái riêng, cái độc đáo, cái lí tưởng, ta là cái chung, cái tầm thường, cái cản trở. Văn học hiện thực thường đặt mô hình nghệ thuật dựa trên cặp đối lập cơ bản: giàu - nghèo. Giàu thường là kẻ áp bức, bất lương, độc ác; nghèo thường là người tử tế, lương thiện, bị áp bức. Diễn ngôn của văn học cách mạng giai đoạn 1945 - 1975 thường được hình thành trên cặp đối lập Ta - Địch, từ đây sẽ hình thành tiếp các cặp nhị phân: chính nghĩa - phi nghĩa, tập thể - cá nhân, cách mạng - phản cách mạng, vô sản - tư sản, nông dân - địa chủ… Vì thế, thông qua việc phân tích sự đối lập của các cặp nhị phân, chúng ta phần nào có thể hình dung được cách thức kiến tạo thế giới của nhà văn.
Thứ hai, phân tích trật tự diễn ngôn Trong lí thuyết diễn ngôn của Foucault, bên cạnh diễn ngôn mang tính thống trị, ông còn quan tâm đến những diễn ngôn bị loại trừ. Từ sự bất bình đẳng về quyền lực giữa các cặp đối lập mà tri thức được tạo ra. Về nguyên tắc chỉ có yếu tố ưu trội (cái bình thường) mới được quyền phát ngôn về yếu tố thấp hơn (cái bất thường), từ đó khẳng định sự hợp thức của yếu tố ưu trội. Đây được coi là diễn ngôn trung tâm, chính thống. Tuy vậy, Foucault thừa nhận có một sự phản kháng từ bên dưới nhằm chống lại sự áp đặt quyền lực: “ở đâu có quyền lực, ở đó có đấu tranh” [126, tr.49]. Như vậy, đối tượng của phân tích diễn ngôn thường là những hiện tượng có vị trí thấp hơn về quyền lực, vì đây là nơi để nhận diện tiếng nói của quyền lực. Do đó, khi phân tích diễn ngôn cần chú ý mối quan hệ của cả hai yếu tố ưu trội và thấp kém về quyền lực để thấy được rằng diễn ngôn không phải chỉ là kết quả trực tiếp từ quan hệ quyền lực một chiều, mà là kết quả của quá trình pha trộn, lai ghép phức tạp.
Khi phân tích diễn ngôn có một điểm cần đặc biệt lưu ý: các quan hệ quyền lực có tính chất bao trùm toàn bộ xã hội của một thời đại, được mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội đó vận hành. Vì thế tương quan quyền lực/tri thức được biểu hiện thành các cặp nhị phân nói trên tồn tại trong mọi phương diện xã hội, trong mọi hình thức diễn ngôn, mọi văn bản khác nhau, do đó, phân tích diễn ngôn cần gắn với sự phân tích liên văn bản, phát hiện mối liên hệ giữa các văn bản văn học, văn bản khoa học, văn bản pháp luật, quảng cáo, báo chí…
16
Thứ ba, phân tích trường tri thức thời đại chi phối sự hình thành và vận hành
của diễn ngôn
Trong tác phẩm Từ ngữ và vật, Foucault đã đưa ra khái niệm “episteme” (trường tri thức/ khung tri thức). Trường tri thức theo cách hiểu của Foucault là cái khung tư tưởng, là nhận thức chung của cộng đồng trong một thời kỳ nhất định; là cái không gian tri thức quyết định từ ngữ được tồn tại như thế nào, vật được xem là cái gì. Ông cho rằng mỗi thời đại tồn tại một trường tri thức khác nhau và chính trường tri thức sẽ quyết định các hệ hình giá trị và sự vận hành của các diễn ngôn. Phân tích diễn ngôn chính là đi tìm hệ hình tri thức, tìm những quy tắc vừa hữu thức vừa vô thức của một cộng đồng người trong thời đại nhất định quy định cách nói trong cộng đồng người đó. Foucault quan tâm đến quy tắc nào đã chi phối việc diễn ngôn đó ra đời và vận hành trong đời sống; bằng cách nào mà một sự thật đã được nói ra, bằng cách nào mà sự kiện này trở nên có ý nghĩa hoặc bị bỏ qua. Ông quan tâm đến cơ chế mà nhờ đó một diễn ngôn trở thành diễn ngôn thống trị, còn các diễn ngôn khác bị nghi ngờ và gạt ra ngoài lề xã hội. Cơ chế này vừa là cái nằm bên trong vừa là cái nằm bên ngoài diễn ngôn. Như vậy, có thể khẳng định rằng, diễn ngôn không chỉ là các văn bản cụ thể, các loại biểu đạt nội dung cụ thể mà quan trọng hơn chính là cái cơ chế tạo thành các văn bản cụ thể ấy; nó chính là cái nguyên tắc ẩn chìm chi phối sự hình thành các văn bản như là sự kiện xã hội. Diễn ngôn là cái bên ngoài ta, nó chi phối ta một cách sâu sắc. Mỗi khi ta phát ngôn, ta luôn bị trói buộc trong một khung diễn ngôn có trước. Lời của ta chỉ là sự nối lời, tiếp lời, đối thoại lại với lời của người khác mà thôi. Vận dụng vào phân tích diễn ngôn văn học, ta phải đi tìm những quy tắc, những cơ chế tinh thần, những quy luật tâm lí chi phối cách xây dựng hình tượng văn học, cách sử dụng ngôn ngữ văn học của nhà văn.
Thứ tư, phân tích nội hàm tư tưởng của các yếu tố trong cấu trúc diễn ngôn Hệ thống nhân vật chính với khả năng biểu đạt tư tưởng của chúng cũng là một yếu tố của cấu trúc diễn ngôn. Nhân vật đại diện cho ai, cho tư tưởng nào; xung đột giữa các nhân vật là xung đột giữa các ý thức hệ nào trong xã hội. Chẳng hạn, diễn ngôn cá nhân của tiểu thuyết TLVĐ được thể hiện qua cuộc xung đột giữa hai hệ thống nhân vật phụ nữ thuộc tư tưởng dân chủ tư sản và ý thức hệ phong kiến, đó là sự xung đột giữa hai thế hệ trẻ và già; tiến bộ và bảo thủ. Bên cạnh đó, việc xác định chủ thể diễn ngôn cũng rất cần thiết. Cần trả lời cho câu hỏi ai là chủ thể của diễn ngôn, lập trường, quan điểm, giới tính, thẩm mĩ của chủ thể ra sao? Chủ thể diễn ngôn trong văn học hiện thực là người thư kí trung thành của thời đại, sáng tác của anh ta là những ghi chép chân thực về bộ mặt xã hội. Chủ thể diễn ngôn trong văn học lãng mạn là
17
Thứ năm, phân tích hệ thống phương thức biểu đạt của cấu trúc diễn ngôn.
người giãi bày các cung bậc tình cảm, các trạng thái tâm hồn. Chủ thể diễn ngôn trong văn học cách mạng là người ca ngợi lí tưởng cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để trả lời cho câu hỏi một sự thật nào đó đã được nói lên bằng cách nào, chúng
ta cần chú ý đến cách sử dụng từ ngữ, biểu tượng, giọng điệu, các biện pháp tu từ…
Trong diễn ngôn tiểu thuyết Kafka, giọng điệu vô âm sắc, mang tính trung hoà là một
phương tiện hữu hiệu để bộc lộ tư tưởng của chủ thể diễn ngôn về một thế giới phi lý,
hỗn loạn, cái quái dị và cái bình thường cùng tồn tại cạnh nhau. Diễn ngôn giới nữ
trong văn học xã hội chủ nghĩa thường có giọng ngợi ca người phụ nữ như là những
biểu tượng về người chiến sĩ anh hùng, người “mẹ tổ quốc”: “Em là ai? Cô gái hay
nàng tiên/ Em có tuổi hay không có tuổi/Mái tóc em đây hay là mây là suối/ Đôi mắt
em nhìn hay chớp lửa đêm giông/ Thịt da em hay là sắt là đồng?” (Tố Hữu, Người con
gái Việt Nam).
1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề người phụ nữ trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX 1.2.1. Những nghiên cứu chung về vấn đề người phụ nữ 1.2.1.1. Giai đoạn trước 1975
Trong đời sống phê bình văn học những năm trước 1945, đã xuất hiện một số
công trình nghiên cứu về người phụ nữ trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng... Ở phía Bắc, đầu tiên phải kể đến các công trình của
Trương Chính trong tác phẩm Dưới mắt tôi (1939), Dương Quảng Hàm trong Việt
Nam văn học sử yếu (1941), Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn Việt Nam hiện đại (1942).
Các nhà nghiên cứu ở phía Nam có thể kể đến là Thanh Quế, Thiếu Sơn, Trúc Hà,
Dương Nghiễm Mậu… Trong đó, các nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và
Khái Hưng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trương Chính nhận
định về Loan (Đoạn tuyệt – Nhất Linh): “Loan là một người gái mới (…) Sở dĩ cả một
thời thanh xuân của nàng bị bỏ phí và sau biết bao khổ nhục, nàng mới tìm thấy con
đường chánh đáng, là vì trong lúc dở cũ dở mới này, đời nàng phải là một cuộc thí
nghiệm chua xót” [18, tr.11]. Nhà văn Trúc Hà dành tình cảm yêu mến cho Mai (Nửa
chừng xuân – Khái Hưng) và Loan (Đoạn tuyệt – Nhất Linh). Ông phát biểu trên báo
Sống số 28 năm 1935 như sau: “Trận xung đột của gia đình và cá nhân bày ra rõ rệt.
Người đọc lúc nào cũng cảm thấy những tư tưởng hẹp hòi, nghiêm khắc thường khi lại
độc ác, đê tiện của những hạng người chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xưa và lúc nào
18
cũng yêu thương Mai và Loan, hai cá nhơn hoàn toàn bị bó buộc trong khuôn khổ gia
đình cũ. Tự nhiên người ta sẵn lòng bênh vực Mai, Loan, nhơn đó, người ta ghét
những lễ nghi phiền phức, những thói tục hủ bại của thời trước” [104, tr.429]. Nhìn
chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất trong việc khẳng định tiếng nói chống Nho
giáo, đòi giải phóng cá nhân và người phụ nữ của các nhà văn TLVĐ.
Tiếp theo là sự xuất hiện các tác giả ở miền Nam lẫn miền Bắc trước 1975 như
Phạm Thế Ngũ, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Lãng, Thế Phong và nhóm Lê Quý Đôn, Phan Cự
Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Mã Giang Lân... Từ các công trình nghiên cứu
quy mô như Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) của Phạm Thế Ngũ, Văn học
thế hệ 1932 in trong: Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ (1967) của Thanh Lãng,
Nhà văn tiền chiến 1930 – 1945 (1974) của Thế Phong, Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam, tập 3 – từ giữa thế kỷ XIX đến 1945 (1957) của nhóm Lê Quý Đôn, Văn học Việt
Nam 1930 – 1945, tập 1 (1961) của Bạch Năng Thi – Phan Cự Đệ, hay từ các bài viết đơn
lẻ của các nhà nghiên cứu nói trên mà vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của Nhất Linh,
Khái Hưng, Hoàng Ngọc Phách, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, … đã được bàn đến.
Trong đó, sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng tiếp tục được nhìn nhận ở phương diện
phê bình gia đình phong kiến kìm kẹp cá nhân, ràng buộc người phụ nữ vào lễ giáo truyền
thống; cổ vũ giải phóng cá nhân và người phụ nữ. Trong Giáo trình Lịch sử văn học Việt
Nam 1930 – 1945 (1978), tác giả Hoàng Dung khi so sánh các nhân vật nữ trong tiểu
thuyết TLVĐ, cho rằng Mai là nhân vật đầu tiên trực tiếp chống lễ giáo phong kiến. Mai
thu được cảm tình của người đọc ở chỗ yêu đương tự do mà không rơi vào lố lăng, phóng
túng; kiên quyết tự lập để bảo vệ tình yêu chân chính của mình. Mai gần với Liên (Gánh
hàng hoa) ở phương diện đạo đức truyền thống. Ngược lại, Loan “mới” hơn Mai cả về
hình thức lẫn nội dung: “áo màu, quần trắng, răng trắng, vấn tóc trần, đi giày mang cá (…)
Loan thắng lễ giáo phong kiến trở về được với người mình yêu” [66, tr.69]. So với Loan,
Nhung (Lạnh lùng) không đủ can đảm công khai chống lễ giáo như Loan để “đi bước
nữa”. Nhung vì sợ điều tiếng mà không dám đường hoàng tái giá. Phần thương mẹ, phần
thiếu can đảm nên người đàn bà trẻ đó đành sống một cuộc đời giả dối. Hồng (Thoát ly)
chỉ gợi được cho người đọc một mối thương cảm. Hồng giỏi chịu đựng hơn là biết đấu
tranh. Doãn Quốc Sỹ khi so sánh Mai (Nửa chừng xuân) và Loan (Đoạn tuyệt), cho rằng
“về mặt học thức Mai chỉ biết đọc biết viết đủ dùng và chịu ảnh hưởng đậm của nền giáo
dục Nho giáo, trong khi Loan có một trình độ Tây học vững vàng và hoàn toàn đối lập với
ý kiến gia đình… Loan bướng bỉnh theo mới đến cùng.” [104, tr.433].
19
Trong Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX (2005), Mã Giang
Lân đã tổng thuật lại cuộc tranh luận hấp dẫn xoay quanh vấn đề dâm hay không dâm
trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Các ý kiến chia thành hai tuyến: ủng hộ và phê
phán quan điểm viết về cái dâm của Vũ Trọng Phụng. Ở tuyến phê phán, Trương Chính
lên án Vũ Trọng Phụng khá gay gắt khi bàn về tiểu thuyết Giông tố của họ Vũ. Nhà phê
bình cho rằng Vũ Trọng Phụng đã hi sinh nghệ thuật để viết văn khiêu dâm. Trong khi
đó, Nguyễn Hoành Khung thì chỉ ra hạn chế ở hình tượng nhân vật Mịch. Theo ông,
nhân vật đã bị chính tác giả của nó làm hỏng khi giải thích sự biến chất ở Mịch bằng
niềm khao khát nhục dục một cách bệnh hoạn. Quan điểm sinh lý thô bạo của chủ nghĩa
tự nhiên và ngòi bút phân tích tâm lý có khuynh hướng suy đồi của Vũ Trọng Phụng đã
làm mất đi tính chân thực và ý nghĩa tích cực ban đầu đầy hứa hẹn của hình tượng. Nhìn
chung, các công trình nói trên đã khái quát được một số đặc điểm của hình tượng nhân
vật nữ và khẳng định các hình tượng ấy đã đem lại thành công đáng kể cho tác phẩm
cũng như sự nghiệp sáng tác của các nhà văn. Nguyên Hồng với chủ nghĩa nhân đạo
thống thiết, trong khi phản ánh số phận bất hạnh, đau khổ của những người phụ nữ nhỏ
bé, nghèo khổ trong xã hội thực dân phong kiến vẫn không đánh mất niềm tin yêu đối
với vẻ đẹp thiện lương trong tâm hồn họ. Nam Cao trăn trở với những vấn đề triết lý
nhân sinh thông qua những nhân vật nữ dị dạng về nhân hình, có số phận bất hạnh.
1.2.1.2. Giai đoạn sau 1975 Đến những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, với công cuộc đổi mới tư duy
nghệ thuật, các nhà nghiên cứu phê bình như Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức,
Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung,… đã có dịp đánh giá lại một cách toàn diện hơn
các hiện tượng phức tạp trước cách mạng. Các nhà nghiên cứu đã có cái nhìn khách
quan và công tâm hơn đối với các trường hợp Nhất Linh, Khái Hưng và Vũ Trọng
Phụng. Các nhà văn TLVĐ được khẳng định đã góp phần xây dựng nền văn xuôi
Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỷ XX với việc xây dựng thành công hình tượng
người phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, đặc biệt ở lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Trong cuốn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học (1995),
Vu Gia đã ghi nhận đóng góp của Nhất Linh khi ông đã từng bước đưa vấn đề cải cách
xã hội vào sáng tác của mình. Những năm cuối thập niên 20, khi xã hội phong kiến
vẫn còn buộc người phụ nữ goá bụa vào tam tòng tứ đức, tiết hạnh khả phong, thì nhân
vật Từ Nương (Người quay tơ) của Nhất Linh đã “được mẹ chồng cho đến người trong
họ ai ai cũng cho phép nàng cải giá”. Đến cô Loan (Đoạn tuyệt), thì nhân vật của Nhất
20
Linh đã phát triển lên hàng “gái mới”. Loan là cô gái hiểu đạo, hiểu đời, khi chưa xuất
giá cô đã có những quan điểm rất cứng cỏi như “Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở”,
cô không ngại đấu tranh với cha mẹ về chuyện hôn nhân của đời mình, đó là “một
chuyện rất hệ trọng trong đời con, mà chỉ quan hệ trong đời con mà thôi”, khiến cho
cha mẹ cô “tuy thấy con nói có lí, nhưng không khỏi ngạc nhiên, lo sợ. Ông bà mang
máng thấy con mình xa cách hẳn mình, thành một người ở xã hội khác hẳn cái xã hội
Việt Nam bình thường” [39, tr.201].
Trong Văn học Việt Nam lãng mạn 1930 – 1945 (1997), Phan Cự Đệ cho
rằng, từ năm 1932, các nhà văn TLVĐ đã mở ra một thời kỳ văn học nghiêng về
những quan niệm nhân sinh và xã hội của phương Tây. Sáng tác của họ được xem là
một cuộc đấu tranh nhằm giải phóng cá nhân, chống phong kiến quan liêu: “Chúng ta
đánh giá cao những tác phẩm lãng mạn tiến bộ của TLVĐ (Nửa chừng xuân, Đoạn
tuyệt, Đôi bạn) đã đấu tranh cho tự do yêu đương, cho quyền sống của con người, cho
việc giải phóng cá nhân ra khỏi đại gia đình phong kiến” [25, tr.246]. Tuy nhiên, tác
giả cũng lưu ý rằng càng về sau, khi con người cá nhân phát triển đến chỗ cực đoan,
thì các nhân vật nữ trong sáng tác của TLVĐ càng xa với hình tượng người phụ nữ
trong văn học truyền thống: “cô Tuyết trong Đời mưa gió là một con người xa lạ… ta
thấy Tuyết gần gũi với các nhân vật sau này trong tiểu thuyết có màu sắc hiện sinh của
Chu Tử và Nguyễn Thị Hoàng hơn là giống với nhân vật lãng mạn” [25, tr.250]. Giáo
sư Trần Hữu Tá trong Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta (1999) đã giới thiệu các
bài viết của nhiều tác giả về nhà văn Vũ Trọng Phụng. Trong đó, vấn đề tha hoá và suy
đồi đạo đức của người phụ nữ trong xã hội thuộc địa qua sáng tác của Vũ Trọng Phụng
được giải thích bằng sự ảnh hưởng học thuyết phân tâm học S. Freud ở ngòi bút của
nhà văn họ Vũ.
Cùng thời gian này, sự bùng nổ của vấn đề phụ nữ gắn liền với vấn đề dân
tộc trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng nhận được sự quan tâm của các
học giả nước ngoài. David Marr với cuốn Vietnamese tradition on Trial 1920 – 1945
(Truyền thống Việt Nam trong thử thách 1920 – 1945) (1984), Shawn McHale với tiểu
luận “Printing and power: Vietnamese debates over women’s place in society, 1918 –
1934” in trong Essays into Vietnamese pasts (Những bài tiểu luận về Việt Nam xưa)
và W. Wilcox với công trình “Women, westernization and the Origins of Modern
Vietnamese Theatre” (Người phụ nữ, phương Tây hóa và nguồn gốc của kịch nghệ
Việt Nam hiện đại) (2006) in trong Journal of Southeast Asian Studies đã cho thấy
21
điều đó. Từ sự phân tích các dữ kiện, các tác giả đi đến nhận định rằng những ảnh
hưởng của sách báo và các phong trào đấu tranh xã hội trên thế giới đã dẫn tới sự bùng
nổ vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trên các diễn đàn văn chương
và báo chí, vấn đề phụ nữ đã trở thành tâm điểm của các cuộc thảo luận sôi nổi. Vai
trò và vị thế của người phụ nữ đã được nhận thức lại, gắn với vấn đề dân tộc trong xã
hội Việt Nam thời kỳ này.
Hệ thống quan điểm tiến bộ về vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu nhận được sự
quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu, trong đó, những kết luận của tác giả
Trịnh Thu Tiết khiến chúng ta phải lưu ý. Trong công trình Phan Bội Châu về tác gia
và tác phẩm (2001) do Chương Thâu và Trần Ngọc Vương tuyển chọn, với tiểu luận
“Phan Bội Châu, người khai sáng tư tưởng tiến bộ về vấn đề phụ nữ trong Văn học
Việt Nam”, nhà nghiên cứu Trịnh Thu Tiết đã chỉ ra một trong hai luận đề lớn nhất
trong sáng tác của Phan Bội Châu là luận đề về vấn đề phụ nữ. Hình tượng nhân vật nữ
anh hùng cứu nước mang tính cách mạng của thời đại mới là một đóng góp đáng kể
của cụ Phan cho văn học nước nhà. Những cô Chí, cô Triệu, cô Liên (Trùng Quang
tâm sử), Bạch Liên nữ sỹ, Âu Vân phu nhân (Tái sinh sinh),… góp thêm vào văn học
Việt Nam những gương mặt phụ nữ mới mẽ, sinh động. Họ không chỉ là con hiếu, mẹ
hiền, dâu thảo mà còn là những nữ anh hùng góp công không nhỏ trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Sau gần một thế kỉ nhìn lại, các công trình nói trên đã có sự nghiên cứu
ngày càng chuyên sâu và kĩ lưỡng về vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của các tác
giả tiêu biểu nửa đầu thế kỷ XX; vị trí, đóng góp của các nhà văn cũng được tôn vinh
xứng đáng.
Đến những năm đầu thế kỉ XXI, lịch sử nghiên cứu về vấn đề người phụ nữ
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX lại tiếp tục được làm phong phú thêm
bởi các nhà nghiên cứu. Trong Những bài giảng về tác gia Văn học Việt Nam hiện đại
(2005), giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đi sâu đánh giá nhân vật nữ trong sáng tác của
Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám: “Đọc Nguyên Hồng, thấy nhân vật phụ nữ
trội hẳn lên và có một vẻ riêng: thường là một bà mẹ trẻ, nghèo khổ, cần cù, nhẫn nại,
giàu lòng vị tha và đức hi sinh, có một thứ bản năng tự nhiên của phụ nữ là thèm khát
sự sinh nở và yêu thương con tha thiết. Người đàn bà ấy thường là nạn nhân của chế
độ hôn nhân gia đình phong kiến. Nhưng trái tim sôi nổi, dễ yêu và yêu mãnh liệt,
người đàn bà ấy nhiều khi gạt phăng cả những tục lệ, những thành kiến hà khắc, quyền
uy nhất để chạy theo tiếng gọi của hạnh phúc” [69, tr.264]. Nguyên Hồng được nhận
22
xét là một cây bút am hiểu hơn ai hết những nỗi khổ của người phụ nữ ở cả hai phương
diện giai cấp và giới tính.
Trong Bàn về tiểu thuyết Khái Hưng (2006), Ngô Văn Thư đánh giá đóng góp
của Khái Hưng qua các tác phẩm Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia
đình, Thoát ly, Thừa tự và Tiêu sơn tráng sỹ là đã khám phá, miêu tả, quảng bá cho một
mẫu hình con người mới, mà tập trung nhất là hình tượng người trí thức Tây học. Họ là
những người trẻ, có ý thức về quyền sống cá nhân, tự do yêu đương, tự do kết hôn, tự do
lựa chọn lối sống của mình, có đời sống tâm hồn phong phú, có vẻ đẹp hình thể, biết
trang điểm. Họ cũng là những chiến sỹ xã hội cúi mình xuống, dành tình thương cho
những người dân quê cùng khổ và làm những việc có ích cho đời.
Trần Thị Việt Trung trong Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt
Nam hiện đại (2008), đã đưa ra cái nhìn có tính hệ thống về các nhân vật nữ trong tiểu
thuyết TLVĐ. Các nhà văn TLVĐ rất quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ ra khỏi
gia đình phong kiến bảo thủ và lạc hậu. Vì thế trong hầu hết tác phẩm của mình, họ đã
xây dựng thế giới nhân vật nữ theo hai tuyến đối lập nhau, đại diện cho hai luồng tư
tưởng cũ - mới. Lớp người cũ như bà Phán, bà Án, bà Tuần,… ngày đêm ra sức gìn
giữ cái nề nếp gia phong xưa và ra sức bài trừ cái mới, mà họ coi là lố lăng. Hệ thống
nhân vật đại diện cho cái mới là thế hệ trẻ, nhờ tiếp xúc với văn minh phương Tây hiện
đại, ý thức cá nhân được thức tỉnh mạnh mẽ, đã kiên quyết đứng lên đấu tranh bênh
vực cho cái mới, cho chủ nghĩa cá nhân. Xung đột giữa họ không thể dung hòa được,
trở thành những cuộc đấu tranh căng thẳng, quyết liệt, đưa đến hậu quả có thể là cái
chết do tự tử (Hồng trong Thoát ly), hoặc đổ máu (Loan trong Đoạn tuyệt). Trong sáng
tác của TLVĐ về sau còn xuất hiện một loại nhân vật nữ hiện đại đến mức xa lạ, rơi
vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Họ quá coi trọng cái tôi cá nhân, sống theo những
khát vọng mang tính bản năng, mà tiêu biểu nhất cho kiểu phụ nữ này là cô Tuyết
trong Đời mưa gió.
Đỗ Hồng Đức trong Luận án tiến sỹ Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất
Linh và Khái Hưng (2010) đã đánh giá cao đóng góp của các nhà văn TLVĐ trong
việc đả phá những tư tưởng cổ hủ của đạo đức truyền thống, đem lại cái nhìn mới
về giá trị và vẻ đẹp của người phụ nữ. Các nhà văn đã cổ vũ cho tư tưởng mới một
cách rầm rộ, và họ đã tạo nên một cơn địa chấn thực sự trên bình diện tư tưởng.
Những tư tưởng ấy không phải không có lúc gây sốc bởi nó quá mới, quá bạo
nhưng nó đã đạt được mục đích, đó là thổi bùng trong xã hội những nhận thức mới
23
về vấn đề phụ nữ. Có thể nói, trong bộ phận văn học hợp pháp lúc bấy giờ, chỉ có
tiểu thuyết TLVĐ làm được điều đó. Về ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố xã hội và
thời đại đối với việc xây dựng hình tượng người phụ nữ, Đỗ Hồng Đức cho rằng
vấn đề về người phụ nữ trong văn chương TLVĐ nói chung và tiểu thuyết của Nhất
Linh, Khái Hưng nói riêng không phải là chỉ là vấn đề xuất phát trong nội bộ đời
sống văn học, mà là vấn đề xuất phát từ hiện thực xã hội rộng lớn, thậm chí là vấn
đề của toàn thế giới. Tìm hiểu phong trào phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, so sánh với những vấn đề về người phụ nữ trong tiểu
thuyết TLVĐ có thể khẳng định điều đó. Sự va đập tư tưởng cũ - mới đã khiến cho
xã hội người phụ nữ bị phân hoá. Ở những nhân vật nữ đại diện cho tư tưởng bảo
thủ thì tính nữ (giới tính) bị mờ hoá, con người chức năng, con người bổn phận
được nhấn mạnh; ở những cô “gái mới" thì vẻ đẹp hiện đại về hình thức, khát vọng
và phẩm chất mới được tô đậm (thậm chí được tô đậm thái quá trở thành hạn chế).
Thao Nguyễn trong Khái Hưng nhà tiểu thuyết có biệt tài trong công cuộc
canh tân văn học (2013), đã tập hợp các tiểu luận của các nhà nghiên cứu bàn về tác
phẩm của Khái Hưng một cách tập trung nhất. Trong số này, bài viết của Phạm Thế
Ngũ đã đưa ra một sự khái quát thú vị về các nhân vật nữ của Khái Hưng: họ gắn với
các cung bậc khác nhau của tình yêu. Trong Hồn bướm mơ tiên (1932), tình yêu của
chú tiểu Lan giả trai đi tu ở chùa Long Giáng với Ngọc là tình yêu thanh sạch dưới
bóng từ bi của Phật tổ. Cô Mai trong Nửa chừng xuân (1933) hi sinh hạnh phúc cá
nhân giữa lúc còn xuân để giúp Lộc và bản thân mình vươn lên phận sự cao cả, là ái
tình với nhiệm vụ xã hội. Đến Tiêu sơn tráng sỹ (1934), tình yêu của Nhị Nương và
Trần Quang Ngọc là yêu nhau trong sự nghiệp cách mạng. Tình yêu của Hiền dành
cho Vọi trong Trống mái (1935) là tình yêu có tác dụng “giải độc” Tố Tâm, hướng
thanh niên vào con đường sống vui khoẻ và không phân biệt giai cấp xã hội. Đến
Đẹp (1940), tình yêu của Lan và Nam là ái tình của nghệ sỹ, gắn với cái Đẹp. Lan
theo bản năng của người đàn bà tìm tới hôn nhân, nhưng nàng đã không có được thứ
hạnh phúc gia đình hoàn toàn như mình mong ước. Cuối cùng là tiểu thuyết Băn
khoăn (1942), tình yêu của cả hai cha con ông Thanh Đức với Liên, một cô gái xinh
đẹp lộng lẫy, thì tình yêu đã xa cách với phong vị lý tưởng ban đầu, để mang màu sắc
vật dục. Liên yêu người cha vì tiền tài và yêu người con vì trẻ trung.
Trong Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (2015), giáo sư Trần Đăng
Suyền khi khái quát mô hình nhân vật trong tiểu thuyết TLVĐ, đã nhấn mạnh ảnh
24
hưởng của văn minh phương Tây đến tầng lớp thanh niên, trí thức thượng lưu: “Họ
chống lễ giáo phong kiến, đấu tranh cho chủ nghĩa cá nhân, cho tình yêu và hôn
nhân tự do, cổ vũ cho phong trào Âu hóa từ tư tưởng văn chương nghệ thuật đến y
phục và cách hưởng thụ đời sống vật chất. Về mặt tư tưởng, họ thực sự là những tín
đồ của phong trào Âu hóa, được Âu hóa từ đầu tới gót, từ y phục, thể xác đến linh
hồn. Ở họ, tư tưởng Âu hóa thấm nhuần, biến thành lối sống Âu hóa và được thể
hiện trên nhiều phương diện của đời sống: ý thức sâu sắc về quyền cá nhân, đề cao
luyến ái tự do và coi trọng vẻ đẹp hình thức của con người.” [93, tr.126 – 127]. Gần
đây, trong bài viết “Khuynh hướng tư tưởng tiểu thuyết TLVĐ” đăng trên Tạp chí Lý
luận phê bình Văn học nghệ thuật (8/2021), nhà nghiên cứu đã tổng kết quá trình phát
triển tư tưởng của Nhất Linh và Khái Hưng, trong đó có đề cập đến vấn đề phụ nữ.
Giai đoạn thứ nhất từ 1932 – 1936, thực dân Pháp một mặt khủng bố cách mạng, mặt
khác thấy cần làm dịu bớt bầu không khí xã hội bằng việc khuyến khích phát triển các
hoạt động văn hoá như thời trang, thể thao, hội thi sắc đẹp, văn chương lãng mạn…
Sáng tác của TLVĐ lúc này đã phản ánh được tâm trạng của một bộ phận thanh niên
thành thị muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống ngột ngạt, bế tắc lúc đó bằng hành động đấu
tranh chống phong kiến, đòi giải phóng cá nhân và người phụ nữ. Giai đoạn thứ hai từ
1936 – 1939, bầu không khí xã hội có phần dễ thở hơn trước. Nhạy bén với tình hình
chính trị xã hội mới, TLVĐ đã đặt vấn đề đấu tranh cải thiện đời sống của dân quê lên
hàng đầu. Giai đoạn thứ ba từ cuối 1939 – 1943, nhân vật chính trong tiểu thuyết
TLVĐ là con người cá nhân cực đoan. Họ bế tắc trước thực tại và mất phương hướng,
không tìm được lối ra.
Từ góc nhìn so sánh, Bang Jeong Yun trong luận án “Hình tượng người phụ nữ
mới trong một số tác phẩm tiêu biểu của TLVĐ và văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc”
(2019), đã chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản trong hình tượng người
phụ nữ mới giữa hai nền văn học trong một xã hội Á Đông như Việt Nam và Hàn Quốc.
Họ đã có những thay đổi quan trọng, khác xa với hình ảnh những người phụ nữ theo
truyền thống Nho giáo. Xã hội mới đã tạo nên ở họ một diện mạo mới, đời sống mới, tư
tưởng mới,… tất cả được gọi chung với cái tên “phụ nữ mới” ở Việt Nam hay “sin
yosong” ở Hàn Quốc. Đồng thời, người phụ nữ mới trong văn học cũng là một biểu
tượng sinh động cho những ý tưởng, những dự đồ của các trí thức bản địa. Trong bối
cảnh khi mà các tư tưởng không ngừng giao thoa với nhau (tư tưởng quốc gia, tư tưởng
hiện đại hóa…), người phụ nữ được sử dụng như là một công cụ để thể hiện cho những
25
tư tưởng của thời đại. Vấn đề người phụ nữ trở thành một luận đề xã hội mà ở đó mỗi
nhà văn, mỗi khuynh hướng tư tưởng, mỗi quốc gia lại có những lựa chọn riêng trong
khi tạo dựng hình tượng người phụ nữ mới.
Tóm lại, những nghiên cứu chung về người phụ nữ trong văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX ngày càng được thực hiện chuyên sâu và toàn diện hơn từ phương diện
nội dung luân lí xã hội đến nghệ thuật xây dựng nhân vật. Các công trình nghiên cứu về
sau đã chú ý mở rộng khảo sát những yếu tố bên ngoài văn bản như hoàn cảnh lịch sử,
xã hội, văn hoá đã ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
Nhờ đó, bức tranh chung về người phụ nữ trong văn học giai đoạn này trở nên rõ nét và
có hệ thống.
1.2.2. Những nghiên cứu về vấn đề người phụ nữ từ góc nhìn diễn ngôn 1.2.2.1. Về mặt du nhập lý thuyết
Ở Việt Nam, lý thuyết diễn ngôn được giới thiệu sớm nhất trong lĩnh vực ngôn ngữ học, có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ Hữu Châu (2001), Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp (2000), Phân tích diễn ngôn - một số vấn đề lí luận và phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học của Nguyễn Thái Hoà (2005)... Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài đã được dịch sang tiếng Việt, như Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998); Phân tích diễn ngôn của Gillian Brown, George Yule (Trần Thuần dịch, 2002), Dẫn luận ngữ pháp chức năng của Mak Halliday (Hoàng Văn Vân dịch, 2004).
Trong lĩnh vực khoa học văn học, các nhà nghiên cứu đã tiếp thu lý thuyết diễn ngôn có sáng tạo và chọn lọc, xây dựng nên một hệ thống lý thuyết phân tích diễn ngôn đặc thù, làm cơ sở cho việc giải mã các tác phẩm văn học cụ thể. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu như Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (2002) của Trịnh Bá Đĩnh; Sự đỏng đảnh của phương pháp (2004) của Đỗ Lai Thuý; Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lí thuyết, (2003) của Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến; Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ 20 (2003) do Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch; Logic học về các thể loại văn học (2004) của Kate Hamburger do Vũ Hoàng Địch và Trần Ngọc Vương dịch; Tác
26
phẩm như là quá trình (2007) của Trương Đăng Dung; Thi pháp văn xuôi, Dẫn luận về văn chương kì ảo của Tzevan Todorov do Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch (2003, 2007); Bản mệnh của lí thuyết của Antoine Compagnon do Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch (2006); Nhập môn Foucault của L.A. Fillingham, M. Susser do Nguyễn Tuệ Đan, Tôn Thất Huy dịch (2006); Thi học và ngữ học của Jakobson do Trần Duy Châu biên khảo (2008); Lý luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 1, 2 do Lộc Phương Thuỷ chủ biên (2007); Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn học (2007) của Nguyễn Hưng Quốc ; Những huyền thoại của R. Barthes do Phùng Văn Tửu dịch (2008); Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean-François Lyotard do Ngân Xuyên dịch (2008); Những vấn đề lý luận văn học phương Tây hiện đại, Tự sự học kinh điển do Trần Huyền Sâm biên soạn (2009)… Giáo sư Trần Đình Sử là người đầu tiên giới thiệu lý thuyết diễn ngôn văn học với các bài tiểu luận đơn lẻ như “Bản chất xã hội, thẩm mĩ của diễn ngôn văn học” và “Bước ngoặt diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong nghiên cứu văn học” được in trong sách Trên đường biên của lý luận văn học (2014). 1.2.2.2. Về thực hành nghiên cứu diễn ngôn
Trong những năm gần đây, cùng với việc giới thiệu lý thuyết diễn ngôn, nhiều nhà khoa học đã vận dụng lý thuyết này để phân tích thực tiễn văn học. Nhà nghiên cứu Lã Nguyên tiếp cận các hiện tượng văn học Việt Nam theo hướng kết hợp lý thuyết quyền lực và ký hiệu học với các công trình như “Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói (Về văn học Việt Nam thời đổi mới 1975 – 1991), “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài”, “Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống”, “Nguyễn Tuân – Nhà văn của hình dung từ”, “Tố Hữu – Lá cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Nghiên cứu vấn đề giới nữ từ góc nhìn diễn ngôn có luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Vân Anh với đề tài “Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2017).
Trong số các nghiên cứu về vấn đề phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX theo hướng diễn ngôn gần đây, chúng tôi thấy nổi lên các tiểu luận của tác giả Trần Văn Toàn như “Nam tính hóa nữ tính – đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ góc nhìn giới tính” (2011); “Phương Tây và sự hình thành diễn ngôn về bản sắc Việt Nam” (2015), “Nam tính – Nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam” (2019). Các công trình này chủ yếu tiếp cận theo hướng lý thuyết quyền lực, mã tư tưởng hệ được bộc lộ ở bình diện giới. Kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Văn Toàn cho thấy khả năng vận dụng lý thuyết về cấu trúc nam tính – nữ tính để nghiên cứu văn học sử Việt Nam. Cụ thể, trong “Nam tính hoá nữ tính – đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ góc
27
nhìn giới tính” (2011), nhà nghiên cứu đã chỉ ra chính tinh thần dân tộc và tham vọng hiện đại hoá đất nước đã quy định nguyên tắc kiến tạo bản sắc nữ tính mới của Loan: “Người phụ nữ hăm hở giải phóng mình khỏi lễ giáo phong kiến nhưng không phải để kiến tạo cho mình một bản sắc riêng mà để đồng nhất bản sắc của mình với bản sắc nam giới” [111, tr.224]. Loan trở thành biểu tượng cho một tương lai mới của dân tộc đồng thời qua đó tái khẳng định bản sắc nam tính của đàn ông Việt.
Với luận văn thạc sỹ Diễn ngôn về người phụ nữ trong sáng tác của Phan Bội Châu (2017), Đào Lê Tiến Sỹ đã có những khám phá mới về người phụ nữ trong sáng tác của Phan Bội Châu. Xuất phát từ tinh thần dân tộc và mục tiêu hiện đại hóa đất nước, ở Phan Bội Châu đã xuất hiện nhận thức mới về vai trò của người phụ nữ đối với tiền đồ dân tộc. Chính trong ý nghĩa này, người phụ nữ thay vì được nhìn nhận theo cách mà Nho giáo đã áp đặt cho họ với những thuộc tính yếu đuối, kém cỏi nhằm tách họ ra khỏi môi trường xã hội, quốc gia, dân tộc, thì bây giờ họ được mô tả với những đặc điểm không khác gì nam giới: mạnh mẽ, kiên cường, nhận thức được nghĩa vụ, bổn phận của người dân đối với đất nước và sẵn sàng xả thân vì nước, họ đóng vai trò là “vật truyền dẫn” để nhà văn nam thể hiện ý hướng của họ về xã hội mới.
Gần đây nhất, trong công trình Văn học Việt Nam trung cận đại – hướng tiếp cận và vấn đề nghiên cứu (2021) do Nguyễn Đình Chú chủ biên, chúng tôi chú ý đến tiểu luận của tác giả Lê Thị Vân Anh: Diễn giải ý niệm về phương Đông thông qua hình tượng người phụ nữ trong các sáng tác Đoạn tuyệt – Lạnh lùng – Đời mưa gió của Nhất Linh. Từ góc nhìn của diễn ngôn, tác giả đã phân tích và chỉ ra hình tượng nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt là một ước nguyện mới cho phương Đông. Nhung trong Lạnh lùng là hình tượng mang tính chất nước đôi trong tâm thế phương Đông và Tuyết trong Đời mưa gió là hình tượng mang ý nghĩa tượng trưng cho hành trình Đông – Tây với những hoài nghi và dang dở. Các công trình nghiên cứu nói trên đã cho thấy sự cần thiết phải đặt văn học trong một bối cảnh rộng lớn của những vấn đề văn hóa và xã hội để tiến tới thực tiễn xã hội học văn học.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu vấn đề người phụ nữ trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, ngày càng phong phú bởi sự đóng góp của nhiều thế hệ tác giả, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên việc tiếp cận vấn đề người phụ nữ từ lý thuyết diễn ngôn chỉ mới xuất hiện ở một vài công trình rải rác, vẫn đang mở ra những triển vọng mới mẻ, mời gọi khám phá.
28
Tiểu kết Ở chương này, chúng tôi đã đưa được ra phương án vận dụng lý thuyết diễn ngôn để nghiên cứu vấn đề người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX thông qua việc xác lập khái niệm diễn ngôn, làm sáng tỏ đặc điểm của diễn ngôn văn học và các thao tác phân tích diễn ngôn. Việc nhìn lại lịch sử nghiên cứu vấn đề người phụ nữ từ trước 1975 đến nay giúp chúng tôi bao quát được quá trình vận động của lịch sử tư tưởng về vấn đề phụ nữ. Phương án vận dụng này hứa hẹn mang cái nhìn mới, thú vị về văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX trong sự kết nối giữa văn học và bối cảnh văn hoá xã hội, thấy được cơ chế tác động qua lại giữa xã hội và văn học.
29
Chương 2 QUYỀN LỰC, TRI THỨC PHƯƠNG TÂY
VÀ SỰ XUẤT HIỆN DIỄN NGÔN MỚI VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ
2.1. Những điều kiện mới của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX ảnh hưởng tới chủ
thể thuộc địa
2.1.1. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây với chủ nghĩa nhân văn và tinh thần
tự do, dân chủ
Cuối thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản trở thành một hệ thống thế giới, văn
minh phương Tây thời cận đại đã nhanh chóng phát triển và định hình thành những
đặc trưng cơ bản của nó. Trong đó, phải kể đến chủ nghĩa nhân văn đề cao quyền con
người và tinh thần tự do, dân chủ được đặt nền móng từ phong trào phong trào Khai
sáng (Enlightment) thế kỷ XVIII ở Tây Âu. Đây là một trào lưu tư tưởng tiến bộ nhằm
đánh đổ thần quyền và chủ nghĩa phong kiến, cổ vũ cho lý trí và khoa học, nhân đạo
và tự do, nhân quyền và tiến bộ, mở ra con đường cho nhân loại tiến đến văn minh trên
tất cả các lĩnh vực xã hội, chính trị, văn hóa, tôn giáo, khoa học.
Nhà Khai sáng nổi tiếng thường được nhắc đến hết là Montesquie (1689 - 1755)
với tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Qua tác phẩm này, Montesquie đã xây dựng
trật tự, quy luật chung của luật pháp ở tất cả các dân tộc thuộc mọi thời đại với chủ
trương phân quyền thế lực quốc gia (lập pháp, hành pháp, tư pháp) để bảo vệ quyền tự
do của con người và xây dựng một xã hội mới không có áp bức, bất công, có khả năng
đem lại tự do cho mọi người và hòa bình cho nhân loại. Bên cạnh Montesquie,
Voltaire nổi tiếng là nhà tư tưởng của thời kỳ Khai sáng đấu tranh cho tự do cá nhân.
Ông đả kích chế độ cường quyền của vua và giáo lý nhà thờ, bởi đây là nguyên nhân
gây trở ngại cho sự phát triển đúng hướng của con người. Ông đề ra nguyên tắc tự do –
bình đẳng – sở hữu và ủng hộ nền chính trị cộng hòa là sự đảm bảo tốt nhất cho 3
nguyên tắc trên. Ngoài ra, không thể không nhắc đến tác phẩm Bàn về khế ước xã hội
của Rousseau với tinh thần đề cao tự do, dân chủ và bình đẳng trong xã hội. Rousseau
chủ trương xây dựng nhà nước, trong đó quyền lực chính trị được trao cho chính
quyền – những công bộc của dân – để điều hành đất nước theo nguyện vọng và ý chí
tập thể trên những nguyên tắc đã thống nhất. Cuối cùng là sự cần thiết phải đề cập đến
công trình Về nguồn gốc muôn loài (1859) với thuyết tiến hóa của Charles Darwin.
Thuyết tiến hóa giải thích sự hình thành chủng loại là kết quả của cạnh tranh sinh tồn
30
giữa các cá thể sinh vật trong một môi trường với tài nguyên hạn chế. Kết quả là chỉ
những cá thể mạnh nhất, thích nghi dễ dàng với môi trường sống mới có thể tồn tại
được. Quy luật cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua của thuyết tiến hóa này có tác
dụng cảnh tỉnh các dân tộc chậm tiến trước nguy cơ mất nước và diệt vong. Như vậy,
phong trào Khai sáng thế kỷ XVIII ở Tây Âu đã đặt nền móng cho chủ nghĩa nhân
văn, chủ nghĩa duy lý và tự do cá nhân ở phương Tây. Triết học Ánh sáng coi con
người với tư cách là một chủ thể văn hóa, được đối xử tôn trọng, với tư cách công dân,
là chủ thể của mọi chính sách cai trị, có quyền lựa chọn nhà cầm quyền. Tinh thần
Khai sáng của Tây Âu cũng từng được người Việt tiếp cận qua trào lưu cải cách ở
Nhật dẫn đến sự ra đời của phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX của Phan Chu Trinh
(1872 – 1926) với phương châm “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, tức là
canh tân đất nước dựa trên sự học hỏi kiến thức, kỹ thuật mới của phương Tây với tinh
thần tự chủ, tự cường để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Kế thừa truyền thống dân chủ từ thời Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa nhân văn và tư
tưởng tự do, dân chủ của các nhà Khai sáng thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đã giương
cao ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái” lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Tư tưởng dân quyền và nhân quyền của
phong trào cách mạng tư sản được thể hiện tập trung và tiêu biểu ở Tuyên ngôn Độc
lập của Mỹ và ở Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền trong Cách mạng tư sản Pháp.
Bên cạnh đó, việc áp dụng nguyên tắc về sự phân lập quyền lực trong tổ chức bộ máy
nhà nước dựa trên tư tưởng của Montesquieu, nhà khai sáng Pháp, đã giúp duy trì trật
tự xã hội một cách công bằng và bình đẳng. Ngoài ra, việc xây dựng một nền văn hóa
và giáo dục phát triển đã chuẩn bị cho trẻ em sau khi trưởng thành có đủ trình độ và
năng lực để đảm nhận việc quản lý nhà nước và quản lý nền sản xuất hiện đại. Cuối
cùng là nền văn minh công nghiệp đã đem lại cho phương Tây một nguồn lực kinh tế
mạnh mẽ.
Trong khi đó, phương Đông do chịu ảnh hưởng của Nho giáo trong thời gian dài, trở nên lạc hậu, kém phát triển và trở thành đối tượng bị xâm lược, thống trị bởi chủ nghĩa thực dân phương Tây. Bước vào thế kỷ cạnh tranh toàn cầu, nguyên nhân chủ yếu
khiến Việt Nam rơi vào tình trạng thuộc địa, chính là sự áp đảo của văn minh phương Tây đối với phương Đông trên mọi phương diện của đời sống, sự mất địa vị của triết
học Nho – Phật – Đạo trước chủ nghĩa Duy vật, chủ nghĩa Phục hưng, triết học Ánh
sáng. Tư tưởng chuộng đức hơn chuộng tài cũng là một trong nguyên nhân dẫn tới sự
31
trì trệ của xã hội phương Đông. Xuất phát từ phương thức tư duy cầu tính, tổng hợp, văn minh phương Đông yếu về khoa học kỹ thuật, ít chú trọng thực nghiệm, khiến cho
đời sống vật chất ngày càng trở nên lạc hậu so với phương Tây. Quy luật “mạnh được,
yếu thua” đã quyết định hệ tri thức đang chiếm ưu thế của phương Tây trở thành dòng
chủ lưu: “Các nước Âu Mỹ đều khai hóa hết sức muộn màng, nhưng tiến bộ lại cực kỳ nhanh chóng. Một trăm năm trở lại đây, họ có nhiều bước tiến nhảy vọt về học thuật,
chính trị, giáo hóa, phong tục, không mặt nào thua người, mà lại vươn lên hàng đầu. Họ tự cho là chủ nhân của thế giới” [142, tr.475]. Sách vở thánh hiền đã mất hết tác dụng
trước sức mạnh của khoa học kỹ thuật phương Tây với đạn dược, tàu đồng, đại bác. Lối
học hành, thi cử nặng nề về hình thức, trọng hư danh, phù phiếm của Nho giáo đã bộc lộ
rõ tất cả sự yếu kém và lép vế trước nền học thuật thực dụng và hiện đại của phương
Tây. Truyền thống trọng văn hơn võ của chế độ phong kiến kéo dài đã khiến quốc dân tính trở nên bạc nhược, thiếu sức mạnh võ dũng. Sức mạnh của văn minh phương Tây
đã khiến các nhà nho thức tỉnh, Phan Bội Châu viết Lưu cầu huyết lệ tân thư (1903) kêu
gọi đổi mới, phá bỏ khoa cử để chấn hưng tân học: “Dạy cho họ cái học hữu dụng và bỏ
cái học hư văn … phụ thêm cái việc học của thái Tây” (Phan Bội Châu toàn tập, tập 1,
1990, tr.30). Có thể nói một phương Đông tâm linh đã thất bại trước một phương Tây
khoa học và thế tục. Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân phương Tây đã cơ bản xâm chiếm
xong các nước châu Á. Năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Khi chiến tranh
thế giới thứ nhất kết thúc, 85% lãnh thổ thế giới thuộc châu Âu.
Sau khi phong trào Cần Vương thất bại và cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài sau
đó cũng bị dập tắt, thực dân Pháp đã hoàn thành việc bình định và đặt ách thống trị lên
toàn cõi Việt Nam. Chính sách cai trị cùng với chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm biến đổi sâu sắc cơ cấu xã hội Việt Nam với những thay đổi lớn
về chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Do sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
mà nền sản xuất trong nước đã có những biến đổi sâu sắc. Một số ngành công nghiệp ra đời như khai thác mỏ, giao thông vận tải… Sự phân hoá rõ rệt và sâu sắc trong xã hội đã tạo nên một cơ cấu giai cấp mới. Ngoài giai cấp địa chủ và nông dân, bắt đầu xuất hiện các giai cấp khác là công nhân, tư sản, tiểu tư sản thành thị. Các thiết chế
văn hóa, giáo dục đều dần dần được tổ chức theo mô hình của phương Tây.
Có thể nói chủ nghĩa thực dân phương Tây đã tạo ra một cuộc va đập dữ dội
trong đời sống tinh thần của giới trí thức nhà nho. Những giá trị cổ truyền bị xem xét,
cân nhắc và bị đặt lại đồng loạt. Trong bối cảnh đó, vấn đề đấu tranh giành độc lập và
32
xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc trở thành nhiệm vụ hàng đầu đặt lên vai tầng lớp trí
thức bản địa. Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871), một học giả lớn cuối thế kỷ XIX, là
người trực tiếp tiếp xúc với sách báo, thực tế phương Tây và am hiểu cả hai nền văn
hóa Đông – Tây, đã dâng bản điều trần cho vua nhà Nguyễn. Bản điều trần của
Nguyễn Trường Tộ đã giúp các nhà đổi mới thấy được: “1. Thực tế Việt Nam; 2.
Những cản trở gây nên bởi bệnh sách vở; 3. Nhân cách Việt Nam; 4. Những biện pháp
đổi mới” [74, tr.43]. Trong các biện pháp mà Nguyễn Trường Tộ đề ra, trước hết là
thay đổi chế độ giáo dục, khuyến khích tinh thần khoa học bằng cách dạy các môn học
tạo nên sự hùng mạnh của châu Âu như kinh tế học, chính trị, lịch sử, các khoa học
ứng dụng, đặc biệt là pháo binh và kỹ thuật quân sự. Những điều trần của Nguyễn
Trường Tộ được Nguyễn Lộ Trạch (1852 – 1895) kế thừa với các tác phẩm như Thời
vụ sách (1882), Thiên hạ đại thế luận (1892). Văn minh phương Tây qua tân thư, tân
văn và rộng hơn là phong trào cải cách của các nước Á Đông mà tiêu biểu là Trung
Quốc và Nhật Bản là tham chiếu đáng kể cho nhận thức thúc đẩy hành động cứu
nước của những người yêu nước Việt Nam. Tân thư, tân văn là những sách báo
phương Tây được Nhật Bản dịch thuật do nhu cầu mở cửa, thông thương mạnh mẽ
của đất nước, rồi qua người Trung Quốc truyền vào Việt Nam bằng tiếng Hán.
Người ta gọi đó là “tân thư”, tức sách mới, đối lập với loại sách Tống Nho quen
thuộc, gọi là sách cũ. Sau Nha phiến chiến tranh (1840), Trung Hoa nhận thức sâu
sắc nguy cơ mất nước trước dã tâm xâm lược của phương Tây. Các nhà trí thức
Trung Hoa, do chỗ tiếp xúc nhiều với phương Tây, đặc biệt qua các bản dịch của
Nhật mà người Trung Quốc có thể đọc dễ dàng, bắt đầu nhận thấy ưu thế của
phương Tây trước hết là ở tư tưởng, chứ không chỉ ở vũ khí. Tăng Quốc Phiên,
Trương Chi Động tiếp thu khẩu hiệu: “Đông học vi thể, Tây học vi dụng” tức là
“Tinh thần Trung Hoa, kỹ thuật phương Tây”. Phương Đông muốn sống phải Âu
hóa hệ tư tưởng của mình và để tạo nên sự kết hợp phải lấy phương Tây làm chuẩn.
Người cầm đầu phong trào này là Khang Hữu Vi (1858 – 1927), nhưng người có
ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam là Lương Khải Siêu (1873 – 1929). Ngoài ra còn có
tân thư, tân văn do người Nhật Bản và Trung Quốc viết với những tác phẩm mở
mang hiểu biết cho người đọc về địa lý, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật ở các
vùng đất phát triển trên thế giới của Lương Khải Siêu, Takayama Rinjiro (1897)…
Vào đầu thế kỷ XX, các sách vở về cải cách đổi mới nhập vào Việt Nam rất đều
đặn khiến cho các nhà nho trước đây vốn chỉ biết có văn chương cử tử, bây giờ biết
33
thế nào là chủ nghĩa đế quốc, duy lý luận của Descartes, thuyết giao kèo xã hội của
Rousseau, thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu, thuyết tiến hóa của Darwin.
Như vậy, tân thư, tân văn cùng với những kinh nhiệm từ Nhật Bản và Trung Quốc
đã giúp các trí thức bản địa nhanh chóng nhận thấy yêu cầu cải cách tư tưởng, cải
cách xã hội và canh tân đất nước theo tinh thần khoa học, thực tiễn Âu Tây là điều
kiện quyết định đối với vận mạng dân tộc.
Ảnh hưởng của văn minh phương Tây qua sự khúc xạ của hình ảnh kẻ xâm lược
và qua tân thư, tân văn đã khai sáng cho các trí thức Việt Nam, giúp họ thức tỉnh về vị trí
khiêm tốn của quốc gia so với thế giới, từ đó đề ra mục tiêu tự lập, tự cường thông qua
con đường phương Tây hóa, hiện đại hóa, tiến tới giải phóng dân tộc. Kết quả của quá
trình “phương Tây hóa thuộc địa” là sự xuất hiện của một khung tri thức mới, một hệ
thống quan niệm với các giá trị mới mang màu sắc phương Tây được “cài đặt” vào trong
nhận thức của dân tộc bản địa. Tầng lớp trí thức yêu nước bắt đầu đề ra kế hoạch, chiến
lược duy tân đất nước để tự lực, tự cường. Các nhà nho cấp tiến giờ đây đã biết đến khái
niệm “dân trí”, “dân quyền”, “dân chủ”, “tự do”, “văn minh”. Để chấn hưng dân trí, Phan
Bội Châu phê phán thiết chế giáo dục Nho giáo của chế độ quân chủ chuyên chế đã làm tê
liệt dân trí. Ông cho rằng để khai dân trí, phải cải cách giáo dục, ưu tiên truyền bá chữ
quốc ngữ, học các ngành nghề và khoa học phương Tây, thuê thầy từ các nước Âu Mỹ
dạy học: “Khi mới duy tân thì các thầy giáo dạy ở các trường còn phải mời người Nhật
Bản, người châu Âu, châu Mỹ về dạy. Khi đã duy tân kha khá rồi thì vừa người nước ta,
vừa người nước ngoài cùng vể dạy” (Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, 2001, tr.184). Từ
cách thức tổ chức cho đến nội dung giáo dục đều phải đổi mới theo hướng khoa học, thiết
thực của phương Tây, Nhật Bản: “Cách thức mở trường, sắp xếp việc học, việc dạy và
việc bổ nhiệm những người học đã thành tài, đều bắt chước theo cái hay, cái tốt của các
nước như Nhật Bản và châu Âu”, “Học triết học, văn học, sử học, chính trị, kinh tế, quân
sự, luật pháp… Học công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, nữ công, y thuật, lâm
nghiệp…” (Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, 2001, tr.184).
Các quan niệm về tự do, dân chủ, dân quyền cũng được các trí thức Việt
Nam tiếp thu và phổ biến rộng rãi trong xã hội đầu thế kỷ XX. Các nhà nho yêu nước
đã nhận ra nguyên nhân đầu tiên của thảm cảnh mất nước chính là do người dân trong
xã hội phương Đông không có quyền tham gia vào tổ chức chính trị xã hội. Tư tưởng
dân bản (lấy dân làm gốc) của Nho giáo chỉ có ý nghĩa trong việc hạn chế nhất định sự
áp bức bóc lột của giai cấp thống trị, chứ nó không đưa lại dân chủ, người dân không
34
có quyền tham gia vào việc tổ chức và quản lí xã hội. Khái niệm “dân quyền” xuất
phát từ tư tưởng tự do, dân chủ của giai cấp tư sản, được hiểu là quyền làm chủ quốc
gia của người dân trong một nước, có mối quan hệ thịnh suy, sống còn với đất nước.
“Dân quyền” là người dân có quyền tham gia vào chính trị chứ không phải đứng ngoài
cuộc, thụ động chờ ơn mưa móc của kẻ cầm quyền ban phát. Phú cường của đất nước
dựa vào dân chủ, dân chủ dựa vào dân quyền. Người dân phải tự giác tham gia vào đời
sống chính trị xã hội, việc cứu nước không phải là việc riêng của một tầng lớp, một
đẳng cấp nào mà của tất cả người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội. Chính vì thế, Phan
Bội Châu kêu gọi người dân đồng tâm, đoàn kết đấu tranh cứu nước trên cơ sở nhận
thức về vai trò chủ động, tích cực của người quốc dân trong hệ thống chính trị xã hội.
Phan Chu Trinh coi việc đập tan nền quân chủ chuyên chế như là điều kiện tất yếu của
sự thực hiện dân quyền. Để đảm bảo dân quyền thì cần thiết phải thiết lập chế độ tự do
dân chủ dựa trên chính phủ, nghị viện lập hiến: “Giữa đô thành nước ta đặt một tòa
nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định, Thượng nghị
viện phải đợi Trung nghị viện đồng ý, Trung nghị viện phải đợi Hạ viện đồng ý mới
được thi hành. Hạ viện là nơi đa số công chúng có quyền tài phán việc của Trung nghị
viện và Thượng nghị viện. Phàm nhân dân nước ta, không cứ là sang hèn, giàu nghèo,
lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử” (Phan Bội Châu toàn tập, tập 3, 2001, tr.179).
Dân trí được nâng cao thì dân quyền mới được tôn trọng, dân quyền được tôn trọng thì
dân chúng mới có dịp phát huy tài năng để xây dựng đất nước vững mạnh. Dân trí là
điều kiện để đảm bảo dân quyền được bền vững.
Có thể nói văn minh phương Tây với chủ nghĩa nhân văn và tinh thần tự do,
dân chủ của giai cấp tư sản qua tầng lớp trí thức bản địa đã tác động sâu sắc đến đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Các nhà nho yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng,…
đã dấy lên các phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân để phục vụ công
cuộc cải cách xã hội và giải phóng dân tộc. Các phong trào này đã gây ra tiếng vang
trong việc tuyên truyền, phổ biến tư tưởng dân chủ tư sản, tư tưởng tự do, bình đẳng,
giải phóng con người cá nhân, phản đối chuyên chế phong kiến, chống đối luân lý tông
pháp và quan niệm đạo đức phong kiến.
2.1.2. Ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới
Trước đây, trên khắp thế giới, các định chế xã hội và pháp luật luôn quy định
phụ nữ ở vị trí thấp kém so với nam giới. Sự thay đổi nhanh chóng trên các lĩnh vực
35
kinh tế, xã hội, chính trị trong các thế kỷ XVII – XVIII, mà sự thay đổi lớn nhất là vấn
đề phân công lao động đã gạt phụ nữ ra khỏi ra khỏi môi trường lao động xã hội và
khiến họ trở nên lệ thuộc vào người chồng nhiều hơn. Điều này đã trở thành vấn đề
bức xúc của xã hội và là chủ đề của các cuộc tranh luận ở Anh, Mỹ, Pháp... Đến đầu
thế kỷ XIX, ở phương Tây đã nổ ra các cuộc vận động giành quyền bình đẳng cho phụ
nữ và phát triển thành phong trào nữ quyền. Văn hóa phương Đông chịu ảnh hưởng
nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo nên người phụ nữ bị áp chế về mọi
mặt so với nam giới. Khái niệm nữ quyền nhấn mạnh quyền lợi của người phụ nữ và
cuộc đấu tranh nữ quyền là cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của người phụ nữ. Khái niệm
nữ quyền trong tiếng Việt đồng nghĩa với từ “women’s right” trong tiếng Anh. Các
vấn đề liên quan đến khái niệm nữ quyền gồm: toàn vẹn và tự chủ về thân thể, bầu cử,
nắm giữ chức vụ công, làm việc, nhận mức lương bình đẳng hoặc công bằng, sở hữu
tài sản riêng, tiếp nhận giáo dục, phục vụ trong quân ngũ, ký kết hợp đồng pháp lý, các
quyền trong hôn nhân và làm mẹ. Phong trào nữ quyền, khởi nguồn từ ý thức về quyền
bình đẳng trên phương diện giới tính, quyền dân chủ của con người, vốn được thức
tỉnh từ cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, về cơ bản đã phát triển qua ba thời kỳ. Thời
kỳ đầu tiên từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, phong trào nữ quyền chủ yếu quan
tâm đến quyền bình đẳng pháp lý cho phụ nữ, trong đó có các quyền sở hữu tài sản,
độc lập tài chính, quyền được học tập, quyền được bầu cử và bình đẳng trước pháp
luật. Kết quả từ phong trào này là nhiều tổ chức phụ nữ đã ra đời ở Mỹ, như Hội đồng
Phụ nữ quốc tế thành lập ở Washington năm 1888. Ở Anh, dưới sự lãnh đạo của
Elizabeth Cady Stanton và Susan B. Anthony, đã diễn ra cuộc vận động của phong
trào nữ quyền đấu tranh cho phụ nữ được hưởng quyền giáo dục, làm việc được trả
lương và phụ nữ có học vấn được tham gia các vấn đề xã hội. Tiếp theo đó, trong
những năm đầu thế kỷ XX, các tổ chức nữ quyền cùng các hoạt động nữ quyền liên
tiếp diễn ra, và tại một số nước phương Tây, người phụ nữ dần giành được một số
quyền lợi chính trị và có một địa vị mới trong xã hội. Hoạt động đấu tranh đòi quyền
bầu cử cho phụ nữ của các tổ chức nữ quyền ở Mĩ đã dẫn đến việc sửa đổi điều thứ 19
trong Luật về trao cho phụ nữ quyền bầu cử vào năm 1920. Nhìn chung đến đầu thế kỷ
XX, phong trào phụ nữ trên thế giới đã phát triển lên một giai đoạn mới với các cuộc
đấu tranh đòi quyền bình đẳng của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, giáo dục, kinh tế,
văn hóa. Trong đó nổi lên tên tuổi đáng chú ý của nhà nữ quyền Virginia Woolf với
tác phẩm Căn phòng riêng (1929). Tác phẩm của bà thể hiện tuyên ngôn về quyền
36
bình đẳng, quyền sống và sáng tạo của phụ nữ. Thời kỳ thứ hai diễn ra sau chiến tranh
thế giới thứ hai, đánh dấu bằng sự ra đời tác phẩm Giới tính thứ hai (1949) của
Simone de Beauvoir. Theo tác giả, phụ nữ bình đẳng với nam giới trên mọi phương
diện và họ chưa bao giờ là phái yếu. Với cuốn sách của mình, Simone de Beauvoir đã
chỉ ra tận ngọn nguồn nguyên nhân của những bất bình đẳng mà người phụ nữ phải
gánh chịu từ những định kiến sinh học đến ý thức hệ, từ lịch sử nhân loại đến những
huyền thoại, quá trình giáo dục. Huyền thoại về nữ tính vĩnh cửu chỉ là cách để củng
cố hệ tư tưởng thống trị của nam giới đối với phụ nữ mà thôi. Từ đó, bà kêu gọi phụ
nữ phải giành lại quyền làm chủ số phận của mình để không còn là người có giới tính
thấp kém, là “Kẻ khác”. Tuyên ngôn: Người ta không sinh là phụ nữ mà người ta trở
thành phụ nữ của Simone de Beauvoir đã làm dấy lên phong trào đấu tranh giành
quyền tự chủ cho phái nữ. Thời kỳ này, làn sóng nữ quyền phát triển mạnh mẽ từ các
góc độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và văn học. Thời kỳ thứ ba bắt đầu vào thập
niên 80 của thế kỷ XX, tập trung vào đối tượng chính là bản thân nữ giới.
Phong trào nữ quyền ở phương Tây đã nhanh chóng lan sang các nước
phương Đông, tạo nên phong trào nữ quyền ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ. Trước
các cuộc đấu tranh của phong trào phụ nữ, chính phủ của các nước phải xem xét lại
quyền bầu cử của phụ nữ, sự bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục
và quân sự. Phong trào phụ nữ trên thế giới phát triển mạnh mẽ đã dẫn đến sự ra đời
của các Hội nghị phụ nữ thế giới kêu gọi phụ nữ đoàn kết lại để đòi bình đẳng nam
nữ, chống chế độ đa thê, chống mãi dâm, đòi trợ cấp ốm đau, thai sản… Tất cả các
hoạt động nữ quyền sôi nổi trên thế giới nói chung và ở khu vực Á Đông nói riêng đã
có tác động đến Việt Nam. Qua tân thư, tân văn truyền bá vào Việt Nam đầu thế kỷ
XX, phong trào nữ quyền không còn xa lạ với phụ nữ Việt Nam, nhất là đối với phụ
nữ trung lưu và thành thị. Ở Việt Nam, khát vọng bình đẳng và tinh thần phản kháng
của phụ nữ đã được biểu hiện qua chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại nhưng
để trở thành trào lưu, phong trào rộng khắp thì phải đợi đến đầu thế kỷ XX, dưới tác
động của chính sách giáo dục của Pháp và ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiến
bộ trên thế giới, trong đó có phong trào nữ quyền. Năm 1913 trên Đông Dương tạp
chí, diễn đàn về phụ nữ đã xuất hiện, khái niệm nữ quyền đã được giới thiệu và bàn
luận sôi nổi. Tuy vậy, phong trào nữ quyền chỉ thực sự bùng phát và trở thành trào
lưu rộng khắp Việt Nam khi tờ Nữ giới chung, do Sương Nguyệt Anh làm chủ bút,
xuất hiện vào năm 1918 tại Sài Gòn. Nữ giới chung đã trở thành cơ quan ngôn luận
37
của phụ nữ, lên án những hủ tục gây ra đau khổ cho phụ nữ và kêu gọi tinh thần đấu
tranh giải phóng phụ nữ. Kế tiếp Nữ giới chung là tờ Phụ nữ tân văn cùng hàng loạt
các sách chuyên khảo về phụ nữ được xuất bản cho thấy phong trào đấu tranh nữ
quyền ở Việt Nam càng lúc càng mạnh mẽ. Sự xuất hiện các tên tuổi của các nữ sĩ cổ
súy cho phong trào nữ quyền qua các hoạt động báo chí và văn học như Sương
Nguyệt Anh, Phan Thị Bạch Vân, Hằng Phương,… đã khiến cho phong trào nữ
quyền trong nước trở nên sôi nổi. Vấn đề giáo dục dành cho phụ nữ và việc tham gia
lao động xã hội (phụ nữ chức nghiệp) được bàn luận rộng rãi, thậm chí có không ít
những chủ trương và chiến lược cụ thể được đặt ra.
Từ giữa những năm 1920, các bài viết về tấm gương phụ nữ thế giới đã liên tiếp
được giới thiệu trên Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam phong, Phụ nữ tân
văn... Một trong những nhà ngôn luận đóng góp đáng kể trong việc đề xuất những cải
cách đổi mới về vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX chính là Phan
Khôi (1887-1959). Với hàng loạt bài báo được công bố từ năm 1928 đến 1935, Phan
Khôi đã chỉ ra tình trạng bất bình đẳng giới do các thiết chế văn hóa, giáo dục của hệ
tư tưởng Nho giáo và nền quân chủ chuyên chế gây ra, trở thành lực cản khi xã hội Việt
Nam bước vào thời kỳ hiện đại và hội nhập với thế giới. Ông là một trong những tác giả
của nhiều bài báo bàn về vấn đề nữ quyền trong văn học như “Về văn học của phụ nữ
Việt Nam” (Phụ nữ tân văn số 1, 2/5/1929), “Văn học với nữ tánh” (Phụ nữ tân văn số
2, 9/5/1929), “Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta” (Phụ
nữ tân văn số 131, 26/5/1932). Có thể nói Phan Khôi là người cổ súy mạnh mẽ việc
đào tạo học vấn cho người phụ nữ để họ thoát khỏi sự đói nghèo thi ca và tri thức,
nghĩa là giải quyết đến triệt để cội rễ sinh ra sự bất bình đẳng của phụ nữ trong đời
sống nói chung và trong lĩnh vực văn hóa nói riêng. Phan Khôi không chỉ nêu lên tình
trạng bất công của người phụ nữ mà còn chỉ rõ gốc rễ nguyên nhân của các tệ nạn này.
Ông kêu gọi nâng cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội, đồng thời giải phóng họ ra
khỏi các quan niệm phụ quyền với các biện pháp cụ thể là đấu tranh cho quyền được
tiếp cận với giáo dục của phụ nữ, quyền được học nghề, làm việc, độc lập về kinh tế,
quyền sở hữu tư bản. Bên cạnh quyền sở hữu tri thức, phụ nữ cũng cần phải có chức
nghiệp, cần có một nghề để tự nuôi sống bản thân. Đây là những định hướng rất đáng
quan tâm của Phan Khôi với mong muốn đưa phụ nữ thoát dần những định kiến hủ lậu,
từng bước được hưởng quyền lợi chính đáng của bản thân. Cuộc đấu tranh nữ quyền do
Phan Khôi khởi xướng trên báo giới vào những năm 20-30 của thế kỷ XX là bước tiến
38
quan trọng trong cách nhìn nhận, đánh giá về phụ nữ. Với những đóng góp của mình,
Phan Khôi xứng đáng là người mở đường cho phong trào nữ quyền ở Việt Nam.
Bên cạnh Phan Khôi, Hoàng Ngọc Phách có bài “Văn chương nữ giới – Cái hại
của văn cảm đối với nữ học sinh” trên Tạp chí Nam phong, số 41/1920. Đồng thời, trên
văn đàn lúc này cũng xuất hiện nhiều cây bút nữ đấu tranh cho nữ quyền. Trong đó,
Nguyễn Thị Kiêm (Manh Manh nữ sĩ) nổi lên như một tác giả nữ đáng chú ý, tham luận
“Nữ lưu và văn học” (Phụ nữ tân văn số 131, 26/5/1932) của bà đã lên tiếng bênh vực nữ
quyền, đòi bình đẳng với nam giới, đả kích các tập tục hủ bại như trọng nam khinh nữ, tảo
hôn, đa thê. Bà là người sớm khẳng định khả năng sáng tác văn chương cũng như làm chủ
tri thức của phụ nữ khi cho rằng:“Cái địa vị của đàn bà ở trong văn học cũng không phải
là thấp thỏi gì, theo như nhiều người đã tưởng. Và cái ảnh hưởng của đàn bà đối với
những bậc văn nhân tao sĩ cũng rất là nặng nề và thân thiết, nhờ đó mà văn học phát đạt
vô cùng” (Nguyễn Thị Manh Manh, 1932). Phan Thị Bạch Vân cũng được biết đến như
một nhà văn nữ tiêu biểu cho phong trào đấu tranh nữ quyền đầu thế kỷ XX. Năm 1928,
bà đã thành lập Nữ lưu thư quán Gò Công với mục đích xuất bản sách báo để: “Lựa
chọn để bán ra cho cả thảy chị em bạn gái bằng cái giá thật hạ những truyện sách xuất bản
trong xứ, có ích cho tinh thần đạo đức và nền luân lý nước nhà, giúp cho trí thức nữ lưu
được chóng mở mang tri thức, học vấn thêm cao” (Võ Văn Nhơn, 2007). Võ Văn Nhơn
đã đánh giá về Nữ lưu thư quán Gò Công như sau: “Lúc bình quyền nam nữ còn được
xem là một vấn đề mới mẻ, Phan Thị Bạch Vân đã bằng hành động và sáng tác của mình,
chứng tỏ “nữ lưu” cũng có những thế mạnh của riêng mình, cũng có thể sánh vai với nam
giới trong mọi lĩnh vực” (Võ Văn Nhơn, 2007). Là tác giả của nhiều bài viết bênh vực
quyền lợi phụ nữ, đấu tranh cho nữ quyền, Nguyễn Thị Khiêm, Phan Thị Bạch Vân cùng
với một số cây bút nữ khác như Huỳnh Thị Bảo Hòa, Trần Thị Như Mân, Ái Lan, Đạm
Phương, Mộng Tuyết, Anh Thơ, Ngân Giang, Vân Đài, Hằng Phương, Cẩm Tâm… đã
góp phần đưa phong trào nữ quyền phát triển rộng khắp cả nước.
Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Khôi,… cùng với đông đảo các tác giả
nữ nói trên tiêu biểu cho những trí thức ủng hộ việc giải phóng phụ nữ gắn với nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, khuyến khích phụ nữ tham gia hoạt động trong môi trường xã
hội. Giải phóng người phụ nữ khỏi sự chiết tỏa của tư tưởng đạo đức phong kiến là
giải phóng tiềm lực sức lao động, trí tuệ của con người. Vấn đề người phụ nữ lập thân,
điều mà trước đây chỉ có ở nam giới, dành cho nam giới, thì nay nữ giới phải có được
để xứng tầm thời cuộc.
39
2.1.3. Ảnh hưởng của môi trường giáo dục dưới chế độ thuộc địa
Dưới chế độ phong kiến, tính chất phụ quyền của gia đình Việt Nam được bộc
lộ rõ qua thiết chế giáo dục. Trong ý thức hệ truyền thống, vấn đề học tập là một đặc
ân dành cho nam giới, nữ giới không được phép đi học. Cho đến đầu thế kỷ XX, phụ
nữ Việt Nam ngoài những tri thức nữ công gia chánh phục vụ cho chức năng làm vợ,
làm mẹ trong tương lai, họ chỉ được dạy dỗ đạo đức và luân lý tông pháp gói gọn trong
quy chuẩn “tam tòng, tứ đức”. Khi còn bé, họ ở dưới quyền cai quản của người cha,
sau khi kết hôn, họ phải phục tùng người chồng, sau khi chồng chết, họ bị yêu cầu
thuận theo các quyết định của người con trai trong gia đình. Giá trị của nữ giới được
đánh giá qua tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Họ được mong đợi chăm chỉ và khéo léo
trong công việc nội trợ của gia đình, giỏi thu vén trong việc chi tiêu và kiếm tiền từ
ngoài chợ hay trong cửa tiệm. Họ không cần đẹp mà cần giản dị, đoan trang, nói năng
nhẹ nhàng, cư xử đúng mực. Trên hết, phụ nữ phải giữ gìn trinh tiết theo phương
châm: “chết đói là việc nhỏ, thất tiết là việc lớn”. Sách giáo dục phụ nữ chủ yếu là Gia
huấn ca, giáo dục luân lý gia đình bằng văn vần với những điều răn và cấm kỵ mà
Phạm Quỳnh phải thừa nhận là dông dài với hàng trăm chữ “chớ” thể hiện những điều
cấm đoán:
“Trai nào chẳng phải họ hàng,
Chớ hề chào hỏi, lánh đường hiềm nghi.
Gái nào nết chẳng nhu mì,
Chớ hề làm bạn, chớ khi ở gần.
Khi không chớ sửa áo quần,
Khi may chớ có tần ngần dừng kim.
Vắng người chớ có ca ngâm,
Chớ khi ngồi tựa nương cầm ngẩn ngơ.
… Chớ vươn vai cũng chớ hay thở dài.
Chớ khi chưa nói đã cười,
… Chớ khi cười hở hàm răng,
Chớ khi trò chuyện nói năng xô bồ” [105]
Những người phụ nữ nào hấp thu những lời dạy của Gia huấn ca và làm tròn tiêu
chuẩn của tam tòng, tứ đức thì được ngợi khen ngợi là “lương thê, từ mẫu”.
Việc loại bỏ phụ nữ ra khỏi hệ thống giáo dục chính quy của xã hội phong
kiến không chỉ khiến họ mất cơ hội tham gia khoa cử để có thể hiện diện trong bộ máy
40
nhà nước, đồng nghĩa với việc mất tiếng nói trong xã hội; mà còn gia tăng sự lệ thuộc
của họ vào đàn ông và gia đình khi mà họ hoàn hoàn thiếu tri thức và trở nên u tối.
Đây là thủ đoạn của xã hội Nho giáo nam quyền nhằm áp đặt quyền lực thống trị đối
với giới nữ: “Cái chế độ ác liệt nam tôn nữ ty mấy nghìn năm, cái tập tục hủ bại trọng
nam khinh nữ, họ còn tân mỹ mà muốn duy trì được đời đời, ngõ hầu họ có tự do mà
đãi ngộ đàn bà như hàng súc vật, dùng đàn bà như cái đồ chơi … trách nào mà biết bao
đàn bà con gái phải chịu chìm đắm trong cái cảnh khốn khó đớn đau, trách nào 10 triệu
nữ đồng bào ta không tủi thầm khóc vụng ở xó bếp góc buồng, trong chốn gia đình tối
tăm mờ mịt?” [41, tr.23]. Trên báo Nam phong (1924), Phạm Quỳnh, dưới ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây, đã nhận xét về những bất cập trong nội dung giáo dục phụ
nữ của Khổng giáo và đề nghị một chương trình giáo dục mới cho phụ nữ. Theo ông,
phép giáo dục đàn bà con gái chỉ gồm mấy thiên Nữ huấn, Nữ giới, Nữ tắc,… từ đầu
đến cuối chỉ suốt những điều nghiêm cấm cả, như giam đàn bà trong một cái lưới luật
lệ, không còn để cho một chút tự do nào cả. Năm 1926, khi Nữ công học hội ra đời ở
Huế do bà Đạm Phương nữ sử thành lập, Phan Bội Châu đã soạn sách Nữ quốc dân tu
tri, Nam quốc dân tu tri cho hội làm tài liệu học tập. Sách đã dạy các tri thức phổ
thông căn bản nhất như về đạo làm con, làm vợ, làm mẹ, về công – dung – ngôn –
hạnh để giáo dục và vận động phong trào phụ nữ.
Bên cạnh đó, chế độ khoa cử từ chương dành cho nam giới của nhà nước phong
kiến ngày càng bộc lộ nhiều yếu kém và bất cập. Sau khi phong trào Cần Vương thất bại,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền đã viết nhiều tác phẩm phê phán
chế độ chuyên chế và nền giáo dục, học thuật hủ bại của giai cấp phong kiến khiến đất
nước lâm vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Họ đã thấy được tác hại của nền khoa cử từ
chương, chỉ chăm lo công danh áo mũ mà thiếu quan tâm đến thực tế, thực dụng. Hậu quả
của nó là đào tạo ra những con người không đáp ứng được những yêu cầu phát triển của
đất nước. Cụ thể, về trình độ dân trí, người Việt thiếu hiểu biết khoa học, kĩ thuật; óc coi
thường thực nghiệp. Lối học trọng khoa cử, tầm chương trích cú, trọng văn hơn võ, do đó
thiếu sức mạnh vũ dũng: “Dân mà nhiều người vũ dũng thì nước mạnh, nhiều người nho
nhã, mảnh mai thì nước mạnh cũng thành yếu (…) Nước ta xưa kia đời Lý đánh Tống, đời
Trần phá Nguyên, đời Lê dẹp giặc Ngô, cạnh tranh đến thế là cùng, thế nước hùng cường.
Về sau dân ta chỉ chuộng hư văn thi phú, thích bàn về đạo Phật, đạo Lão huyền hoặc, nên
hai đạo ấy thi nhau hứng khởi, cho nên dân khí ngày càng suy, quốc uy ngày một giảm.
Đó là hậu quả của chuyện ưa nho nhã, mảnh mai. Gần đây, các nước Đông Tây đều là
41
nước vũ dũng, văn minh của họ là văn minh vũ dũng, Xpac-tơ cũng không sánh kịp. Còn
nước ta thì vẫn say đắm từ chương, không muốn làm việc võ, cầm súng thì xấu hổ, nghe
tiếng đại bác thì hết hồn. Nho nhã, mảnh mai như thế thì khó mong tiến thủ, cạnh tranh.
(…) Cái nạn của văn chương nho nhã đến thế là cùng cực. [142, tr.491]. Do không
chuộng vũ dũng để bảo vệ lấy quyền lợi vốn có, dẫn đến hậu quả là: “Dân nước ta ngày
nay nghe nói “tự do độc lập” thì thần hồn bay lên trời, nhìn thấy bóng dáng quần áo, súng
ống Tây dương thì chân tay bủn rủn. Thực là cực kỳ yếu hèn” (Phan Bội Châu toàn tập,
tập 1, 2001, tr.123). Khi so sánh với các nước Âu Mĩ, Phan Chu Trinh nhận ra hạn chế về
văn hóa và lối sống của người Việt, vì thế ông lên án lối học thi vì danh lợi, cái học thiếu
thực dụng và không biết trọng thực nghiệp. Phan Bội Châu nhận thức rõ tầm quan trọng
của dân trí, chỉ ra mối quan hệ giữa dân trí với dân quyền: dân trí cao thì dân quyền mới
được tôn trọng, dân quyền được tôn trọng thì nước mới mạnh. Dân trí là điều kiện cho dân
quyền được bền vững. Để nâng cao dân trí, phải thay đổi tận gốc rễ chế độ giáo dục phong
kiến, học theo mô hình giáo dục của phương Tây, bắt chước theo cái hay cái tốt của Nhật
Bản và châu Âu.
Phương Tây trong quá trình khai thác thuộc địa đã đồng thời cấu trúc lại mô hình xã hội và văn hóa của các nước thuộc địa. Để tăng thêm ảnh hưởng về văn hóa, thực dân Pháp đã cải tạo hệ thống giáo dục cũ và ban hành chương trình giáo dục mới cùng với việc mở ra một hệ thống trường Pháp – Việt trên khắp cả nước. Từ đầu thế kỷ XX, Toàn quyền Paul Beau (1857 – 1926) đã tiến hành việc cải cách giáo dục, lấy tân học bằng chữ Pháp thay cho cựu học bằng chữ Hán. Năm 1917, sau khi được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông dương lần thứ hai, Albert Pierre Sarraut (1872 – 1962) tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách giáo dục sâu rộng hơn nữa ở Việt Nam. Tinh thần cải cách được thể hiện thông qua việc mở rộng hệ thống các trường trung học, cao đẳng, đại học, trường dạy nghề và các trung tâm nghiên cứu khoa học; thay thế nền giáo dục Nho học lấy luân lý làm trọng tâm bằng nền giáo dục Pháp – Việt lấy khoa học là trụ cột. Trước khi tiếp xúc với phương Tây, Việt Nam chỉ có một chế độ giáo dục: học chữ Hán để đi thi. Chế độ thi cử Hán học đã thay đổi để rồi chấm dứt ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung kỳ năm 1918. Từ năm 1917, toàn bộ chế độ giáo dục cả nước được đặt dưới quyền của Toàn quyền Đông Dương và thống nhất cả 3 kỳ gồm 3 bậc: tiểu học, trung học, đại học. Lúc đầu có các trường Cao đẳng: Y học, Dược học, Sư phạm, Công chính, Giao thông, Thương mại, Canh nông. Bậc đại học được thành lập năm 1919, gồm có đại học Y, đại học Luật. Năm 1927, các khoa Y, Dược, Hành chính, Sư phạm,… được thành lập theo mô hình Pháp. Theo học giả Phan Ngọc trong công trình Sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam với Pháp, số lượng trường học
42
và số người theo học của hệ thống giáo dục Pháp – Việt nửa đầu thế kỷ XX có thể được hình dung qua bản tổng hợp sau của Trịnh Văn Thảo:
Năm 1940 - 1941 Năm 1943 - 1944 Kiểu trường
Cao đẳng Số trường 19 Số học sinh 5.697 Số trường 18 Số học sinh 6.350
1.329 Trung học 4 553 4
390.780 Tiểu học 3.998 386.525 4.062
316.505 Sơ đẳng 3.143 132.212 9.070
Tổng cộng 7.164 524.987 13.154
714.964 (100.000 học sinh trường tư)
[74, tr.99]
Theo đó, một loạt các trường học cho nữ sinh đã được thành lập từ Nam ra Bắc. Năm 1875, trường nữ tư thục đầu tiên ra đời ở Sài Gòn (do các nữ tu sĩ thành lập). Năm 1908, trường Brieux (Trường Hàng Cót) - trường nữ học đầu tiên ở Bắc kỳ được thành lập. Năm 1917, Trường Nữ học Đồng Khánh ra đời ở Huế. Năm 1913, tính riêng đã có 9 trường Pháp Việt ở Bắc kỳ với khoảng 647 học sinh, trong đó Hà Nội có nhiều nữ sinh theo học nhất với 324 người. Từ năm 1906, với ảnh hưởng của phong trào Đông Kinh nghĩa thục, người Việt cũng đã bắt đầu chú ý việc mở trường học cho nữ sinh, góp phần làm tăng số lượng nữ sinh trong thời kỳ này. Đây là một bước tiến quan trọng của giáo dục nữ giới, ảnh hưởng tới những thảo luận và các phong trào vận động phụ nữ trong thời kỳ này.
Ở các trường học này, ngoài tiếng Pháp, lịch sử và văn hoá Pháp, học sinh còn được học các môn khoa học tự nhiên: toán – vật lý – hoá học… Đội ngũ giáo viên một số ít là người Việt còn lại là người Pháp, trong đó có nhiều người là nữ giáo viên. Họ đều là những nhà giáo dục thực thụ, tôn trọng những nguyên lý của nền giáo dục Pháp: hướng tới các giá trị nhân bản – khoa học. Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Toàn trong tiểu luận “Nam tính nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam” thì sự hiện diện của những nữ giáo viên này là rất quan trọng, nó tạo điều kiện cho sự kiến tạo một mô hình nữ tính mới: “Không chỉ là tri thức, hoạt động giảng dạy của họ là một trực quan cho một mẫu hình người phụ nữ mới: có học thức, có khả năng thực nghiệp, có một lý tưởng sống vượt ra bên ngoài những vai giới tính truyền thống. Phần lớn nữ học sinh chỉ học 3 năm đầu sau khi có bằng Sơ học yếu lược, số còn lại tiếp tục học lên trung học. Tham gia vào các hoạt động: dạy học, hộ sinh, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học,
43
hoạt động xã hội…” [41, tr.182]. Theo đó, chương trình giáo dục tiến bộ của Pháp đã góp phần tạo nên tầng lớp phụ nữ trí thức như nhà báo, nhà giáo, nhà văn,... với không hiếm những tên tuổi nổi bật và xuất sắc như Sương Nguyệt Ánh, Đạm Phương nữ sử, Nguyễn Thị Kiêm, Phan Thị Bạch Vân... Bên cạnh các sáng tác văn chương và các tiểu luận trên báo chí, họ còn đứng ra thành lập hoặc tham gia các học hội, các hội quán, đấu tranh cho quyền lợi của nữ giới. Lớp phụ nữ trí thức thụ đắc nền giáo dục mới bắt đầu nhận thấy sự lạc hậu và ngột ngạt của luân lý truyền thống, nhận thấy giáo lý thánh hiền đã trở thành rào cản đối với yêu cầu phát triển của con người cá nhân trong xã hội mới. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những cuộc thảo luận sôi nổi về vấn đề phụ nữ trên báo chí và thúc đẩy các hoạt động của phong trào nữ quyền trong nước. Trên báo chí từ những năm 1920 - 1925, bà Đạm Phương đã từng lên tiếng khẳng định lợi ích của nền học mới (Tây học – tức nhà trường Pháp - Việt) đối với phụ nữ và khởi xướng thành lập tổ chức Nữ công học hội (1926). Năm 1927, trên mục “Phụ nữ diễn đàn” của báo Tiếng dân xuất hiện các bài viết của Đào Duy Từ ký tên Dã Lan nữ sỹ bàn về vấn đề phụ nữ. Trong đó, tác giả chủ trương nam – nữ bình đẳng về mặt tự nhiên, vì thế phụ nữ cũng có quyền bình đẳng với nam giới trên phương diện văn hoá: “địa vị phụ nữ là một phần của lịch sử loài người, phải tiến hóa theo lịch sử”, “Đàn bà không phải là con vật hạ đẳng, lại càng không phải cái máy sinh con, so tri thức năng lực có thể cũng như đàn ông cả, thì đàn ông có lẽ nào coi đàn bà như một hạng “bất thành nhân” mãi. Cái trách nhiệm của chị em ta là phải yêu cầu cho xã hội công nhận cho ta một chút quyền lợi, vì quyền lợi có sung mãn thì làm nghĩa vụ mới trọn vẹn được” [41, tr.21 – 22]. Tổng kết phong trào vận động nữ quyền ở Huế những năm 1927 – 1929, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đánh giá như sau: “Bà Đạm Phương nhấn mạnh vai trò nữ học, nữ công, nữ hạnh theo hướng điều hòa các chuẩn mực của xã hội Nho giáo cũ với thực tế đời sống ở xã hội mới đang trên đà Âu hóa, (…) Đào Duy Anh (…) gắn vận động nữ quyền với tư tưởng khai sáng (…) Mục tiêu giải phóng phụ nữ được đề xuất ở 4 mặt: đạo đức, giáo dục, kinh tế và chính trị (…) Phan Bội Châu cổ vũ giải phóng phụ nữ gắn với giải phóng dân tộc, đồng thời cố gắng huy động những tiềm năng trong di sản đạo lý – văn hóa truyền thống kết hợp với những tinh túy của tinh thần Tây Âu nhằm hướng đến xây dựng một xã hội công dân – dân sự” [41, tr.30].
Có thể nói việc xây dựng nền giáo dục phổ thông theo tinh thần phương Tây hóa, hiện đại hóa đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong nhận thức của người Việt, trong đó có vấn đề phụ nữ và nữ quyền: “phương Tây đã trở thành một khích thước tâm hồn, quan trọng hơn đã trở thành một không gian cho sự xuất hiện một mô hình nữ
44
tính mới! Tất cả những điều đó có cội nguồn từ sự thay đổi của thiết chế giáo dục mà chính quyền thực dân Pháp đã thiết lập tại Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX” [41, tr.183]. Từ năm 1927, trong các buổi diễn thuyết tại các trường học, Phan Bội Châu đã khẳng định về mặt phẩm chất và năng lực, người phụ nữ hoàn toàn bình đẳng với nam giới: “Trời đã sinh ra các chị em, thì các chị em chắc cũng có trí khôn, hay tự lập; nước Việt Nam đã sản xuất ra các chị em, thì các chị em chắc cũng có năng lực, hay tự cường” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.25). Do đó, muốn phát triển phong trào phụ nữ, theo Phan Bội Châu, cần nhận thức được ba điều: “Một, phải biết phụ nữ là một hạng người không thể thiếu được ở trong loài người. Hai, phải biết phụ nữ là một xuất dân không thể thiếu được ở trong dân nước. Ba, phải biết phụ nữ là một bộ phận rất lớn trong xã hội”. Từ đó, phương châm hành động để phát triển phong trào phụ nữ là: “Một, mở mang về đường trí thức của phụ nữ. Hai, liên kết đoàn thể của phụ nữ. Ba, chấn hưng chức nghiệp của phụ nữ. Bốn, nâng cao địa vị của phụ nữ” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.29). Trong hệ thống các quan điểm của Phan Bội Châu về vấn đề phụ nữ, ông luôn nhận thức vai trò của phụ nữ trong sự gắn kết với vấn đề giải phóng dân tộc và vận động cải cách xã hội.
Tất cả các hoạt động tiếp nhận và truyền bá tư tưởng phương Tây nói trên đã có tác động mạnh mẽ đến nhận thức của xã hội Việt Nam, làm thay đổi lối tư duy cũ để hình thành nên những giá trị mới, khung tri thức mới, tạo điều kiện cho sự xuất hiện mô hình nữ tính mới. 2.2. Sự xuất hiện diễn ngôn mới về người phụ nữ và mô hình nữ tính Việt
Những nghiên cứu về lịch sử vấn đề phụ nữ ở Trung Quốc và Việt Nam của các nhà văn hóa học, dân tộc học như L. Cadiere, Đào Duy Anh, Tạ Văn Tài đều cho thấy rằng phụ nữ Việt Nam không hề bị đối xử nghiệt ngã như phụ nữ Trung Quốc dù đều chịu ảnh hưởng của Khổng giáo. Lịch sử dân tộc đã chứng kiến không ít những anh hùng là phụ nữ: Bà Trưng, Bà Triệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, Nguyên phi Ỷ Lan, Thái hậu Dương Vân Nga – hoàng phi triều Lý… Dù tư tưởng trọng nam khinh nữ tồn tại dai dẳng, thì lịch sử dân tộc vẫn dành cho người phụ nữ sự tôn trọng và ngưỡng vọng. Xét ở tầng văn hoá bản địa, nhờ được hun đúc và kết tinh từ truyền thống, người phụ nữ Việt vẫn giữ được vị trí quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội. Người mẹ không chỉ đóng vai trò sinh nở - duy trì nòi giống mà còn là cội nguồn họa phúc của các con với quan niệm “phúc đức tại mẫu”, “con dại cái mang”, “Lệnh ông không bằng cồng bà”, cho nên đối với cha thì kính mà mẹ thì thờ: “một lòng thờ mẹ kính cha”. Người phụ nữ vẫn giữ một vị trí thiêng liêng trong tâm thức văn hóa bản địa và truyền thống tôn trọng phụ nữ vẫn chưa bao giờ bị mất đi, mà là một mạch ngầm
45
xuyên suốt tiến trình lịch sử dân tộc. Các tác giả văn học trung đại, bên cạnh đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ, họ đều có ý thức bênh vực quyền sống, quyền được yêu, được hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. Tuy nhiên dù thế nào đi nữa, về căn bản, người phụ nữ Việt Nam vẫn chưa bao giờ được xem là đại diện hợp thức cho quốc gia, dân tộc. Đến đầu thế kỷ XX, sự tiếp xúc với phương Tây đã khiến Việt Nam thoát ra khỏi vùng ảnh hưởng của văn hóa Hán và chuyển trục, lấy văn hoá phương Tây – cụ thể là văn hóa Pháp làm trung tâm. Trong sự so sánh với phương Tây, những trí thức Việt đầu thế kỷ nhận thấy một trong những nguyên nhân khiến cho dân tộc chậm tiến hóa là vì: “khác với phụ nữ phương Tây, người phụ nữ Việt Nam bị đặt vào vị thế hoàn toàn thấp kém so với người đàn ông, và hoàn toàn bị gạt ra khỏi những vấn đề của dân tộc. Muốn duy tân dân tộc thì phải mở mang dân trí và khái niệm người “quốc dân” không chỉ dành cho đàn ông mà còn có cả sự hiện diện của phụ nữ. Dù đó là các chí sĩ, hay các trí thức trưởng thành từ nhà trường Pháp – Việt, hoặc các lãnh tụ cộng sản thì vẫn có một điểm chung: đề cao vai trò của người phụ nữ, dành cho phụ nữ một sự quan tâm đặc biệt trong những dự án về dân tộc” [111, tr.225]. Như vậy, trong sự so sánh với phương Tây và từ định hướng duy tân, hiện đại hóa mà vấn đề phụ nữ đã nhanh chóng được các nhà trí thức yêu nước nhận thức lại, đặt vai trò của phụ nữ trong mối liên thuộc với các vấn đề quốc gia, dân tộc. Mô hình nam tính – nữ tính Đông Á truyền thống dựa trên thiết giáo dục và thi cử phong kiến - một thiết chế hoàn toàn loại trừ sự hiện diện của người phụ nữ, đến đầu thế kỷ XX đã không còn phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của xã hội mới. Cũng như nhiều quốc gia phương Đông khác, Việt Nam chịu ảnh hưởng khá mạnh của tư tưởng Nho giáo, đề cao vai trò của người đàn ông và hạ thấp vai trò của người phụ nữ với các quan niệm phổ biến như “nam tôn nữ ti”, “nam quý nữ tiện”. Trong xã hội phong kiến nam quyền, người đàn ông làm chủ gia đình và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Nam tính của họ được bộc lộ qua các phẩm chất văn, võ; giá trị của họ gắn liền với sự nghiệp, công danh và vị thế xã hội. Ngược lại, phụ nữ lệ thuộc vào người đàn ông và gia đình, họ không có bản sắc riêng; giá trị của họ gắn liền với hôn nhân, gia đình và nuôi dạy con cái. Lịch sử văn học đã xây dựng hình tượng người phụ nữ qua nhiều thời kỳ nhưng ở vị trí khách thể, họ được kiến tạo bằng cái nhìn, tư duy, nguyên lý và giá trị của nam giới. Những tấm gương về “liệt nữ”, “lương thê hiền mẫu”, các chuẩn mực “công – dung – ngôn – hạnh”, những quy phạm về nữ tính trong văn học trung đại đều chỉ là những diễn ngôn do đàn ông tạo ra để hợp thức hóa người phụ nữ trong vai trò lệ thuộc, khiến họ chấp nhận vai trò đó một cách tự nguyện và xem đó như là thuộc tính tự nhiên của mình. Nằm trong vùng văn học Hán hoá, tính từ Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách trở
46
về trước, người phụ nữ trong văn học luôn được mô tả như đối tượng được nhào nặn bởi những định kiến, những huyền thoại do đàn ông tạo ra, dựa trên nguyên tắc đạo đức và thẩm mỹ Nho giáo. Chế độ phong kiến phương Đông dùng những thiết chế văn hóa Nho giáo để khuyến dụ và cưỡng chế phụ nữ phải chấp nhận địa vị thua kém đàn ông, tạo ra thành trì kiên cố của những định kiến giới giam hãm người phụ nữ trong bóng tối và làm cho họ tin rằng mình là phái yếu. Thành trì ấy được tạo nên bởi một lực lượng to lớn ở khắp mọi nơi trong xã hội: các nhà lập pháp, nhà đạo đức, triết gia, nhà văn, học giả,… tất cả đều đã cố gắng chứng minh tình trạng bị phụ thuộc của người phụ nữ. Quá trình xây đắp hình ảnh người phụ nữ diễn ra quá lâu, sự bất bình đẳng trở thành như định mệnh khiến cả hai giới đều mặc nhiên tin rằng điều ấy là bản tính tự nhiên, có từ nguyên thủy. Đàn ông được củng cố lòng tin vào tính chất thượng đẳng của giới mình, khiến cho họ có thái độ kẻ cả và bảo thủ. Còn với phụ nữ, họ gặp khó khăn trong việc khẳng định bản thân và từ bỏ những hình ảnh tiêu cực mà họ bị dán nhãn. Mặc dù đã có tiếng nói nhân đạo, nhân bản bênh vực người phụ nữ, song nữ giới hoàn toàn vắng bóng với tư cách là chủ thể với một nhân cách độc lập trong văn học trung đại. Nhưng lịch sử không ngừng vận động và biến đổi, những thay đổi về trường tri thức và hệ giá trị khiến cho những khuôn mẫu giới cũng biến đổi theo hoặc bị điều chỉnh đáng kể.
Giới tính (Gender) là một phạm trù về văn hóa và được kiến tạo bởi văn hóa. Người ta không sinh ra là đàn ông hay đàn bà mà người ta trở thành đàn ông hay đàn bà dưới những quy chuẩn văn hóa. Trong lịch sử vận động của nó, nam tính (masculine) /nữ tính (femininity) không phải là một tồn tại bất biến, mà nó biến đổi một cách đa dạng từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác; và ngay trong một nền văn hóa thì nó cũng luôn biến đổi từ thời kỳ này sang thời kỳ khác. Đầu thế kỷ XX, dưới tác động của tri thức, quyền lực phương Tây, khung tri thức thời đại thay đổi, yêu cầu tự do, dân chủ, nam nữ bình đẳng khiến cho mô hình nữ tính trong quá khứ không còn phù hợp với thời đại mới và bị vượt qua. Mô hình nữ tính mới được phác họa bởi tầng lớp trí thức bản địa, những người gánh vác trọng trách duy tân và giải phóng dân tộc. Các trí thức thuộc địa trong sự tương tác với chủ thể thực dân, đã cho ra đời diễn ngôn mới về người phụ nữ. Chúng ta có thể hình dung mô hình nữ tính mới ở bảng tổng hợp dưới đây 1dựa theo kết quả nghiên cứu của Trần Văn Toàn trong tiểu luận Nam tính hóa nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam:
1 Mô hình này được xây dựng chủ yếu dựa theo kết quả nghiên cứu của Trần Văn Toàn trong tiểu luận Nam tính hóa nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam. Chúng tôi bổ sung thêm các tham số Khái Hưng, Nam Xương, các nhà văn hiện thực (Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng)
47
NHÀ TRƯỜNG THỰC DÂN (Colonizer)
CHỦ THỂ THUỘC MÔ HÌNH NỮ TÍNH VIỆT (1913 – 1945)
ĐỊA (colonized)
Làm con – làm vợ Làm người Làm người dân
- làm mẹ (gia đình/ (quyền sống cá (Xã hội/ Dân tộc) =
bổn phận) nhân) bổn phận MỚI
X (trung lưu, Nguyễn Văn Vĩnh –
thượng lưu) Phạm Quỳnh
X (mọi tầng lớp) X Phan Khôi
X (mọi tầng lớp) X X Phan Bội Châu
X (tầng lớp dưới) X Nguyễn Ái Quốc
X (trung lưu, Hoàng Ngọc Phách
thượng lưu) (Tố Tâm, 1925)
X (trung lưu, X Nhất Linh (Đoạn
thượng lưu) Tuyệt, 1935)
X (trung lưu, X Khái Hưng (Trống
thượng lưu) mái, 1936)
X X Nam Xương (vở
(trung lưu, kịch Ông tây An
thượng lưu) Nam)
X (tầng lớp dưới) Các nhà văn hiện
thực (Vũ Trọng
Phụng, Nguyên
Hồng)
ẢNH HƯỞNG CỦA
TRUNG QUỐC
[41, tr.185]
Từ bảng tổng hợp trên có thể nhận thấy rằng:
Trong điều kiện xã hội mới, tri thức/quyền lực phương Tây trong sự tương tác với chủ thể thuộc địa đã tạo lập những diễn ngôn mới về người phụ nữ. Sự phức tạp và không thuần khiết của chủ thể thực dân và chủ thể thuộc địa tạo ra hệ quả là một hệ thống các diễn ngôn ra đời và gắn với nó là mô hình nữ tính Việt được kiến tạo. Ở đây, chúng ta thấy rằng tri thức, quyền lực đến từ chủ thể thực dân là không thay đổi, song
48
tùy thuộc vào đặc điểm của chủ thể thuộc địa, sự tương tác giữa các chủ thể nói trên, sẽ mang lại một hệ thống diễn ngôn mới về người phụ nữ. Những người có thiên hướng hoạt động cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Nam Xương, Nhất Linh thường có xu hướng đặt người phụ nữ trong không gian dân tộc. Ở các sáng tác của họ, diễn ngôn giải phóng phụ nữ gắn với diễn ngôn dân tộc. Trong khi đó, những người như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ngọc Phách lại có xu hướng duy trì người phụ nữ trong không gian gia đình truyền thống. Nguyễn Văn Vĩnh ủng hộ phụ nữ luyện tập thể thao, làm các nghề nghiệp phù hợp như giáo viên, thư ký, hộ sinh nhưng ông vẫn muốn rằng công việc của phụ nữ phải “tùy gia phong kiệm, tùy cái giáo dục”, nói chung bổn phận chính của phụ nữ vẫn là nội tướng của gia đình.
Phan Khôi dù phê phán Nho giáo nhưng không hoàn toàn phủ nhận vai trò của người phụ nữ trong gia đình; bên cạnh đó ông là người đấu tranh không mệt mỏi cho quyền làm người, quyền sống của phụ nữ. Ở Phan Khôi, diễn ngôn giải phóng phụ nữ gắn với diễn ngôn cá nhân, đối tượng phụ nữ mà ông hướng đến là mọi tầng lớp nhân dân. Trong khi đó, các nhà văn hiện thực như Nam Cao, Nguyên Hồng, những chủ thể hướng đến diễn ngôn giai cấp, thì đối tượng phụ nữ mà họ đề cập đến là tầng lớp dưới trong xã hội.
Như vậy, văn hóa và thiết chế giáo dục của phương Tây đã tạo ra một khung tri thức mới ở xã hội thuộc địa, điều này dẫn tới việc viết lại mô hình nữ tính mới. Dưới tác động tích cực của nền giáo dục thuộc địa, cùng với việc tiếp nhận tư tưởng tự do, nhân bản, khai phóng của phương Tây và lối sống đô thị hiện đại, một mô hình nữ tính mới đã được thiết lập bởi các nhà trí thức bản địa. Người phụ nữ mới (tân học nữ lưu) hiện diện trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX như là những nhân cách độc lập, có tri thức và có khả năng thực nghiệp. Thay vì giam mình trong chốn phòng khuê, ẩn mình sau các bức bình phong, quẩn quanh với các vai truyền thống; người phụ nữ mới hòa mình vào môi trường xã hội rộng lớn, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước và giải phóng dân tộc. Sự tự chủ về kinh tế và mở mang về trí tuệ là hai mục tiêu mà người phụ nữ mới cần đạt được, đây là điều kiện giúp phụ nữ tự giải phóng mình để bình đẳng với nam giới. Trải qua một thời gian đấu tranh lâu dài đến thời hiện đại, phụ nữ đã được thừa nhận như một chủ thể, có giá trị tự thân và bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực.
Tóm lại, sự phát triển của đội ngũ trí thức người Việt, dưới thiết chế giáo dục của thực dân Pháp đã tạo nên những thay đổi lớn trong đời sống văn hóa xã hội, đem lại bước phát triển trong việc nhận thức vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Người phụ nữ giờ đây không chỉ được đánh giá ở các vai giới tính với chức năng sinh nở, tề
49
gia nội trợ mà còn có khả năng đứng ra gánh vác việc mưu sinh, đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Để không còn bị phụ thuộc về quyền lợi kinh tế và chính trị vào người chồng, hay phải chịu cảnh “nấp bóng tùng quân”, nhiều phụ nữ đã tham gia đấu tranh trên lĩnh xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi của nữ giới trên các mặt văn hóa, chính trị và kinh tế. 2.3. Mối quan hệ của diễn ngôn nữ quyền với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá
Như trên đã nói, mục tiêu hiện đại hóa đất nước và giải phóng dân tộc là văn cảnh cho sự xuất hiện của vấn đề phụ nữ và phong trào nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Từ đây, người phụ nữ bắt đầu được xuất hiện trong những diễn ngôn về dân tộc tính của Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Nam Xương, Nhất Linh, Khái Hưng…
Dấu hiệu của hiện đại hóa được nhận thấy từ sự đổi thay vai trò và vị thế của người phụ nữ trong xã hội: thoát khỏi vai truyền thống (làm mẹ, làm vợ) để tham gia vào vai trò mới (làm người quốc dân) đối với sự phát triển của dân tộc. Sự thay đổi vai trò và địa vị của người phụ nữ từ trong gia đình ra ngoài ngoài xã hội là biểu hiện cho một dân tộc đang hình thành ý thức quốc gia và phát triển theo hướng hiện đại. Nhờ vào sự thay đổi nhận thức khi tiếp xúc với các tri thức khoa học về con người và lịch sử tiến hóa của phương Tây, các trí thức yêu nước đã thấy rõ vai trò không thể thiếu của phụ nữ trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Họ nhận thức được rằng sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ có cơ hội thành công cao hơn nếu có sự tham gia của người phụ nữ và khái niệm “quốc dân” không chỉ dành cho đàn ông, mà còn dành cho cả phụ nữ. Việc đặt vai trò phụ nữ trong sự liên thuộc với vấn đề quốc gia, dân tộc thể hiện rõ trong sáng tác của các nhà trí thức yêu nước có xu hướng cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Nam Xương, Nhất Linh… Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của họ được sử dụng như một công cụ biểu đạt và truyền tải những ý hướng, những dự đồ của người đàn ông về một mô hình quốc gia, xã hội mới. Nhờ có tri thức và khả năng thực nghiệp, người phụ nữ có cơ hội cải thiện địa vị của mình. Họ không còn bị đóng khung trong các vai truyền thống như làm dâu, làm mẹ, làm vợ,… mà còn có khả năng tham gia vào các hoạt động xã hội, nghề nghiệp, tham gia đấu tranh cách mạng, góp công vào sự nghiệp duy tân và giải phóng. Phụ nữ từ chỗ phụ thuộc, không có bản sắc riêng, đã trở thành những chủ thể độc lập, bình đẳng với nam giới. Giải phóng phụ nữ khỏi sự áp bức của chế độ nam quyền, khẳng định vai trò và vị thế của họ trong không gian xã hội không chỉ mang ý nghĩa trên phương diện tinh thần nữ quyền thuần tuý, mà còn cho thấy nỗ lực canh tân đất nước,
50
tự lực tự cường để tiến tới giải phóng dân tộc của tầng lớp trí thức bản địa. Ở đây mô hình nữ tính mới được xây dựng như một chiến lược biểu đạt cho vấn đề dân tộc – một vấn đề bao trùm toàn bộ đời sống xã hội chính trị ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Phan Bội Châu là một trong những nhân sĩ đầu tiên ở Việt Nam đã đặt vấn đề phụ nữ như một đối tượng cần thảo luận trong các dự án cải cách xã hội hay dự đồ về xây dựng mô hình nhà nước mới. Sử gia David G. Marr nhận thấy rằng: “Phan Bội Châu (1867 – 1940) là người dường như đã suy tư về tình cảnh của phụ nữ Việt Nam hơn hầu hết nam giới đương thời (…) Gần như mục đích của Phan là nhắm vào vai trò của phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Ông đã bày ra một cảnh huống mà ở đó phụ nữ được kỳ vọng sẽ hành động nhiều hơn theo cùng các nguyên tắc yêu nước đã thúc đẩy cha, chồng, và anh em của họ hơn là từ sự tôn kính các khái niệm của Khổng giáo về phận vị người phụ nữ” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.8). Thống nhất với quan điểm trên của David Marr, Hồ Tuệ Tâm trong “Gái nước Nam” cho rằng: “Phan Bội Châu, có lẽ người Việt đầu tiên thảo luận vai trò của phụ nữ trong xã hội Việt, xem phụ nữ chủ yếu như những chiến sĩ chống thực dân đắc lực và những sự phục vụ của họ là ngớ ngẩn nếu hi sinh cho những khái niệm truyền thống về sự hiền thục đoan trang. Ông Phan biết giá trị của người phụ nữ trong phong trào chống thực dân. Phụ nữ (cả những người thuộc giới ưu tú) đang điều hành kinh doanh nhỏ có thể lợi dụng làm bình phong cho các hoạt động chống thực dân. Họ có thể đi lại mà không khơi ra sự nghi ngại không hợp cách, và họ ít có cơ bị cảnh sát giữ và lục soát như đàn ông” [105].
Bên cạnh đó, giữa nữ tính và dân tộc tính còn có mối quan hệ đồng nhất với nhau, đây là hiện tượng giới tính hoá dân tộc. Theo nhà nghiên cứu T. Mayer, hiện tượng này được giải thích như sau: “Dân tộc hầu như luôn được nữ tính hóa và được mô tả như cần sự bảo vệ; người phụ nữ được hình dung như là sự tái sinh văn hóa và sinh học của dân tộc và mang những thuộc tính: thuần khiết và thùy mị, và người đàn ông sẽ giữ vai trò bảo vệ hình ảnh của dân tộc, bảo vệ biện giới của dân tộc, bảo vệ sự thuần khiết và thùy mị của người phụ nữ, bảo vệ cái mã đạo lí (moral code). Như thế người phụ nữ đại diện cho sự hoài thai (womb) sinh học và xã hội của dân tộc và người đàn ông có tư cách là người bảo vệ (protector)” [111, tr.229]. Trong hầu hết các nền văn hóa, khái niệm tổ quốc, dân tộc, đất nước được hình dung trong vai trò người mẹ: motherland, đất mẹ, mẹ tổ quốc. Thiên chức trong gia đình của phụ nữ liên quan đến sự cường thịnh của giống nòi. Thông qua giáo dục con cái, khuyên bảo chồng con, tạo dựng gia đình tốt, hình thành người quốc dân giỏi, người phụ nữ đã chứng tỏ được khả năng “tái sinh văn hóa và sinh học của dân tộc”. Phan Khôi là người khẳng định
51
sự nghiệp quốc sự của người phụ nữ thông qua việc làm tốt chức năng làm vợ, làm mẹ trong gia đình bởi gia đình là gốc xã hội, gia đình vững vàng thì xã hội tốt đẹp: “Chị em cứ việc ở trong buồng the trướng gấm, lo lắng khuyên chồng dạy con, tức là làm
quốc sự một cách rất sâu xa, rất cao thượng” [55, tr.39]. Ở đây, quan niệm phụ nữ với chức năng của người con, người vợ, người mẹ như những hình tượng nuôi dưỡng, giúp đỡ, cứu trợ, và khuyên bảo cha, chồng, con của họ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng khiến cho hình ảnh của người phụ nữ hiện diện trong không gian dân tộc.
Dấu hiệu của hiện đại hóa còn thể hiện ở sự nghiệp giải phóng con người cá nhân khỏi sự ràng buộc của các thiết chế văn hóa, tư tưởng truyền thống: chủ nghĩa đại gia đình, chế độ đẳng cấp, tôn ty trật tự và luân lí, đạo đạo đức tông pháp. Trong vấn đề giải phóng cá nhân, trọng tâm là vấn đề giải phóng người phụ nữ. Bởi dưới chế độ chuyên chế, phụ nữ là đối tượng bị áp bức bởi cả thần quyền, phụ quyền và nam quyền, là nạn nhân đau khổ, bất hạnh nhất trong xã hội. Cho nên, diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn nữ quyền đã hàm chứa và giao cắt lẫn nhau. Ở sáng tác của các nho tư sản hóa, hay các trí thức Tây học như trường hợp Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách, TLVĐ,… diễn ngôn hiện đại hoá thường gắn với vấn đề giải phóng cá nhân và người phụ nữ. Văn minh phương Tây và chế độ giáo dục của người Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX trong thực tế đã hình thành ở tầng lớp trí thức Tây học quan niệm về con người cá nhân. Việc thèm khát sự ổn định, không chú trọng sự biến đổi thực tại và cải tạo thế giới khiến cho nền giáo dục Nho giáo không biết đến con người cá nhân mà chỉ tập trung vào xây dựng con người nhân cách. Dưới nhãn quan đạo đức Nho giáo, “con người không được nhìn nhận về phương diện là con người tự nhiên, có giác quan, có dục vọng, có khả năng lao động và có trí tuệ, có nhu cầu kiếm sống và tìm hạnh phúc, con người chỉ là của gia đình và của vua quan. Quan hệ trong cộng đồng không theo tài năng, phẩm giá” [138, tr.87]. Cuộc tiếp xúc với văn minh phương Tây đã dẫn đến một tình thế không thể đảo ngược, để sống còn, các trí thức bản địa chấp nhận con đường Tây phương hóa, Âu hóa như Trung Quốc và Nhật Bản. Giai đoạn từ 1930 – 1945, trong xã hội nước ta đã hình thành một tầng lớp trí thức Tây học, nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ và am hiểu văn hóa Pháp ở những mức độ khác nhau. Họ không chủ trương thứ văn hóa “lấy phương Đông làm thể, phương Tây làm dụng”, mà thiên về nền văn hóa lấy thể và dụng đều châu Âu, chủ yếu lấy mô hình văn hóa Pháp làm khuôn mẫu nhưng khúc xạ theo tâm thức Việt để kiến tạo bản sắc dân tộc. Xã hội Việt Nam lúc này diễn ra một quá trình đảo ngược các giá trị, một số đối tượng xưa được tôn thờ thì nay bị đả kích như vua quan, hào lí, các hủ tục, tôn ti trong gia đình. Cái mới do tiếp xúc với phương Tây đưa đến ý thức về giá trị cá nhân trong
52
thế đối lập với gia đình, làng xã. Trong chiến lược Âu hoá nhằm thoát khỏi tình trạng trì trệ, lạc hậu so với phương Tây, vấn đề giải phóng cá nhân, đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ trở thành mối bận tâm hàng đầu của hầu hết trí thức Tây học thời kỳ này. Ở văn chương của TLVĐ, mục tiêu giải phóng con người cá nhân và làm cho mọi người biết rằng đạo Khổng không còn hợp thời nữa được đặt lên hàng đầu khiến cho người phụ nữ trở thành nhân vật trung tâm trong các sáng tác của họ, đặc biệt ở giai đoạn đầu 1933 – 1936. Trong văn học, so với Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách trở về trước, hình tượng người phụ nữ mới trong sáng tác của TLVĐ, tiêu biểu như Mai (Nửa chừng xuân), Loan (Đoạn tuyệt), Hiền (Trống mái), Nhung (Lạnh lùng), đã có sự biến đổi hết sức to lớn: trở thành biểu tượng đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng và quyền được hưởng hạnh phúc của con người cá nhân; chống lại những quan niệm thủ cựu về hôn nhân, trinh tiết và gia đình. Như vậy, diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn nữ quyền không chỉ giao cắt mà còn bao chứa và tương tác lẫn nhau.
Mặt khác, nam tính/nữ tính là một tương quan quyền lực (bao hàm sự phân biệt tôn ti, trật tự) nên nó có thể được sử dụng như một công cụ văn hóa để nhận thức về những quan hệ quyền lực khác ở các cấp độ như cá nhân, giai cấp, chủng tộc,… Trong công trình Đông phương luận (Orientalism), những phân tích của Edward Said đã cho thấy hình ảnh phương Đông – “Kẻ Khác” trong cái nhìn của phương Tây - bị nữ tính hóa với những thuộc tính thấp kém như mông muội, thụ động, tĩnh tại, cảm tính và bị chinh phục; đối lập với hình ảnh của một phương Tây văn minh, chủ động, mạnh mẽ, lý tính và bá quyền. Đông phương luận của Edward Said là công trình nghiên cứu cách thức mà chủ nghĩa thực dân đã sử dụng để kiến tạo hình ảnh phương Đông qua hàng năm nhằm mục đích hợp thức hóa quá trình xâm lược, cai trị và bóc lột của đế quốc phương Tây: “Đông phương học là một phong cách của phương Tây để thống trị, điều chỉnh cơ cấu phương Đông và xác lập quyền lực đối với phương Đông” [88, tr.11]. Với số lượng thư khố khổng lồ qua hàng trăm năm, phương Tây đã tạo ra một diễn ngôn thực dân về hình ảnh của một phương Đông thiếu khách quan, đầy định kiến và do đó không đúng với chính nó trong thực tế. Như vậy, trong quan hệ với vấn đề chủng tộc, thì nam tính/nữ tính như trong những phân tích của Edward Said nói trên đã “chuyển hóa thành cái biểu đạt” khiến cho giới tính (gender) trở thành nơi giao cắt của diễn ngôn về người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc, chủng tộc. Ở Việt Nam, trong bối cảnh tinh thần dân tộc và tham vọng hiện đại hóa đất nước đầu thế kỷ XX ngày một lên cao, vấn đề phụ nữ và đấu tranh cho nữ quyền đã trở thành tâm điểm của những thảo luận sôi nổi trên các diễn đàn văn hóa xã hội. Đặc biệt ở một nước thuộc địa, nơi
53
mà người phụ nữ mang vị thế “ngoại biên kép”, là đối tượng bị áp bức của cả chủ thể nam giới thuộc địa lẫn chủ thể thực dân, việc đấu tranh cho quyền lợi của người phụ nữ, giải phóng phụ nữ phản ánh rõ tương quan quyền lực nam tính/nữ tính, cá nhân/gia đình, hiện đại/truyền thống, thực dân/thuộc địa,… và như thế, trong trường hợp này, diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn dân tộc không chỉ giao cắt mà còn hàm chứa và chuyển hóa lẫn nhau.
Đối thoại với diễn ngôn về hiện đại hoá/Âu hoá trong sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng là diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá trong sáng tác của các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực mà tiêu biểu là Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng. Trái ngược với văn phái lãng mạn của TLVĐ, các sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng không rời xa sự thật nhãn tiền của xã hội, đã phơi bày những bức xúc to lớn được tạo ra bởi mặt trái của xã hội đô thị đang tác động vào sự sinh tồn của con người. Xã hội thị dân Việt Nam là “con đẻ” của chủ nghĩa thực dân, đằng sau sự hào nhoáng của tầng lớp thượng lưu, là đời sống tối tăm của nhân dân lao động dưới tác động của các chính sách cai trị mà thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam. Trong đó, số phận của người phụ nữ trong xã hội thuộc địa đang trên đà hiện đại hoá được đặt ra một cách cấp thiết và ám ảnh. Ở sáng tác của Vũ Trọng Phụng, những phụ nữ thuộc tầng lớp trên với sự suy đồi từ trong bản chất, sống trong hoàn cảnh của xã hội “Âu hoá rởm” càng khiến cho họ trở nên lai căng, kệch cỡm, bất thành nhân dạng. Bổ sung vào bức tranh xã hội đô thị đó, trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng còn có những người phụ nữ nghèo, dưới đáy xã hội với bi kịch bần cùng hoá và tha hoá. Nạn sưu cao thuế nặng ở nông thôn khiến họ rơi vào cảnh nghèo đói, phải bỏ làng ra thành phố kiếm sống. Song cuộc sống đô thị với nhiều cạm bẫy khiến cho họ sau khi phải bán sức lao động rẻ mạt trong các nhà máy, xí nghiệp, bị lừa gạt, cuối cùng bị đẩy vào con đường bần cùng hoá và tha hoá. Vũ Trọng Phụng cho rằng xã hội Âu hoá rởm đã khiến cho phụ nữ hư hỏng, băng hoại đạo đức đến tận xương tuỷ như thế thì chẳng có gì phải dấu giếm. Nguyên Hồng bằng niềm mẫn cảm và những trải nghiệm từ chính cuộc đời cần lao của mình, đã lên tiếng cho những bất công của người phụ nữ trong xã hội đô thị tiền tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế, diễn ngôn về mặt trái của xã hội hiện đại hoá/Âu hoá trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng chính là sự chất vấn, đối thoại với chủ trương Âu hoá và con đường đi lên hiện đại hoá của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Nó bổ sung ý nghĩa cho diễn ngôn nữ quyền bằng cách phơi bày và lên án những mặt xấu xa, mặt trái của xã hội Âu hoá đã tác động đến vấn đề phụ nữ theo chiều hướng tiêu cực, hi vọng tìm ra những giải pháp xã hội đúng đắn để cải thiện số phận của người phụ nữ. Mặc khác, cũng phải thấy rằng bên cạnh việc gây
54
ra bi kịch đau khổ cho người phụ nữ, thì đời sống hiện đại hoá còn vận động cả ở những phương diện khác, tích cực và tươi sáng hơn như trong diễn ngôn của Nhất Linh và Khái Hưng. Ở đó, người phụ nữ được miêu tả như là hiện thân cho lực lượng xã hội tiên tiến. Trong điều kiện xã hội mới, họ sở hữu những phẩm chất mới, là đối tượng cần được khám phá và vun đắp. Như vậy, diễn ngôn nữ quyền và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá không phủ định nhau mà mà là bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa.
Tiểu kết
Sự tác động của văn minh phương Tây với tinh thần tự do, dân chủ và nền giáo
dục nhân bản, khai phóng cùng với chiến lược duy tân và đấu tranh giải phóng của các
nhà trí thức yêu nước nửa đầu thế kỷ XX chính là văn cảnh cho sự xuất hiện của người
phụ nữ với những quy chuẩn nữ tính mới. Trong bối cảnh thuộc địa, diễn ngôn nữ
quyền và diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân, diễn ngôn về mặt trái của hiện đại
hoá/Âu hoá luôn ở trong tình thế giao cắt và chuyển hoá lẫn nhau. Phan Bội Châu
cùng với tư tưởng của ông về vấn đề phụ nữ trong sự quy chiếu về một mô hình quốc
gia – dân tộc mới đã đánh dấu nỗ lực của giới trí thức bản địa trong hành động vượt
qua những rào cản của ý thức hệ Nho giáo để hội nhập với thế giới hiện đại. Ở nhà nho
tài tử có khuynh hướng tư sản hoá như Tản Đà và trí thức Tây học như Hoàng Ngọc
Phách, Nhất Linh và Khái Hưng, diễn ngôn về người phụ nữ trong sáng tác của họ
thường gắn với vấn đề giải phóng con người cá nhân, khai phóng con người với những
giá trị nhân bản, nhân quyền tiến bộ. Trong khi đó, các nhà văn hiện thực như Vũ
Trọng Phụng và Nguyên Hồng lại muốn đối thoại, chất vấn con đường hiện đại
hoá/Âu hoá, quan tâm đến số phận người phụ nữ trong xã hội thuộc địa một cách thiết
thực và đời thường nhất.
55
CHƯƠNG 3
NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC
CỦA PHAN BỘI CHÂU VÀ NHẤT LINH, KHÁI HƯNG
3.1. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Phan Bội Châu
3.1.1. Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX và nhận thức mới về vấn đề phụ nữ
Cuối thế kỉ XIX, sau khi tiếng mõ Cần Vương đã tắt, phong trào yêu nước dưới
ngọn cờ phong kiến đến hồi cáo chung. Về mặt quân sự, thực dân Pháp về cơ bản đã
hoàn thành công cuộc bình định nước ta và bắt tay vào kế hoạch khai thác thuộc địa
lần thứ nhất. Sang đầu thế kỉ XX, sự cáo chung của chế độ phong kiến và sự thắng thế
của chủ nghĩa tư bản trên quy mô toàn thế giới, cùng với những ảnh hưởng của phong
trào Duy tân từ Trung Quốc và Nhật Bản đã tác động mạnh đến nhận thức của giới sĩ
phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam. Tư tưởng tự do, dân chủ của phương Tây dưới hình
thức tân thư, qua con đường Trung Quốc đi vào Việt Nam và làm thức tỉnh đội ngũ trí
thức nước ta con đường cứu nước mới. Việc chứng kiến sức mạnh của súng đạn và
khoa học kĩ thuật phương Tây cùng với sự truyền bá rộng rãi các học thuyết về “cạnh
tranh sinh tồn”, “mạnh được yếu thua” của Darwin và tư tưởng tự do, dân chủ của Montesquieu, Voltaire, Rousseau,… qua hình thức tân thư đã “xô lệch” khung tri thức cũ của tầng lớp nhà nho, hình thành ở họ những tri thức mới về tự do, dân chủ, dân
quyền, những quan niệm tiến bộ về dân, về nước. Vẫn với mục tiêu giành độc lập,
mưu sự sống còn cho dân tộc, song giờ đây, các nhà nho yêu nước tiến bộ như Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế… đã nhận thấy rằng
không thể phục quốc theo con đường cũ, mà cần cấp bách duy tân đất nước theo
hướng phương Tây hóa và đoàn kết toàn dân, vũ trang cách mạng để hoàn thành giải
phóng dân tộc. Các phong trào yêu nước như Đông du (1905 – 1908), Duy tân (1906 –
1908), Đông Kinh nghĩa thục (1907) diễn ra sôi nổi với chủ trương “khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh”, thức tỉnh truyền thống yêu nước, đoàn kết chống ngoại xâm.
Như vậy, trước sức mạnh của chủ thể thực dân gắn với văn minh phương Tây, chủ
nghĩa yêu nước của Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã mang một dấu ấn riêng:
yêu nước gắn với tự cường dân tộc, giành độc lập dân tộc gắn với canh tân đất nước.
Chính trong mối quan hệ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và canh tân đất nước, mà vấn
đề phụ nữ trở thành mối quan tâm hàng đầu, được thảo luận sôi nổi trên lĩnh vực báo chí
lẫn văn học nghệ thuật đầu thế kỉ XX. Đặt biệt, người phụ nữ trở thành hình tượng trung
56
tâm trong các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật của Phan Bội Châu, nổi bật có tiểu thuyết
Trùng Quang tâm sử, tuồng Trưng nữ vương và một số truyện kí như Sùng bái giai nhân,
Mẹ Lân, Nữ liệt sỹ Đinh phu nhân,…
Đầu thế kỉ XX, trong tình trạng bế tắc của đất nước: đạo thần tử đã mất hết tác
dụng, tổ chức xã hội cũ tan rã, các phương thức đấu tranh bảo vệ tổ quốc dưới ngọn cờ
của giai cấp phong kiến đã hết hiệu nghiệm, Phan Bội Châu với quyết tâm cứu nước,
nóng lòng tìm ra con đường đấu tranh mới. Sự hy sinh của bao tấm gương trung thần
nghĩa sĩ trong phong trào Cần vương đã không thể cứu vãn nổi nền độc lập nước nhà.
Nhà Nguyễn đi từ chủ chiến đến chủ hòa rồi đến đầu hàng, trở thành công cụ chính trị
bù nhìn trong tay thực dân. Lòng yêu nước của các nhân sĩ trí thức và nhân dân Việt
Nam vẫn tha thiết, quật cường, song chủ nghĩa yêu nước với tư cách là một phạm trù
thuộc ý thức hệ phong kiến thì rơi vào bế tắc, khủng hoảng, đòi hỏi một sự thay đổi cơ
bản và to lớn về nội dung yêu nước: “Vào đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam nằm trong
trạng thái khủng hoảng sâu sắc. Đó là một thực tế mà cái cũ thì đã mất vai trò, mất ý
nghĩa lịch sử (chế độ vua quan và người thần dân) nhưng cái mới lại chưa đủ trưởng
thành để đáp ứng đòi hỏi của một tiến trình phát triển mạch lạc tiếp tục. Người dân mất
tư cách thần dân, nhưng lại chưa đủ điều kiện để làm người chủ, người công dân” [110,
tr.32]. Xét theo ý thức hệ phong kiến, ngôi vua đại diện cho cộng đồng, dân tộc cho nên
trong nội dung yêu nước, “trung quân” gắn liền với “ái quốc”. Khi triều đình nhà
Nguyễn cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ, rồi 6 tỉnh Nam kỳ cho Pháp thì sự rạn nứt trong
tổ hợp vua – dân – nước đã xuất hiện: “Từ khi giặc Pháp lây 3 tỉnh Nam Bộ đến cuối thế
kỷ XIX, sau khi mất nước, diễn ra một sự đối chọi giữa hai hệ tư tưởng. Một là Nho
giáo Trung Quốc chủ trương nước là của vua. Do đó, vua theo ai, nhà Nho theo người
ấy. Hai là nước của dân, vua chỉ là vua khi bảo vệ được nước. Đó là cái mà Nguyễn
Đình Chiểu gọi là đạo nhà, Nguyễn Lộ Trạch gọi là chính giáo” [74, tr.46]. Một ví dụ
được học giả Phan Ngọc dẫn ra cho thấy lớp nhà nho chân chính, thay vì ngôi vua, họ
lựa chọn sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia: “Trần Bích San (1840-1877), đỗ tam
nguyên, năm 1877, được nhà vua sai cầm đầu phái đoàn điều đình với Pháp. Biết rằng
để mất đất là có tội với nước, ông đã uống thuốc độc tự sát. Một nhà Nho Việt Nam
chân chính không thể hy sinh quyền lợi đất nước để theo ý nhà vua” [74, tr.46]. Nhà
Nguyễn bất đắc dĩ mới phải cắt 6 tỉnh Nam kỳ cho Pháp nhưng việc ấy đã gây ra phản
ứng vô cùng giận dữ ở các nhà nho yêu nước, thái độ của họ đối với nhà vua có thể thâu
tóm trong câu nói của cử nhân Phan Văn Trị: “Chém đầu Tự Đức, moi gan Tự Đức,
57
uống máu Tự Đức!” [74, tr.47]. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ phản ánh
rõ khát vọng mong mỏi ngày đêm của muôn dân trăm họ về sự ra tay cứu nước của triều
đình nhà Nguyễn: “Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng/ Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
[115, tr.285]. Thực tế lịch sử khốc liệt đã làm phá sản nội dung của chủ nghĩa yêu nước
truyền thống. Việc đạo thần tử mất hết ý nghĩa và ngôi vua chỉ còn là hư vị, tự nó không
mang lại nội dung dân chủ trong ý thức xã hội mà đòi hỏi trong xã hội phải có sự xuất
hiện con người cá nhân bình đẳng với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ trước các điều khoản
về khế ước xã hội và quyền con người. Khái niệm “dân chủ” với mọi ý nghĩa đầy đủ của
nó được hình thành từ các nước tư bản Âu – Mỹ, là kết quả của cả một quá trình lịch sử.
Trước khi có cuộc cách mạng tư sản long trời lở đất, làm rung chuyển châu Âu thế kỷ
XVII, XVIII và làm sụp đổ chế độ phong kiến chuyên chế hàng ngàn năm, con người
chưa bao giờ được nhìn nhận với tư cách là con người công dân. Ở phương Đông theo
quan niệm Nho giáo, ngoài thiên tử là con trời, còn từ tể tướng trở xuống đều là thần
dân. Đó là một đám đông vô danh và căm lặng, cũng như đất đai, tư liệu sản xuất, họ là
tài sản thuộc quyền sở hữu của thiên tử. Thần dân chưa bao giờ là chủ thể của quyền
lực, hay là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vì thế họ không phải là những cá nhân cụ thể, xác
định. Chế độ tư bản Âu - Mỹ đã tạo ra một bước tiến của lịch sử xã hội loài người khi
hình thành nên khái niệm “công dân”, những cá nhân bình đẳng với nhau trước pháp
luật. Ở xã hội các nước phương Tây, mọi thành viên của xã hội được thừa nhận tư cách
công dân do các công ước và khế ước xã hội quy định. Công dân của một nước có
quyền tự do, bình đẳng, quyền tư hữu, cùng với đó là bổn phận và nghĩa vụ cơ bản của
mọi công dân được đảm bảo bằng công pháp mang tính bắt buộc. Quyền cao nhất của
công dân là quyền làm cách mạng xã hội. Thân phận người dân trong xã hội Việt Nam
về mặt pháp quyền đã phát triển từ tư cách người “thần dân” qua người “quốc dân” đến
người “công dân” theo hiến pháp ngày nay. Phan Bội Châu trong quá trình trăn trở đi
tìm đường cứu nước đã tiếp cận được với khái niệm tự do, dân chủ, dân quyền và những
quan niệm mới về dân, về nước của giai cấp tư sản phương Tây: “Luồng tư tưởng gắn
độc lập dân tộc với duy tân xã hội từ cả hai nguồn – giao lưu trực tiếp từ phương Tây và
qua tân thư từ Trung Quốc – đã thúc đẩy họ tiến một bước dài theo hướng phủ định mối
quan hệ vốn được coi là tự nhiên giữa vua và nước. Loại hình hào kiệt tự nhiệm tái sinh.
Tư tưởng về người quốc dân xuất hiện với câu châm ngôn cơ bản “Dân là dân nước,
nước là nước dân” [110, tr.190]. Trong chương 5 của Việt Nam quốc sử khảo (1908),
Phan Bội Châu đã sử dụng công pháp quốc tế để định nghĩa về một quốc gia phải gồm
58
đủ ba yếu tố: nhân dân, đất đai và chủ quyền, thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư
cách làm một nước. Trong đó, vai trò của người dân được ông đặt lên vị trí quan trọng
nhất: “không có nhân dân thì đất đai không thể còn, chủ quyền không thể lập; nhân dân
còn thì nước còn, nhân dân mất thì nước mất” (Phan Bội Châu toàn tập, tập 3, 1990,
tr.52). Trong quan niệm này, tư tưởng chủ quyền theo mệnh trời – cơ sở đạo lý cho chế
độ chuyên chế, cơ sở lý luận cho sự đồng nhất trung quân với yêu nước đã bị vượt qua.
Vai trò thiên tử của ngôi vua đã bị thay thế bằng vai trò làm chủ đất nước của nhân dân.
Năm mươi triệu người dân trong nước đều là “con cháu một họ” đều có chung tài sản là
đất nước do cha ông để lại. Theo đó, khái niệm “dân quyền” được Phan Bội Châu khẳng
định trong mối quan hệ giữa dân và nước vào đầu thế kỷ XX là một bước tiến trong
nhận thức của tầng lớp trí thức phong kiến Việt Nam trước yêu cầu mới của lịch sử.
Nhân dân không còn là một đám đông vô danh và câm lặng nữa mà giờ đây họ đã là một
thực thể được xác định bằng quyền lực, chủ thể của xã hội và được đảm bảo bằng quyền
của người dân trong một nước. Như vậy, bằng việc học tập tri thức phương Tây cùng
với vốn hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân, Phan Bội Châu đã hun đúc nên một chủ nghĩa
yêu nước mới, gắn nội dung yêu nước với quyền làm chủ đất nước của người dân, với
yêu cầu đoàn kết toàn dân để chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Hiện đại hoá để tự lực tự cường và đoàn kết toàn dân kháng chiến chống Pháp
là hai chủ trương lớn xuyên suốt đường lối chính trị của Phan Bội Châu. Cả hai dự án
này đều có sự đan bện với vấn đề phụ nữ như nhận định của D. Marr: “mọi cải cách
văn hóa đều đòi hỏi thay đổi trạng thái thấp kém của người phụ nữ, đồng thời công cuộc đấu tranh của dân tộc có nhiều cơ hội thành công hơn nếu có sự tham gia tích cực
của người phụ nữ” [102, tr.43]. Thêm vào đó, ở văn hóa các nước phương Tây, cách
đối xử với phụ nữ được xem là thước đo văn minh của một dân tộc và trong khi phụ
nữ phương Tây về cơ bản đã được giải phóng, thì phụ nữ Việt Nam vẫn còn ở trong
tình trạng bị áp bức bởi chế độ nam quyền, phụ quyền và thần quyền của xã hội phong kiến. Các phong trào phụ nữ thế giới, đặc biệt là phong trào phụ nữ Trung Hoa trong công cuộc vận động duy tân và trong cách mạng Tân Hợi, những tấm gương nữ anh hùng như Gianđa, Rôlăng (Pháp), Từ Thu Cẩn, Trịnh Dục Tú (Trung Hoa),… khiến Phan Bội Châu ngưỡng mộ và trở thành niềm mơ ước của ông cho nước nhà. Trong sự
so sánh với văn minh phương Tây về vấn đề phụ nữ, các nhà trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX nhận thấy rằng việc hạ thấp vai trò của người phụ nữ so với nam giới là một trong những nguyên nhân khiến đất nước lạc hậu, kém phát triển. Muốn thoát khỏi tình trạng đó, phụ nữ cần được nhìn nhận như một lực lượng xã hội to lớn, sự góp sức của
59
phụ nữ trong mặt trận đoàn kết toàn dân góp phần đem lại thành công cho sự nghiệp giải phóng. Từ năm 1907, trong Tân Việt Nam, Phan Bội Châu đã vượt qua quan niệm
“nữ nhân nan hóa” của Nho gia, để nhìn thấy ở phụ nữ vai trò không thể thiếu đối với
gia đình và sự phát triển của xã hội. Đối với gia đình, “mẹ tốt thì sinh được con ngoan,
vợ hiền thì giúp được chồng giỏi”, với xã hội thì “bao nhiêu những trường công nghệ, nhà dưỡng bệnh, sở thương mại, kho bạc, bưu điện, xe hơi, tàu điện mà có quan hệ
trong nền tài chính, thì dùng những người phụ nữ có học hành giỏi là hơn cả, họ cũng sẽ ra tài giúp nước chẳng khác gì nam giới” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.45).
Phụ nữ cũng có thể đóng góp thành tựu cho sự nghiệp quốc gia thông qua việc thực
hiện vai trò làm mẹ tốt trong gia đình: “Mười hai triệu lẻ nữ đồng bào, ai nấy cũng là
một phần quốc dân cả; tất có cả thẩy quốc dân mới gọi rằng nên một nước; tất có cả
thẩy quốc dân tốt, mới gọi rằng nên một nước văn minh. Huống chi các chị em ta lại là người mẹ cho quốc dân; biết bao nhiêu là ông chủ nhân nước ta sau này, đều là nhờ chị
em sinh nở ra cho, đùm bọc ra cho, dạy bảo vun trồng ra cho; nếu các chị em mà hết
lòng cất nổi cái trách nhiệm làm mẹ quốc dân, thế thì cái khuôn văn minh nước ta,
chắc là nhờ trong tay các chị em mà vắt nắm cho đến ngày thành tựu’’ (Vấn đề phụ nữ
ở nước ta, 2020, tr.124). Quan niệm “người mẹ quốc dân” là một bước tiến trong nhận
thức về vấn đề phụ nữ. Khẳng định vai trò của phụ nữ đối với sự phát triển của quốc
gia, dân tộc từ chính vị trí giới của họ là một quan điểm tiến bộ trong tư tưởng cứu
nước của Phan Bội Châu cũng như của các trí thức yêu nước đầu thế kỷ XX.
Hơn thế nữa, Phan Bội Châu còn đề cao khả năng cách mạng của phụ nữ. Họ
không chỉ là con hiếu, mẹ hiền, vợ thảo mà giữa cao trào đấu tranh của dân tộc, họ
cũng có thể trở thành anh hùng góp công không nhỏ cho sự nghiệp cứu nước. Vì thế, trong Hải ngoại huyết thư, Phan Bội Châu khẳng định trong “mười hạng đồng tâm”,
không thể thiếu vai trò của phụ nữ; ông kêu gọi toàn dân đoàn kết, không phân biệt
giới tính, chức nghiệp, tôn giáo, thành phần, đẳng cấp chung sức chiến đấu giành độc
lập dân tộc. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai, từ rất sớm đã nhận thấy khả năng cách mạng của người phụ nữ qua các nhân vật nữ anh hùng của Phan Bội Châu: “Bà Triệu, cô Chí, cô Liên là đại biểu cho thế hệ phụ nữ ái quốc đầu thế kỷ này (…) Phan Bội Châu là người đầu tiên đã chú trọng đến địa vị người phụ nữ, đến lực lượng thanh niên
trong cuộc cách mạng dân tộc” [110, tr.218-219]. Theo nhà cách mạng Trần Huy Liệu: “Trong vấn đề đoàn kết dân tộc thì điểm sâu sắc nhất, cách mạng nhất của cụ Phan Bội
Châu là đoàn kết phụ nữ” [110, tr.77].
Như vậy, trong bối cảnh của phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi khoảng 20
60
năm đầu thế kỷ XX, với sự tiếp thu tinh thần tự do, dân chủ của giai cấp tư sản, ở Phan Bội Châu đã hình thành những quan niệm tiến bộ về quốc gia, dân tộc và vai trò của
người phụ nữ trong sự nghiệp duy tân, cứu nước. Thừa nhận địa vị bình đẳng của phụ
nữ với nam giới trong vai trò làm chủ đất nước ở Phan Bội Châu là một điều lớn
lao tại thời điểm bấy giờ: “Trong một nước nếu không có phụ nữ yêu nước thì nước ấy sẽ phải làm đầy tớ cho người ta mà thôi” (Việt Nam vong quốc sử, 1958, tr.45).
3.1.2. Anh hùng hóa nữ tính và sự kiến tạo người nữ anh hùng trong sáng tác của
Phan Bội Châu
3.1.2.1. Từ mẫu hình nhân cách người anh hùng tự nhiệm đến người nữ anh hùng
trong truyện kí
Phan Bội Châu là nhà văn chính trị, ông dùng văn chương như một thứ vũ khí
tuyên truyền nhằm thức tỉnh tinh thần yêu nước, giành độc lập dân tộc. Vì thế có thể
thấy sáng tác của ông từ thơ, tuồng, truyện kí cho đến tiểu thuyết đều xây dựng một
kiểu nhân vật: người anh hùng cứu quốc. Mục tiêu duy tân và giải phóng dân tộc đã
thúc đẩy sự xuất hiện vấn đề phụ nữ trong sáng tác của các trí thức yêu nước đầu thế
kỷ XX, trong đó có Phan Bội Châu. Trong tuồng, tiểu thuyết và truyện kí, Phan Bội
Châu đều tập trung khắc hoạ hình tượng người nữ anh hùng xả thân vì nước. Các nhân
vật nữ này đều thoát ra khỏi phận vị gia đình để khẳng định vai trò bình đẳng của họ
so với nam giới trong các dự án quốc gia, dân tộc. Cần lưu ý rằng: dưới các thiết chế
văn hoá Khổng giáo, người phụ nữ trong quá khứ chỉ là một nhân cách thứ cấp, bản
sắc của họ được miêu tả trong sự đối lập với nam tính truyền thống. Trong đó, phẩm
chất anh hùng hầu như chỉ dành cho nam giới. Để có thể đảm đương công việc vì nước
vì dân và hiện diện hợp thức trong không gian dân tộc, người phụ nữ cần có những
phẩm chất của người anh hùng. Do đó, để xây dựng hình tượng người nữ anh hùng
cách mạng, nâng địa vị người phụ nữ lên ngang hàng với nam giới, Phan Bội Châu đã
sử dụng phương thức “anh hùng hoá hoá nữ tính”. Xu hướng “anh hùng hoá” diễn ra
mạnh mẽ ở hình tượng nhân vật nữ trong sáng tác của Phan Bội Châu, mà cốt lõi của
hình tượng là mẫu hình nhân cách người hào kiệt tự nhiệm. Họ được miêu tả những
thuộc tính của người anh hùng: dũng cảm, hành động mạnh mẽ phi thường, có ý thức
làm chủ đất nước. Tính cách anh hùng của họ được thể hiện nhất quán từ trong suy
nghĩ đến hành động, việc làm. Họ là những người tạm gác lại hạnh phúc riêng tư cá
nhân để toàn tâm toàn trí lo cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước.
Cuối thế kỷ XIX, phong trào Văn thân chống Pháp đi đến hồi kết thúc đã đánh
61
dấu sự thất bại của vương triều phong kiến Việt Nam trước sức mạnh của chính quyền
thực dân, sự sụp đổ của đạo thần tử cũng như sự mất tác dụng của giáo lý thánh hiền.
Điều này dẫn đến tình trạng bế tắc của đất nước đầu thế kỷ XX: con đường cứu nước
dưới ngọn cờ phong kiến đã hết hiệu nghiệm, nguy cơ diệt vong rõ hơn bao giờ hết.
Các nhà chí sỹ buộc phải nhận thức lại mối quan hệ giữa dân với nước để đề ra con
đường hành động đúng đắn. Là người xuất thân từ gia đình nhà nho, lại thấm nhuần
kinh truyện, sử sách Nho giáo, lẽ dĩ nhiên Phan Bội Châu ngưỡng mộ những tấm
gương trung thần nghĩa sĩ - mẫu hình nhân cách nhà nho hành đạo với những nét đẹp
thường được ca tụng: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất” (giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo hèn không làm dời đổi, uy vũ không
thể khuất phục). Nhưng hạn chế ở người trượng phu của Nho giáo là phải tận trung
với vua, khép mình vào lễ, không chấp nhận cương cường, vô lễ, trái mệnh. Trước
nhiệm vụ cứu nước, triều đình phong kiến nhà Nguyễn cùng với giáo lý của nó đã
tỏ ra hoàn toàn bất lực trước kẻ thù: “Tất cả các lý lẽ truyền thống đã được huy
động, tất cả các phương tiện chống giặc truyền thống đã được vận dụng, và tất cả
đều đã kết thúc một cách bi kịch. Vào năm 1895, sau ngót mười năm là tể tướng
của triều đình kháng chiến, Phan Đình Phùng lâm bệnh qua đời… chấm dứt mẫu
mực tiêu biểu cuối cùng của nhà nho hành đạo” [128, tr.190]. Ở thời điểm quyết
định, trước lúc xuất dương tìm đường cứu nước, Phan Bội Châu đã tuyên bố từ giã
giáo lý thánh hiền, từ bỏ đạo thần tử:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục.
Hiền thánh còn đâu, đọc cũng hoài.”
(Xuất dương lưu biệt, Tôn Quang Phiệt dịch) [110, tr.233].
Trong tình thế “quốc phá gia vong”, từ vua cho đến thứ dân đều thấm thía nỗi
nhục của người người dân mất nước. Nhờ tiếp xúc với tân thư, Phan Bội Châu đã có sự
thay đổi trong quan niệm về chủ nghĩa yêu nước, ông trở thành người hào kiệt tự nhiệm
mà nét cốt lõi trong nhân cách là sự tiếp biến mẫu anh hùng thời loạn trong hoàn cảnh
mới. Giáo sư Trần Đình Hượu trong Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930 đã xác định loại hình nhân cách ở Phan Bội Châu cho đến thời điểm đó là
“mẫu người hào kiệt tự nhiệm”: “Giữa hai thế kỷ XIX và XX khi cả dân tộc thất bại đau
đớn trước những kẻ “mọi rợ phương Tây”, nhiều nhà nho đã bắt đầu nghi ngờ đạo lý
thánh hiền. Tư tưởng khá phổ biến trong các nhà nho là thấy cần con người tự nhiên
hành động hơn là những người nghiêm cẩn phục tùng (…) Trong tâm trí Phan Bội Châu
62
luôn luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người hào kiệt” [110, tr.144]. Ban đầu, cảm tính, kinh
nghiệm đã bổ khuyết cho những nhận thức lý tính ở Phan Bội Châu về mẫu hình nhân
cách người hào kiệt: “Trong văn chương cử tử của Phan Bội Châu trước khi xuất dương
ta đã thấy xuất hiện người hào kiệt có phẩm chất cá nhân là anh hùng và mưu trí thay thế
người thần tử trung nghĩa hành động vì nghĩa theo mệnh vua, mệnh trời. Người hào kiệt
dần đần nhận ra chân lý dân là chủ và trở thành người chí sĩ tự nhiệm đảm đương lấy
việc cứu dân, cứu nước, xa dần người thánh hiền chuộng đức của Nho giáo” [110, tr.
231]. Tinh thần tự nhiệm của người hào kiệt bắt nguồn từ chủ trương lối sống tự nhiệm
của nhà nho. Nhà nho tự nguyện gánh vác những sứ mệnh xã hội mà theo họ là cao cả:
“Đã mang thân ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ) [115, tr.262].
Nhà nho quan niệm con người là một yếu tố trong tam tài: thiên – địa – nhân,
cho nên họ đòi hỏi bản thân phải lập nên công danh sự nghiệp, không chấp nhận cuộc
đời tạm bợ của phường giá áo túi cơm. Bởi vậy, mỗi khi sự nghiệp còn dang dở, họ
thường “cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời”, đặt mình trong tam tài để nhắc nhở, hổ
thẹn về sự bất lực của mình. Nhà nho có ý thức cao về sứ mệnh của họ trong xã hội,
bắt nguồn từ ý thức thực hiện sự nghiệp “trí quân, trạch dân”. Trong hoàn cảnh nguy
nan, tinh thần tự nhiệm, ý thức về nhân cách cao cả dẫn họ đến những hành động cao
đẹp: “sát thân thành nhân”, “xả thân thủ nghĩa” vì độc lập dân tộc. Giữa lúc đất nước
rơi vào tình thế hiểm nghèo, phong trào cứu nước thất bại liên tiếp gây ra không ít tâm
lý hoang mang, nhưng người hào kiệt một khi chí đã quyết thì “Thái Sơn chỉ là gò
đống”, “Bắc Hải chỉ là ao chuôm”. Điểm nổi bật ở người hào kiệt trong hoàn cảnh mới
của đất nước là họ ý thức được số phận vinh, nhục của mỗi cá nhân gắn liền với số
phận dân tộc nên họ kế thừa và phát huy tinh thần tự nhiệm của con người trung nghĩa
trong truyền thống nhưng xa rời đạo thần tử. Họ là gương sáng, chỗ dựa tinh thần, có
khả năng lôi cuốn và nâng đỡ đội ngũ yếu kém hơn để tập hợp lực lượng. Nhằm mục
đích kêu gọi quần chúng tham gia đấu tranh giải phóng, Phan Bội Châu đã lựa chọn
những tấm gương hào kiệt, hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, có khả năng thu hút đám
đông và cố kết lòng người để xây dựng mẫu người anh hùng trong truyện kí: người
anh hùng tự nhiệm. Trong đó, nổi bật lên hình tượng các nhân vật nữ anh hùng như
Đinh phu nhân (truyện Nữ liệt sỹ Đinh phu nhân), mẹ Lân (truyện Mẹ Lân), Bạch Liên
nữ sỹ, Âu Vân phu nhân (truyện Tái sinh sinh)… Họ là những người đã hi sinh trong
63
thời kỳ đầu chống Pháp, là đồng chí, bạn bè, những người cùng thời đại với nhà văn,
những con người đang làm nên lịch sử. Sự hi sinh của họ đã thôi thúc Phan Bội Châu
ghi lại theo thể truyện kí, làm vũ khí tuyên truyền cách mạng, kêu gọi đoàn kết chống
ngoại xâm. Trong sự phát triển về sau, người hào kiệt còn là bản phác thảo cho cả
những anh hùng thảo dã như ông Xí, ông Võ, cô Chí trong Trùng Quang tâm sử.
Đầu thế kỷ XX, sự dịch chuyển từ quan niệm con người “thần dân” sang con
người “quốc dân” đã kéo theo sự thay đổi từ lý tưởng “trung quân ái quốc” sang ý thức
làm chủ đất nước, từ đạo lý trung nghĩa sang đạo lý xả thân cho đất nước. Đấy chính là
biểu hiện cao nhất của tinh thần tự nhiệm ở người hào kiệt trong sáng tác của Phan Bội
Châu: “Ông đưa ra đạo lí làm người vì dân, vì nước mà hi sinh thay cho đạo lý trung
hiếu của Nho gia” [110, tr.264]. Những nữ anh hùng tự nhiệm trong truyện kí của
Phan Bội Châu giống nhau ở chỗ họ đều là người có địa vị và tên tuổi, tuy nhiên,
khi tham gia hoạt động cách mạng, họ không còn là người của đẳng cấp, gia tộc,
mà đã trở thành người con của dân tộc, của đất nước, của đồng bào, đồng chủng,
của “ức triệu người”. Truyện ngắn Tái sinh sinh (1918) làm sống lại hình ảnh những
nữ chiến sĩ cách mạng đương thời với Phan Bội Châu như bà Phi Âu, Bạch Liên nữ sĩ,
Âu Vân phu nhân… Ý chí quyết tâm cứu nước cùng với hành động đấu tranh thể hiện
khí phách của họ là điểm nổi bật ở mẫu hình người nữ anh hùng tự nhiệm phận sự
quốc gia. Nữ đảng viên có tên là Ấu Vân bị bắt và bị tra tấn nhưng vẫn không chịu hé
ra một lời nào về đồng chí và tổ chức của mình. Trước lúc đập đầu vào tường quyên
sinh, bà đã cắn lưỡi lấy máu viết ba bài thơ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc. Sự hi sinh
của Ấu Vân đã trở thành tấm gương tiêu biểu cho ý chí cách mạng quật cường, khí
phách của người hào kiệt: Con người ta ai rồi cũng chết, nhưng chết uổng sao bằng lập
công, còn lại một hơi thở thì còn có ngày có tác dụng cho đồng chí mình. Có như vậy,
thì dù khi cái chết đã kề bên, người chiến sĩ vẫn có thể tái sinh để trở về với cuộc sống.
Đấy cũng chính là ý nghĩa nhan đề Tái sinh sinh của truyện. Bạch Liên nữ sĩ, người
con gái yếu đuối mà bọn giặc cho rằng “xéo một cái là nát nhừ”, sau vài tháng ở tù vẫn
không hề đổi chí, thề rằng dù thịt nát xương tan cũng quyết không để thân rơi vào tay
giặc. Mẹ Lân (truyện Mẹ Lân) người tỉnh Nghệ An, con trai mẹ tên là Lân, năm 1885,
tham gia quân khởi nghĩa, chết vì nạn nước, nên mẹ được gọi là mẹ Lân. Quân giặc
xâm lược Bắc Kỳ, chiếm kinh đô Thuận Hóa (Huế), tình hình ngày càng thêm nguy
khốn. Mẹ là người vốn rất hiểu đại nghĩa. Nghe tới bọn quỷ ngoại xâm thì mẹ chửi
mắng thậm tệ: “Bọn tôi là phái nữ lưu, nhìn thấy những con chó ngao nước ngoài
64
chiếm giữ giường phản của người khác thì tức uất đến chết đi được” (Vấn đề phụ nữ ở
nước ta, 2020, tr.94). Mẹ đem hết của cải cho con rể Lê Ninh mua sắm vũ khí, chiêu
mộ nghĩa quân, tổ chức thành đội ngũ, đánh giặc. Trong các đạo nghĩa binh, cánh quân
của Lê Ninh là tinh nhuệ nhất, có nhiều súng úng đạn dược, hễ đánh là thắng. Công đó
đều có phần đóng góp của mẹ Lân. Sau Lân đánh giặc, chết ngoài mặt trận, mẹ vui vẻ
nói: “Con ta đã không chết nhục, ta rất hài lòng” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020,
tr.95). Hễ có người làm việc nghĩa là mẹ giúp đỡ; hễ có ai bị giặc truy nã là mẹ đều
tìm cách giấu giếm, bảo toàn. Khí phách của mẹ Lân, so với đàn ông, chẳng hề thua
kém, khiến tác giả phải thốt lên: “Than ôi, nghĩa khí sâu nặng, lòng yêu nước, yêu
đồng bào dù tuổi già vẫn không sút kém, dù cùng khổ vẫn không đổi thay! Ai dám bảo
trong dám khăn yếm không có bậc đại trượng phu?” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020,
tr.96). Người phụ nữ như mẹ Lân xứng đáng được tôn vinh lên hàng anh hùng, có tác
dụng cổ vũ phụ nữ tham gia phong trào cách mạng trên khắp cả nước: “Khí thiêng
hùng vĩ mênh mông của núi Nghĩa sông Lam chẳng hun đúc cho nam giới, lại hun đúc
vào hàng nữ giới. Quyền bình đẳng của tạo hóa đối với nhân loại là như vậy chăng?
Tôi mong các bạn nữ nhi trong toàn quốc hãy nên coi những bậc anh hùng yêu
nước như chính mình, chớ để những người chồng nhỏ nhen trên đời này làm cho lỡ
việc!” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.97). Đinh phu nhân (truyện Nữ liệt sĩ
Đinh phu nhân) là người hiểu đại nghĩa và giỏi văn thơ. Lúc kinh thành thất thủ,
nước mất, nghĩa binh các tỉnh nổi dậy, phu nhân có tư tưởng giết giặc như Mộc Lan
ngày xưa. Với suy nghĩ chợt mình cũng là một phần tử của quốc dân, yêu nước, cứu
nước chẳng phải là trách nhiệm riêng của nam giới, phu nhân xin gặp người của tổ
chức đảng bí mật trình bày quyết tâm, chí hướng của mình, sẵn sàng hi sinh cho
đảng. Từ đó phu nhân tổ chức ra “nữ đảng bộ” làm công tác vận chuyển thư từ, tiền
bạc và làm đường dây liên lạc cho tổ chức. Việc bại lộ, phu nhân bị Pháp bắt, bị tra
tấn cực hình mà vẫn cắn răng chịu đựng chứ không chịu khai báo gì. Tên tay sai
đắc lực của Pháp là Trương Như Cương rất lấy làm giận, bảo phu nhân rằng: “Bà
mà không nói thì sẽ bị chết, nhưng không chết được ngay đâu, chỉ khổ thôi. Nếu
nói ra thì sẽ không bắt tội mà Đại Pháp lại sẽ trọng thưởng cho bà nữa” (Vấn đề
phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.85). Phu nhân không hi vọng gì sống nữa nhưng giả bộ
tươi cười, xin một mình trong phòng yên tĩnh viết một bản cung thật dài toàn mắng
chửi người Pháp, rồi cắn ngón tay lấy máu đề thơ tuyệt mệnh lên tường, tự vẫn
chết. Các nhân vật nữ anh hùng của Phan Bội Châu trong truyện kí là những con người
65
hào kiệt đã xa rời đạo trung nghĩa của Nho giáo, ý thức rất rõ về quyền làm chủ đất
nước và nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, sự hi sinh của họ có ý nghĩa cổ vũ lòng yêu nước,
đoàn kết dân tộc, quyết “lấy máu rửa vết nhơ nô lệ”.
Phan Bội Châu chú trọng miêu tả hoàn cảnh tham gia hoạt động cách mạng và
sự hi sinh của các nhân vật nữ anh hùng cho thấy ông không chấp nhận những kẻ xu
thế, vì mưu lợi cho cá nhân mình mà làm tay sai cho giặc. Ngay cả những người
ngoảnh mặt làm ngơ, chỉ biết “giữ ý chí cho thanh cao trong sạch” mà không có hành
động cứu nước cụ thể thì cũng chỉ là “cục thịt thừa trong vũ trụ” mà thôi. Trong quá
khứ, thái độ ở ẩn, bất hợp tác với giặc cũng có thể được coi là biểu hiện lòng yêu nước
thầm kín, và được đánh giá là một nhân cách đẹp, đáng được trân trọng như trường
hợp Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến. Nhưng trong mắt nhà cứu nước đầu thế kỉ
XX, chỉ những người cứu thế - dám xả thân cho mục đích cứu nước mới là người anh
hùng. Đối với vấn đề sống còn của đất nước, Phan Bội Châu quan niệm mỗi cá nhân
phải có hành động cụ thể, dám hi sinh thân mình để cứu nước, cứu dân. Từ nhân vật
mẹ Lân (truyện Mẹ Lân) đến Đinh phu nhân (truyện Nữ liệt sỹ Đinh phu nhân), tinh
thần tự nhiệm của các nữ anh hùng ngày càng phát triển: từ chỗ ký thác ý chí giết giặc
vào người đàn ông đến chỗ tự thân hành động cứu nước. Nếu mẹ Lân trước kẻ thù thì
“chửi mắng thậm tệ, ấm ức mãi không thôi”; thấy giặc đến thì “tức uất đến chết đi
được”; tự thấy mình là “thân bồ liễu”, mẹ đành gửi gắm ý chí đánh giặc cho con rể là
Lê Ninh. Đến Đinh phu nhân, ý chí cứu nước đã biến thành hành động: “Lúc kinh
thành thất thủ, nước mất, nghĩa binh các tỉnh nổi dậy, phu nhân có tư tưởng giết giặc
như Mộc Lan ngày xưa”, “thấy những kẻ làm tay sai cho Pháp, phu nhân “muốn cầm
dao giết đi” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.84). Phu nhân tự gánh lấy trách nhiệm
với đất nước, tham gia hoạt động bí mật cho đến khi bị giặc bắt vẫn không lùi bước,
lấy cái chết để bảo toàn khí tiết.
Các nhân vật nữ trong truyện kí của Phan Bội Châu đều có ý chí và hành động
đấu tranh dũng cảm, vượt lên hành trạng của người bình thường. Tinh thần tự nhiệm
cùng với lý tưởng xả thân cho sự tồn vong của dân tộc trong truyền thống vốn chỉ dành
cho nam giới, những người được xếp vào hàng đấng bậc, giờ đây được miêu tả cho
người phụ nữ. Đây thực sự là một đổi mới đáng kể trong tư duy của nhà nho về vai trò,
vị thế của người phụ nữ trong quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc. Người nữ
anh hùng trong truyện kí của Phan Bội Châu đã được xây dựng từ mẫu hình nhân cách
người hào kiệt tự nhiệm: tỏ rõ sức mạnh của lòng yêu nước, cứng cỏi đến sắt đá trước kẻ
66
thù. Song, hạn chế của họ là còn xa quần chúng, khó đứng chung với người dân bình
thường. Tuy vậy giữa lúc công việc cứu nước đầy hiểm nghèo, thất thại, hoang mang,
họ chính là gương sáng, là chỗ dựa tinh thần, có khả năng nâng đỡ, lôi cuốn, tập hợp lực
lượng. Khi đi vào đời sống tinh thần của quần chúng, họ có tác dụng cổ vũ, tiếp thêm
sức mạnh, niềm tin cho nhân dân trong cuộc đấu tranh với kẻ thù. Với truyện kí, Phan
Bội Châu đã làm công việc của người chép sử cần mẫn và nhiệt tình, cùng với tài năng
văn học của mình, nhà văn đã đóng góp cho văn chương cách mạng hình tượng người
nữ anh hùng tự nhiệm, say mê hành động phi thường, mang ý nghĩa ra tay cứu nước,
giúp đời; đoạn tuyệt với kiểu người trung nghĩa, khắc kỉ, phục lễ, an bần lạc đạo.
3.1.2.2. Từ quan niệm người quốc dân đến người nữ anh hùng trong tiểu thuyết
“Trùng Quang tâm sử”
Cần thấy rằng những nhận thức tiến bộ về vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu gắn bó
chặt chẽ với quan niệm về người quốc dân và người anh hùng. Khi các tư tưởng mới ra đời
không theo trình tự nội sinh mà xuất hiện từ bên ngoài của cuộc “thiên diễn mưa Âu gió
Mỹ”, thì người quốc dân là một sản phẩm của thời kỳ lịch sử quá độ, là đóng góp của Phan
Bội Châu nói riêng và các nhà chí sĩ nói chung ở thời kỳ này. Khái niệm “quốc dân” xem
xét người dân trong mối quan hệ với nước: Dân làm chủ nước và có trách nhiệm, nghĩa vụ
bảo vệ đất nước. Người dân dưới chế độ chuyên chế có thân phận thần dân. Họ được xác
định ở trong một xã hội có chủ và bản thân họ là người bị sở hữu, phải chịu một thứ thân
phận nô lệ phổ biến. Tư tưởng thân dân của Nho giáo (dân vi bang bản) không phải là một ý
tưởng dân chủ, nó chỉ là một thủ đoạn chính trị nhằm củng cố trật tự xã hội của chế độ
chuyên chế. Bởi dưới chế độ phong kiến, khi vua không yêu thương và lấy dân làm gốc, thì
dân phải chịu đựng và chờ đợi một “trang dẹp loạn”, hay “minh quân lương tướng” xuất
hiện. Tuy nhiên, khi mà vai trò và quyền lực thực sự của ngôi vua đã bị phế truất, đạo thần
tử đã hoàn toàn bất lực, thì người “quốc dân” là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử quá độ,
một bước chuyển tiếp từ tư cách con người “thần dân” đến con người “công dân”. Trong
hoàn cảnh “nước kia đã mất, nhà này cũng tan”, người quốc dân được hình dung trong sự
gắn bó trực tiếp với vận mệnh dân tộc, được xây dựng bằng nhận thức cảm tính, kinh
nghiệm chủ nghĩa, chứ chưa phải bằng logic lý tính. Người quốc dân trước hết được nhấn
mạnh ở phương diện bổn phận, nghĩa vụ, chứ chưa phải ở phương diện quyền lợi: “Đó là
một dạng nhân cách lịch sử mang đậm nội dung chính trị - đạo đức chứ không phải là nhân
cách chính trị - xã hội” [110, tr.33]. Tại sao người quốc dân yêu cộng đồng mình? Vì cộng
đồng đó được hình dung như một cộng đồng thân tộc, đồng huyết thống. Để phát huy tinh
67
thần tự nhiệm của người quốc dân, các sử gia đã tìm cách “nối dài quốc thống vào sâu trong
huyền sử”. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh bọc trứng nở ra trăm con là tổ tiên
của người Việt đã góp phần phát huy sức mạnh đoàn kết của nó trong các cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm. Dựa vào huyền sử, các nhà văn chí sĩ đã viết một cách thống thiết về
nghĩa đồng bào (cùng một bọc), từ đó mà kêu gọi tinh thần “bảo chủng”, cố kết “triệu người
như một”. “Nghĩa đồng bào” được vận dụng như một lý lẽ làm nên một nội dung quan
trọng của hình tượng người quốc dân: yêu nước và sẵn sàng hi sinh cho đất nước. Người
quốc dân phải quên đi quyền lợi, nhưng phải nghĩ đến bổn phận, nghĩa vụ đối với đất nước,
bỏ tình riêng vì nghĩa chung, bởi “Có đàn rồi mới có ta/ Đàn là rất trọng, ta là rất khinh”
[110, tr.34]. Tóm lại, trong nội hàm của khái niệm người quốc dân, thì phẩm chất yêu nước
và tinh thần tự nhiệm được đặt lên hàng đầu, đặc biệt, tinh thần tự nhiệm được ý thức rất rõ
bên cạnh quyền làm chủ đất nước. Phan Bội Châu chưa nhận thức đầy đủ vai trò của nhân
dân trong lịch sử nhưng trong tác phẩm của ông, quần chúng công nông đã xuất hiện như
một lực lượng có ý thức về trách nhiệm cao cả của mình: “Trách nhiệm của quốc dân là
trách nhiệm của hàng ức, hàng triệu người”, “cách mạng xã hội không thể thành công nếu
không dựa vào số đông người giai cấp dưới. Số đông của giai cấp dưới là công nhân và
nông dân” [110, tr.60 – 61].
Không còn bị ràng buộc trong khuôn khổ chật hẹp của quan niệm sử gia phong
kiến, bên cạnh quan niệm con người quốc dân, Phan Bội Châu đã mở rộng phạm trù
người anh hùng, hướng đến tầng lớp lao động, những người nghèo khổ, người phụ nữ.
Quan niệm về người anh hùng của nhà văn đã đánh dấu một bước chuyển từ con người
phi thường sang con người bình thường, tôn vinh người phụ nữ và người nông dân lên
hàng anh hùng. Đó là con người từ thế nô thuộc vươn lên tư thế làm chủ, từ thân phận
thần dân vươn tới tư cách người quốc dân. Tất cả đều có thể trở thành anh hùng, không
phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp, giới tính. Họ có thể là những anh hùng hữu danh, anh
hùng vô danh. Điểm chung ở họ là lòng yêu nước, căm thù giặc, tự nguyện xả thân vì
nghĩa nước, có công lớn với dân tộc và đất nước. Theo quan niệm của Phan Bội Châu,
người anh hùng được đánh giá ở thái độ, ứng xử của họ đối với thời cuộc và đóng góp
của họ cho sự nghiệp dân tộc; được phát triển từ người anh hùng xả thân cho đạo lý
trung nghĩa của Nho giáo đến người anh hùng của xả thân vì đất nước. Khi thời thế
thay đổi, đạo thần tử đã hết hiệu nghiệm, ngôi vua chỉ còn có ý nghĩa về mặt hình
thức, con người “thần dân” được thay thế bằng con người “quốc dân”, thì người phụ
nữ cũng có khả năng trở thành anh hùng xả thân cho độc lập, tự do của đất nước. Quan
68
niệm về người quốc dân và người anh hùng cùng với nhiệt tình cứu nước của Phan Bội
Châu đã tạo nguồn cảm hứng mãnh liệt để tác giả xây dựng nên hình tượng người nữ
anh hùng trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử. Cũng như ở tuồng Trưng nữ vương,
Phan Bội Châu đã hiện đại hóa lịch sử ở Trùng Quang tâm sử theo ý đồ của mình để
cho cuộc khởi nghĩa cuối đời Trần mang dáng dấp một cuộc vận động duy tân đầu thế
kỷ XX, nơi mà những tướng sĩ xưa kia được thay bằng những người phụ nữ anh hùng
bình thường, vô danh. Cô Chí, cô Triệu, cô Liên đều được tập trung khắc họa ở tinh
thần xả thân vì nước, hành động dũng cảm, ý chí mạnh mẽ của họ là biểu hiện cao nhất
cho phẩm chất của người anh hùng xuất thân từ nhân dân lao động, một lòng vì nước
vì dân. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, họ đã gác lại chức phận nội tướng trong gia
đình, để chăm lo công việc quốc gia đại sự.
Trên con đường hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu luôn tìm kiếm một lực
lượng xã hội có thể dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Với một động cơ
như thế, khi chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, ông đã chú ý tới
giai cấp công nhân, rộng hơn, ông nói đến sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc. Trong
Tân Việt Nam, nhà văn kêu gọi không kể là nam - nữ, già - trẻ, già - nghèo, trong “10
hạng đồng tâm”, ai ai cũng có thể tham gia kháng chiến, phục vụ cách mạng, cống
hiến cho đất nước. Trong vấn đề đoàn kết toàn dân, phụ nữ được khẳng định là “một
suất dân không thể thiếu được ở trong dân nước”, là “một bộ phận to lớn trong xã hội”,
có quyền và nghĩa vụ tham gia bảo vệ, xây dựng đất nước như nam giới. Cái lớn lao ở
Phan Bội Châu là ông không chỉ nhìn thấy sức mạnh đoàn kết của quần chúng, mà còn
đánh giá cao vai trò của phụ nữ và nông dân trong khối đoàn kết ấy và đưa họ lên hàng
ngũ anh hùng. Ở Trùng Quang tâm sử, Phan Bội Châu đã xây dựng được hình tượng
người nữ anh hùng vô danh, nguyện hi sinh cho cuộc đấu tranh chung của dân tộc và
lấy đó làm lẽ sống. Các cô Chí, Triệu, Liên có xuất thân và hoàn cảnh sống khác nhau,
kẻ đi ra từ nơi quyền quý, người đến từ đám thường dân áo vải, song tất cả họ đều
được đưa vào vị trí trung tâm của tác phẩm và xây dựng thành các nhân vật chính. Họ
đã thoát ra khỏi số phận bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ nam quyền quen thuộc
trong văn học trung đại, để xuất hiện với tư cách người anh hùng của nhân dân. Những
người như cô Chí, cô Triệu, cô Liên tuy là phụ nữ song nhiệt tình yêu nước, ý chí và
hành động đấu tranh chống giặc của họ không hề thua kém nam giới. Theo nhà nghiên
cứu Trịnh Thu Tiết, “hình tượng nhân vật nữ anh hùng cứu nước mang tính cách mạng
của thời đại mới vẫn là một đóng góp đáng kể của cụ Phan cho văn học nước nhà”
69
[110, tr.211]. Trùng Quang tâm sử viết về đề tài lịch sử, nhưng thực tế lịch sử ở đây
không phải là chính sử. Tác giả đã cố tình “đọc sai lịch sử” để thay đổi chủ đề câu
chuyện, hướng tới trình bày một quan điểm chính trị, đường lối cứu nước của mình.
Trong đó, Phan Bội Châu đã biến mưu đồ chống Minh, khôi phục ngôi vua của Trần
Quý Khoáng, Đặng Tuất, Nguyễn Cảnh Chân thành công cuộc khởi nghĩa giành độc
lập của nhân dân, mang màu sắc chính trị của phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX.
Trong cuộc kháng chiến này, người phụ nữ dù xuất thân từ tầng lớp quý tộc hay bình
dân đều ý thức được vai trò chủ nhân của đất nước, đoàn kết chiến đấu cho độc lập, tự
do của dân tộc. Tinh thần yêu nước cùng với lý tưởng xả thân cho chính nghĩa trong
truyền thống vốn chỉ dành cho nam giới, những người được xếp vào hàng đấng, bậc,
được xem là đại diện hợp thức cho dân tộc, giờ đây đã được dùng để tôn vinh người
phụ nữ. Đặc biệt, Phan Bội Châu đã dành không ít tâm huyết vào việc miêu tả lòng
yêu nước, tài trí và khí phách của những người phụ nữ bình thường trong xã hội như
Chí, Triệu, Liên. Có thể nói, họ là ba gương mặt đẹp đẽ trong sáng tác của Phan Bội
Châu đại diện cho truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống Pháp đầu thế kỷ XX.
Khung cảnh lịch sử trong Trùng Quang tâm sử là đời sống của nhân dân Việt
Nam thời kỳ mất nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nhân dân sống trong cảnh sưu
cao thuế nặng, dưới thủ đoạn đàn áp người yêu nước, yêu tự do của dị tộc ngoại bang.
Trong cuộc chiến đấu chống ngoại bang, vai trò quyết định là nhân dân, là những anh
hùng vô danh, chứ không phải quý tộc, quan lại như trong chính sử phong kiến, trong
đó không thể không kể đến công lao của người nữ anh hùng thầm lặng. Trại Trùng
Quang là một tổ chức quen thuộc của khởi nghĩa nông dân, mang bóng dáng của Duy
tân hội, tự đặt ra cho mình nhiệm vụ từ gây dựng sự thịnh vượng của sơn trại đến kế
hoạch lâu dài: vận động, tuyên truyền xây dựng lực lượng và tiến trình phục quốc, tái
thiết đất nước. Cuộc chiến đấu của dân tộc trở thành nơi thi thố tài năng của những chị
em như Chí, Triệu, Liên. Phan Bội Châu chủ yếu khắc họa tính cách của họ qua
phương thức anh hùng hoá nữ tính, miêu tả họ với những phẩm chất của người anh
hùng. Họ được nhấn mạnh ở tinh thần yêu nước và những phẩm chất trước đây vốn chỉ
dành cho nam giới: dũng cảm, mạnh mẽ, mưu trí, xả thân vì nước. Giữa anh em, bạn
bè, đồng chí, cô Chí nổi lên là một người cơ mưu, biết quan sát, biết chọn thời cơ để
hành động, biết sắp xếp kế hoạch để tiến hành việc lớn. Từ ngoại hình cho đến hành
động của cô đều toát lên sự mạnh mẽ: “mắt sáng, mày sắc, nét mặt bừng bừng”, “linh
70
lợi, hoạt bát”, “tự nhiên”, “không chút rụt rè”, “người như hoa như ngọc” lại có “tinh
thần lẫm liệt như sương, rực rỡ như mặt trời”. Lòng yêu nước, căm thù giặc đã hun
đúc nên ở người phụ nữ này một sức mạnh phi thường. Không dừng lại ở đó, ý thức về
quyền bình đẳng nam nữ trong vai trò làm chủ đất nước, trong sự nghiệp đánh giặc
cứu nước mới là điều làm người đọc ngạc nhiên ở nhân vật nữ anh hùng của Phan Bội
Châu: “Chúng ta may được làm người, tai mắt đầu óc hỏi có kém gì đàn ông? Những
sự nghiệp anh hùng có phải chỉ một mình đàn ông làm được là thôi đâu? Ngày xưa
nước chúng ta bị nhà Hán đặt làm quận huyện, quan nhà Hán tàn hại nhân dân chúng
ta, chiếm cứ thành trì chúng ta, có đến mấy trăm năm. Bà Trưng Trắc chỉ là một cô gái
tỉnh Sơn Tây, cất quân trả thù, giết Thái thú nhà Hán là Tô Định, thu lại được hơn 70
thành, tự làm vua một nước, nhân dân đến nay còn ca tụng. Đó có phải là đàn bà
không? Người ta chỉ sợ không có chí, nếu có chí thì đàn bà cũng chả thua gì đàn ông”
(Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.357). Những người phụ nữ như Chí, giờ đây không
cần ao ước “ví đây đổi phận” mà đã tự tin khẳng định giá trị cá nhân từ chính vị trí
giới tính của mình: “Con trai thì đã hơn gì chúng ta? Chỉ thấy những lũ theo đuôi giặc
Ngô, làm chó săn để giết hại đồng bào, mà cầu lợi lộc thì đều nhan nhản là tụi mày
râu, tai to mặt lớn cả. Đàn bà chúng ta có bao giờ thậm tệ thế đâu!” [13, tr.356]. Cô
Chí tin khả năng và bản lĩnh của mình không hề thua kém nam giới: “Những sự nghiệp
anh hùng có phải chỉ một mình đàn ông làm được là thôi đâu? (…) Người ta chỉ sợ
không có chí, nếu có chí khí thì đàn bà cũng chẳng thua gì đàn ông” (Vấn đề phụ nữ ở
nước ta, 2020, tr.357). Có thể nói đó là những tuyên ngôn mới của phụ nữ, hoàn toàn
xa lạ với mặc cảm tự ti “thân nhi nữ”, “phận liễu bồ” mà tràn đầy khí phách anh hùng.
Như vậy, ở đây, nhân vật nữ của Phan Bội Châu là những người ý thức rất rõ về vai trò
của mình trong xã hội, trong sự nghiệp cứu nước. Câu hỏi giận dữ của cô Chí trước
các anh em đồng chí của trại Trùng Quang: “Sự nghiệp yêu nước giữ nòi là đặc biệt
riêng của nam giới hay sao?” là thái độ phản kháng mạnh mẽ của chị em trước những
định kiến giới hẹp hòi của xã hội (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.357). Việc cô Chí
dám “xin đầu Thừa tuyên sứ giặc Ngô” đã khiến đám đàn ông phải thốt lên: “Lạ quá!
Lạ quá! Câu nói này sao lại phát ra được ở miệng một người nữ lưu?” và họ hiểu rằng
từ đây “Hai chữ anh hùng e rằng không chỉ dành riêng cho anh em nam giới” (Vấn đề
phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.315).
Ở Trùng Quang tâm sử, các nghĩa sĩ tham gia vào hội Trùng Quang gồm nhiều
thành phần xuất thân khác nhau, không phân biệt nam/nữ, già/trẻ, đẳng cấp, tôn
71
giáo,… nhưng tất cả đều tự giác, tự nguyện hy sinh vì chính nghĩa. Họ đều nhận thức
được tình thế bị đè đầu cưỡi cổ của người dân mất nước, từ đó, không cam tâm làm tôi
đòi cho giặc, phát huy quyền làm chủ đất nước, gắn số phận cá nhân với số phận quốc
gia, chấp nhận hy sinh những cái tự tư tự lợi của bản thân để cứu nước. Cô Chí buổi
đầu ra mắt hội Trùng Quang, khi bị nghi ngờ mục đích sự có mặt của cô, Chí tức đỏ
mặt, nói năng dõng dạc: “Tôi vẫn tưởng trong đời này, không có ai là người đáng làm
bạn. Nghe nói các ông đây đều là anh hùng, tôi cho rằng con mắt hẳn không kém, nên
tôi mới đánh bạo đến đây. Đàn người lúc nhúc kia, đều là tôi tớ của chó Ngô, tôi còn
biết sống với ai nữa. Nói xong liền đập đầu vào đá. Xí vội đứng dậy cứu, thì máu trên
đầu đã chảy lai láng” (Vấn đề phụ nữ ở nước ta, 2020, tr.313). Cha con cô Chí đều là
những người rất hiểu “đại nghĩa chủng tộc”. Tuy là nữ nhi, song chí lớn của cô luôn
hướng về độc lập, tự do cho dân tộc: “Than ôi! Giặc Ngô làm nhục người Nam ta đến
thế là cùng, mà người Nam ta hèn hạ đến thế cũng là hết chỗ nói! Địa vị chủ nhà với
trâu ngựa, còn biết nói sao? Nếu cả nước An Nam này không có một người trai vĩ đại
nào nữa, thì nền độc lập của non sông còn mong gì có ngày về?” (Vấn đề phụ nữ ở
nước ta, 2020, tr.316). Cô Triệu mồ côi bị bán vào nhà cô đào, học nghề múa hát. Giặc
Ngô đam mê tiếng hát và nhan sắc của cô nên thường ép Triệu làm vui. Chứng kiến
những cay đắng, tủi nhục mà bọn giặc gây ra cho đàn bà con gái nước Nam, cô Triệu
thề “thoát ra khỏi hầm lửa này”, rồi trốn đi, tự mình mở một quán rượu hầu gặp được
những người cùng chí hướng để gây dựng cơ đồ giết giặc, cứu nước. Rất nhiều thanh
niên giàu có gạ gẫm, nhưng cô đều từ chối. Có người hỏi tại sao, cô trả lời rằng: “Tôi
giận không chết được, sống chẳng phải là vui, chồng con mà làm gì?” (Vấn đề phụ nữ
ở nước ta, 2020, tr.355). Được biết Đảng Trùng Quang mưu việc lớn cho dân, cô lập
tức tham gia và đã trở thành cánh tay đắc lực, hoạt động tích cực cho sự lớn mạnh của
phong trào. Cô Liên xuất thân con nhà quyền quý. Khi giặc lấy Đông Kinh, gia đình
cô, nhà tan cửa nát, bản thân cô phải nương náu cửa chùa. Sau khi gặp được những
người cùng chí hướng, cô vãi của chùa Hương Tích đã trở thành anh hùng nghĩa sĩ
của trại Trùng Quang. Các nữ lưu anh hùng trong trại Đồng Tâm đã khẳng định vai
trò của mình trong sự nghiệp chung không chỉ bằng việc giương cao ngọn cờ yêu
nước mà còn bằng hành động dũng cảm, ý chí, quyết tâm trong công việc. Cả ba cô,
mỗi người một nhiệm vụ: cô Chí làm trinh sát viên, tuyên truyền viên, cô Triệu lo
về kinh tế, cô Liên giữ việc văn thư và đều lập được chiến công, góp phần đem lại
thắng lợi cho phong trào. Ở họ, tinh thần làm chủ đất nước và ý thức trách nhiệm
72
đối với sự tồn vong của dân tộc được đặt lên hàng đầu. Họ đã thoát ra khỏi vai gia
đình truyền thống để tham gia vào việc quốc gia đại sự, hiện diện trong không gian
dân tộc với tư cách của người quốc dân, hơn thế nữa họ được tôn vinh là các nữ anh
hùng cách mạng.
Khẳng định vai trò của người phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc để kêu
gọi đoàn kết chiến đấu là chủ trương cách mạng của Phan Bội Châu trong hoàn cảnh
mới. Điều này có ý nghĩa thức tỉnh và mở ra con đường đúng đắn cho người phụ nữ đã
tự giải phóng khỏi xiềng xích của thần quyền, phụ quyền, nam quyền, tự nguyện tham
gia phong trào cách mạng. Tác giả đã “anh hùng hoá nữ tính” khiến cho các nhân vật
nữ hiện lên khác với mô hình nữ tính truyền thống: có đủ phẩm chất và bản lĩnh của
người anh hùng để chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bình đẳng với nam giới trong vai trò làm
chủ và bảo vệ đất nước. Do hoàn cảnh chung của đất nước và số phận riêng của từng
cá nhân, tất cả họ đều tự nguyện tham gia vào cuộc kháng chiến chống giặc, thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người dân đối với nước. Giữa cao trào cách mạng, họ tạm gác
lại vai trò con hiếu, mẹ hiền, vợ thảo để trở thành những anh hùng góp công không
nhỏ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặc dù người phụ nữ ở đây chưa được nhìn
nhận như một thực thể tự nhiên và xã hội, phải đến những sáng tác sau năm 1925 của
Phan Bội Châu, vấn đề phụ nữ mới được đề cập đến một cách toàn diện, ngoài quyền
bình đẳng nam nữ, vấn đề nữ quyền được Phan Bội Châu tiếp tục khẳng định. Song,
hình tượng người nữ anh hùng trong truyện kí và tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử đã
trở thành điểm quy chiếu cho các dự đồ dân tộc cũng như phương hướng hành động
cứu nước của Phan Bội Châu, là một đóng góp độc đáo cho văn xuôi Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Tác giả đã vượt qua quan điểm của giai cấp phong kiến về người phụ nữ để
khẳng định vai trò của họ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
3.2. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Nhất Linh và
Khái Hưng
3.2.1. Văn minh phương Tây và nỗ lực cải cách xã hội, hiện đại hóa dân tộc của Nhất Linh,
Khái Hưng
Đầu thế kỷ XX, với sự hùng mạnh cả về văn minh vật chất lẫn văn minh tinh
thần, thực dân Pháp đã đặt xong ách đô hộ và biến Việt Nam thành một nước thuộc địa
phong kiến. Trong bối cảnh đó, vấn đề đấu tranh giành độc lập và xây dựng bản sắc
văn hóa dân tộc trở thành nhiệm vụ trọng tâm bao trùm mọi lĩnh vực xã hội, trở thành
ý thức thường trực của tầng lớp tinh hoa bản địa lúc bấy giờ. Tình thế thuộc địa một
73
mặt gây nên tinh thần phản kháng của nhân dân thuộc địa chống ngoại lai, mặt khác lại
thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, phương Tây hóa để tự lực, tự cường, tiến tới giành độc
lập dân tộc. Sau khi phong trào Cách mạng Yên Bái năm 1930 do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo thất bại, một không khí chán nản, yếm thế bao trùm đời sống xã hội. Thanh
niên không tìm thấy lý tưởng để phụng sự, con đường yêu nước bế tắc, họ thoát ly
trong những tình cảm cá nhân, nhất là tình yêu. Thơ văn ái tình lãng mạn khóc lóc nỉ
non, tạo ra bầu không khí u uất, sầu thảm trên văn đàn. Từ 1930 – 1945, xã hội Việt
Nam trải qua những biến động sâu sắc về chính trị, kinh tế và văn hóa. Bộ máy viên
chức của thực dân phong kiến ngày càng hoàn chỉnh. Thương mại, công nghệ, kỹ thuật
phát triển, các trường tư thục dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ mọc lên, báo chí nở rộ
khắp ba kỳ khiến các tầng lớp tư sản Việt Nam cũng phát triển theo. Tầng lớp trí thức
mới cũng bắt đầu xuất hiện, có những trí thức Việt Nam tốt nghiệp ở Pháp và trong nước
nhiều thanh niên đã có bằng tú tài Tây hoặc Cao đẳng tiểu học. Cùng với các hàng loạt sách
báo hải ngoại du nhập vào Việt Nam là một bộ phận du học sinh mang tư tưởng tân tiến từ
Pháp trở về đã ảnh hưởng tới đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp tiểu tư
sản trí thức.
Trong bối cảnh lịch sử, xã hội như thế, TLVĐ với sự dẫn đầu của Nhất Linh và
Khái Hưng, đã hiện diện như một tổ chức có tư tưởng tiến bộ, với tham vọng cải cách
xã hội, họ đã có nhiều hoạt động tích cực và tạo ảnh hưởng rộng rãi tới đời sống văn
hóa - xã hội ở Việt Nam bấy giờ. Họ có tư tưởng xã hội cấp tiến và quan điểm cải cách
xã hội uyển chuyển được thể hiện qua các hoạt động cải tạo hương thôn, cải cách y
phục phụ nữ, cải tiến nhà ở xã hội. Chú trọng tự do cá nhân và tầng lớp bình dân, xây
dựng các thiết chế văn hóa mới và phổ biến quan niệm mới của văn minh phương Tây,
các nhà văn TLVĐ đã đóng góp vai trò quan trọng vào việc hiện đại hóa xã hội Việt
Nam. Nhấn mạnh tư tưởng xã hội và ý thức tham dự vào các hoạt động cải cách xã hội
của TLVĐ, Dương Quảng Hàm viết: “Về đường xã hội, các nhà thuộc văn đoàn ấy
muốn phá bỏ hủ tục để cải cách xã hội theo các quan niệm mới. Bởi thế, các nhà văn
ấy thường viết những phong tục tiểu thuyết hoặc luận đề tiểu thuyết để chỉ trích các
phong tục, tập quán cũ mà giãi bày những lý tưởng mới về cuộc sinh hoạt trong gia
đình hoặc trong xã hội” [43, tr.598-599].
Các nhà văn TLVĐ có lý tưởng thông qua sáng tác văn chương mà đóng góp
cho xã hội, chung sức truyền bá cái mới của Âu Tây bằng việc xây dựng một chiến
lược hành động chống phong kiến, hướng tới một xã hội tự do, dân chủ và văn minh.
74
Qua sáng tác văn chương và các hoạt động xã hội của mình, các nhà văn TLVĐ đã
thực hiện một cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống lề giáo phong kiến và thực hiện các
dự án cải cách, đổi mới đời sống cũ của dân quê như tổ chức Hội Ánh Sáng (1936-
1941), dự kiến lập đồn điền, xây trường học, nhà trẻ, câu lạc bộ, phòng thuốc, mua
sắm phương tiện tạo nên cuộc sống văn minh. Toàn bộ tư tưởng, ý hướng xã hội nói
trên của họ được cụ thể hóa qua 10 điều tôn chỉ của nhóm đã thể hiện chiến lược xây
dựng một nền văn hóa mới, kết hợp giữa yếu tố nội lực và ngoại sinh. Mục đích, tôn
chỉ nói trên được thể hiện sinh động qua những sáng tác văn chương mà tiêu biểu nhất là
những tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng. Quan điểm của Nhất Linh được Dũng
bày tỏ trong Đoạn tuyệt: “Tôi tin ở sự tiến bộ. Ta có thể làm cho họ (dân quê) hơn lên
được. Có lẽ họ đã quen với cái khổ lắm rồi, nên họ không biết khổ nữa, hay họ có biết
cũng không tỏ ra được… Ta phải diễn ra cho họ và những sự ta mong ước cho họ, ta
phải làm cho họ mong ước như ta. Tôi vẫn hằng mong ước dân quê đỡ phải chịu hà
hiếp, ức bách. Tôi phải tin rằng sự ao ước ấy có thể thành sự thực và làm cho dân quê
cũng mong ước một cách thiết tha như ta” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.109). Tham vọng duy
tân, hiện đại hoá của các nhà văn TLVĐ hướng tới mục đích cụ thể: Giải phóng cá
nhân và người phụ nữ khỏi đạo đức, luân lý phong kiến hà khắc và dạy cho họ biết lựa
chọn cuộc sống văn minh; soi sáng cho nông dân, giúp họ có hiểu biết để thoát ra khỏi
cuộc sống đêm tối, biết đến một cuộc sống khác tươi sáng hơn. Mục đích đó được thực
hiện qua các hoạt động cải thiện đời sống nông dân ở các đồn điền như Duy và Thơ
trong Con đường sáng, như Hạc và Bảo trong Gia đình; đem nghệ thuật phục vụ dân
nghèo như Doãn trong Hai vẻ đẹp; và hơn thế nữa, đi làm cách mạng như Dũng, Thái,
Trúc trong Đôi bạn.
Như vậy, sự tiếp xúc với phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã giúp
Việt Nam thoát khỏi sự ảnh hưởng của nền văn hóa Hán và nỗ lực hiện đại hóa để có
thể hòa nhập vào dòng chảy chung của văn minh thế giới. Tình thế này đã làm xuất
hiện một diễn ngôn mới về dân tộc bằng cách học tập tri thức phương Tây để hiện đại
hóa đất nước: “Sự tiếp xúc với phương Tây đã, lần đầu tiên, giúp người Việt thoát ra
khỏi giới hạn khu vực mà Trung Quốc là trung tâm để biết về một trật tự thế giới trong
phạm vi toàn cầu. Nhưng, cũng là lần đầu tiên, người Việt nhận thấy một cách sâu sắc
và cay đắng về vị thế nhược tiểu của mình trên bản đồ thế giới. Nét tâm lí này là tiền
để cho sự hình thành một diễn ngôn mới về dân tộc với định hướng hiện đại hóa bằng
cách học tập những tri thức từ phương Tây” [128, tr.474]. Đại diện cho tầng lớp trí
75
thức Tây học, Nhất Linh và Khái Hưng đề cao tinh thần dân tộc, có hoài bão về một
nền văn hóa dân tộc phát triển theo hướng hiện đại hóa, trên cơ sở kết hợp truyền
thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Trong bối cảnh đó, vấn đề người
phụ nữ trở thành điểm quy chiếu của diễn ngôn dân tộc, bởi vì sự thay đổi địa vị, vai
trò của người phụ nữ là biểu hiện cho một đất nước phát triển và văn minh: “mọi cải
cách văn hóa đều đòi hỏi thay đổi trạng thái thấp kém của người phụ nữ” [128, tr.476]
Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Toàn: “Trong sự so sánh với phương Tây, các trí thức
Việt nửa đầu thế kỷ XX nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân khiến nước nhà
tụt hậu so với phương Tây là vì phụ nữ Việt Nam bị đặt vào vị thế thấp kém so với
nam giới và hoàn toàn bị gạt ra khỏi vấn đề của dân tộc” [128, tr.476]. Từ đó, họ nhận
thức được rằng không thể tách rời vấn đề giải phóng phụ nữ, giải phóng cá nhân ra
khỏi vấn đề hiện đại hóa đất nước. Đây là lý do giải thích vì sao trong sáng tác của các
trí thức Việt từ Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Nam Xương cho đến Nhất Linh,
Khái Hưng đều xuất hiện diễn ngôn dân tộc gắn với vấn đề phụ nữ. Các nhân vật nữ
trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, tiêu biểu là Loan (Đoạn tuyệt - Nhất
Linh), Hiền (Trống mái – Khái Hưng), Nhung (Lạnh lùng – Nhất Linh) đã biết đấu
tranh giải phóng cá tính và tình cảm khỏi những trói buộc của tư tưởng phong kiến;
lòng khao khát tự do, tự lập khiến họ muốn hành động để cho “đời mình và đời những
kẻ khác có thể đẹp đẽ hơn, tươi sáng hơn".
3.2.2. Nam tính hóa nữ tính và sự kiến tạo bản sắc nữ tính mới trong sáng tác của
Nhất Linh, Khái Hưng
Hướng tới phương Tây như một khung tri thức mới để kiến tạo diễn ngôn dân
tộc là hiện tượng phổ biến trong sáng tác của các tác giả nửa đầu thế kỉ XX, tiêu biểu
như ở Nhất Linh và Khái Hưng. Diễn ngôn dân tộc ở các nhà văn TLVĐ được thể hiện
qua việc kiến tạo một mô hình nữ tính mới phục vụ cho mục tiêu cải cách, hiện đại hoá
dân tộc. Trong quá khứ, phụ nữ là một thực thể bị bắt phải câm lặng, khiến họ đánh
mất tiếng nói của mình. Họ không có tư cách đại diện cho mình và vì thế họ cần tới
người đàn ông nói hộ, một sự thay lời. Bên cạnh đó, xét theo hiện tượng giới tính hoá
dân tộc, thì dân tộc luôn được đồng nhất với người phụ nữ và cả hai luôn cần sự bảo vệ
của người đàn ông. Vì thế, quá trình giải phóng phụ nữ khiến họ trở thành một nhân
cách độc lập, có khả năng tham gia vào không gian xã hội, quốc gia, dân tộc, cần có
vai trò dẫn dắt và bảo vệ của người đàn ông. Đây là cơ sở cho sự xuất hiện của kiểu
nhân vật chinh phu, người đàn ông với vẻ đẹp hành động trong sáng tác của TLVĐ mà
76
tiêu biểu là nhân vật Dũng trong các tác phẩm của Nhất Linh từ Đoạn tuyệt, Đôi bạn,
Thế rồi một buổi chiều đến Hai buổi chiều vàng. Mặt khác, nam tính/nữ tính là một
tương quan quyền lực và chỉ có thể hiểu rõ bản sắc nữ tính trong mối quan hệ với bản
sắc nam tính. Cho nên thông qua những khảo sát về cấu trúc nam tính của hình tượng
khách chinh phu trong các tác phẩm của Nhất Linh, có thể nhận diện được khuôn mẫu
nữ tính của các nhân vật nữ trong mối quan hệ với các nhân vật nam nói trên. Các
nhân vật nam trong các tác phẩm trên đều có một cấu trúc nam tính vừa cổ điển vừa
hiện đại, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người chinh phu. Trong đó, tinh thần
khắc kỉ, khả năng kiểm soát và chế ngự cảm xúc, ham muốn trước sự hấp dẫn của dục
tính là quy chuẩn của văn hoá Nho giáo đối với nam tính truyền thống. Còn vẻ đẹp
hành động là dấu ấn của thời đại, được tiếp thu từ quan niệm đề cao sức mạnh vũ dũng
của phương Tây. Ở đây, cần lưu ý nét chủ đạo trong cấu trúc nam tính ở các nhân vật
của Nhất Linh đó là khát vọng đổi mới và vẻ đẹp hành động. Theo Phan Cự Đệ: “Triết
lý hành động để hành động của Andre Gide một thời được coi là triết lý sống của các
nhân vật trong Đôi bạn, Tiêu Sơn tráng sĩ, Thế rồi một buổi chiều” [59, tr.236]. Cần
phải nhấn mạnh rằng, một quan niệm về nam tính trong vẻ đẹp hành động là rất mới
mẻ trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Sự gia tăng yếu tố nam tính võ ở hình
tượng khách chinh phu trong sáng tác của Nhất Linh cho thấy sự tiếp thu quan điểm đề
cao vẻ đẹp cơ bắp, vẻ đẹp của hành động và sức mạnh vũ dũng của văn hoá phương
Tây, để tạo ra qui chuẩn nam tính mới trong văn học Việt Nam thời kì này. Sự xuất
hiện của vẻ đẹp nam tính này gắn liền với ý thức về vận mệnh của dân tộc nên sự xuất
hiện của nó bắt đầu từ trong Người quay tơ đến trong Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Hai buổi
chiều vàng, Thế rồi một buổi chiều sẽ giúp chúng ta có thêm cơ sở để nhận diện về
tinh thần dân tộc trong những sáng tác xung quanh hình tượng người khách chinh phu
của Nhất Linh.
Trong số các nhà văn của TLVĐ, Nhất Linh là người ý thức được số phận của
một dân tộc bị mất nước từ rất sớm. Nguyễn Tường Tam lúc còn trẻ đã chứng kiến
nhiều sự kiện trên đất nước mình: Cường Để sang Nhật tìm đường cứu nước, Phan
Châu Trinh cùng các nhà yêu nước ở Bình Thuận lập hội Liên Thành và trường Dục
Thanh ở Phan Thiết để mưu đồ đại sự, rồi phong trào Duy tân, Đông Kinh nghĩa thục
được thành lập và phát triển rầm rộ. Ngay từ truyện ngắn Người quay tơ (1927), Nhất
Linh đã viết về một đôi vợ chồng trẻ yêu nước. Người chồng sẵn sàng từ giã mẹ già,
vợ trẻ để “đi phen này chưa biết bao giờ về, mà tôi cũng không mong đâu trở về nữa,
77
không biết có còn thấy được mặt nhau không?” (Tuyển tập Nhất Linh và Khái Hưng,
2018, tr.9). Nhân vật cậu tú trong trong Người quay tơ sau này xuất hiện lại và trở
thành Dũng, Trúc, Thái, Lộc (trong Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Thế rồi một buổi chiều, Hai
buổi chiều vàng). Cậu tú hay Dũng, Trúc, Thái, Lộc đều là sự phóng chiếu cho những
khát vọng hành động và những dự đồ dân tộc mà Nhất Linh theo đuổi. Vị thế mà các
nhân vật nam này có được trong mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ như Tử
Nương (Người quay tơ), Loan (Đoạn tuyệt), Thoa (Hai buổi chiều vàng), nhà sư nữ
(Thế rồi một buổi chiều) đáp ứng nhu cầu tái khẳng định vai trò dẫn dắt, bảo vệ của
người đàn ông đối với người phụ nữ và đối với bản sắc Việt. Mặt khác, sự tác động,
giúp đỡ của người đàn ông ở vị trí người dẫn dắt dẫn đến những thay đổi ở chức năng,
vai trò của người phụ nữ và kết quả là nó đem lại sự chuyển động cho một mô hình nữ
tính mới ra đời. Qua mối quan hệ gắn bó với người đàn ông, có thể là chồng, hoặc bạn
bè, người đồng hành, đồng chí mà người phụ nữ có thể vượt ra ngoài không gian gia
đình với các vai truyền thống để hiện diện trong không gian xã hội. Có thể nói, trong
một số tác phẩm của Nhất Linh, mô hình nữ tính truyền thống đã được điều chỉnh đáng
kể thông qua vai trò dẫn dắt của người đàn ông, đồng thời qua đó, nó cũng tái khẳng
định bản sắc nam tính của đàn ông Việt.
Những nhân vật như cậu tú (Người quay tơ), Dũng (Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Thế rồi
một buổi chiều) và Lộc (Hai buổi chiều vàng) gắn với không gian xã hội rộng mở và sự
di chuyển liên tục. Những người phụ nữ gắn bó với họ, theo đó cũng xuất hiện gián tiếp
trong không gian dân tộc qua hình tượng của người vợ, người yêu, người bạn luôn đồng
hành cùng họ trên con đường gió bụi. Hình ảnh khách chính phu và những cô “gái mới”
chính là ước vọng mà Nhất Linh muốn gửi gắm trên con đường tìm kiếm một tương lai
mới cho dân tộc Việt Nam. Với những khuôn mẫu nam tính, nữ tính mới, họ đại diện
cho một Việt Nam đang cố gắng vượt qua những rào cản của truyền thống để hoà nhập
vào sự phát triển chung của thế giới văn minh. Trong Người quay tơ, khi người chồng bị
giặc bắt đày ra Côn Lôn với án chung thân, người vợ xin đi theo chồng để được chăm
sóc như ngày nào chăm sóc, nuôi chồng ăn học. Nàng Tử Nương tuy chân yếu tay mềm
song trước cảnh chồng bị bắt, cũng trở nên kiên cường: “Mấy tháng sau có mật thám về
bắt cụ Chánh là mẹ ông Tú và từ đường lên tra hỏi. Lúc mới đến, nàng biết ngay, mặt tái
ngắt, song gượng lại ngay mà nói rằng: Các bác cứ để yên tự khắc bà tôi và tôi sẽ lên,
chúng tôi không việc gì mà phải trốn, không cần phải xích tay xích chân gì cả” (Tuyển
tập Nhất Linh và Khái Hưng, 2018, tr.9). Ở Hai buổi chiều vàng, Thoa tuy là một cô gái
78
quê, nhà nghèo, được mẹ Triết giúp đỡ mới được cắp sách đi học. Tuy vậy, cô không
phải là nạn nhân của chế độ gia trưởng và hoàn toàn chủ động trong vai giới tính. Thoa
đã tự lựa chọn vị hôn phu của mình là Lộc, kiểu nhân vật chinh phu, say mê hành động
cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lộc tham gia Hội kín bị bắt, bị kết án 25 năm tù. Thông
qua vai trò của người vợ có chồng tham gia hoạt động cách mạng bị kết án tù, Thoa đã
xuất hiện gián tiếp trong không gian xã hội. Lộc chỉ xuất hiện gián tiếp qua lời kể của
các nhân vật, nhưng tình yêu của Thoa dành cho Lộc đã chứng minh vai trò dẫn dắt
người phụ nữ tham gia vào không gian xã hội và bảo vệ mã đạo lí dân tộc của Lộc. Cuối
cùng, Thoa đã vượt qua nghịch cảnh, hoàn thành vai trò người vợ của một tù nhân chính
trị, đồng thời trở thành một phụ nữ độc lập.
Ở Thế rồi một buổi chiều, Dũng là một thanh niên có lý tưởng, bị truy đuổi vì
tham gia hoạt động bí mật. Trên đường chạy trốn, Dũng đã lạc vào một ngôi chùa và
được sự giúp đỡ của một sư cô trẻ tuổi. Ba năm trước, sự thất vọng về ái tình đã khiến
sư cô chán nản đem thân nương nhờ cửa Phật. Nhưng tiếng chuông chùa với mùi nhang
thơm chỉ gợi cho cô nghĩ đến sự lạnh lẽo của một cuộc đời cô độc. Trong lúc tâm hồn
như vậy, sự tình cờ đã run rủi cho cô gặp Dũng, rồi vì yêu Dũng mà xúi giục chàng trốn
tránh ở chùa. Từ người được che chở, Dũng trở thành người dẫn dắt, đưa người phụ nữ
ra khỏi không gian tôn giáo gắn với ý nghĩa trốn đời, để tham gia vào không gian xã hội
với lý tưởng hành động cứu đời. Trong mười ngày trốn ở chùa, Dũng đã thuyết phục
được nhà sư nữ từ bỏ cuộc sống lãng phí tuổi thanh xuân nơi cửa Phật, để tham gia vào
con đường hoạt động xã hội: “Theo ý tôi tưởng, người ta muốn quên… không gì hơn là
quên mình trong sự hành động. Vâng, chỉ có hành động làm cho người ta quên hẳn
những nỗi khổ riêng. Cái đời yên tĩnh ở chùa không sao giúp mình quên được, muốn
quên phải dấn thân vào một cuộc đời náo động” (Tuyển tập Nhất Linh và Khái Hưng,
2018, tr.65 – 66). Kết thúc tác phẩm, Dũng thấy: “hiện ra trước mắt chàng một con
đường đầy gió bụi xa lắc xa lơ, mà trên con đường đó có hai bóng người ra bước cùng
đi, hai người mà trước kia sự chán nản ở đời đã làm cho tâm hồn khô héo, rỗng không,
nhưng nay lại trở về với cái đời đầy đủ, cùng đem theo hai tấm tình yêu và hai tấm lòng
hăng hái ham sống và ưa hành động” (Tuyển tập Nhất Linh và Khái Hưng, 2018, tr.69).
Vì thế, việc sư cô bỏ chùa đi theo Dũng, để lại sau lưng “tiếng chuông chùa liên tiếp
nhau mỗi lúc một nhỏ, rồi đưa nhau, theo nhau dần dần tan vào quãng hư vô” là một kết
thúc tự nhiên và hợp lý, mở ra một tương lai tươi sáng.
Như thế để thấy Dũng, Trúc, Thái,… do không có đường lối rõ rệt, song họ ra
79
đi không chỉ để “quên hẳn được những vết thương cũ” (Thế rồi một buổi chiều) mà còn muốn xoá bỏ những bất công đã tồn tại trong xã hội. Họ nghĩ sự ra đi ấy cũng làm được chút gì đó cho dân cho nước như Lộc trong Hai buổi chiều vàng. Lúc bị bắt, Lộc không hề chối cãi công việc của mình, không van xin, quỵ luỵ, trái lại hiên ngang lãnh hết trách nhiệm trước mặt kẻ thù. Một đảng viên quan trọng trong âm mưu phá rối cuộc trị an của thực dân chẳng có chi xấu hổ để phải đùn đẩy trách nhiệm cho người khác và Lộc chấp nhận cái án 25 năm phát vãng. Sự ra đi của họ xuất phát từ động cơ cao đẹp, đó chính là tấm lòng của những người trẻ tuổi đồng cảm với tình cảnh của người dân nghèo và hiểu nỗi nhục của người dân mất nước. Họ là những người đáng quý, đáng thương hơn đáng bị phê phán hay chê cười. Họ biết ra đi là khổ, là đối diện với cái chết nhưng không ngại khổ và sẵn sàng chọn cái chết. Thái (Đôi bạn) tham gia bãi khoá, bị đuổi học như Dũng, tham gia hoạt động và chết trên con đường gió bụi. Họ hiểu rõ phải chấp nhận một cuộc đời mưa gió, bấp bênh, gác lại cả hạnh phúc lứa đôi. Dũng (Đoạn tuyệt) “phải đóng vai một người lãnh đạm hững hờ. Chàng tin rằng nếu thật yêu Loan, thương Loan thì chỉ có một cách là quên Loan đi” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.41). Họ có khát vọng hành động để thay đổi thực tại theo hướng tốt đẹp hơn nhưng không có định hướng, không có đường lối rõ rệt, “phất phơ, vô định”. Họ tự an ủi “còn hi vọng, còn tìm”, “cứ sống để tìm, thế cũng đủ”. Với họ như vậy “mới đáng sống”. Họ mê man trong hành động, “hành động cho đến kiệt lực đến mãn chiều xế bóng”, không “can gì phải để tâm đến những việc nhỏ nhen”. Họ biết mình đang sống “trong xã hội hiện tại có một sự thay đổi to tát” và họ một khi đã không ngán ngại cái chết, thì sá gì chuyện vợ con, gia đình. Họ mang tâm lí lúng túng của một thế hệ thanh niên yêu nước, muốn hành động cứu nước nhưng không có phương hướng hành động cụ thể trước cảnh nước mất nhà tan. Chúng ta không nên lấy cái nhìn của người ngày nay để cười cợt những suy nghĩ, những hành động của lớp người cách đây hơn nửa thế kỷ. Tâm trạng của họ giống như Thâm Tâm từng viết:
“Người đi ừ nhỉ người đi thật Mẹ thà coi như chiếc lá bay Chị thà coi như là hạt bụi Em thà coi như hơi rượu say”.
(Tống biệt hành)
Mô hình nữ tính Đông Á truyền thống, đến những năm 20 của thế kỷ XX đã bắt đầu khủng hoảng trong môi trường thuộc địa. Một mô hình nữ tính mới được kiến tạo dựa trên thiết chế giáo dục của người Pháp và những ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây. Trong nhóm TLVĐ, Nhất Linh và Khái Hưng là những nhà tiểu thuyết có khuynh hướng về cải cách xã hội hơn cả. Hai ông đã chú ý phơi bày tình trạng
80
đau khổ, tối tăm của người phụ nữ dưới chế độ đại gia đình phong kiến, từ đó khuyến khích chị em can đảm thay đổi số phận mình, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa dân tộc. Loan (Đoạn tuyệt) là nhân vật tiêu biểu cho mô hình nữ tính mới của xã hội thượng lưu tư sản. Loan được xây dựng với phương thức nam tính hoá nữ tính, vượt ra ngoài khuôn khổ của căn tính nữ truyền thống để hiện diện trong không gian xã hội như một nhân cách độc lập và bình đẳng với người đàn ông. Nguyên nhân của hiện tượng nam tính hoá nữ tính đầu thế kỷ XX chính là tinh thần dân tộc cùng với tham vọng hiện đại hoá đất nước và sự mặc cảm của nam tính Việt. Các nhà văn nam, những chủ thể bản địa vốn mặc cảm về sự “mất giá” của nam tính Việt trong sự so sánh với nam tính của chủ thể thực dân, do đó họ muốn phóng chiếu vào mô hình nữ tính mới chân dung và hoài bão của chính mình. Mặt khác, hiện tượng nam tính hoá nữ tính còn là hệ quả tất yếu của phong trào nữ quyền thế giới. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khi phong trào nữ quyền ở Việt Nam đã chuyển sang hình thức phát triển tự giác, “xu hướng nam hoá” đã trở thành một hiện tượng đáng chú ý trong xã hội. Nhà đấu tranh nữ quyền Nguyễn Thị Kiêm là người từng đề xuất phụ nữ cần phải nam hóa, phải mang trong mình những suy nghĩ, đặc tính của nam giới để đến với sự khách quan: “sự cách mạng rất đáng chú ý ở làng văn nữ giới là sự nam hóa (masculinisatinon), nghĩa là sự đàn bà muốn hóa theo đàn ông. Sự nam hóa này là kết quả dĩ nhiên của cái phong trào nữ quyền thế giới” (Hồ Khánh Vân, 2010). Nguyễn Thị Khiêm cho rằng, nguyên nhân các sáng tác của nữ giới bị đẩy ra vị trí bên lề của đời sống văn chương dân tộc là vì họ không có năng lực của sự khách quan như nam giới. Như vậy, vì muốn khẳng định bản thân ở vị thế ngang bằng với nam giới trên mọi lĩnh vực mà phụ nữ đã lấy cái chuẩn nam tính của đàn ông làm thước đo giá trị tạo ra hiện tượng “mô phỏng” tính nam. Từ vị trí bên lề, vươn lên để sánh ngang bằng nam giới trong sự nghiệp duy tân, hiện đại hoá đất nước, bản sắc nam tính đã trở thành hình mẫu quy chiếu để kiến tạo bản sắc nữ tính trong các diễn ngôn về dân tộc của các nhà văn TLVĐ.
Ở Nhất Linh, xu hướng nam tính hoá nữ tính biểu hiện rõ rệt nhất ở những nhân vật tiêu biểu cho thế hệ “gái mới”, những con người là sản phẩm của thiết chế giáo dục phương Tây, được trang bị tri thức khoa học và khả năng thực nghiệp, để có thể tồn tại độc lập và bình đẳng với nam giới. Thuộc thế hệ “gái mới”, Loan đã tìm thấy cái đẹp và giá trị mới trong lối sống Âu hóa: cá nhân, độc lập, bình đẳng với nam giới. Được đào tạo dưới hệ thống giáo dục của nhà trường Pháp – Việt, Loan biết ăn mặc theo lối tân thời, để tóc đường ngôi lệch, nói tiếng Pháp thành thạo. Mọi hành động và lời nói đều chứng tỏ cô là một người đàn bà có học, đủ lý trí để xét đoán mọi việc, đủ nghị lực để phấn đấu cho khát vọng riêng và chính đáng của mình. Để làm vui lòng cha mẹ, Loan đã cố gắng tìm chút hạnh phúc ở việc lấy gia đình chồng làm gia đình mình, coi bố mẹ
81
chồng như bố mẹ đẻ và cố vớt vát chút tình cảm với người chồng mà mình không yêu. Nhưng thực tế, Loan luôn bị gia đình chồng hắt hủi và xem như kẻ thù. Cô cố yêu chồng thì phải chịu đựng một người chồng tầm thường, hủ lậu. Nhờ được thụ đắc nền giáo dục mới, Loan đã có ý thức tự giải phóng mình ra khỏi sự ràng buộc của nếp sống cũ kỹ, nhận thức sâu sắc về sự tù túng, nhỏ mọn của cuộc đời một người con dâu – một người vợ trong không gian của gia đình truyền thống. Nhà văn đã tô đậm ở Loan khả năng nhận thức về bản thân và các mối quan hệ xung quanh trong cuộc sống. Do đó, độc giả có thể thấy rõ sự đối lập giữa Loan và Mùi, người vợ lẽ của Thân, đó là sự đối lập giữa hai mô hình nữ tính hiện đại và truyền thống. Trong khi Mùi xem việc bước chân vào gia đình Thân, dù chỉ ở chức phận làm lẽ với vai trò của “chiếc máy đẻ” kiêm người hầu của gia đình chồng, là một vinh dự, thì Loan xem đó là một điều bất công và nhục nhã. Loan thấy mình có quyền sống cuộc đời tự do, tự lập của con người cá nhân, được đối xử bình đẳng và tôn trọng: “Họ không thể hiểu được rằng em có quyền tự lập thân em (…) cái quyền làm người của em, người ta không kể đến” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.103). Loan đã luôn cố gắng tạo dựng cho mình một cuộc đời tự lập, cô bàn với Thân ra riêng để “lập nên một gia đình hạnh phúc” và tạo dựng tương lai. Cũng như sau này, Loan có thể sống tự lập sau khi rời khỏi nhà chồng bằng những nghề nghiệp như dạy học hay viết báo (những nghề nghiệp trong xã hội truyền thống chỉ dành cho đàn ông). Từ ý thức về tự do, tự lập và quyền bình đẳng, Loan mới có hành động bảo vệ nhân phẩm, danh dự của mình. Cô không chịu nhẫn nhục để người ta chửi bới, đánh đập mà chống lại bằng lỹ lẽ: “Bà là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai”, “Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi” (Đoạn tuyệt, 2017, tr. 166-167). Những hiểu biết về bản thân và xã hội đã giúp Loan can đảm chấp nhận việc mất đứa con và vĩnh viễn không còn khả năng sinh nở; dũng cảm rời bỏ vai giới tính làm mẹ, làm vợ để sống một cuộc đời độc lập, tự chủ. Bên cạnh việc có một người bạn là Dũng, thì học thức của nền giáo dục mới đã làm thay đổi cuộc đời Loan, thúc đẩy cô đi đến giới hạn cuối cùng của hành động phản kháng, đoạn tuyệt với chế độ gia đình trị. Trong lúc tự vệ, Loan đã sơ ý “cầm dao đâm chồng”, hành động này được ví như “hành động lịch sử cắt đứt tư tưởng nam quyền bất công, hủ lậu” để để tạo sinh cái mới, cái tiến bộ, đem lại sự công bằng cho giới nữ. Khi được xử trắng án, ra tù, phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong mưu sinh nhưng Loan vẫn rất hạnh phúc vì đấy chính là lúc cô được sống cuộc đời của chính mình, tự do, tự lập. Phụ nữ chỉ hạnh phúc thực sự khi họ khẳng định được bản thân là một chủ thể độc lập với các giá trị cá nhân của nó, chấm dứt tình trạng bị lệ thuộc vào người đàn ông và gia đình: “Tôi nói cốt để chị em gái mới đến đây nghe, biết rằng nếu các chị em muốn được hưởng hạnh phúc với chồng con thì điều trước nhất các chị em phải tìm cách sống một cuộc đời riêng, tự lập” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.189).
82
Chính học thức của Loan đã thúc đẩy lòng can đảm của cô trong mỗi hành động và ước muốn của mình, chấp nhận việc từ bỏ nửa đoạn đời đã qua để sống độc lập như Dũng, cường tráng như Dũng. Khát vọng mãnh liệt nhất của Loan trong Đoạn tuyệt chính là khát vọng được sống đời sống của một nhân cách độc lập và bình đẳng với người đàn ông. Trong tiểu luận “Đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ góc nhìn giới tính”, nhà nghiên cứu Trần Văn Toàn đã chứng minh hạt nhân trong tính cách của Loan, không gì khác, chính là khát vọng được trở thành Dũng, được có những phẩm chất của Dũng, được sống cuộc đời của Dũng. Toàn bộ những hoạt động, lời nói cho đến những biểu hiện sâu kín nhất trong nội tâm của Loan đều có thể được quy chiếu đến khát vọng này. Những xung đột của Loan với Thân, với bà mẹ chồng cay nghiệt chỉ xuất hiện ở phần giữa tác phẩm nhưng khát vọng được sống cuộc đời của Dũng thì đã xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên khi Nhất Linh miêu tả nội tâm người nữ nhân vật của mình: “Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn, nghĩ thầm: Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một cuộc đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một cuộc đời nương dựa vào người khác” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.28). Loan yêu Dũng vì tính cách độc lập của anh, vì tinh thần phản kháng của anh và cũng chính vì nó mà anh bị gia đình từ bỏ: “Trong toàn bộ tác phẩm, dù đa dạng trong chi tiết nhưng hình ảnh Dũng trong Loan luôn chỉ có một thuộc tính duy nhất: vẻ đẹp của một cuộc sống tự do, phóng khoáng, không trói buộc. Có thể nói, không phải Dũng mà chính cuộc sống của Dũng mới là tình yêu đích thực mà Loan hướng đến. Yêu Dũng, hạnh phúc của Loan không chỉ là được nhìn thấy, được sống với Dũng mà quan trọng hơn còn là để sống như Dũng (…). Có thể nói, từ mơ ước trở thành Dũng và cuối cùng hoàn toàn đồng nhất với Dũng – đấy chính là logic cho sự phát triển tính cách của Loan” [128, tr.469]. Nền giáo dục hướng tới các giá trị nhân bản và khai phóng của phương Tây đã tạo ra một bộ phận trí thức mới, tiêu biểu là các nhà văn TLVĐ, họ đã phá bỏ mô hình nguyên nam tính/nữ tính truyền thống để xây dựng một mô hình nữ tính mới, đánh dấu sự hiện diện của người phụ nữ trong không gian dân tộc. Tuy nhiên, người phụ nữ chỉ có thể xác lập nữ tính mới của mình và hiện diện trong không gian dân tộc khi họ sở hữu những thuộc tính của nam giới, bởi vì: “Hiện đại hóa do đàn ông lĩnh xướng và dẫn dắt. Chỉ bằng cách tiến đến và đồng nhất với người đàn ông, người đàn bà mới có giá trị đích thực cho nữ tính của mình” [128, tr.481]. Cho nên, khát vọng được trở thành Dũng, được đồng nhất với Dũng, là khả năng duy nhất để Loan có thể xác lập nữ tính mới của mình và có thể hiện diện gián tiếp trong không gian dân tộc. Ở đây, diễn ngôn mới về nữ tính đã được xây dựng trên cơ sở một diễn ngôn mới về dân tộc tính: “Loan không chỉ là biểu tượng cho một cô gái mới khao khát tự do mà còn là biểu
83
tượng cho một dân tộc đang cố gắng thoát khỏi những ràng buộc của truyền thống để hướng tới một tương lai mới” [128, tr.478]. Chúng ta biết rằng không thể tách rời vấn đề phụ nữ ra khỏi vấn đề hiện đại hóa dân tộc, giữa nữ tính và dân tộc tính luôn có mối quan hệ với nhau: “Theo tổng kết của Tamar Mayer: Bất chấp những cách diễn đạt hoa mỹ về tính chất bình đẳng cho mọi người có tham gia vào dự án dân tộc (“national project”) thì dân tộc vẫn luôn là, giống như những thực thể nữ tính khác, một sở hữu của đàn ông – điều này là một thực tế rõ ràng, mang tính lịch sử và toàn cầu. Và dân tộc hầu như luôn được nữ tính hoá và được mô tả như cần sự bảo vệ; người phụ nữ được hình dung như là sự tái sinh văn hoá và sinh học của dân tộc (...) Người đàn ông sẽ giữ vai trò bảo vệ hình ảnh của dân tộc, bảo vệ biên giới của dân tộc, bảo vệ sự thuần khiết và thuỳ mị của người phụ nữ, bảo vệ cái mã đạo lý (moral code). Như thế người phụ nữ đại diện cho sự hoài thai sinh học và xã hội của dân tộc và người đàn ông có tư cách như là người bảo vệ (protector). Đây chính là hiện tượng giới tính hoá dân tộc, theo đó: dân tộc được đồng nhất với người phụ nữ và cả hai luôn cần được sự bảo vệ từ người đàn ông” [129, tr.183]. Chúng tôi xin chia sẻ kết luận của nhà nghiên cứu Trần Văn Toàn về sự liên hệ giữa vấn đề phụ nữ với hiện đại hóa dân tộc trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt: “Vị thế mà Dũng có được trong mối quan hệ tình cảm với Loan đáp ứng nhu cầu tái khẳng định vai trò dẫn dắt, bảo vệ của người đàn ông đối với người phụ nữ và với bản sắc Việt. Phương Tây hoá (với học thức của Loan) là cần thiết nhưng lộ trình đó cần phải dẫn dắt bởi người đàn ông – đại diện hợp thức của dân tộc. Dũng chính là sự phóng chiếu cho những khát vọng hành động, cho những dự đồ về dân tộc mà Nhất Linh theo đuổi. Với tư cách mà một nhà văn nam giới, Nhất Linh đã cấp cho nhân vật nam trong tác phẩm của ông vị thế dẫn dắt người phụ nữ đoạn tuyệt khỏi không gian gia đình phong kiến chật hẹp để bước vào không gian dân tộc. Diễn ngôn giới tính và diễn ngôn dân tộc vì thế đan bện với nhau một cách hữu cơ, không thể phân tách” [129, tr.184].
Hình tượng người phụ nữ trong Đoạn tuyệt với tất cả những phá cách so với truyền thống: có học thức và khả năng thực nghiệp, Loan đã khẳng định mình như một nhân cách độc lập, bình đẳng với nam giới trong vai trò đối với sự phát triển xã hội. Mô hình nữ tính mới này là một đóng góp của TLVĐ cho văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Nó cho thấy phụ nữ Việt Nam đã thoát ra khỏi căn tính nữ truyền thống để hướng đến một tương lai mới, tượng trưng cho một dân tộc đang muốn đổi thay số phận mình.
84
Tiểu kết
Mục đích quan trọng nhất của diễn ngôn dân tộc trong sáng tác của Phan Bội Châu là để tuyên truyền cách mạng, kêu gọi phụ nữ tham gia cứu nước. Với phương thức “anh hùng hoá nữ tính”, các nhân vật nữ của Phan Bội Châu hiện lên như những anh hùng hữu danh, vô danh, dám gánh vác trọng trách đánh giặc cứu nước. Hình ảnh các con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu tuy còn có phần còn xơ cứng, thiếu sự phong phú, đa dạng; song đã có sự chuyển động, thay đổi để chuyển từ mô hình nữ tính truyền thống tới mô hình nữ tính hiện đại. Diễn ngôn dân tộc ở Nhất Linh và Khái Hưng hướng tới cải cách xã hội, hiện đại hoá đất nước trong khuôn khổ hợp pháp, được nhà nước thực dân cho phép, do đó trong sáng tác của họ, mô hình “gái mới” được kiến tạo với phương thức “nam tính hoá nữ tính”, là hình ảnh quy chiếu về một dân tộc đang nỗ lực vượt thoát quá khứ để hướng tới một tương lai mới.
85
CHƯƠNG 4
NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ CÁ NHÂN TRONG SÁNG TÁC
CỦA NHÀ NHO TÀI TỬ VÀ TRÍ THỨC TÂY HỌC
4.1. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong văn chương nhà nho tài tử
(Trường hợp Tản Đà)
4.1.1. Tản Đà – sự giao cắt giữa mẫu hình nhân cách nhà nho tài tử và con người
cá nhân tư sản
4.1.1.1. Cái tôi đa tình của nhà nho tài tử
Con người cá nhân là sản phẩm của xã hội tư sản. Việc xem ý thức cá nhân là đối
tượng để giáo hóa, lễ hóa, khiến cho các xã hội tiền tư bản đều chỉ tạo ra những mầm
mống, những tiền đề nhất định cho việc giải phóng cá nhân. Ở phương Tây, quan niệm
về cá nhân, cá thể phát triển mạnh từ thời Phục hưng trở đi, đặc biệt là thời kỳ Khai
sáng. Mọi hình thức của chế độ chuyên chế đều triệt tiêu con người với tư cách cá nhân
hoặc hạn chế, hi sinh lợi ích cá nhân cho cộng đồng. Ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, sự
xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây đi kèm với sự xâm lược của thực dân Pháp
đã khiến chế độ phong kiến nhanh chóng đi tới sụp đổ, sự phát triển của hệ thống đô thị
với quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy sự xuất hiện của con người cá nhân tự
khẳng định mình bằng mọi cách, mà trước hết là ở các giá trị cá nhân. Quá trình hình
thành và phát triển của con người cá nhân ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX gắn
với sự tiếp thu tư tưởng tự do, dân chủ phương Tây và cùng với nó là sự sụp đổ của hệ
thống giáo lý thánh hiền, sự phai nhạt của hào quang đạo đức phong kiến. Vấn đề con
người cá nhân trong văn học là vấn đề lớn và phức tạp, bao gồm mọi khía cạnh của con
người, cá tính, cái tôi được biểu hiện trong văn học. Ở đây, chúng tôi chỉ tiếp cận con
người cá nhân từ bình diện cái tôi với những biểu hiện về đời sống tinh thần và thân xác
vật chất của nó.
Ý thức cá nhân và việc thể hiện cái tôi trong văn chương trung đại chủ yếu xuất
phát từ tài năng nghệ sĩ. Với Tản Đà (1889-1939), sự thức tỉnh về con người cá nhân
ngoài yếu tố tài năng, còn được hoàn cảnh xã hội và văn hóa tạo điều kiện, trong đó
việc tiếp xúc với phương Tây, trực tiếp hoặc gián tiếp là nhân tố quan trọng nhất. Tản
Đà là người đầu tiên đưa cái tôi hữu thể, con người thực của chính mình vào văn xuôi
tự sự. Ông sinh trưởng vào điểm chuyển giao giữa thời đại cũ và mới, khi toàn cõi
Đông Dương đã trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp, tiếng súng Cần Vương đã tắt,
86
phong trào Đông Du chỉ còn là một kỷ niệm đau thương và Đông Kinh nghĩa thục là
sự đưa tiễn cuối cùng giai cấp phong kiến Việt Nam ra khỏi vũ đài chính trị. Trong
hoàn cảnh đó, Tản Đà là nhân chứng cho sự bất lực của giai cấp mình, sáng tác của
ông là ánh hào quang cuối cùng của ý thức hệ phong kiến phản ánh vào văn học Việt
Nam. Nhà thơ vào đời viết văn từ năm 1915, khi mà ở các thành thị nước ta, giai cấp
tư sản và tiểu tư sản đã trở thành một tầng lớp thị dân đông đảo và văn hóa phương
Tây ngày càng ảnh hưởng phức tạp đến đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu và Trần Ngọc Vương xếp Tản Đà vào mẫu hình
nhân cách nhà nho tài tử, là sự tiếp nối của hiện tượng nhà nho tài tử trước đó với
Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… Theo học giả
Phan Ngọc, nhà nho tài tử đã xuất hiện vào giai đoạn văn học thế kỷ XVIII – nửa đầu
thế kỷ XIX: “Tư tưởng thị dân đòi hưởng lạc, đòi hạnh phúc, chống lại thói an bần lạc
đạo xuất hiện, và trở thành xu thế chính. Các tài tử ra đời để thay thế các quân tử, các
trượng phu, là những người độc chiếm văn đàn trước đây. Các tài tử ấy học đạo thánh
hiền, nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát
đều tự xưng là tài tử. Con người tài tử là điển hình mới của thời đại. Con người quân
tử bị chế giễu, đạo đức sống khắc kỷ phục lễ bị mạt sát. Một trào lưu tư tưởng mới
manh nha trong lòng những chàng trai tài giỏi nhất của thời đại” [74, tr.83]. Điểm khác
biệt cơ bản giữa người tài tử với người hành đạo và người ẩn dật là ở chỗ: “Người tài
tử coi tài và tình chứ không phải đạo đức làm nên giá trị con người… nhất thiết phải
có thêm tài văn chương nhã ngọc phun châu… tài đó phải gắn với tình nữa mới thành
người tài tử” [135, tr.84]. Tản Đà về cơ bản vẫn thuộc thế hệ các nhà nho, chịu ảnh
hưởng tư tưởng Khổng giáo. Song, sống giữa xã hội Việt Nam tư sản hóa, có điều kiện
sinh hoạt và tiếp xúc với văn minh học thuật Tây Âu qua Tân thư Trung Quốc nên ông
ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng tư sản. Thông qua người anh rể Nguyễn Thiện Kế,
Tản Đà làm khách nhà Bạch Thái Bưởi - tại đây, nhà thơ đọc rất nhiều sách báo, tân
thư Trung Quốc giới thiệu tư tưởng của các nhà Khai sáng Tây Âu. Nhờ đó, thi sĩ đã
tiếp cận với tư tưởng dân chủ, ý thức cá nhân được trình bày trong các triết luận xã hội
của Voltaire, Montesquieu, Diderot, Rousseau … Tản Đà có kể chuyện lên thiên đình
được gặp Lư Thoa (J.J. Rousseau) trong Giấc mộng con II. Sống trong môi trường văn
hóa đô thị, mảnh đất màu mỡ để nhà nho tài tử bộc lộ cái tôi đa tình và thị tài của
mình, tạo nên một luồng sinh khí mới trong đời sống tinh thần của xã hội, Tản Đà đã
phô diễn bản ngã của mình với một thế giới nội tâm phong phú, mở đường cho sự ra
87
đời của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại: “Với Tản Đà, cái Tôi,
đối với số đông, không còn xa lạ mà gần gũi, không còn đáng ghét mà đáng yêu. Như
một đòi hỏi giải phóng, và như một nhu cầu phát triển, cái tôi ấy ở Tản Đà đã phản
ứng lại mọi câu thúc, kiềm tỏa, bóp nghẹt của hoàn cảnh bằng sự tung hoành trên
những giới hạn thật phóng khoáng của không ít đam mê, khát vọng” [76, tr.394].
Không còn yên phận với tâm lý cầu an “không oán trời, không giận người” của nhà
nho truyền thống nữa, Tản Đà đã thoát ra khỏi phận vị, ngày càng thấy rõ giá trị tự
thân của mình, thấy mình có quyền chính đáng tận hưởng mọi thú vui, hạnh phúc ở
đời. Tuy chưa bỏ hẳn quan niệm con người chức năng, sống bằng bổn phận và nghĩa
lý, nhưng thi sĩ đã nói đến một con người cá thể, có dục vọng và có tài tình. Không
còn khinh miệt cái sung sướng của sự hưởng thụ những tiện nghi vật chất, thú vui
thanh sắc như các nhà nho truyền thống, thi sĩ dám nói công khai ước muốn tận hưởng
những cái “thiệt vui, thiệt hay, thiệt đẹp, thiệt ngon” của thú ăn chơi. Tản Đà nhiều lần
nói đến các thú vui trần tục đó với tất cả khoái cảm và ham muốn. Ở vào thời kỳ mà
cái mới vừa ra đời và cái cũ phong kiến cổ truyền còn mạnh, xã hội còn thành kiến với
việc nói đến cái bản ngã của mình được cho là tự đắc, thì đến Tản Đà, cái tôi đã trở
thành đối tượng thẩm mĩ trực tiếp cho sự khám phá và miêu tả nghệ thuật. Sự phô diễn
tâm hồn cô đơn, sầu mộng, ca ngợi thú vui thanh sắc và tình yêu tự do trong văn
chương Tản Đà là biểu hiện của con người cá nhân chớm nở trong điều kiện xã hội
mới, báo hiệu sự bắt đầu của chủ nghĩa cá nhân tư sản với cái tôi được đề cao, tư
tưởng tự do cá nhân, tự do tình cảm đòi hỏi được giải phóng. Trong Giấc mộng con I,
Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình – Nguyễn Khắc Hiếu - làm tên cho nhân vật
chính. Chu Kiều Oanh vừa là người yêu lý tưởng của Tản Đà, vừa là sự hóa thân của
thi sĩ trong hình bóng của một giai nhân: “Tình yêu, sự tán thưởng, và kỳ vọng mà Chu
Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khác Hiếu là một cách để Tản Đà bộc lộ sự say mê của
ông đối với chính bản thân mình” [94, tr.99]. Tàn Đà mượn Chu Kiều Oanh để phóng
chiếu hoài bão của mình, thông qua Chu Kiều Oanh mà thổ lộ giấc mộng muốn làm
“nhà văn học kiêm triết học ở Đông Dương”, góp sức giúp cho “nước tổ Hồng – Lạc”
đứng vững nghìn vạn năm mà danh vọng của Tản Đà cũng tồn tại nghìn vạn năm. Vì
thế, ông xây dựng Chu Kiều Oanh thành ý trung nhân với các phẩm chất bình đẳng với
nam giới để cùng ông thực hiện “công việc nước non”. Thi sĩ khóc Chiêu Quân cũng
chính là khóc cho sự dở dang, lận đận của đời mình. Ngay cả cô Vân Anh trong truyện
Thề non nước cũng là người đại biểu cho tâm hồn, tài năng của thi sĩ. Thái độ dám
88
khẳng định cái bản ngã phi phong kiến của Tản Đà khiến ông chủ báo Nam Phong
phải ví von sự phô bày cái tôi ấy với hành động của người cuồng “trần truồng đi ngoài
phố”. Nhưng nhờ đó, Tản Đà được đánh giá là người chuẩn bị những tiền đề tư tưởng,
thẩm mĩ cho trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam.
Tản Đà tự nhận mình là người đa tình, lãng mạn. Cái tôi đa tình với quan niệm
tình yêu tự do, lấy việc hưởng thụ tình yêu làm lẽ sống là chỗ gặp gỡ giữa nhà nho tài
tử Tản Đà với con người cá nhân tư sản. Tản Đà đã dám sống đời sống của trái tim, lấy
bản thân mình làm nhân vật chính trong những mối tình ngoài hôn nhân với những
người phụ nữ mà ông gọi là giai nhân, hồng nhan tri kỷ. Thi sĩ cũng ước ao về một sự
nghiệp giúp dân giúp nước nhưng ngay trong nội dung này, ông cũng gắn với tình yêu
đôi lứa, lấy tình yêu đôi lứa làm chỗ dựa, làm động lực thúc đẩy. Ở Tản Đà, cái tôi đa
tình của nhà nho tài tử tuy đã mang màu sắc cá nhân tư sản song vẫn chưa vượt ra khỏi
phạm vi hệ tư tưởng Nho giáo. Tác giả không đặt ra vấn đề về giải phóng cá nhân và
người phụ nữ một cách trực tiếp, song do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và
hiện thực xã hội Việt Nam mấy chục năm đầu thế kỷ XX, Tản Đà đã có quan niệm tiến
bộ về vấn đề người phụ nữ thể hiện qua quan niệm về tình yêu tự do và người hồng
nhan tri kỷ trong các sáng tác của mình.
Ý thức về giá trị cá nhân ở tài năng của mình đã có từ trước ở Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát, song dấu hiệu của con người cá nhân tư sản mang màu sắc phương
Tây thì lần đầu tiên xuất hiện ở Tản Đà: “Nguyễn Khắc Hiếu thoát ly hẳn cuộc sống
của một cậu ấm để trở thành con người đầu tiên sống bằng ngòi bút như các nhà văn
phương Tây. Muốn bước cái bước chưa có tiền lệ này, ông phải có sự tự tin đặc biệt ở
tài năng mình làm được điều chưa ai dám làm, tức là ý thức cá nhân. Nguồn gốc của
nó là ở phương Tây” [74, tr.177]. Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, về
Nho học, Tản Đà cho mình có sự mạng phát huy Nho giáo, tuy vậy thuyết “thiên
lương” của ông chỉ thường thường bậc trung, kém xa các đại nho của thời đại như Ngô
Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng. Về học vấn phương Tây, hiểu biết của ông chủ yếu nằm
trong khuôn khổ tân thư. Nhưng tài năng về tiếng Việt và việc am hiểu các thể thơ dân
tộc của ông thì ít ai bằng. Về mặt này, ông là “người thầy của các nhà Thơ mới”. Tản
Đà là người ôm nhiều hoài bão lớn, nhưng tất cả đều tan vỡ. Những gì không thực hiện
được trong đời thực đã khúc xạ thành giấc mộng trong sáng tác của ông. Ông cũng tự
gọi mình là người mộng. Nhưng đây là một kiểu mộng mới: “không phải kiểu Lão
Trang, Phật, tiểu thuyết truyền kỳ hay Bồ Tùng Linh (…) tác giả tự tạo ra một cảnh
89
mộng ảo với đầy đủ ý thức làm mình tỉnh để đùa chơi” [74, tr.178 – 179]. Giấc mộng
của Tản Đà chung quy lại là mộng về ái tình, mộng về công danh sự nghiệp, mộng đặt
chân đến những vùng đất lạ … Tản Đà lấy mình làm nhân vật chính trong hầu hết các
tác phẩm của ông, dù dưới nhiều tên gọi khác nhau, luôn luôn hiện diện một nhân vật:
nhà thơ họ Nguyễn. Cái tôi cá nhân ở Tản Đà được bộc lộ qua cách ông tự hào về tài
năng của mình, qua việc ông công khai bày tỏ niềm ưa thích hưởng lạc: “Ông là người
đầu tiên khẳng định cá nhân kiểu thị dân, bênh vực quyền hưởng thụ cuộc đời” [74,
tr.181]. Ở Giấc mộng lớn, thi nhân tự đem chuyện riêng tư đời mình ra kể một cách
trực diện, nhờ vậy mà con người cá nhân của ông cũng được bộc lộ một cách chân
thật. Tàn Đà viết tự truyện xuất phát từ nhu cầu tự yêu mình, tự ngắm mình: “Nghĩ
như người ta sinh ra đời, không ai dễ có mấy thân, cho nên mình yêu mình là cái tình
chung của nhân loại. Một cái tình yêu đó, không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu
thời cứ yêu” (Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr.61). Tuy vậy, màu sắc của cái tôi cá nhân tư
sản thể hiện rõ nét nhất ở chủ đề tình yêu trong sáng tác của nhà thơ. Ông không chỉ
yêu trong tưởng tượng với các giai nhân tuyệt sắc thời cổ như Chiêu Quân, Hằng Nga,
Dương Quý Phi trong Giấc mộng lớn (1932) mà còn yêu đương với cả những tình
nhân không quen biết. Dám để cho trái tim mình mơ mộng, sống đời sống riêng của
nó, cái đời phóng khoáng như gió trăng mây nước, tình yêu trong sáng tác của Tản Đà
đã mang nét mới đến từ phương Tây, đó là tình yêu tự do, ngoài hôn nhân, biết yêu là
yêu và chứa ngầm sự tan vỡ.
4.1.1.2. Sự ràng buộc của con người chức năng
Là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
(đầu thế kỷ XX – 1932), ở Tản Đà có sự dung hợp giữa lý tưởng Nho giáo với những
giá trị mới manh nha của xã hội tư sản. Tuy vậy, trong nhân sinh quan, Tản Đà vẫn bị
những tiêu chuẩn cơ bản của đạo đức Nho giáo ngự trị. Theo nhà nghiên cứu Trần
Ngọc Vương, trong Nho giáo và văn học Việt Nam, Nho giáo lấy mô hình gia trưởng
để hình dung thế giới, coi thế giới chỉ là hình ảnh của gia đình mở rộng, đến cả trời
cũng được hình dung như một ông bố (thiên phụ). Bề tôi đối với vua vừa là thần (bề
tôi) vừa là tử (con cái), quan lại đối với dân là “dân chi phụ mẫu”, còn dân được hình
dung là “lê dân, xích tử” (dân đen, con đỏ). Tính chất huyết thống được bảo lưu khá
đậm đặc trong lý thuyết Nho giáo. Trong cách hình dung xã hội như vậy, thì dưới chế
độ chuyên chế: “không có tập thể, không có cá nhân, chỉ có gia đình, họ hàng, chỉ có
con người chức năng trong xã hội luân thường” [135, tr.37]. Nho giáo lấy mô hình gia
90
đình để hình dung thế giới, coi các cấp độ cộng đồng khác chỉ là sự mở rộng hình ảnh
của các quan hệ gia đình cùng với phương thức tu dưỡng nhân cách theo mô hình Nho
giáo không thể dẫn đến kiểu con người cá nhân tự do: “Nhân cách cá nhân độc lập của
con người bị xóa đi sau bậc thang đẳng cấp… Theo quan điểm đạo đức, con người
theo Nho giáo không được nhìn nhận về phương diện là con người tự nhiên, có giác
quan, có dục vọng, có khả năng lao động và có trí tuệ, có nhu cầu kiếm sống và tìm
hạnh phúc, con người chỉ là của gia đình và của vua quan. Quan hệ trong cộng đồng
không theo tài năng, phẩm giá” [135, tr.87]. Như vậy, con người được Nho giáo đề cao
là con người chức năng trong xã hội luân thường và con người đó cần được giáo hóa
để trở thành hiền nhân, quân tử với con đường “khắc kỷ, phục lễ, thành ý, chính tâm”
để “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Về phương diện thỏa mãn nhu cầu đời sống
tự nhiên chính đáng của con người, Nho giáo chủ trương tiết dục; coi sự tiết chế, cấm
đoán dục vọng của con người là một phương thức tu thân quan trọng hàng đầu. Mọi
“tham thanh chuộng lạ” đều bị xem là điều cấm kỵ, lạc thú duy nhất được ca tụng là
rượu bởi “nam vô tửu như kỳ vô phong”, “vô tửu bất thành lễ”. Đối với tình yêu nam
nữ, Nho giáo ý thức rất rõ đó là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, khó thúc ước nên tìm mọi
cách ngăn cản, cấm đoán. Các nhà nho sống an phận, “an bần lạc đạo”, theo lễ chứ
không đòi hỏi, đấu tranh cho quyền lợi, cho những nhu cầu chính đáng của đời sống tự
nhiên ở con người; hi sinh nhân dục cho đạo lí, đối lập nghĩa với lợi. Tản Đà là nhà
nho sống trong xã hội tư sản, thi sĩ đã đưa cái tôi đa tình mang màu sắc cá nhân chủ
nghĩa đặt cạnh con người chức năng. Cái khác nhau giữa người tài tử và người cá nhân
tư sản là: người tài tử bị ràng buộc bởi con người chức năng, ngược lại, người cá nhân
tư sản tự do, thoát khỏi sự câu thúc của luân lý phong kiến, thấy rõ giá trị tự thân của
mình, thấy mình có quyền được sống đời sống cá nhân và mưu cầu hạnh phúc. Không
dám phủ nhận con người chức năng của xã hội luân thường, Tản Đà cũng như các nhà
nho tài tử không phải là một con người cá nhân hoàn chỉnh như con người cá nhân tư
sản. Cái làm nên tính chất độc đáo ở họ là cái tài tình, nhưng về cơ bản, họ là con
người Nho giáo với tất cả những tiêu chuẩn của môn sinh Khổng, Mạnh. Về thái độ
của Tản Đà trước tình yêu, thi sĩ đã có một quan niệm về tình yêu phóng khoáng,
mang màu sắc tư sản nhưng ông vẫn chưa gột rửa hết tư tưởng về lễ và đức của Nho
giáo. Tình yêu ở Tản Đà tuy là tình yêu ngoài hôn nhân, song nó vẫn chưa đi quá giới
hạn của lễ giáo như tình yêu tự do của con người cá nhân tư sản, các nhân vật vẫn giữ
được ở mức độ vừa phải: “Tình tương thân, lễ tương trọng, lý thú tương đáo”. Tuy
91
Kiều Oanh đã có những hành động táo bạo đối với với người yêu như hẹn hò, chăm lo
cơm nước, nhưng khi gặp nhau, hai người cũng chỉ nói chuyện văn chương và uống
chè. Không chỉ đối với Kiều Oanh mà cả với Vân Anh (Thề non nước) cũng vậy, sau
những buổi cùng nhau đối ẩm, sáng tác thơ văn rất tương đắc, sự đối đãi giữa hai
người cũng chỉ dừng lại ở chỗ “tương kính tương thân”. Ở Nguyễn Khắc Hiếu trong
tình yêu đã lẫn vào cái say mê, sự đòi hỏi hưởng thụ của con người cá nhân nhưng vẫn
chưa phải là sự đam mê trụy lạc, chưa đi quá giới hạn của lễ giáo. Tình yêu của thi
nhân và các người đẹp chỉ dừng lại ở thú vui tinh thần, không nhuốm màu nhục thể, có
sự nhàn lạc, hưởng thụ nhưng chưa sa vào hố sâu nhục cảm, hủy hoại thể xác và tinh
thần như một số nhà thơ lãng mạn sau này. Tuy có phá lễ giáo và mang màu sắc của
con người cá nhân tư sản nhưng tình yêu trong sáng tác của Tản Đà vẫn chưa ra khỏi
khuôn khổ của tình yêu tài tử, giai nhân. Nó không đưa đến chống đối lễ giáo phong
kiến và cũng không đòi hỏi giải phóng phụ nữ.
4.1.2. Tình yêu ngoài hôn nhân và hình tượng người tri kỷ
4.1.2.1. Tình yêu ngoài hôn nhân
Là nhà nho dùng ngòi bút để kiếm sống trong môi trường xã hội tư sản, Tản Đà
rất quen thuộc với không gian đô thị. Gắn bó với môi trường đô thị là hình ảnh người
kĩ nữ mà thân phận chìm nổi cùng với những mối tình hợp tan của họ đã trở thành chủ
đề quen thuộc để các tác giả chiêm nghiệm triết lý “nhân sinh nhược đại mộng” và bộc
lộ nỗi cảm thương đối với người phụ nữ. Người kỹ nữ trong các tác phẩm văn xuôi của
Tản Đà vừa tiếp tục mạch cảm hứng từ truyền thống, đồng thời nó cũng phát triển
thêm một ý nghĩa mới mang hơi thở thời đại: người kỹ nữ và tình yêu ngoài hôn nhân -
kiểu tình yêu lãng mạn của con người cá nhân tư sản. Con người theo quan niệm của
Nho giáo là một cá thể, một vị trí trong xã hội luân thường chứ chưa phải là con người
cá nhân theo quan niệm của giai cấp tư sản. Con người đó được “văn hóa hóa” với
thuộc tính cao nhất là đạo đức. Nó không thừa nhận đời sống của con người tự nhiên
với những cảm giác, dục vọng đời thường, nhất là dục vọng về yêu đương. Vì thế, nhà
nho truyền thống chỉ biết nghĩa vợ chồng, mà chưa biết đến ái tình thực sự. Từ bỏ lý trí
của mẫu hình nam nhân phong kiến để thừa nhận và sống với thú vui yêu đương của
đời sống tự nhiên vốn có của con người là quan niệm tình yêu của con người cá nhân
tư sản. Tản Đà đã vượt qua con đường đó không phải bằng cuộc đấu tranh trực diện
đòi giải phóng con người cá nhân mà bằng con đường quanh co, ảo tưởng, nhà thơ bộc
lộ cái tôi đa tình của mình qua những mối tình tự do, ngoài hôn nhân với những người
92
mà ông gọi là giai nhân, tri trỉ. Tình yêu không thỏa mãn của Tản Đà trong thực tế đã
khúc xạ vào văn chương thành những giấc mộng yêu đương. Đó là một thứ tình yêu rất
đặc biệt, đậm đà, lai láng, không bờ không bến, cần người san sẻ, đến nỗi phải gửi Thư
cho người tình nhân không quen biết, rồi đến Thư trách người tình nhân không quen
biết. Các tác phẩm văn xuôi của Tản Đà như Giấc mộng con, Thề non nước, Trần ai tri
kỷ đã bộc lộ quan niệm tình ái mang màu sắc thành thị tư sản và cả lối nhớ hão thương
hờ của ông. Trong văn hóa truyền thống, tình yêu chỉ có ý nghĩa khi ở trong vòng hôn
nhân, được pháp luật thừa nhận; quan niệm tình yêu là một giá trị tự thân, không cần
đến hôn nhân để khẳng định quyền tồn tại của mình là quan niệm mới mẻ của con
người cá nhân tư sản. Tản Đà đã phân biệt yêu đương và lấy vợ, hôn nhân gia đình và
tình yêu là hai chuyện khác nhau: “Ông là người đầu tiên trong văn chương Việt nói
đến tình yêu ngoài hôn nhân, hơn thế, đối lập với hôn nhân” [24, tr. 617]. Lần đầu tiên
trong lịch sử văn học, Tản Đà dám khẳng định tình yêu tự do, tình yêu ngoài hôn nhân,
yêu để thỏa mãn những nhu cầu về tư tưởng, tình cảm của con người cá nhân, điều mà
xã hội phong kiến không cho phép. Từ mối tình tiên trong mộng với các các mĩ nhân ở
thiên cung (Giấc mộng con II), mối tình mây gió với ca nữ Vân Anh (Thề non nước),
cho đến tình tri âm tri kỉ với Chu Kiều Oanh (Giấc mộng con I) đều là những mối tình
tự do, không ràng buộc nhưng chân thành và đáng trân trọng. Nó mở đầu cho một loại
tình yêu lãng mạn trước Tản Đà chưa hề có, đó là tình yêu đôi lứa mà không phải là
tình nghĩa vợ chồng, những mối tình chẳng bao giờ đi đến hôn nhân. Đó là thứ tình
yêu đã đượm mùi chia ly ngay từ lúc nồng thắm bởi các nhân vật chỉ biết yêu là là yêu,
biết vô vọng mà vẫn cứ yêu. Nó cho thấy sự ngang trái của những tình cảm không chịu
khép mình vào khuôn khổ của những con người khao khát yêu đương, khao khát được
mạnh dạn sống là chính mình, dám cho trái tim được quyền sống cái đời riêng của nó.
Trong Thề non nước, Vân Anh là một cô đầu có nhan sắc, biết chữ Nho và có
tài thơ ca, nhưng nhà nghèo, phải nuôi mẹ già, ăn mặc thiếu thốn, nhà cửa xoàng xĩnh.
Khách và người ca nữ gặp nhau ở chốn yên hoa và tình yêu của họ là thứ tình mây gió
thoảng qua: “Chị thời hoa đào nước chảy, chỗ ở rất là vô thường, tôi thời là một người
khách buôn, quanh năm giang hồ càng không biết đâu mà định. Lúc nào ngẫu nhiên
gặp nhau thời lại cùng nhau nói chuyện; còn những lúc mỗi người một nơi thời ai có
việc của người ấy cũng không cần phải tưởng đến nhau làm gì” (Tuyển tập Tản Đà,
1986, tr.390). Tuy vậy, chỉ nhân một đêm ngồi nói chuyện, mà cái cảm tình của khách
đối với Vân Anh thật là thương tiếc vô hạn. Khách không phải là người say đắm chốn
93
Bình Khang, rất thương cảm cho số phận của Vân Anh: “Nghĩ thân một người con gái
có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn, vì cửa nhà sa sút mà trụy lạc vào xóm Bình Khang,
ừ thôi thân danh duyên phận đã không được như ai, còn đâu cái ăn cái mặc tưởng đâu
đến nỗi phải đói rét… Vậy mà con tạo hóa đã ghen ai là ghen cho thật quá nhẽ, ghét
cho thật đủ đường. Nào ai là những kẻ có tài, nghĩ chữ “tài” nên có nữa hay thôi”
(Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr.387). Tiếc thương cho thân phận người kỹ nữ có tài sắc
nhưng bị cuộc đời vùi dập là sự tiếp tục mạch cảm thương của chủ nghĩa nhân đạo
trong truyền thống, nhưng ở Tản Đà đã có thêm sắc thái ý nghĩa mới. Mối tình giữa du
khách với kỹ nữ tuy là tình yêu không ràng buộc, không gắn với bổn phận, trách
nhiệm gì, chỉ là “nước chảy, hoa trôi” nhưng chân thành và có sức quyến rũ. Một
người du tử với một mỹ nhân cùng thù tạc, đàm đạo nhân tình thế thái, lúc cao hứng cả
hai còn cùng nhau đề vịnh bức tranh vẽ cảnh non nước bằng bài thơ “Thề non nước” rất
tâm đắc. Tuy giữa khách và Vân Anh chỉ hội ngộ trong vài cuộc tương giao ngắn ngủi,
song mối tình non – nước mà họ gửi gắm qua bài thơ là một tình yêu chân thành, chia ly
nhưng không tuyệt vọng, vẫn tin tưởng vào một niềm tin tái hợp. Thân phận của các ca
nhi, kĩ nữ thường gây nên xúc động lớn đối với tầng lớp văn nhân. Những người làm
nghề kĩ nữ, có người chỉ bán nghệ nhưng cũng có người bán thân. Xã hội tư sản coi tài
nghệ là hàng hoá, người kĩ nữ dù không muốn bán thân, không buông tuồng, dễ dãi
nhưng sức hấp dẫn từ thanh sắc của họ vẫn có thể đem lại cho họ nhiều trắc trở, truân
chuyên và bị người đời coi thường, xếp vào phường “con hát”, hạng “xướng ca vô
loài”. Tuy vậy, Tản Đà trong thái độ với người ca nữ, thi sĩ có lòng thương xót, trân trọng
chứ không phải là thái độ ích kỉ, lạnh lùng của kẻ chỉ biết bỏ đồng tiền ra để mua vui, giải
trí. Nhà thơ xem kỹ nữ là một nghề ô nhục cho phụ nữ tài sắc nên khuyên Vân Anh “tìm
nơi núi cao tuyết trắng” làm “cây mai tự do sinh trưởng” chứ không nên “tham vui thú
theo mãi đời hoa đào trong gió đông”. Tuy vậy, tác phẩm cũng không mang ý nghĩa đòi
giải phóng phụ nữ.
Là một người thi hỏng, sớm sống một cuộc đời phiêu bạt, trên con đường
thiên lý “Quê hương thì có, cửa nhà thì không”, Tản Đà luôn cảm thấy cô đơn và khao
khát kết giao với tri âm tri kỷ. Ở Giấc mộng con I, thi sĩ tưởng tượng ra mình đi ngao
du khắp thế giới, qua Anh, Pháp, Tàu, Mĩ, châu Phi, trong cuộc hành trình ấy gặp một
người tình lý tưởng là Chu Kiều Oanh, đến lúc về Hà Nội thì tiếp được một cái thư của
nàng. Nguyễn Khắc Hiếu yêu Kiều Oanh nhưng không giấu diếm chuyện mình có vợ.
Nhân vật cũng không có ý định kết thúc chuyện tình bằng một cuộc hôn nhân. Chu
94
Kiều Oanh và Nguyễn Khắc Hiếu là hai kẻ tâm đầu ý hợp, hằng ngày họp nhau nói
chuyện nửa giờ, liên miên từ chập tối đến hai ba giờ sáng, hết chuyện tình ý đến
chuyện văn chương, hết chuyện văn chương đến chuyện thế thái nhân tình, hết chuyện
thế thái nhân tình đến chuyện tha hương cố quốc. Giữa họ có những kỉ niệm đáng nhớ
như những cuộc dạo chơi vườn hoa đến 4 giờ sáng, lúc đi thì vội vàng đến mức cậu
thư ký trông coi cửa hàng quên cả khóa cửa hàng vàng bạc. Họ cũng có những cảnh
vòi vĩnh, làm nũng thật là tình tứ. Sau khi Nguyễn Khắc Hiếu trở về quê hương, thư
Kiều Oanh gửi cho người cũ, tình cảm vẫn khắng khít như thế. Trong Giấc mộng con
II, ông kéo cả Chu Kiều Oanh lên thiên đình làm báo với cụ Hàn Thuyên, cùng ông du
ngoạn trên sông Ngân Hà ngoài biển Nam Minh. Chung quy lại, ở Tản Đà đã xuất hiện
quan niệm tình yêu mang màu sắc phương Tây, thứ tình cảm không được xã hội phong
kiến thừa nhận: Đó là thứ tình yêu ngoài hôn nhân, rộng rãi và khoáng đạt, thoát ra
khỏi khuôn khổ, chuẩn mực đã có, có tính chất ngẫu nhiên, nhất thời, thoáng qua và
chứa ngầm sự tan vỡ. Tuy vậy, nó vẫn ít màu sắc dục vọng, nặng về vẻ đẹp tâm hồn,
một thứ tình nghiêng về sự tri âm, tri kỷ.
4.1.2.2. Hình tượng hồng nhan tri kỉ
Là một nhà nho có tinh thần dân tộc, lại chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư
sản phương Tây và thực tiễn xã hội Việt Nam trên đường tư sản hóa những năm 1920
– 1930, Tản Đà đã có biểu hiện hướng theo con đường duy tân kiểu Nhật Bản, hô hào
thực nghiệp. Giữa giai đoạn “kíp mong tiến hóa, công việc bề bộn”, nhà thơ đã gạt bỏ
được phần nào quan niệm bất bình đẳng, có tính chất phong kiến về địa vị người phụ
nữ trong xã hội, kêu gọi giải phóng cho người phụ nữ phần nào, để họ tham gia vào
công việc xã hội: “Nghĩ như cái phong trào nam nữ bình đẳng tràn sang nước ta đó,
chúng tôi chưa dám bảo là hay hay dở, mà sự bình đẳng đó là phải hay trái. Duy chỉ
nghĩ riêng rằng: như nước ta hiện nay, đương cái thời đại phải kíp mong tiến hóa, công
việc bề bộn, nhân tài ít ỏi, vậy thì bất luận nam nữ, cũng chẳng kể bình quyền bình
đẳng làm chi, ai ra mà gánh được việc gì, tức là có được công việc với công chúng”
(Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr.105). Phụ nữ muốn gánh được việc nước thì phải có chức
nghiệp, cho nên Tản Đà đã nhiều lần đề cập vấn đề phụ nữ với chức nghiệp trên báo
chí. Ngay cả trong Đài gương kinh, một tác phẩm viết ra để giáo dục phụ nữ theo lễ
giáo phong kiến, ông cũng không quên đề cao những phụ nữ có thực nghiệp - trực tiếp
sản xuất - như bà Kinh Khương nước Lỗ chẳng hạn. Trong An Nam tạp chí, Tản Đà
còn tính toán đến cách phục sức của phụ nữ làm sao cho đơn giản tiện để làm việc.
95
Theo ông, phụ nữ Việt Nam nên cắt tóc ngắn, mặc áo cụt như phụ nữ Sài Gòn cả. Tinh
thần dân tộc đã khiến cho các nhà trí thức yêu nước trong khi vận động cho sự đổi mới
xã hội theo hướng Tây phương hóa thì đồng thời cũng ngưỡng vọng về truyền thống
anh hùng dân tộc trong quá khứ như một sự kháng sự lại với sức mạnh của văn hóa
phương Tây. Tản Đà cũng như một số nhà yêu nước khác như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh…, đã nhắc lại truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam, ngợi ca các nữ
anh hùng có công với nước như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh với lòng
ngưỡng mộ: “Vua Trưng là một người đàn bà, báo thù cho chồng mà lấy được nước,
cô Nhị là một người con gái, cảm tình cùng chị mà theo đuổi với giang sơn. Ấy không
những là một bậc đáng tôn quý ở nước ta, đối với khắp cả nữ lưu trong doanh hàn
cũng không hổ thẹn vậy” (Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr.122). Đọc Đại Nam quốc sử
diễn ca, đến câu kể việc Hai Bà Trưng trẫm mình: “Nữ nhi chống với anh hùng được
bao”, Tản Đà tức giận phê cho tác giả câu đó ba chữ: “Đại bất kính”; vì theo ông, viết
như trong Đại Nam quốc sử diễn ca thì “đã gọi Mã Viện là anh hùng mà dám bảo Hai
Bà Trưng là nữ nhi” (Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr.123). Tinh thần dân tộc ở Tản Đà
đáng quý ở chỗ ông đã cố gắng trong những hoạt động văn hóa với hoài bão góp phần
thúc đẩy xã hội Việt Nam theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại. Nhà thơ ví tình
cảnh lạc hậu của đất nước lúc bấy giờ như “bức dư đồ rách” và có ý thức dùng văn
chương thức tỉnh tinh thần yêu nước, xây dựng non sông, giúp nước nhà thoát khỏi
cảnh nghèo nàn lạc hậu: “văn chương phải có bóng mây hơi nước tới dân xã”. Ngay
bên cạnh việc lớn lao đó, Tản Đà cũng cần có tình yêu làm chỗ dựa, làm nguồn động
viên, an ủi và đây là cơ sở để Tản Đà xây dựng hình tượng người hồng nhan tri kỷ
trong tác phẩm của mình. Từ năm 1918 đến 1926, Tản Đà đã viết ba bức thư ngỏ gồm:
Thư đưa người tình nhân không quen biết, Thư trách người tình nhân không quen biết,
Thư lại trách người tình nhân không quen biết bộc lộ mong ước tìm người tri kỷ chia
sẻ với mình một phần công việc “quốc sự”, thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ đối với
non sông. Để trở thành tri kỷ của Tản Đà, người phụ nữ không chỉ là chỉ là mỹ nhân
mà phải là giai nhân, có cả nhan sắc lẫn đạo đức và tri thức. Mỹ nhân khác giai nhân ở
đức, người đàn bà đẹp thì các chỗ phồn hoa, nơi phú quý có lấy gì làm thiếu. Nhưng
tiêu chuẩn đức cũng rộng rãi không gò bó, so với tiêu chuẩn “công, dung, ngôn, hạnh”
trước đây, chủ yếu được nhấn mạnh ở học thức và phẩm chất của người hào kiệt. Đấy
là những thuộc tính giúp người phụ nữ bình đẳng với nam giới trong nhận thức về
trách nhiệm đối với đất nước và có khả năng cùng làm công việc nước non. Nếu Vân
96
Anh (Thề non nước) là một người tình tương đắc thì Chu Kiều Oanh (Giấc mộng con)
là một người yêu lý tưởng, là hồng nhan tri kỷ của Tản Đà. Giấc mộng con I (1916)
giúp thi sĩ giải tỏa giấc mơ mà ông không thực hiện được trong đời sống hiện thực: tìm
kiếm hồng nhan tri kỷ, giãi bày chí hướng muốn làm “một thi sĩ, văn sĩ kiêm triết học”
để làm cho nước tổ Hồng Lạc vạn năm danh vọng. So với những nhân vật nữ trong
văn học truyền thống, hình tượng Chu Kiều Oanh là một sáng tạo mới mẻ, bộc lộ quan
niệm tiến bộ của Tản Đà về vị thế của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ. Chu Kiều
Oanh không chỉ ra khỏi không gian gia đình mà còn vượt qua cả biên giới quốc gia để
“du học bên Đại Pháp”; kiến thức của nàng không chỉ “Tây học đã tinh hiểu” mà còn
“lưu tình đến Hán văn” (Giấc mộng con II), “đương học chữ Nho cũng thông hiểu điển
tích” (Giấc mộng con I). Đáng quý hơn, Kiều Oanh còn có phẩm chất của người hào
kiệt, quan niệm “chỉ có học thức và hiệp khí là quý” của nàng thật hiếm thấy ở phụ
nữ lúc bấy giờ. Với Kiều Oanh, Tản Đà không chỉ miêu tả một tình yêu lãng mạn với
người đẹp qua những lần hẹn hò êm đềm dưới “bóng cây rậm thưa, ánh đèn tỏ khuất”;
mà còn xây dựng một mối tình tri kỷ. Nhờ có Chu Kiều Oanh mà Tản Đà bày tỏ được
chí hướng và qua đó bộc lộ phẩm chất của mình. Những ước vọng của ông, ông đã bày
tỏ trong thư gửi Chu Kiều Oanh: ông đã có một chương trình. Ông mượn lời Chu Kiều
Oanh để thể hiện quan niệm văn học của mình: “Văn chương có trọng giá, không phải
là một sự chơi riêng trong ý thú, không phải là một sự đùa vui trong phẩm bình, mà
phải có bóng mây hơi nước đến dân xã” (Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr.597). Lời khuyên
bảo của Chu Kiều Oanh cũng chính là lời bày tỏ của Tản Đà về chí hướng của một trí
thức phong kiến đối với sự nghiệp xây dựng non sông: “Cố nhân từ nay trở về trước,
mới chỉ là có nửa đời người, từ nay trơ về sau, mới như là cái cây đến lúc khai hoa rồi
kết quả. Sự kết quả của cố nhân có lẽ không chỉ là một người văn sĩ; nhưng trong lúc
hiện tại, hãy cứ biết công việc hiện tại, rồi đến đâu sẽ hay” (Tuyển tập Tản Đà, 1986,
tr.369). Trong thực tế, khi hoài bão vá lại “bức dư đồ nát” của Tản Đà còn dang dở, thì
hình tượng người tri kỷ chính là điểm tựa tinh thần để thi nhân cảm thấy được động
viên, an ủi.
Tóm lại, quan niệm về tình yêu tự do và hình tượng người tri kỷ trong văn xuôi của
Tản Đà có ý nghĩa nâng cao vị thế của người phụ nữ và phát triển tình cảm, chống lại lý trí
khô khan của Nho giáo. Đặc biệt, khi xây dựng hình tượng người hồng nhan tri kỷ, Tản Đà
đã ủng hộ khuynh hướng duy tân hiện đại hóa, khẳng định khả năng đóng góp của phụ nữ
đối với các vấn đề xã hội và xây dựng đất nước. Hình tượng người tri kỷ chính là sự hóa
97
thân của Tản Đà trong hình bóng của một giai nhân để bộc lộ tài năng và hoài bão của
một nhà nho có tinh thần tiến thủ và ý thức trách nhiệm đối với tổ quốc giang sơn
trong hoàn cảnh giai cấp phong kiến quý tộc đã mất tiếng nói trên vũ đài chính trị.
Tuy chưa đặt ra vấn đề giải phóng phụ nữ một cách trực diện, song quan niệm về tình yêu
ngoài hôn nhân và hình tượng người tri kỷ trong văn xuôi của Tản Đà đã mang ý nghĩa tiến
bộ trong việc chống phong kiến, chống Nho giáo, đóng góp một bước tiến mới cho văn học
dân tộc về vấn đề người phụ nữ.
4.2. Xung đột của diễn ngôn truyền thống và diễn ngôn cá nhân trong tiểu thuyết
“Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách
4.2.1. Chủ đích sáng tác của Hoàng Ngọc Phách và diễn ngôn truyền thống
4.2.1.1. Chủ đích sáng tác của Hoàng Ngọc Phách
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam nằm trong tình trạng giao thời, Hán học đã tàn
cuộc, nhường chỗ cho tân học; luân lý Nho giáo đã trở nên lạc hậu nhưng luân lý mới
chưa có khuynh hướng rõ ràng. Trong buổi đầu va chạm giữa cái mới và cái cũ, giữa
văn hóa Pháp và văn hóa Việt, giữa phương Tây và phương Đông, thái độ đối với vấn
đề này của một bộ phận xã hội Việt Nam thời kỳ thuộc địa, trong đó có giới trí thức cũ
và mới, là rất khác nhau và phức tạp, từ sự hoàn toàn không chấp nhận nền văn hóa
Pháp đến những chủ trương phương Tây hóa một cách lố lăng, đánh mất gốc rễ của
mình đều cùng tồn tại. Hoàng Ngọc Phách là một trường hợp đặc biệt, bởi tuy là một
trí thức Tây học nhưng trong cội rễ sâu xa, ông vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc truyền
thống văn hóa phương Đông: “Ông Hoàng Ngọc Phách, cũng như những nhân vật
trong truyện, đã bị khuôn vào những tư tưởng của thời đại mình, nên quá nô lệ những
thành kiến cổ hủ” [18, tr.146]. Tố Tâm là một trường hợp tiêu biểu của sự giao cắt giữa
cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại do thời điểm ra đời của nó. Tác phẩm được
viết năm 1922 nhưng mãi tới năm 1925 mới được in cho thấy sự dè dặt của Hoàng
Ngọc Phách, sự e sợ yếu tố phi truyền thống, sự hiện diện của văn hóa phương Tây
trong Tố Tâm sẽ gây ra những hiệu ứng khó lường trong đời sống xã hội.
Xã hội Việt Nam cần phải thay đổi cho hợp với thời đại mới, nhưng theo Hoàng
Ngọc Phách, nền tảng gia đình cổ truyền là cái không thể bỏ, dù nó tiềm ẩn nhiều nguy
cơ đe dọa hạnh phúc của cá nhân. Ông là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam vận dụng kỹ
thuật tiểu thuyết phương Tây để mô tả sự tinh vi, phức tạp trong tâm lý, tính cách nhân
vật, nhưng đồng thời vẫn bảo lưu những tín điều nặng nề của Nho giáo, coi trọng “ảnh
hưởng mầu nhiệm của gia đình”. Năm 1943, khi được Lê Thanh phỏng vấn, Hoàng
98
Ngọc Phách đã khẳng định chủ đích của ông khi viết Tố Tâm: “Trong quyển Tố Tâm,
tôi muốn bày ra cái ảnh hưởng mầu nhiệm của gia đình. Người trong truyện vẫn hiểu
cái ý nghĩa hi sinh đối với cha mẹ. Như thế là điều hay” [109, tr.196]. Thái độ bảo thủ
của Hoàng Ngọc Phách còn được Vũ Ngọc Phan chỉ rõ: “Hoàng Ngọc Phách là một
nhà giáo, nên văn ông có giọng bảo thủ, cái giọng duy trì luân lý đạo đức. Từ văn tiểu
thuyết đến văn luận thuyết của ông, chỗ nào ông cũng có ý gìn giữ lấy tinh thần cố hữu
của ta… Tôi đã thấy cái tôn chỉ của nhà giáo dục họ Hoàng trong câu này: Nếu luân lý
có ảnh hưởng cho văn chương thì văn chương cũng có thể gây nên một nền luân lý,
nhất là ở lúc Âu Á giao thời này… Như vậy, theo ý ông, văn chương cần phải phụng
sự luân lý để giữ cho cuộc đời khỏi có những sự nhố nhăng trong lúc hai nền văn hóa
Đông Tây tiếp xúc” [109, tr.329]. Để phục vụ cho mục đích giáo huấn, theo nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ: “Trong nhiều trường hợp Hoàng Ngọc Phách đã biến nhân
vật thành cái loa phát ngôn, thuyết lý đạo đức trong tác phẩm!” [27, tr.16]. Ông không
bênh vực những nạn nhân trong trong truyện, ông buộc tội họ đã quá “mơ màng những
chuyện ngoài vòng đời”, “coi khinh thực tế” nên sa chân vào vực thẳm của ái tình; lại
nữa, không được phép của cha mẹ mà vẫn yêu thương, biết “ái tình vô vọng” mà vẫn
lấn tới, nên kết cục bi thảm. Ông khuyên thanh niên nam nữ nên tránh xa ái tình
vì“đây là ghềnh cao, vực thẳm” làm cho người ta đắm đuối mà đi tới chỗ hại thân.
Chủ đích của Hoàng Phách khi viết Tố Tâm là như thế, ông đem chuyện tình éo le của
Tố Tâm và Đạm Thủy diễn ra để khuyên người đời đừng xa rời luân lý truyền thống
kẻo chuốc lấy số phận bi kịch: “răn đời đừng mắc vào ái tình, đừng lạm dụng văn
chương tư tưởng mà làm việc cho ái tình” [27, tr.47]. Ảnh hưởng của văn hóa truyền
thống đã đẩy Hoàng Ngọc Phách vào thế bảo thủ, bắt ông phát ngôn cho cái chân lý
không mấy mới mẻ: yêu nhau ngoài khuôn phép là lao vào ghềnh cao vực thẳm, đã
không có ích gì cho xã hội mà còn đi đến chỗ hại thân.
Mục đích giáo huấn của Hoàng Ngọc Phách vừa thể hiện trực tiếp qua lời nói
đầu của truyện Tố Tâm vừa thể hiện gián tiếp qua cách giải quyết mâu thuẫn giữa cái
mới và cái cũ, giữa hiện đại và truyền thống trong tác phẩm. Bi kịch của đôi tình nhân,
cái chết của Tố Tâm và vết thương sâu hiểm trong lòng Đạm Thủy được giải thích là
do các nhân vật xa rời chuẩn mực của luân lý truyền thống. Ngoài việc Đạm Thủy
vướng một trắc trở là đã có vợ chưa cưới, cả hai gia đình đều không có một cản trở
nào. Các nhân vật chính trong truyện cũng không biểu thị một hành động đấu tranh
nào để bảo vệ mối lương duyên của họ, họ vẫn lựa chọn đi theo tiếng gọi của bổn phận
99
đối với gia đình. Tố Tâm chưa phải là nạn nhân tự nguyện của cuộc đấu tranh cho cái
mới, Hoàng Ngọc Phách cũng chẳng có chủ ý tấn công vào thành trì gia đình cũ, ông
chắc chắn đứng trước một sự lựa chọn vất vả giữa hiện đại và truyền thống. Theo ông,
câu chuyện buồn này xảy ra là do lỗi của hai nhân vật, họ đã trở thành nạn nhân của
thời đại mình – khi biết người mẹ muốn gả Tố Tâm cho cậu Tú B, Đạm Thủy đã viết
cho nàng một bức thư khuyên không nên làm trái ý mẹ, làm phiền lòng mẹ và làm
hỏng cuộc đời mình. Trong cuốn nhật ký viết trước lúc qua đời, Tố Tâm nhờ người
yêu đề lên mộ mình mấy chữ rằng: “Đây là mồ một người bạc mệnh chết vì hai chữ ái
tình” như nhắc người đời tránh bước vào vết xe đổ của nàng. Như vậy, trong buổi đầu
tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Đông - Tây, khi mà các giá trị truyền thống đã lung lay
nhưng bảng giá trị mới vẫn chưa định hình rõ ràng, Hoàng Ngọc Phách vẫn ủng hộ
luân lý truyền thống. Gốc rễ của văn hóa Nho giáo đã kết đọng rất sâu trong tâm thức
sáng tác của Hoàng Ngọc Phách, nó không chỉ biểu hiện ở chủ đích sáng tác mà còn
chi phối cách xây dựng hình tượng nhân vật Đạm Thủy – Tố Tâm tiêu biểu cho đặc
trưng nam tính – nữ tính Đông Á truyền thống. Gần 10 năm sau, các nhà văn TLVĐ –
những người đi hàng đầu trong phong trào đổi mới xã hội, đã khẳng định sự thắng thế
của cái mới, và theo đó là sự xuất hiện của mô hình nam tính – nữ tính mới.
4.2.1.2. Hình tượng Tố Tâm và mô hình nữ tính truyền thống
Nam tính – nữ tính là những thuật ngữ quen thuộc của các chuyên luận về giới.
Trong tiếng anh, sex và gender là một cặp khái niệm. Nếu sex được dùng để chỉ những
vấn đề thuộc về sinh vật học thì gender lại liên quan đến khía cạnh văn hóa. Trong
tiếng Việt, sex thường được dùng với nghĩa chỉ “giới” và gender với nghĩa chỉ “giới
tính”. Và như thế, tương ứng với cặp khái niệm nam giới, nữ giới (mặt sinh học),
chúng ta có cặp khái niệm nam tính, nữ tính (mặt văn hóa). Nhiều nền văn hóa trên thế
giới đã phân chia giới thành cặp phạm trù nam tính - nữ tính với các đặc trưng khác
biệt hoàn toàn giữa hai giới, có xu hướng đối lập nhau theo cặp với sự ưu trội thuộc về
nam tính như mạnh mẽ / yếu đuối, độc lập / phụ thuộc, sâu sắc / nông nổi, văn hóa / tự
nhiên… Từ chỗ nam giới và nữ giới có cấu tạo hình thể, chức năng bán cầu đại não,
nhiễm sắc thể, hooc môn riêng, đặc điểm sinh học của phụ nữ gắn với chức năng sinh
sản (mang thai, sinh nở, cho con bú), gắn với môi trường gia đình, trong khi, đặc điểm
sinh học của nam giới gắn với chức năng khám phá, chinh phục, sáng tạo, gắn với môi
trường xã hội, khiến người ta tin rằng chính đặc điểm sinh học đã tạo nên đặc trưng
tính cách của mỗi giới. Niềm tin vào đặc trưng tính cách mỗi giới như vậy đã dẫn đến
100
sự bất bình đẳng giới. Thêm vào đó, dưới ảnh hưởng của văn hóa phụ quyền, đương
nhiên đặc trưng nam tính được xem ưu việt hơn đặc trưng nữ tính. Thực chất thì nam
tính/ nữ tính không phải là những đặc tính tự nhiên của giới, mà là sản phẩm mang
tính kiến tạo xã hội, dưới sự ảnh hưởng của những thiết chế văn hóa đặc thù.
Kam Louis trong công trình Lý thuyết hóa nam tính Trung Quốc: Xã hội và giới
tính ở Trung Quốc (Theorising Chinese Masculinity: Society and Gender in China) đã
chỉ ra mô hình lý tưởng của nam tính Đông Á gắn với cặp khái niệm văn - võ. Đây là
mô hình lí tưởng cần hướng tới của người đàn ông bởi vì nó được kiến tạo cả về phương
diện văn hóa và sinh học, tinh thần và thể chất, văn chương và thượng võ. Lí do khiến
những phẩm chất văn – võ chỉ dành riêng cho nam giới là vì “nó được thừa nhận thông
qua các kỳ thi do nhà nước tổ chức - đặc quyền chỉ dành cho nam giới. Thiết chế văn
hóa này vì thế đã hoàn toàn gạt bỏ người phụ nữ khỏi không gian xã hội và đóng khung
họ trong không gian gia đình với những vai giới tính (gender roles) tòng thuộc vào
người đàn ông (con gái – người vợ - người mẹ)” [128, tr.177]. Kam Louis cũng lưu ý
chúng ta rằng dù hai thuộc tính văn - võ luôn sóng đôi với nhau trong việc kiến tạo nam
tính thì văn vẫn được xem trọng hơn võ. Những thuộc tính của văn đều là sản phẩm của
nền giáo dục Nho giáo, và hình mẫu hội tụ đầy đủ nhất những thuộc tính này là quân tử.
Một đặc điểm khác của nam tính Đông Á được học giả này ghi nhận đó là sự kiềm chế
(containment) và kiểm soát (control) đối với những đam mê dục tính (sexual passion).
Văn hóa Nho giáo, trong khi xây dựng mô hình người “quân tử”, đã thủ tiêu phương
diện tự nhiên, bản năng của con người, trong đó bao gồm cả “tình” và “dục”. Tình, đặc
biệt là tình dục, chính là thứ mà người quân tử, bậc anh hùng cần kiểm soát, chống lại,
vượt qua ham muốn đối với nó. Thanh niên được giáo dục không nên đắm say vào
“tình” và “dục” bởi lẽ nó sẽ che mờ cái tâm đạo lý, làm cho con người không nhất tâm
theo lễ, cản trở nam nhân phong kiến trên con đường “văn hóa hóa” để trở thành quân
tử: “Trong tất cả các thứ tình, thứ dục thì nó sợ nhất là sắc đẹp của đàn bà và tình yêu.
Đó là thứ tình mạnh nhất, thứ dục thiết tha nhất, thứ đam mê da diết, dai dẳng, bất trị
nhất” [52, tr.642]. Trong lịch sử, không thiếu những phụ nữ xinh đẹp bị xem là “vưu
vật”, trong nhà là cái nợ của hồng nhan đa truân, ngoài cửa là cái họa diệt vong đối với
vua chúa. Cho nên thái độ của nam nhân đối với họ là lo sợ và phòng ngừa. Quan hệ
nam nữ được ngăn ngừa theo chuẩn mực “nam nữ thụ thụ bất thân”. Xét cho cùng, thái
độ ngăn ngừa đối với nữ sắc, về cơ bản lấy nam giới làm trung tâm, coi phụ nữ là rào
cản trên con đường hành đạo, “tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ” của nam nhân phong
101
kiến. Không khó để tìm thấy những hình mẫu lý tưởng của nam tính văn – võ trong văn
hóa Trung Quốc và khu vực Đông Á, chẳng hạn, hình mẫu lí tưởng của văn là Khổng tử,
hình mẫu lí tưởng của võ là Quan Vũ. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, hình mẫu lý
tưởng của cặp đôi này chính là Kim Trọng - Từ Hải. Trong tương quan nam tính - nữ
tính, thì nữ tính luôn được hiểu trong sự đối lập với nam tính. Nữ tính được kiến tạo là
để tôn vinh và khẳng định những phẩm chất ưu việt của nam tính. Người đàn ông Đông
Á truyền thống sở hữu thuộc tính văn – võ, có khả năng kiểm soát cảm xúc và điều
khiển hành vi đối với vấn đề tính dục nên họ có một nhân cách độc lập và thuộc về “cái
văn hóa”. Ngược lại, phụ nữ do thiếu thuộc tính văn – võ, cảm tính và mù quáng trước
những cám dỗ nên họ chỉ là một nhân cách thứ cấp, thuộc về “cái tự nhiên”. Cơ chế kiến
tạo này cho thấy vai trò chủ thể, thống trị của nam giới và sự tòng thuộc của nữ giới.
Chính vì thế, chỉ có thể hiểu sâu sắc và cắt nghĩa về nữ tính trong sự phân tích về mối
tương quan quyền lực của nó với nam tính. Trong ca dao Việt Nam, tương quan nam
tính/ nữ tính cũng được thể hiện khá rõ, nếu người nam thường được miêu tả với các
thuộc tính: lý tính, chủ động, gắn với hoạt động xê dịch và trải nghiệm; thì người nữ
gắn với thuộc tính cảm tính, bị động, tĩnh tại:
- “Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” (ca dao)
- “Đàn ông nông cạn giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” (ca dao)
Đặc trưng nam tính Đông Á truyền thống mà Kam Louis đúc kết qua việc khảo
sát các văn bản văn học Trung Quốc là một sự kiến tạo bản sắc giới dưới sự tác động
của hệ tư tưởng Nho giáo và các thiết chế văn hóa đặc thù của xã hội Trung Quốc
truyền thống. Việt Nam nằm trong vùng văn hóa Hán hóa với các thiết chế văn hóa
tương tự Trung Quốc nên sự hiện diện của mô hình nam tính văn – võ trong các sáng
tác văn học trung đại là một sự tiếp biến hợp quy luật.
Đạm Thủy trong Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một mẫu hình tiêu biểu của
nam tính văn phong kiến. Tài văn chương của chàng được miêu tả nổi bật bên cạnh
khả năng kiềm chế tình cảm và vượt lên sự cám dỗ của nhan sắc và nhục cảm. Trong
thế giằng co giữa lựa chọn tình yêu hay tuân thủ đạo đức truyền thống, Đạm Thủy đã
chọn cách “lấy lý hóa tình”, phục tùng tông pháp. Chàng khi yêu, cũng si tình đến mức
nhiều khi nảy ra ý định đem Tố Tâm đi trốn, đến một nơi thâm sơn cùng cốc: “để cùng
nhau hưởng cuộc ân ái trăm năm”. Song, đó chỉ là phút nông nỗi thoáng qua do ảnh
102
hưởng của những cuốn tiểu thuyết phương Tây mà chàng đọc. Đối với chàng, “những
gì thuộc về gia đình đều thiêng liêng cả”. Vì thế, chàng xem người con gái mà cha mẹ
sắp đặt cho chàng là một “vật báu”, việc cưới người mà chàng “chưa biết tính tình mà
đến dung nhan cũng chưa được nhìn rõ” là một việc đương nhiên, không thể “xê xích”
được. Cho nên, dù yêu Tố Tâm chân thành nhưng “nghĩ đến nhà, nghĩ đến tình âu yếm
của song thân tôi tuổi tác, nghĩ đến tình huynh đệ rất đậm đà tự nhiên” là chàng chùn
bước. Đạm Thủy tỏ ra lý trí khi lấy lời giáo huấn mà khuyên bảo Tố Tâm: “Em ơi!
Sinh ra gái mưa sa là phận, rủi may âu cũng sự trời, (…) chi bằng em theo cái lệnh
“đặt đâu ngồi đây” là hơn… ta đem cái khổ một đời mà đền bù các công sinh thành 20
năm khó nhọc cũng chưa gọi là đủ (…) Trong cách đền ơn đó không gì bằng nghe lời
giáo huấn những lúc khó khăn này” (Tố Tâm, 2015, tr.98). Dù đã tiếp xúc với tư tưởng
tiến bộ của văn hóa phương Tây qua sách báo, trường học, song chàng vẫn chưa thoát
khỏi lý tưởng của “phường áo mũ”, vẫn còn bị mắc kẹt trong trong các quan niệm “tín”,
“hiếu”, “mệnh trời”. Đôi chỗ, chàng suy nghĩ như một nho sĩ phong kiến, xem Tố Tâm
chẳng khác gì một “vưu vật” mà gần nàng có thể khiến cho sự nghiệp của chàng tiêu
ma: “Mà thực vậy, mình cũng có chút học thức, vẫn khăng khăng theo đuổi sự nghiệp,
về văn chương, giáo dục, thế mà nay bị xô đẩy vào trong bể tình, chìm đắm mãi (…)
Nghĩ mang lấy hai chữ thiếu niên mà thẹn mình, giận mình, ghét mình, mà tức lây cả
đến Tố Tâm nữa, tưởng như có thể xa được nàng ngay” (Tố Tâm, 2015, tr.94). Chàng đã
đem công danh đối lập với ái tình, khuôn mình trong vòng “lợi danh, áo mũ”. Con người
lý trí nơi Đạm Thủy giúp chàng hồi phục nhanh chóng sau cái chết của Tố Tâm, để nghĩ
về “lập đức, lập công, lập ngôn”. Cuối tác phẩm, khi nghe nhắc đến công danh sự
nghiệp, chàng đã “cảm động nức lòng như người chiến sĩ lúc ra trận nghe hồi trống hay
dịp kèn quốc hiệu” và lại “sốt sắng về những mục đích và hi vọng trước” (Tố Tâm,
2015, tr.138).
Nam tính - nữ tính là cặp nhị phân liên quan tới sự kiến tạo bản sắc giới và chỉ
có thể hiểu sâu sắc về nữ tính trong mối quan hệ với nam tính. Trái ngược với đặc
trưng nam tính, do không sở hữu năng lực văn – võ (sức mạnh tinh thần và thể chất),
phụ nữ chỉ là một nhân cách thứ cấp, không có bản sắc, một thứ vệ tinh xoay xung
quanh người đàn ông. Trong tác phẩm, đặc trưng nữ tính của Tố Tâm được xây dựng
trong sự tương phản hoàn toàn với đặc trưng nam tính của Đạm Thủy. Tố Tâm là một
thiếu nữ thông minh, xinh đẹp, có tài văn thơ. Tuy vậy cả nhan sắc lẫn thơ ca do nàng
sáng tác luôn mang một vẻ u sầu. Ngoại hình của nàng phảng phất nét đa sầu đa cảm
103
của tâm hồn nàng: “…trên cái khuôn mặt mơn mởn tơ đào đó có một vẻ buồn cao xa
kín đáo bởi ở đôi con mắt trong mà lại lờ đờ, tức là thứ mắt của người có tư tưởng mà
hay mơ màng những chuyện viển vông” (Tố Tâm, 2015, tr.194). Là người chủ về tình
cảm nên chỉ vì cảm thơ văn của Đạm Thủy mà nàng đã yêu chàng từ lúc còn “chưa
biết người biết mặt”, yêu bởi “tâm tình tự nhiên”, “biết yêu là yêu”. Lòng yêu quá
mãnh liệt bắt nàng phải nói ra: “Lòng em yêu mến anh là thế mà em vẫn phải nén lòng
một cách khổ sở. Nhiều lần anh sơ ý để em hiểu rõ lòng anh, em tưởng như giá anh hở
ra một câu thì em vái anh mấy vái” (Tố Tâm, 2015, tr.75). Là người bị cuốn theo cảm
xúc, mọi biểu hiện nội tâm sâu kín của nàng đều bộc lộ ra bên ngoài qua cái nhìn tỉnh
táo và đầy duy lý của Đạm Thủy: “Đại khái những lúc tôi đến, gặp nàng đang cúi đầu
ngồi thêu, chẻ dưa, hay xem sách, bất thình lình ngửng lên thấy tôi thì nét mặt nàng có
vẻ khác, có một tia mừng tự trong tâm chạy lên mặt thoáng qua hai con mắt và đôi gò
má. Tia mừng ấy không ai ngăn được, thứ mừng này là mừng của đôi nam nữ yêu
nhau, được trông thấy mặt nhau, thứ mừng nó làm cho quả tim đập một lúc” (Tố Tâm,
2015, tr.205). Nàng có những hành động theo phản xạ bản năng mà không tự biết thì
chứng tỏ“ái tình nàng đã mạnh lắm rồi”: “Trong khi đang mải vẽ thì tôi thấy chân tôi
hình như có vật gì đè lên, nhân cái tẩy rơi, tôi cúi xuống nhặt thì thấy bàn chân nàng
để lên trên giầy tây tôi, tôi biết vậy mà không dám co chân lại, sợ nàng chợt biết thì
ngượng cho nàng chăng; tôi chắc nàng vô tình tự nhiên mà để chân như vậy, nhưng
điều vô tình đó là biểu hiện của cái hữu tình trong lòng nàng mà chính nàng cũng
không biết” (Tố Tâm, 2015, tr.207 – 208). Từ chỗ kín đáo, e dè nàng đã trở nên quyến
luyến: “Thư từ không thể làm nguôi được nỗi nhớ thương, phải gặp mặt nhau, phải
trông thấy nhau, phải cùng nhau trò chuyện để nghe những giọng cười tiếng nói của
nhau mới yên dạ” (Tố Tâm, 2015, tr.79). Cùng với người yêu, Tố Tâm làm cả “những
chuyện bất thường” như cùng nhau tắm bể ở Đồ Sơn và về đồng quê bắt châu chấu.
Do không có một nhân cách độc lập nên trong tình yêu, người phụ nữ thường
xem người đàn ông là giá trị tối thượng, là hiện thực tối thượng. Họ không có lối thoát
nào ngoài hy vọng hiến dâng toàn bộ thể xác và tâm hồn mình cho người đàn ông mà
họ yêu - chủ thể tối thượng của họ. Bằng cách đó, họ hòa nhập làm một, đồng nhất hóa
với chủ thể tối thượng, phá bỏ những ranh giới ngăn cách họ với người yêu. Họ hòa
nhập vào cuộc sống của chàng, tham gia và giá trị của chàng và như thế cuộc sống của
họ trở thành có ý nghĩa. Vì vậy, tình yêu đối với họ trở thành một thứ tôn giáo và dễ
trở thành tai họa. Những lời nhận xét của Đạm Thủy về Tố Tâm đã dẫn ở trên đã
104
khẳng định với chúng ta về điều này. Nguyện vọng hiến dâng hết mình cho tình yêu
của Tố Tâm cuối cùng đã dẫn tới kết cuộc tự hủy hoại mình: “Tố Tâm là truyện một
đôi trai gái không lấy được nhau, đến nỗi sau người con gái chết vì tuyệt vọng” (Tố
Tâm, 2015, tr.324). Chính vì tự tìm kiếm mình nhưng do không có bản sắc riêng, Tố
Tâm đã tự đánh mất mình ở người yêu - Đạm Thủy. Nàng đã tìm cách nhìn đời với đôi
mắt của Đạm Thủy; đọc những cuốn sách chàng đọc; thích những gì chàng thích, ghét
những gì chàng ghét, để cho người yêu làm chủ tấm lòng mình. Vũ trụ của mình, nàng
để nó tiêu tan; nàng sống trong vũ trụ của người khác. Tự tha hóa trong một người
khác, nàng cũng muốn tự phục hồi mình: nàng phải chiếm hữu cái con người kia đang
nắm cả cuộc đời mình. Nên dù biết đó là ái tình vô vọng và được Đạm Thủy khuyên
giải nhiều lần, song nàng vẫn kiên quyết sống chết với tình yêu của mình: “đã đem
lòng yêu anh thì em cứ biết yêu anh”, “về sau nữa em phó mặc khuôn thiêng” (Tố
Tâm, 2015, tr.76). Đạm Thủy khuyên bảo không xong, xoay qua nói chuyện tình cảm,
thì Tố Tâm khóc: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa” (Tố Tâm, 2015,
tr.91). Chừng nào còn yêu, còn được yêu và còn cần thiết với người yêu, chừng ấy,
nàng cảm thấy mình hoàn toàn có lý do để tồn tại. Thế nhưng việc hôn nhân của Đạm
Thủy với người con gái do gia đình chàng lựa chọn đã kết thúc khát vọng tự hồi phục
mình của Tố Tâm. Xa chàng, nàng cảm thấy đánh mất bản thân mình, đánh mất cả vũ
trụ và cuối cùng, bệnh tật làm nàng gục ngã như một hậu quả tất yếu của sự tự hủy
hoại mình. Một sự đoạn tuyệt có thể để lại dấu ấn sâu sắc ở người đàn ông, nhưng rốt
cuộc anh ta vẫn phải lo đảm bảo cuộc sống tương lai của mình. Còn đối với phụ nữ,
khi bị bỏ rơi thì nàng không còn gì nữa cả. Tố Tâm sau khi vâng lời mẹ, lấy một người
mà mình không yêu, nàng đã trở nên “vô hồn, làm gì hỏng nấy, nói xong lại quên, tiền
cầm trong tay mà kêu mất, áo để bên cạnh mà đi tìm”. Vì nhớ thương người cũ nên sau
36 ngày lâm bệnh, nàng đã qua đời. Làm sao nàng có thể làm lại một cuộc đời mới khi
mà ngoài người yêu ra, nàng không còn lại gì hết. Nàng chỉ còn có chết, rất nhanh hoặc
một cách chậm rãi mà thôi. Lỗi lầm của nàng là đã tự phó thác mình hoàn toàn vào tay
người khác. Nàng đã không tự tìm thấy mình trong cuộc sống của mình, mà bị đắm
chìm trong người phụ nữ – tình nhân do người đàn ông chẳng những phát hiện ra nàng
mà còn kiến tạo nàng. Từ lúc yêu Đạm Thủy, nàng đã run rẩy trước người đàn ông nắm
vận mệnh mình trong tay mà hoàn toàn không tự biết. Gần 10 năm sau kể từ sự xuất
hiện của Tố Tâm, mô hình nữ tính mới với nhân cách độc lập, tự do chính thức xuất hiện
trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh qua hình tượng nhân vật Loan. Tình yêu của
105
Loan đối với Dũng cho thấy đã đến lúc phụ nữ có thể yêu trong sức mạnh chứ không
phải trong sự yếu kém của mình; không phải để trốn tránh mình mà là để tự tìm thấy
mình; không phải để khước từ mình mà để tự khẳng định mình, và như thế, tình yêu đã
trở thành nguồn sinh lực chứ không phải là một tai họa chết người.
Nam tính – nữ tính là một tương quan quyền lực gắn với các thiết chế văn hóa,
chính trị của từng khu vực và từng thời kì lịch sử khác nhau. Vì thế mỗi thời đại, mỗi
khu vực sẽ có những mô hình nam tính – nữ tính đặc thù. Đọc Tố Tâm của Hoàng
Ngọc Phách từ quan điểm giới đã đem lại một ý nghĩa mới cho tác phẩm, hình tượng
các nhân vật do đó cũng hiện lên một cách sinh động và sâu sắc hơn. Được xem là một
trong những cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam, tính chất giao
thời của tác phẩm thể hiện rõ ở thái độ và cách giải quyết mâu thuẫn nghiêng về truyền
thống của Hoàng Ngọc Phách. Nhà văn đã có một quan niệm mới về tình yêu của con
người cá nhân: quyền nghe theo tiếng gọi của trái tim và quyền bảo vệ tình yêu chân
chính. Tuy nhiên, các nhân vật của ông vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa
truyền thống, vẫn đặt luân lý gia phong trên ái tình để đến nỗi người thiệt mạng, kẻ
mang mãi vết thương sâu hiểm trong lòng. Từ sự phân tích những đặc trưng nam tính
– nữ tính của các nhân vật và cơ chế hình thành mô hình nam tính – nữ tính truyền
thống với những thiết chế văn hóa Nho giáo mang đậm tính nam quyền, có thể khẳng
định Đạm Thủy, Tố Tâm chưa phải là những “tân nhân vật” thực sự, giữa Tố Tâm và
các nhân vật “gái mới” trong Tự Lực văn đoàn vừa là một sự đứt gẫy nhưng đồng thời
cũng là sự tiếp nối.
4.2.2. Tiếp nhận của độc giả và diễn ngôn về cá nhân
Theo Trần Đình Hượu, Nho giáo đề cao “đức” và “tính”, cái mà họ né tránh và
lo sợ là “tài” và “tình”. Chủ đích viết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách nhằm giáo huấn
thanh niên đặt bổn phận trên ái tình, để chăm lo cho gia đình, dù điều đó đi ngược với
lẽ tự nhiên của con tim. Đó là diễn ngôn truyền thống được thể hiện trực tiếp qua quan
điểm của người viết tựa, cũng chính là quan điểm của Hoàng Ngọc Phách, đặc biệt
được hình tượng hoá qua các đặc trưng nam tính/nữ tính truyền thống của các nhân vật
chính trong tác phẩm. Tuy nhiên diễn ngôn chiếm lĩnh cảm xúc và suy nghĩ của người
đọc khi tiếp cận Tố Tâm là diễn ngôn hiện đại chứ không phải diễn ngôn truyền thống,
tuy nó không được nêu thành quan điểm hẳn hoi nhưng đã được bộc lộ qua những yếu
tố phi truyền thống – sự hiện diện của văn hóa phương Tây trong tác phẩm. Khác với
các nhà nho truyền thống, đại diện cho một bộ phận xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, một
106
tầng lớp trí thức mới, những người ủng hộ và đấu tranh cho sự phát triển nền văn hóa
mới của dân tộc, sẵn sàng hấp thụ nền văn hóa châu Âu. Họ không chỉ học tập khoa
học kĩ thuật mà còn tiếp thu các giá trị văn học nghệ thuật của phương Tây. Nguyên
nhân sự xa rời những chuẩn mực luân lý truyền thống của Đạm Thủy và Tố Tâm được
giải thích bằng những ảnh hưởng của châu Âu thể hiện qua nền giáo dục mới, qua văn
học phương Tây. Các nhân vật được mô tả theo lối sống thành thị đã được Tây phương
hóa. Tố Tâm đã tốt nghiệp Sơ học (theo hệ thống giáo dục mới ở thuộc địa), biết chữ
Hán và chữ Pháp. Thêm vào đó, nàng còn thích đọc sách và thích văn chương, cũng có
tư tưởng, đã xem được vài chục bộ tiểu thuyết Tây, đã viết được ít nhiều văn quốc
ngữ. Như vậy, học vấn của Tố Tâm được xem là khá đủ theo tiêu chuẩn thời bấy giờ.
Ngoài ra, Tố Tâm được tiếp xúc với báo chí, được giao tiếp với bạn bè khác giới. Còn
với Đạm Thủy, châu Âu dường như đã trở thành một bộ phận học vấn của chàng. Mỗi
lần đến chơi, Đạm Thủy hay đem những ý tưởng tân học mà giảng cho người thương,
thường hay đàm luận cùng nhau về văn chương và thế sự. Chính sự mới mẻ này, tính
chất phi truyền thống này là nguyên nhân của việc đôi trai gái vượt ra ngoài khuôn khổ
của chuẩn mực đạo đức tông pháp, tự cho phép mình có thái độ tự do hơn đối với tình
yêu. Tố Tâm vì cảm thơ văn của Đạm Thủy mà đã yêu chàng từ lúc còn “chưa biết
người biết mặt”, yêu bởi “tâm tình tự nhiên”, “biết yêu là yêu”.
Nhà phê bình Thiếu Sơn cho rằng Hoàng Ngọc Phách đã “cắt đứt thẳng thừng
với cổ truyền” bởi vì, nhà văn đã miêu tả tình yêu của Tố Tâm và Đạm Thủy đối lập
hoàn toàn với quan niệm tình yêu và hôn nhân của giai cấp phong kiến. Tố Tâm đã
khẳng định ý thức cá nhân thông qua việc gìn giữ một tình yêu tự do và say đắm.
Chung thủy với mối tình không thể kết thúc bằng một cuộc hôn nhân, Tố Tâm đã bộc
lộ thái độ đi ngược với truyền thống. Tình yêu trong Tố Tâm là tình yêu thuần khiết,
không gắn với mục đích của hôn nhân phong kiến, yêu theo sự thôi thúc của nội tâm,
thuận theo nhu cầu tình cảm của đời sống con người. Họ yêu nhau vì sự rung động của
trái tim, vì hạnh phúc cá nhân, chứ không theo sự sắp đặt của cha mẹ. Họ không vì đạo
lý khô cứng mà ứng xử bất cận nhân tình với nguyện vọng của trái tim. Nhất là Tố
Tâm, nàng đã dũng cảm vứt bỏ lòng tự ái, bước qua thành kiến để thổ lộ tình yêu với
Đạm Thủy: “Lòng em yêu mến anh là thế mà em vẫn phải nén lòng một cách khổ sở.
Nhiều lần anh sơ ý để em hiểu rõ lòng anh, em tưởng như giá anh hở ra một câu thì em
vái anh mấy vái” (Tố Tâm, 2015, tr.75). Thế mà, chỉ vì mối lương duyên đã được định
trước cho Đạm Thủy, tình yêu của Tố Tâm bỗng trở thành “ái tình vô hi vọng”: “Nàng
107
vì yêu tôi mà không thể rời tôi, nàng cũng vì yêu tôi mà không chịu lấy tôi” (Tố Tâm,
2015, tr.89). Tố Tâm trở thành nạn nhân đáng thương, phải “chịu nỗi chua xót một
mình” của chế độ hôn nhân sắp đặt. Cưỡng lại tình thế đó là việc nằm ngoài khả năng
của nàng: “những chuyện đời dính dáng chung quanh anh, em không thể nghĩ đến”.
Song, không phải vì thế mà nàng từ bỏ, nàng quyết sống chết với tình yêu: “đã đem
lòng yêu anh thì em cứ biết yêu anh”, “về sau nữa em phó mặc khuôn thiêng” (Tố
Tâm, 2015, tr.76). So với Đạm Thủy, Tố Tâm nhất quán hơn trong việc bảo vệ tình
yêu của mình. Dù Đạm Thủy đã lấy hết tài ngôn luận rao giảng đạo đức, khuyên nàng
xuất giá, nàng cũng chỉ mỉm cười mà trả lời một câu vắn tắt nửa thực nửa đùa rằng:
“Em không muốn lấy chồng...” . Đạm Thủy thuyết giáo không xong, xoay qua nói
chuyện tình cảm, thì Tố Tâm khóc: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa”
(Tố Tâm, 2015, tr.91). Tố Tâm sau khi vâng lời mẹ, lấy một người mà mình không
yêu, nàng đã trở nên “vô hồn, làm gì hỏng nấy, nói xong lại quên, tiền cầm trong tay
mà kêu mất, áo để bên cạnh mà đi tìm”. Qua tình yêu của Đạm Thủy – Tố Tâm, Hoàng
Ngọc Phách đã biểu đạt một cái nhìn nghệ thuật về con người và cuộc sống, một quan
niệm nằm trong chiều sâu nhận thức thẩm mỹ của tác giả: Trái tim có lý lẽ riêng của
nó và tình yêu chân chính thì chẳng có chông gai nào ngăn trở được. Xây dựng nhân
vật Tố Tâm như là hiện thân của tình yêu say đắm, yêu Trọng Thủy với mối tình tri kỷ
của những người cùng sở thích và ý hướng, Hoàng Ngọc Phách đã thể hiện trọn vẹn
chân lý nghệ thuật mà ông đã khám phá ra: Tình yêu cao quý không chỉ vượt lên mọi
trắc trở, mà còn đòi hỏi sự hi sinh vô điều kiện cho người mình yêu. Nó tuyệt không
chấp nhận những toan tính vị kỷ của hôn nhân do gia đình sắp đặt. Với sự sáng tạo
nghệ thuật của người nghệ sĩ, Tố Tâm đã mang một giá trị tố cáo nằm ngoài ý muốn
chủ quan của tác giả. Nhà văn không ngờ mình đã viết nên một bản tình ca ngoài lễ
giáo, khiến cho độc giả nhận thấy cái sự khốc hại của nền luân lí trong xã hội nước nhà
và nhận thấy tác giả “đã đả phá giá trị cổ truyền”. Đành rằng, Tố Tâm chết chưa phải
do thế lực bên ngoài. Con người cá nhân trong truyện chưa nhận thức được kẻ thù của
mình đằng sau lớp sơn đạo đức nhân nghĩa, để đứng lên đòi tự do, nhưng ở Tố Tâm đã
có cái “mầm mống” sẽ phát triển thành Mai (Nửa chừng xuân), Loan (Đoạn tuyệt) của
TLVĐ sau này. Cái chết của Tố Tâm là một cách phản kháng tiêu cực nhưng nó mang
ý nghĩa tố cáo, làm cho người đọc thấy rõ tác hại của nền luân lý bảo thủ, từ đó cổ vũ
giới trẻ dấn thân vào con đường tự do, để tìm tình yêu, hạnh phúc của cuộc đời mình.
Thái độ của độc giả đối với Tố Tâm rất khác nhau: “Nam nữ thanh niên thì ca
108
ngợi nhưng các cụ già lại chê bai mạt sát. Hai thái độ trái ngược đó đều xuất phát từ một
nguyên nhân: tác giả khuyên răn thanh niên không nên đắm say vào ái tình nhưng thực
sự đã ca ngợi mối tình tự do, ngoài lễ giáo phong kiến giữa Tố Tâm và Đạm Thủy. Tố
Tâm và Đạm Thủy đã đấu tranh cho tình yêu tự do, cho yêu cầu giải phóng cá nhân của
chủ nghĩa nhân đạo vốn đã thành truyền thống trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX” [27, tr.31]. Với Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã phô diễn một
mối tình say đắm của đôi tài gái sắc trong giới thanh niên trí thức tiểu tư sản thành thị
đương thời. Dù biết Đạm Thủy đã yên bề gia thất, biết tình yêu của mình là vô vọng
nhưng Tố Tâm vẫn yêu Đạm Thủy bằng tất cả trái tim mình với một quan điểm yêu
đương rất mới mẻ: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa, mà cũng không muốn
yêu ai… Đã không yêu thì không lấy vì sợ làm phiền một người nam nhi nữa” (Tố Tâm,
2015, tr.235). Rõ ràng đây là một điểm mới so với quan điểm của giai cấp phong kiến
về vấn đề hôn nhân, gia đình. Tình cảm cao đẹp, không tính toán, vụ lợi của hai nhân vật
chính đã đem đến cho tình yêu một vẻ đẹp bất diệt. Cái chết của Tố Tâm có ý nghĩa tố
cáo tội ác của chế độ tông pháp và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đã tỏa chiết hạnh phúc
của con người cá nhân. Ngòi bút của Hoàng Ngọc Phách đã thành công trong việc phơi
bày bi kịch của hôn nhân phong kiến khi mà nó không được xây dựng trên cơ sở tình
yêu tự nguyện và sự đồng điệu về tâm hồn. Tác phẩm này vì thế khi xuất hiện đã gây ra
hiệu ứng xã hội mạnh mẽ, tạo nên một “hội chứng Tố Tâm”, thắp lên ngọn lửa nhiệt tình
trong trái tim của một thế hệ thanh niên khao khát đi tìm tự do cá nhân. Với ý nghĩa nói
trên, sự ra đời của Tố Tâm đáp ứng những đòi hỏi về tự do tình cảm, những khao khát về
hạnh phúc cá nhân đang âm ỉ trong lòng của cả một xã hội đang chuyển dần sang lối
sống văn minh hiện đại. Thời điểm Tố Tâm ra đời, trong xã hội đang diễn ra cuộc đấu
tranh gay gắt giữa hai khuynh hướng tiến bộ và bảo thủ, giữa lối sống của lớp trí thức thị
dân ngày càng Tây phương hoá với lối sống phong kiến cổ truyền. Bên cạnh đối tượng
độc giả là những nhà nho bảo thủ, những người thấy ở Tố Tâm cái nguy cơ phá vỡ sự
yên ổn của nề nếp cũ đã lên tiếng phản đối tác phẩm, cho rằng cuốn sách đã làm cho bao
thiếu nữ con nhà phải dẫn đến bước hồ Tây trẫm mình. Thì một thế hệ bạn đọc đông
đảo, trẻ trung hơn lại bênh vực Tố Tâm, bởi họ nhìn thấy ở cái chết của Tố Tâm, không
phải dấu hiệu tuyệt vọng, chán chường mà là lời hiệu triệu thức tỉnh. Tình yêu trong
sáng, lãng mạn, với tất cả đam mê của con người cá nhân trong Tố Tâm, lần đầu tiên
xuất hiện giữa văn đàn, đã làm thổn thức bao trái tim của tầng lớp thanh niên trong xã
hội lúc bấy giờ. Rất nhiều bạn đọc đã coi Tố Tâm là sách gối đầu giường, vì họ tìm thấy
109
ở tác phẩm, khuynh hướng tư tưởng mới phù hợp với yêu cầu về đời sống tinh thần của
xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX sau khi đón nhận luồng gió văn minh từ phương Tây
thổi tới. Giải phóng cá tính, tự do trong tình yêu và hôn nhân đang là nhu cầu bức thiết
của giới trẻ, những người đang cảm thấy ngột ngạt trong vòng vây của bức tường luân lý
bảo thủ. Trong bối cảnh đó, độc giả nhận thấy tác phẩm đang nói hộ mong muốn của họ:
đấu tranh cho tình yêu tự do, cho yêu cầu giải phóng cá nhân, đây cũng là một biểu hiện
của chủ nghĩa nhân đạo, được thể hiện rõ nét trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII,
đầu thế kỷ XIX.
Sự mâu thuẫn giữa chủ đích sáng tác của Hoàng Ngọc Phách và ý nghĩa tiến bộ
của tình yêu trong tác phẩm suy cho cùng là do tính giao thời của tác phẩm quy định.
Vấn đề giải phóng cá nhân của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học đã có từ trước nhưng
phải đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách mới trở thành nhu cầu cấp bách của toàn xã
hội, có điều kiện để biến thành cuộc đấu tranh với thế lực phong kiến bảo thủ. Con
người cá nhân trong tác phẩm dù chưa hoàn toàn thoát khỏi quan niệm con người đạo lý,
nhưng đã cất lên tiếng nói tố cáo sự khô cứng của luân lý phong kiến, đi ngược với
quyền lợi chính đáng của con người. Dù chưa phải là cuộc xung đột trực diện, phần
thắng vẫn nghiêng về thế lực bảo thủ, song cái chết của Tố Tâm đã mang ý nghĩa thức
tỉnh tinh thần phản kháng, đấu tranh, giải phóng con người thoát khỏi xiềng xích của
giáo điều xưa cũ. Gần 10 năm sau, sự ra đời của một thế hệ thanh niên trí thức mới trong
tiểu thuyết TLVĐ, đấu tranh chống phong kiến, đòi tự do cho con người cá nhân một
cách triệt để, đã khởi đi từ Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách.
4.2. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong sáng tác của Nhất Linh và
Khái Hưng
4.2.1. Văn minh phương Tây và sự hình thành lối sống đô thị của con người cá
nhân tư sản
Đầu thế kỷ XX, Xã hội Việt Nam với những biến động lớn về kinh tế, chính trị,
văn hoá, cùng với sự hiện diện của môi trường đô thị đã làm xuất hiện con người cá
nhân mang màu sắc phương Tây. Quá trình đô thị hóa, tư sản hóa đã dần dần hình
thành nên lối sống tư sản. Không giống đô thị kiểu phương Đông thời trung đại chỉ là
thủ phủ về chính trị và văn hóa, cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã hình
thành ở nước ta nhiều đô thị kiểu tư bản chủ nghĩa. Các đô thị kiểu mới này không chỉ
là trung tâm văn hóa, chính trị, mà còn là nơi tập trung của hệ thống nhà máy, xí
nghiệp, trường học, nhà hát, cửa hiệu, bến xe, bến cảng, các trung tâm giải trí, trụ sở
110
các công ty tư bản… tạo ra một môi trường sống hấp dẫn, nhiều cơ hội kiếm sống
nhưng cũng rất phức tạp và nhiều cạm bẫy. Giai cấp tiểu tư sản thành thị hình thành
ngay sau đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất, song song với sự phát triển của các
thành phố lớn và sự tăng cường bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến. Một
tầng lớp trí thức xuất hiện bao gồm các luật khoa tiễn sĩ, cử nhân văn chương, cử nhân
khoa học tốt nghiệp ở Pháp về và hàng loạt các hoạc sinh các trường trung học, cao
đẳng sư phạm tốt nghiệp trong nước với thay đổi về tư tưởng tình cảm, quan điểm triết
học và thẩm mĩ mới… Giai cấp tư sản và những trí thức, viên chức cao cấp đã có một
cuộc sống Âu hóa ở thành thị. Nếp sống tư sản bắt đầu tấn công vào các gia đình
phong kiến và trung lưu thành thị. Sinh hoạt mới, tư tưởng tình cảm mới, quan điểm
thẩm mĩ mới.
Sống trong môi trường đô thị, dưới ảnh hưởng của giao lưu văn hóa Đông –
Tây, con người cá nhân tư sản dần dần hình thành nên lối sinh hoạt văn minh đô thị
với nhiều đổi thay so với nếp sống cổ truyền: “Đô thị là mảnh đất đầu tiên, ở đó những
yếu tố mới lạ từ phương Tây đổ bộ vào Việt Nam và xu hướng phương Tây hóa đã
khiến các đô thị Việt Nam vận hành theo hướng năng động và nhiều biến đổi. Những
gì tồn tại trước đó hàng ngàn năm bỗng chốc dễ trở nên hư nát và bị thay thế bởi
những thực thể hoàn toàn mới lạ nhưng đầy sức mạnh và quyến rũ (…) Nếp sống
truyền thống cũng như những bộ trang phục của đám thanh niên đô thị cũng theo đó
mà thay đổi” [27, tr.65]. Luồng gió văn minh từ phương Tây thổi tới đã tạo nên sự xóa
trộn trong đời sống xã hội Việt Nam đương thời nhưng đồng thời cũng hình thành nên
bảng giá trị mới, trong đó có sự hình thành những quan điểm thẩm mĩ mới liên quan
tới người phụ nữ như việc đề cao vẻ đẹp thân thể như một giá trị tự thân của con
người. Đây là một quan điểm thẩm mĩ mới đến từ phương Tây, hoàn toàn xa lạ với
quan điểm thẩm mĩ Nho giáo. Ở Việt Nam thời trung đại, thái độ sợ hãi, ngăn ngừa đối
với nữ sắc là sản phẩm của giáo dục Nho giáo. Họ có cái nhìn lạnh lẽo và khô cứng
đối với vấn đề nữ sắc và sự hấp dẫn của thân thể con người. Tinh thần khắc kỉ của Phật
giáo cũng đưa ra cái nhìn phủ định về sự tồn tại, quyến rũ, hấp dẫn của thể xác. Các tín
đồ của Phật giáo và Khổng giáo đều được răn dạy “vạn ác dâm vi thủ” vì thế cần tránh
xa dục vọng thân xác. Vì thế, xã hội Nho giáo luôn đề phòng và tránh xa nữ sắc. Họ
đem nữ dung đối lập với sắc, không chỉ trau chuốt, làm đỏm mà cả trang điểm phấn
son đều ở ngoài nữ dung. Trong chế độ chuyên chế, người có sắc đẹp thì phúc ít họa
nhiều bởi nữ sắc luôn có khả năng chuyển hóa thành nguy cơ cho chính bản thân
111
người mang nó, lẫn gia đình dòng họ, rộng hơn cho cả quốc gia, xã hội. Nhưng những
quan điểm này đã dần dần phai nhạt trong đời sống đô thị. Thanh niên nam nữ cũng
thay đổi theo quan điểm thẩm mĩ mới, tự chủ và cấp tiến trong việc tham gia vào nếp
sống văn minh đô thị. Họ bắt đầu chú ý đến vẻ đẹp hình thể và hình thức của trang
phục. Những hoạt động sinh hoạt hàng ngày của phụ nữ các nước văn minh như trang
điểm, nhảy đầm, luyện tập thể thao, tắm biển,… được khuyến khích đối với các chị em
thuộc tầng lớp trung lưu. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, các
cuộc thi sắc đẹp, hội chợ, chợ phiên được tổ chức thường niên. Từ năm 1931, các thiếu
nữ tân thời thích đường ngôi rẽ lệch, giày cao gót, áo màu, khăn san, thích trang điểm
và chơi thể thao. Từ khi quan tâm tới giá trị của hình thức, người ta bắt đầu nhận ra
tính ưa đẹp và hay trang điểm là đặc điểm của phụ nữ và nếu biết giới hạn, thì “chắc
rằng sự trang điểm là một tính rất hay và rất cần cho phụ nữ”, “trang điểm không
những không trái luật thiên nhiên, lại còn tỏ ra rằng mình biết trọng người và biết tự
quý mình” [22, tr.18].
Có thể nói lúc hệ tư tưởng tư sản xâm nhập vào Việt Nam, nhất là lúc phong
trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung dấy lên ở các thành thị, vấn đề con người cá nhân đã được
đặt ra một cách mạnh mẽ trong hàng loạt tác phẩm của các nhà văn lãng mạn mà
TLVĐ là một đại diện tiêu biểu. Là tổ chức văn học mang ý hướng xã hội, TLVĐ
dùng văn chương và báo chí để vận động cải cách xã hội theo tinh thần Tây phương.
Chịu ảnh hưởng của tinh thần tự do, dân quyền của các nhà tư tưởng đã làm nên cuộc
cách mạng tư sản Pháp năm 1789, TLVĐ xác định văn chương của họ là tiếng nói của
thị thành, trực diện tấn công vào đạo đức và lễ giáo phong kiến, phê phán những
phong tập tập quán lạc hậu, cổ hủ ở làng quê, cổ vũ cho đời sống mới. Chủ trương theo
mới, họ chú ý tới những phát minh trong đời sống thị dân, cổ động phụ nữ tham gia
hoạt động xã hội như thể thao, du lịch, cải cách y phục,… Để xây dựng quan niệm
mới về vẻ đẹp của người phụ nữ, chuyên mục “Phụ nữ” trên báo Ngày nay của TLVĐ,
suốt hai năm từ 1936 – 1937 dành để thông tin các vấn đề phụ nữ thường thức, đặc
biệt nhấn mạnh đến việc làm đẹp, việc luyện tập thể dục thể thao, và các kỹ năng cơ
bản của người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại. Vấn đề thân thể phụ nữ cũng được
thảo luận sôi nổi trên tờ Ngày nay bộ mới. Trong một bài viết ký tên Cô Duyên trên
chuyên mục Phụ nữ, tác giả đã đưa ra một định nghĩa hoàn toàn mới về vẻ đẹp của
người phụ nữ khi luận về “phái yếu”: “Bây giờ đàn bà phải đẹp một cách tươi tắn, phải
thướt tha một cách khỏe mạnh, thân phải có những nét rắn rỏi, đều đặn của sức khỏe,
112
mặt phải hồng hào. Đó mới là cái đẹp hoàn toàn, cái đẹp trẻ trung, nó làm cho người
đàn bà giữ được nhan sắc đến bốn mươi tuổi. Các chị thử giở bất cứ tờ báo nào của
phụ nữ Pháp mà xem. Trong đó có những hình dáng đẹp biết chừng nào, mà sắc sảo,
lanh lẹ biết chừng nào. Thực là những bài thơ về thân thể mỹ của đàn bà, của phái
không đáng gọi là yếu tí nào, mà chỉ đáng gọi là … phái đẹp” [22, tr.13]. TLVĐ cũng
khuyến khích phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội đầu tiên liên
quan đến phụ nữ của TLVĐ gây được tiếng vang lớn là phong trào cải cách y phục
phụ nữ. Trên báo Phong hóa số 85 (1934), TLVĐ mở chuyên mục “Vẻ đẹp riêng
tặng các bà các cô” do họa sỹ Lemur Cát Tường phụ trách giới thiệu lối áo dài cách
tân, về sau trở thành cơ sở cho áo dài truyền thống, được xem là một nét bản sắc
giới và văn hóa dân tộc. Y phục mới dành cho phụ nữ ngoài tính thẩm mỹ, còn phải
đảm bảo tính tiện dụng, hợp vệ sinh, dễ chế tác, vừa túi tiền và đặc biệt là tôn thêm
vẻ đẹp hình thể người phụ nữ. Y phục không chỉ xứng kỳ đức, nó còn là sự thể hiện
phương diện quốc gia: “Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể, song, nó có
thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ tri thức của một nước. Muốn biết
nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của nước họ, ta cũng
đủ hiểu” [22, tr.19]. TLVĐ, bên cạnh các hoạt động xã hội, với các sáng tác văn
chương của mình, đã đấu tranh cho tiến bộ xã hội trong khuôn khổ các hoạt động
hợp pháp dưới chế độ thực dân. Họ vận động hiện đại hóa đời sống xứ sở, tuyên
truyền cho văn minh, đô thị hóa, Âu hóa. Các tác phẩm văn chương của TLVĐ đã
đóng một vai trò to lớn trong việc đấu tranh cho quyền sống cá nhân, cho sự hài
hòa giữa con người tự nhiên và xã hội, chống lại triết lý khắc kỷ và chủ nghĩa diệt
dục của chế độ phong kiến. Vấn đề con người cá nhân trong tiểu thuyết TLVĐ gắn
liền với vấn đề đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ, giải phóng phụ nữ. Điều này
được thể hiện rõ trong tôn chỉ sáng tác của TLVĐ: chú ý làm cho người và xã hội
ngày một hơn lên (điều 2), trọng tự do cá nhân (điều 7) và làm cho người ta biết
rằng đạo Khổng không còn hợp thời nữa (điều 8).
Văn hóa phương Tây đã mang lại sự thay đổi trong quan niệm thẩm mĩ về cái
đẹp ở nước ta lúc bấy giờ. Bắt đầu từ TLVĐ, vẻ đẹp thể chất được xem là tiêu chuẩn để
đánh giá con người hoàn chỉnh. Lê Thị Dục Tú trong Quan niệm về con người trong tiểu
thuyết TLVĐ cho rằng: “vẻ đẹp thể chất là yếu tố của giá trị cá nhân”, “sắc đẹp tự thân là
một yếu tố của giá trị cá nhân”. Đề cao vẻ đẹp thể chất, phụ nữ được khuyến khích tham
gia phong trào thể dục thể thao để có thân thể khỏe mạnh. Trước đây, Nho giáo luôn giữ
113
khoảng cách với thân thể thì giờ đây vẻ đẹp thân thể, sắc đẹp được đề cao, được tôn vinh
từ các phương tiện truyền thông. Tinh thần đề cao cái đẹp thể chất của quan niệm thẩm
mĩ phương Tây đã ảnh hưởng sâu sắc và tạo nên ý thức coi trọng cái đẹp hình thức, cái
đẹp thể chất ở các nhân vật nữ của TLVĐ. Các nhân vật trong Đời mưa gió hiểu rất rõ
giá trị tự thân của sắc đẹp: “Có sắc đẹp mới có thể khiến kẻ giận mình tha thứ. Nếu
không thì van lơn cũng vô ích” và “sắc đẹp đã tàn phai, ngày xanh mòn mỏi thì còn đâu
là ái tình, họa chăng còn lại chút tình trắc ẩn với kẻ phiêu lưu khốn nạn” (Đời mưa gió,
2018, tr.170). Nỗi ân hận sâu sắc của Tuyết vì trót đến nhà Chương khi nhan sắc đã tàn
phai đã nói lên điều đó: “Nếu ta biết chàng yêu ta đến thế thì ta đừng đến nhà chàng có
hơn không! Chàng sẽ mãi mãi sống với hình ảnh không già của ta” (Đời mưa gió, 2018,
tr.116). Các nhà văn TLVĐ đã chú ý miêu tả vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ gắn với
trang điểm, phục sức và sự quyến rũ về mặt tính dục. Nhung trong Lạnh lùng không
phải là một thiếu phụ quê mùa, nàng biết trang điểm theo lối thành thị để làm đẹp cho
mình: “Nàng cầm quả bông chấm nhẹ lên hai gò má rồi cởi cúc áo cánh chấm dần xuống
cổ, xuống vai. Trên da lạnh nàng khoan khoái đưa đi đưa lại cái quả bông êm ấm, trước
mắt nàng bụi phấn thơm bay tỏa ra trong nắng và làm mờ bóng nàng trong gương”
(Lạnh lùng, 2006, tr.226). Ý thức sắc đẹp là một giá trị tự thân trong xã hội hiện đại, các
nhân vật trong tiểu thuyết Nhất Linh luôn chú ý làm đẹp cho mình không chỉ ở việc
luyện tập thể thao để có một thân hình khỏe mạnh, mà còn chú ý cách phục trang. Họ
bắt đầu chú ý đến trang phục và phụ kèm đi kèm như giày dép, mũ mấn, … để phô diễn
vẻ đẹp. Đối với phụ nữ tân thời, yếu tố hiện đại luôn được gia tăng để làm nổi bật vẻ đẹp
giàu sức sống của họ, phản ánh môi trường văn hóa đô thị mà họ đang sống. Nhan sắc
của các nàng thường được tôn lên bởi sự chăm chút của sự điểm trang, vẻ đẹp của
những đường nét cơ thể được nhấn mạnh và gây ấn tượng về sự năng động, sôi nổi, trẻ
trung. Các nhân vật nữ trong tiểu thuyết TLVĐ đã bắt đầu sống đời sống của cảm giác
thân thể nhiều hơn so với các nhân vật nữ trong văn học truyền thống. Loan, Nhung,
Tuyết, Hiền…, đều tự ý thức được giá trị của vẻ đẹp ngoại hình và tự hào về nhan sắc
của mình.
Vẻ đẹp của các “tân học nữ lưu” thường có sự kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại; vẻ đẹp truyền thống đã được tôn lên rất nhiều nhờ vào trang phục, son phấn
theo gu thẩm mĩ hiện đại của phương Tây. Thân thể của người phụ nữ cũng trở nên
quyến rũ hơn với sự săn chắc, nở nang nhờ tinh thần đề cao vẻ đẹp thể chất, một quan
niệm thẩm mĩ của phương Tây. Ở Gánh hàng hoa (Nhất Linh &Khái Hưng), khi
114
chồng bỏ ra đi với một gái giang hồ, Liên đã tìm cách để lấy lại lòng yêu của chồng
bằng cách nghe theo lời Văn, một người bạn của chồng, chịu ăn vận theo lối tân thời,
chịu đánh phấn, tô son. Các nhà văn TLVĐ không chỉ miêu tả vẻ đẹp thân thể một
cách trực diện mà còn có ý thức tô đậm những đường nét biểu hiện vẻ quyến rũ của
sắc dục ở người phụ nữ. Trước TLVĐ, có thể kể đến Truyện nàng Hà Hương (Lê
Hoằng Mưu) và Hà Hương hoa nguyệt (Nam Tùng Tử) là những truyện có miêu tả vẻ
đẹp nhục cảm của con người. Đến TLVĐ, những yếu tố này được xem là thiên tính tự
nhiên của con người cần được trân trọng. Người phụ nữ giờ đây không còn bị đóng
khung trong khuôn khổ “công, dung, ngôn, hạnh” khắc bạc của Khổng giáo, họ đã biết
cách phục sức, trang điểm theo lối mới, luyện tập thể thao để tôn thêm vẻ đẹp quyến rũ
của mình. Trong tiểu thuyết TLVĐ, sự quyến rũ của sắc đẹp và dục tính không còn bị
cấm kị và xem là tội lỗi, mà đã được thừa nhận như một yếu tố không thể thiếu của
tình yêu thời hiện đại: nó là sức cuốn hút đầu tiên để tình yêu lên tiếng, chứ không
phải tiếng nói của đức hạnh. Chương (Đời mưa gió) bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp đầy dục tính
của Tuyết, vẻ đẹp tươi mới, sành sỏi của một gái giang hồ, chứ không phải vẻ đẹp đức
hạnh theo tiêu chuẩn lễ giáo phong kiến của Thu. Đó là vẻ đẹp của “Cặp môi bôi sáp
hình trái tim nhách một nụ cười làm hai lúm đồng tiền ở hai bên má mơn mởn như
tuyết trái đào Lạng Sơn hồng mới hái” (Đời mưa gió, 2018, tr.74). Trước sắc đẹp mê
hồn của Tuyết, Chương đã mất hết “tinh thần tự trị”, không đủ nghị lực xua đuổi Tuyết
hoặc thấy mình không có quyền xua đuổi nàng, chàng để tình yêu chiếm đoạt trái tim
một cách không ngờ, mặc cho “ái tình nhục dục lôi kéo đi, chàng như mê man không
kịp suy xét” (Đời mưa gió, 2018, tr.81). Quan niệm mới mẻ, khoáng đạt về vấn đề thân
thể trong tiểu thuyết của các nhà văn TLVĐ là sự phủ định quan niệm coi khinh thân
thể, “bỉ thể xác” của đạo đức phong kiến, tạo ra cái nhìn toàn diện và nhân văn trong
cách đánh giá về con người. Ngòi bút của các nhà văn TLVĐ đã miêu tả một cách trực
diện, sinh động và mang ý nghĩa nhân văn trong việc tôn trọng phần tự nhiên – bản
năng của con người. Từ Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng tới Đời mưa gió là sự
thống nhất trong việc thể hiện hình ảnh người phụ nữ với quan niệm thẩm mĩ mới: đẹp
gắn liền với khỏe, với nghệ thuật trang điểm và phục sức; sự quyến rũ của nhan sắc và
dục tính cũng như đức hạnh đều là những giá trị tự thân. Quan niệm thẩm mỹ mới này
không chỉ mang lại sức hấp dẫn và tôn thêm giá trị của người phụ nữ, mà còn góp
phần khẳng định vị thế bình đẳng giữa phụ nữ với nam giới.
115
4.2.2. Giải nhị phân thân/tâm và quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của
người phụ nữ
Khái niệm nhị phân được dùng cho bất cứ một lý thuyết nào xác định sự phân
ly không thể thu hẹp được giữa hai loại sự vật. Sự vận hành của những cặp nhị phân
được thiết lập theo nguyên tắc chính/phụ như: văn hóa/bản năng, lý trí/điên rồ, nam
tính/nữ tính, tinh thần/thể xác... Từ sự phân chia này Plumwood cho rằng các thuật
ngữ bên trái được hình thành để tạo thành một thế trung tâm, trong khi các thuật ngữ
bên phải bị loại trừ. Sự xuất hiện và trật tự trước sau của những cặp nhị phân này hàm
chứa những tương quan quyền lực giữa cái chiếm ưu thế và cái yếu thế bị trấn áp, giữa
trung tâm và ngoại biên. Yếu tố đứng trước được coi trọng hơn yếu tố đứng sau, phụ
nữ thì luôn thấp kém hơn so với đàn ông. Logic này dẫn đến sự thống trị của nam giới
đối với với nữ giới: phụ nữ bị chiếm đoạt và nô dịch bởi đàn ông. Đàn ông bao giờ
cũng là nhân tố tiên phong, có vai trò dẫn dắt, chỉ đạo và áp đặt lên mọi hoạt động của
nữ giới. Sự phân chia thế giới theo quan điểm nhị nguyên xuất phát từ phương Tây
nhưng đã trở thành diễn ngôn chủ đạo trên thế giới, nó biện minh cho vị thế thống trị
của nam giới đối với nữ giới mà chúng ta gọi đó là chủ nghĩa nam quyền. Chính sự
phân cấp thế giới mang tính nhị nguyên là nguyên nhân của sự thống trị và áp đặt của
đàn ông đối với phụ nữ.
Mối quan hệ thân /tâm (body/soul), theo quan điểm triết học truyền thống, đó là
sự đối lập nhị nguyên giữa cái tự nhiên (nature) và cái văn hóa (culture). Lịch sử tư
tưởng của phương Đông lẫn phương Tây trong một thời gian dài đều coi thân thể chỉ là
nhục thể, là cội nguồn của dục vọng, là nơi tối tăm mà ánh sáng của lý trí không thể
rọi tới được. Tư tưởng Nho, Phật, Lão đều giống nhau ở chỗ coi nhẹ “thân” mà đề cao
“tâm”. Cho nên suốt thời kì dài, đối với phụ nữ, việc để lộ thân thể bị cấm đoán, bị
xem là ô nhục. Trong hệ tiêu chí tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh” dành riêng cho phụ
nữ theo quan niệm Nho giáo, thì “dung” nhấn mạnh vào vẻ đẹp đoan trang, hợp giáo
lý, khác với vẻ đẹp phồn thực của thân xác trong văn hóa dân gian. Thời cổ đại, văn
hóa bản địa trên nền tảng văn minh nông nghiệp lúa nước trọng sự sinh sôi nảy nở, con
người với vẻ đẹp phồn thực, tự nhiên, lành mạnh được coi trọng. Dần dần sự ảnh
hưởng của văn hóa Hán và tư tưởng Nho, Phật, Đạo ngày càng sâu đậm dẫn đến việc
đề cao con người đạo đức, luân lý: nhân – trí – dũng, con người tâm linh: tinh – khí –
thần. Quan niệm đề cao con người tinh thần hơn con người vật chất khiến thân xác trở
thành khía cạnh tự nhiên cần được khắc phục và chế ngự. Theo đó, những diễn ngôn
116
về tâm được đề cao, diễn ngôn về thân trở thành bên lề. Người quân tử với trọng trách
“tu thân, tề gia, trị quốc”, phải vượt qua những cám dỗ về lạc thú vật chất, sẵn sàng hy
sinh thân thể lúc cần thiết để bảo vệ các tín điều Nho giáo, xem việc “trăm thân phơi
ngoài nội cỏ, nghìn xác gói trong da ngựa” là chuyện nhẹ tựa lông hồng. Trên con
đường “khắc kỷ, phục lễ, vi nhân” của người quân tử thì những cám dỗ về vật chất, lạc
thú, ái tình đều phải hi sinh cho các giá trị đạo đức. Người phụ nữ muốn bảo vệ nhân
phẩm của mình đôi khi phải hy sinh thân xác theo phương châm “chết đói là việc nhỏ,
thất tiết là việc lớn”. Dưới sự cấm kỵ của văn hóa Nho giáo, các sáng tác đề cao vẻ đẹp
của thân thể, sức sống mãnh liệt của đời sống tự nhiên nơi con người trong văn học
trung đại, mà tiêu biểu là các sáng tác của Hồ Xuân Hương đều phải ngụy trang dưới
hình thức đố tục giảng thanh, lấp lửng đa nghĩa. Thế nhưng ở phương Tây, triết học
thời kỳ Ánh sáng đã quan tâm đến nhu cầu vật chất, sinh học của con người; trân
trọng, ngợi ca và coi đó là giá trị cần được bảo vệ. Bắt đầu từ Nietzsche, mối quan hệ
thân/tâm đã được xem xét lại: “Con người khác nhau bắt đầu từ thân thể, thân thể là
chủ thể, còn tinh thần là công cụ của chủ thể. Các nhà triết học tiếp sau như M.
Heidegger, M. Foucault, R. Barthes,… đều tán thành và phát triển quan niệm của
Nietzsche, tạo thành bước ngoặt về thân thể, coi nhẹ tính chủ thể ý thức của con người
mà coi trọng tồn tại của thân thể, xem đó như là trung tâm tồn tại của con người trong
xã hội. Thân thể là chủ thể tri nhận về thế giới, là cội nguồn của tri giác về thế giới, là
trung tâm mọi quy hoạch, tổ chức xã hội. Chính trị là sự khống chế thân thể. Thân thể
vừa là công cụ vừa là chủ thể để con người cảm thấy được sự tồn tại của mình. Thân
thể được hiểu như là sản phẩm của tự nhiên, của văn hóa, của y học, của xã hội, chính
trị, của sự tiêu dùng” [99, tr.124]. Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần dân
chủ và những tri thức khoa học của phương Tây được truyền bá vào Việt Nam đã làm
thay đổi quan niệm về con người. Nhờ sự ra đời của một loạt khái niệm khoa học về
con người như sinh lý học, tâm lý học, cảm giác, tri giác, mà các trí thức Việt Nam lần
đầu tiên biết đến quan niệm con người sinh vật học, xem con người là một thực thể
tổng hòa giữa tự nhiên và xã hội, bản năng và văn hóa, thân và tâm. Về cặp nhị phân
thân/tâm, qua các công trình như Discipline and Punish: The Birth of the Prison (Kỉ
luật và trừng phạt: sự ra đời của nhà tù) và The History of Sexuality (Lịch sử tính dục),
M. Foucault đã cho thấy rằng thân không hề là sản phẩm của tự nhiên và nó không hề
vô can với tâm. Việc đối xử với thân như thế nào sẽ tạo những đặc điểm của tâm như
thế ấy. Thân thể (body) tạo ra chủ thể bằng những thói quen và khuôn hình của nó,
117
bằng diện mạo, bằng ngôn ngữ của nó, bằng việc nó được đối xử như thế nào.
Cái thân chịu sự điều chỉnh (disciplined body) là tiền đề logic cho chủ thể tính. Như
thế, chính những phương thức đối xử với thân là cơ sở trực tiếp để cấu thành nên
những đặc điểm của tâm. M. Foucault hướng sự chú ý tới các thực hành (practices),
các diễn ngôn (discourses) và các công nghệ (technologies) mà qua đó quyền lực để
lại dấu ấn trên thân thể con người. Câu “Trông mặt mà bắt hình dong” mang ý nghĩa
rằng thân thể thế nào thì tâm hồn thế ấy. Một thân thể bị cầm tù thì tâm hồn cũng bệnh
tật, ốm yếu. Thân thể con người vừa là một bộ phận của tự nhiên, một chủ thể của
những diễn trình tự nhiên như tăng trưởng, suy nhược và lão hóa, đói khát và đau ốm,
kinh nguyệt và thai nghén. Mặt khác, thân thể con người cũng là một khách thể văn
hóa với vẻ bề ngoài, vị thế và hành động của nó được định hình bởi văn hóa. Trong
quá khứ, cái nhìn nam quyền chi phối mạnh mẽ khiến người phụ nữ bị trói buộc trong
sự phân chia giữa sự vẹn nguyên, cao quý của trinh tiết, phẩm tiết và sự vấy bẩn của
thân xác. Giữa bổn phận và khoái lạc, họ được yêu cầu hy sinh khoái lạc.
Văn hóa, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng truyền thống, con
người luôn được khuyên phải “tu thân”, khuôn bản thân mình vào con đường “khắc
kỷ, phục lễ” để trở thành quân tử. Nho giáo nhìn con người chủ yếu ở bản năng cần
được giáo hóa: “Trung nhân chi tình hữu dư tắc xỉ, bất túc tắc kiệm, vô cấm tắc dâm,
vô độ tắc thất, túng dục tắc bại. Cố ẩm thực hữu lượng, y phục hữu tiết, cung thất hữu
độ, súc tụ hữu số, xa khí hữu hạn, dĩ phòng loạn chi nguyên dã” (cái tình của người
thường (trung nhân): hễ có thừa thì xa xỉ, không đủ thì dè sẻn, không ngăn cấm thì
dâm đãng, không khéo tiết độ thì sai lầm, buông thả lòng dục thì hư hỏng. Cho nên:
ẩm thực phải có hạn lượng, y phục phải có tiết chế, cửa nhà phải có pháp độ, súc tụ
phải chừng mực, xe cộ đồ dùng phải có ngữ, có hạn. Như thế chính là đề phòng cái
nguồn loạn vậy) [123, tr.92]. Nhà nho phải tuân theo định hướng “khắc kỷ phục lễ”,
“an bần lạc đạo”. Điều răn dành cho các đế vương, quân tử là “chớ mê thanh sắc và ưa
dâm dục” vì đa phần các “hôn quân” trong lịch sử đều bị gắn với sự buông thả thái quá
trong hành lạc. Người phụ nữ bị quy trách nhiệm về việc đã gắn bó với các hôn quân
đó vì thế phải luôn đề phòng, cảnh giác với các trang tuyệt thế giai nhân mà nhà nho
gọi là “vưu vật”. Vợ chồng lấy nhau là để thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình, ăn ở
theo nghĩa, đối đãi theo lễ, “tương kính như tân” (kính nhau như khách), chứ không
phải yêu nhau say đắm. Trên con đường giáo hóa để thành quân tử, thân thể và vấn đề
tính dục của con người là đối tượng bị áp chế, bị đẩy vào góc khuất và trở thành đề tài
118
cấm kỵ trong đời sống văn hóa, văn học. Với quan niệm như thế, văn học truyền thống
thường chú trọng miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của con người hơn là vẻ đẹp thân thể: “Cái
nết đánh chết cái đẹp”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Con người chủ yếu được miêu tả
dưới góc nhìn đạo lý. Tuy vậy, vấn đề tính dục và con người tự nhiên không phải hoàn
toàn vắng bóng trong văn học. Nó đã xuất hiện từ sớm trong văn học trung đại với
Truyền kỳ mạn lục, Truyền kì tân phả, Hoa viên kỳ ngộ và truyện Song tinh. Song ở
các tác phẩm này, tính dục như một phương diện tự nhiên của đời sống con người vẫn
là một đề tài bị cấm kỵ và bị phê phán trong những lời răn dạy và giáo huấn. Một cách
kín đáo, sự lên tiếng của tính dục tiếp tục được đề cập đến trong các sáng tác của Đặng
Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Với 3 kiểu phụ nữ gồm
chinh phụ, cung nữ và kỹ nữ trong ba tác phẩm Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn),
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) và Truyện Kiều (Nguyễn Du), các nhà nho –
người đàn ông đã cất tiếng nói bênh vực nữ quyền. Những tác phẩm đã nói lên khát
vọng về tình yêu lứa đôi mang đậm màu sắc nhục thể. Trong xã hội nam quyền, nơi
mà người phụ nữ được khuyến khích cam chịu, an phận thủ thường thì “tiếng nói của
một nhà thơ nữ như Hồ Xuân Hương đề cập đến quyền sống phụ nữ xét về đời sống
bản năng có ý nghĩa bênh vực nữ quyền thực sự. Bởi vì so với nam giới, người phụ nữ
chịu nhiều bất công, thiệt thòi nhất trong đời sống bản năng” [135, tr.200]. Đến đầu
thế kỷ XX, theo nhà nghiên cứu Trần Văn Toàn trong văn xuôi nghệ thuật giao thời,
vấn đề tính dục và sự thức tỉnh về con người tự nhiên đã được thể hiện tập trung trong
Người bán ngọc của Lê Hoằng Mưu và Hà Hương phong nguyệt của Hồ Biểu Chánh.
Trong Người bán ngọc, tình yêu của hai nhân vật chính trong tác phẩm tuy không diễn
ra theo cách được lễ giáo thừa nhận nhưng đối với tấm chân tình của họ cũng nên được
nhận sự cảm thông. Tác phẩm đã bộc lộ rõ quan điểm của Lê Hoằng Mưu: rung động
trước vẻ đẹp thân xác là một thiên tính tự nhiên của con người và vì thế cần được cảm
thông. Đến Hồ Biểu Chánh, “người ta nhận thấy rằng sự bao dung trước vấn đề tính
dục ở ngòi bút thiên về đạo lí như ông cho thấy con người tự nhiên đã dành được chỗ
đứng hợp thức trong văn xuôi nghệ thuật giao thời. Điều này đã góp phần đáng kể
trong việc tạo ra cái nhìn dân chủ hóa về con người trong văn học từ đầu thế kỷ đến
1945” [123, tr. 123 – 125]. Những dục vọng thân xác của nhân vật trong tác phẩm Hồ
Biểu Chánh được thể hiện như một sự thật không thể chối cãi: “Hồ Biểu Chánh tuy có
dề cao đạo lí Khổng giáo trong các tác phẩm của mình, nhưng ông cũng công nhận
một thực tại khó chối cãi là sự thèm muốn trần tục của thân xác con người. Khuynh
119
hướng kiềm chế dục vọng của thế kỷ XIX đã bị phá tan trong các tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh” [3, tr.135]. Tuy vậy, vấn đề này vẫn không phải là hiện tượng diễn ra phổ
biến trong tất cả các cây bút văn xuôi nghệ thuật đầu thế kỷ XX. Không chỉ ở Hoàng
Ngọc Phách, mà ngay cả các nhà văn TLVĐ với những tác phẩm như Hồn bướm mơ
tiên (1933), Nửa chừng xuân (1933), Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt (1935) đều có sự e
dè nhất định đối với vấn đề tính dục mang tính chất nhạy cảm này. Chúng ta thấy rằng
vẻ đẹp của Tố Tâm (Tố Tâm), và những vai nữ chính như Liên (Gánh hàng hoa), Mai
(Nửa chừng xuân), Loan (Đoạn tuyệt) vẫn tiếp tục được miêu tả nghiêng về vẻ đẹp
phẩm chất, tinh thần truyền thống, tình yêu của họ hoàn toàn thiếu vắng cảm giác nhục
thể. Về sau, do ảnh hưởng của phong trào nữ quyền trên thế giới ngày càng mạnh mẽ,
khuynh hướng hiện đại hóa dân tộc theo con đường Âu hóa ngày càng rõ nét hơn, các
nhà văn TLVĐ đã kiến tạo bản sắc nữ tính mới với việc phá bỏ cái nhìn nhị nguyên
thân/tâm, khẳng định vẻ đẹp thân thể là một giá trị tự thân và người phụ nữ có quyền
sống đời sống thân xác bình đẳng như nam giới. So với nam giới, người phụ nữ chịu
nhiều bất công, thiệt thòi hơn trong đời sống bản năng. Xuất phát từ điều này, nhà nữ
quyền hiện sinh Simon Beauvoir trong Giới tính thứ hai cho rằng ở phương diện tình
dục, để trở thành một cá nhân hoàn toàn và bình đẳng với nam giới thì người nữ phải
được tiếp cận với thế giới nam giống như người nam tiếp cận với thế giới nữ. Bởi
không có thứ gì trên đời này là xấu xa từ trong bản chất, bao gồm cả bản năng tính dục
của chúng ta. Tình dục là điều tốt lành và tự nhiên, nó chỉ nguy hiểm ở khả năng kiểm
soát, chúng ta có thể hủy hoại cuộc đời mình nếu quá đắm chìm vào sắc dục.
Vẻ đẹp thân thể của Hiền trong Trống mái quả thực luôn được Khái Hưng miêu
tả theo hướng xác lập vị thế bình đẳng của người phụ nữ trong trong tương quan với
nam giới. Trong tác phẩm, Hiền nhiều lần phát ngôn trực tiếp về quyền bình đẳng này:
“Hiền liếc thấy một bọn người Pháp nhìn mình bằng ánh mắt khen ngợi, thèm muốn,
ganh tỵ nữa, nàng thầm nghĩ: Muốn bình đẳng, phải đồng đẳng. Mà trước hết cần nhất
phải đồng đẳng về thân thể” (Trống mái, 2010, tr.12). Điều này giải thích vì sao ngay từ
đầu, Khái Hưng đã miêu tả Hiền trong vẻ đẹp của một thứ cây non đang bồng bột lớn,
chứa đầy nhựa buổi đầu xuân: “một tấm nhan sắc hoạt động hùng tráng, thanh khiết, trái
ngược với thứ nhan sắc nhu nhược ủy mị, kín đáo, biểu hiện của dục tính” (Trống mái,
2010, tr.9). Lần đầu tiên, người phụ nữ trong văn học được ca ngợi bởi vẻ đẹp phản
truyền thống, một vẻ đẹp có nguồn gốc từ văn hóa phương Tây. Cái nhìn khoa học về
con người trong sự hài hòa giữa thể chất và tinh thần của phương Tây đã giúp cho người
120
trẻ tuổi nhận thức được rằng một tinh thần minh mẫn chỉ có được trong một thân thể
tráng kiện chớ không thể ngược lại. Nhờ đó, họ biết quý trọng thân thể, chăm sóc hình
hài, chuộng sức khỏe, biết thẩm định giá trị của cái đẹp hình thể. Thân thể nở nang, cân
đối của Hiền là kết quả của quá trình luyện tập thể thao: “nàng đưa tay nắm cặp đùi chắc
nịch và xoa bộ ngực nở nang khoan khoái, sung sướng thở ra một hơi dài. Cử chỉ ấy
nhắc nàng nhớ đến tập thể thao” (Trống mái, 2010, tr.9). Ngòi bút tả thực của tác giả đi
sâu miêu tả từng chi tiết trên cơ thể người thiếu nữ: “Tuy miếng kính phản chiếu không
được rõ ràng tấm thân đầy đặn, cân đối của nàng, nàng cũng ngắm thấy đường lưng
thẳng, nét ngực phồng và cái bụng thon thon. Kết quả ấy nàng đã tốn nhiều công phu
lắm mới có được” (Trống mái, 2010, tr.9). Tác giả nhiều lần đặc tả vẻ nổi bật của “tấm
thân” trên bãi biển: “Nhờ kiểu áo tắm tối tân ăn khít vào tấm thân luyện tập, Hiền nổi
hẳn trong đám người ở bãi biển khiến ai gặp nàng cũng dừng bước tò mò nhìn” (Trống
mái, 2010, tr.12). Các bộ phân cơ thể nhạy cảm như “thân”, “đùi”, “ngực” trong những
trường hợp này không thiên về biểu hiện của bản năng, của dục tính mà chủ yếu để nhấn
mạnh sự săn chắc, vẻ đẹp thể thao: “Những vạt áo và ống quần lụa đồng màu cốm non,
gió thổi ép vào thân thể làm nổi hẳn bộ nực nở nang và hai cái đùi tròn của Hiền”
(Trống mái, 2010, tr.18). Vẻ đẹp thể thao của Hiền được nhấn mạnh như một biểu tượng
về sức mạnh, nó giúp xóa bỏ định kiến đàn ông mạnh mẽ - đàn bà yếu đuối đã tồn tại
trong xã hội suốt một thời gian dài. Và như thế quyền bình đẳng nam nữ được xác lập!
Vẻ đẹp ấy nhắc nhở Lưu, bạn của Hiền, phải suy nghĩ xã hơn đến vấn đề xã hội, đến sự
xóa bỏ tư tưởng nam quyền: “Ngắm họ, chàng nhận thấy có sự liên hệ của tấm thân dịu
dàng uyển chuyển với cái sức mạnh của sự luyện tập công phu. Và chàng hiểu rằng thời
nay không còn là thời chia hẳn ra bên đàn ông là mạnh mẽ, và bên đàn bà là yếu đuối
nữa” (Trống mái, 2010, tr.69). Thậm chí, nhìn hai người bạn gái, chàng tự hỏi: “Họ với
mình, ai thuộc phái mạnh và ai thuộc phái yếu” (Trống mái, 2010, tr.69). Sự thừa nhận
này của Lưu có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức lại quan niệm về thân thể,
nguồn gốc của bất bình đẳng giới. Chính ý thức hệ nam quyền đã tạo ra định kiến đàn
ông mạnh mẽ, đàn bà yếu đuối; đàn ông gắn liền với những thuộc tính siêu việt, đàn bà
thấp kém. Ý nghĩ thầm kín của Lưu đã thú nhận rằng, vị thế của phụ nữ ngày nay với
những đổi mới của xã hội đã hoàn toàn ngang hàng với nam giới. Vấn đề ấy hiện ra rõ
rệt trước mắt Lưu: “cái vấn đề mà trước kia chàng cho rằng chỉ có ở trong lý tưởng, vì
chàng mới đọc những lời bàn tán khô khan lờ mờ, kiểu cách đăng trên báo chí chứ
không bao giờ chịu hiểu đến một cách thiết thực như hôm nay” (Trống mái, 2010, tr.69).
121
Vượt qua mô hình nữ tính truyền thống, Hiền là sản phẩm của văn hóa phương
Tây. Nàng hiện thân cho vẻ đẹp thể hình và cá tính độc lập, mạnh mẽ. Với cánh mày
râu, Hiền chưa bao giờ xem mình là “kẻ yếu”, là đối tượng bị lựa chọn. Cho nên, ngược
với tính hễ nhắc đến đàn ông là đỏ mặt của Hồng, bạn nàng, Hiền dạn dĩ: “Từ nay mà
động nghe nói đến con trai hay đứng trước mặt đàn ông chị còn đỏ ửng cặp má lên thì
em xin tặng ngay một quả đấm móc vẹo quai hàm để nhắc chị điều đó” (Trống mái,
2010, tr.24). Hiền tuy chưa yêu Vọi nhưng đã nghĩ đến việc lấy Vọi, lấy người mình
thích vì Vọi có thân hình tuyệt mĩ và đời sống phóng khoáng, tự do. Hướng tới vẻ đẹp
thể chất cũng là lí do giải thích biệt nhãn của Hiền với Vọi. Hiền chụp hình Vọi trong tư
thế cởi trần, quần xắn cao! Và cẩn thận, nàng chụp một lúc hai lần cho chắc chắn, “Vì
thân thể anh đẹp lắm!” (Trống mái, 2010, tr.15). Thân thể của người đàn ông lần đầu
tiên trong văn học được tái hiện thông qua cái nhìn của người phụ nữ và việc chiêm
ngưỡng vẻ đẹp thân thể không còn là đặc quyền của nam giới. Đàn ông hay đàn bà đều
có quyền như nhau trong việc khẳng định và chiêm ngưỡng giá trị thân thể của mình và
người khác. Quan niệm “nam nữ hữu biệt” của giai cấp phong kiến đã trở nên lỗi thời
khi tác giả tả cảnh Hiền và Vọi thi bơi. Ở phương diện này, cái nhìn của Hiền hoàn toàn
đối lập với Lưu (nhân vật được khắc hoạ như một đại diện cho cái nhìn của đàn ông
trong thế giới trưởng giả, sách vở). Khi Lưu dùng tiếng Pháp nhận xét với mọi người về
Vọi như là một “con khỉ đột thuần thục của cô Hiền”, Hiền đã dùng tiếng pháp cãi lại:
“Con khỉ đột của tôi khoẻ đẹp hơn tất cả các anh” (Trống mái, 2010, tr.41). Và quả thực,
thân thể tráng kiện của Vọi thu hút toàn bộ tâm trí Hiền. Cả lúc đi ngủ, trong đầu nàng
vẫn hiện ra “cái thân thể của Vọi in lên nền trời trong xanh” (Trống mái, 2010, tr.36).
Cần phải nhắc lại ở đây: trong quan niệm của nam tính Đông Á thì vẻ đẹp thư sinh,
thanh nhã của người tải tử vốn đặc biệt được nhấn mạnh. Quan niệm này đã thực sự bị
tổn thương khi Hiền với cái nhìn ngưỡng mộ dành cho Vọi đã tỏ ra khinh thường cái ủy
mị, nhợt nhạt của Lưu và cả những thanh niên trí thức xung quanh nàng: “Nàng đem cái
đẹp nở nang của thân thể, cái sức mạnh đều đặn của gân cốt để đối địch với cái tinh thần
ủy mị, cái trí thức góp nhặt trong sách mà bọn trí thức mặt trắng không lúc nào quên
diễn giải khoe khoang” (Trống mái, 2010, tr.64).
Trống mái vừa phảng phất hình bóng của truyện cổ dân gian Trương Chi – Mỵ
Nương vừa có sự kết hợp với văn hóa phương Tây. Mô hình nữ tính ở Hiền mang màu
sắc phương Tây, đó là dấu hiệu của một dân tộc muốn thoát khỏi truyền thống để thay
đổi số phận của mình. Trong bài “Hình dung về người Pháp/ kiểu Pháp trên báo chí
122
Việt Nam trường hợp Tự lực văn đoàn”, tác giả Phùng Ngọc Kiên (2018) đã lưu ý về
bức tranh minh họa trên báo Phong Hóa về hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam với
lối sống mới, ảnh hưởng từ văn hóa Pháp: “Phong Hóa bộ mới thể hiện rất nhiều hình
ảnh theo lối Pháp, như một bức tranh minh họa mà chúng ta thấy trên số 18 với tiêu đề
“Chị em luyện vợt”. Bộ môn thể thao này đương nhiên là tới từ Pháp, nhưng quan
trọng hơn là cách thể hiện khá mới mẻ: hình ảnh một người phụ nữ cầm vợt “vùng
lên” và đè chân lên người đàn ông” [56; tr.333]. Dễ dàng nhận thấy đặc điểm tương
đồng nổi bật giữa nhân vật Hiền (Trống mái) của Khái Hưng với hình ảnh người phụ
nữ trong bức tranh minh họa được đề cập ở trên. Văn hóa phương Tây, vẻ đẹp hình
thể, vì thế, đã đem đến một không gian mới cho sự thức nhận về bình đẳng giới của
người phụ nữ. Dưới ảnh hưởng của phương Tây, vẻ đẹp thân thể đã trở thành một tiêu
chuẩn để đánh giá con người hoàn chỉnh của xã hội hiện đại. Thân thể không chỉ là
nhục thể, mà là vừa thân thể vừa là tâm hồn, là sự cảm nhận sâu sắc của tồn tại con
người. Thân thể có quyền được sống đời tự thân như nó vốn có mà không cần trở
thành vật hy sinh cho luân lý đạo đức của thánh hiền. Loan (Đoạn tuyệt) luôn có ý
thức khẳng định quyền làm chủ thân thể của mình: “Họ không thể hiểu được rằng em
có quyền tự lập của thân em…” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.103). Với Loan, quyền tự do
thân thể là quyền được sống một cách chính đáng của con người. Loan nghĩ: “Học
thức mình không kém gì Dũng sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập,
cường tráng can chi cứ quẩn quanh trong vòng gia đình yếu ớt, sống một đời nương
dựa vào người khác để quanh năm phải kình địch với những sự cổ hủ mà học thức của
mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh mới phù hợp với quan niệm
của mình” (Đoạn tuyệt, 2017, tr.28). Loan công khai bày tỏ một quan niệm sống hoàn
toàn mới mẻ của mình trước bạn bè khi bình luận về cái chế của cô Minh Nguyệt:
“việc gì mà phải hết hi vọng (…) không cho mình được sung sướng” (Đoạn tuyệt,
2017, tr.24). Thân thể bị hoàn cảnh hủy diệt, con người đánh mất nhân hình như trong
một số sáng tác của Nam Cao là sự kêu cứu của nhà văn trong một xã hội rạn nứt nhân
tính.
Phá bỏ cái nhìn nhị phân thân/tâm, giải phóng con người cá nhân khỏi quan
niệm con niệm con người đạo đức truyền thống, Lạnh lùng (Nhất Linh) đã đấu tranh
cho quyền được sống cuộc sống hài hòa giữa tinh thần và thể xác, quyền được yêu và
được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Nhung (Lạnh lùng) bị đặt vào một cuộc lựa
chọn: giữ tiết hạnh khả phong thờ chồng, đồng nghĩa với việc phải giam thân mình
123
trong vòng luân lý lạnh lẽo, sống cuộc đời góa bụa; hay đi theo tiếng gọi của tình yêu.
Khát vọng hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ đã khiến Nhung nhiều lần liều lĩnh
vượt qua những cấm kỵ của lễ giáo để sống theo một một quan điểm mới “đặt nhân
đạo lên trên luân thường”. Nàng cho phép mình “cảm động mãnh liệt trước Nghĩa”,
thấy “tâm hồn rạo rực”, “cảm giác dịu dàng, êm ái của người bắt đầu yêu”. Nàng thấy
rõ sự vô nghĩa của việc giam cầm thân xác của người đàn bà thủ tiết thờ chồng mỗi khi
nhớ đến cảm giác hạnh phúc khi được gặp Nghĩa. Tiếng gọi của sự ân ái vẫn có sức
mạnh hơn và lúc nào cũng tha thiết văng vẳng bên tai, mỗi lần nghĩ đến cái thú lẩn lút
tới nhà Nghĩa được gặp Nghĩa, nàng thấy hoa cả mắt, trong lòng rung động một cách
êm ái. Trong cuộc đấu tranh giữa giữ gìn bổn phận của người đàn bà góa với việc xây
dựng hạnh phúc với Nghĩa, Nhung ý thức được quyền của con người cá nhân, khi nàng
nói với mẹ: “Con có quyền đi lấy chồng” (Lạnh lùng, 2006, tr.150). Rồi đến lúc không
chịu khuất phục “sự đè nén khốc liệt của cái xã hội nhỏ quanh mình”, Nhung đã cho
phép mình trao thân cho Nghĩa, thậm chí nghĩ đến việc bỏ trốn cùng người tình. Tuy
vậy, kết thúc truyện, Nhung đã không trốn đi cùng Nghĩa khi nàng nhìn thấy mái tóc
bạc của người mẹ già dưới ánh trăng. Chính tình thương đối với người mẹ đẻ của
Nhung đã níu giữ nàng ở lại với gia đình phải thứ không phải thứ uy quyền khô cứng
của lễ giáo: “nàng nỡ nào làm tan một cảnh gia đình êm ấm như thế kia, làm náo động
đến cái cảnh già của cha mẹ nàng đầu tóc đã bạc phơ, chỉ còn mong sống được ngày
nào hay ngày ấy” (Lạnh lùng, 2006, tr.156). Thực ra, đây chính là sức mạnh của lễ
giáo phong kiến đã được nội tâm hoá trong con người của Nhung, chỉ có nó mới đủ
sức mạnh để bóp chết khát vọng bức phá khỏi vòng kìm hãm của luân lý phong kiến
để tìm kiếm hạnh phúc riêng của cuộc đời mình. Lạnh lùng là sự thất bại của tình yêu
tự do trước lễ giáo, là sự thất bại của thân trước những quy phạm đạo đức của văn hoá
phong kiến. Điểm mới của Nhất Linh ở tác phẩm này chính là ông đã biến sự phục
tùng lễ giáo của người phụ nữ trong gia đình phong kiến vốn được nhìn nhận như một
chân lý hiển nhiên thành một bi kịch não nùng. Điều này mang lại sự thức tỉnh về khát
vọng được sống một cách trọn vẹn đời sống hài hoà giữa thân xác và tâm hồn. Qua
Lạnh lùng, tác giả TLVĐ cũng đã cho người đọc thấy được cái nhìn nhân văn trong
quan niệm về người phụ nữ với quyền được sống của con người cá nhân: được sống
đời sống tự nhiên, được hưởng hạnh phúc đôi lứa là khát vọng thành thực nhất của con
người và cần được tôn trọng.
Suốt một thời kỳ dài, vai trò của người phụ nữ bị đóng khung trong phạm vi gia
124
đình, rộng hơn một chút là dòng tộc. Chế độ nam quyền khiến cho phụ nữ người phụ nữ
bị xếp vào vị trí thứ cấp so với nam giới. Nếu trong quá khứ, phụ nữ được xem là đại
diện cho thiên tính tự nhiên, bản năng, sự cám dỗ, là nguồn gốc gây ra tai họa cho sự
nghiệp “tu thân, tề gia, trị quốc” của người đàn ông; thì giờ đây, các nhân vật nữ của
TLVĐ như Hiền (Trống mái), Loan (Đoạn tuyệt) và Nhung (Lạnh lùng) đã đại diện cho
thế hệ “gái mới”, “tân học nữ lưu”, phát ngôn cho tinh thần dân chủ của thời đại. Nếu
như Loan (Đoạn tuyệt) là nạn nhân của chế độ phong kiến, được miêu tả trong mối xung
đột trực tiếp với lễ giáo phong kiến, thì Hiền (Trống mái) đại diện cho cái mới đang lên,
cho tinh thần nữ quyền của xã hội Việt Nam những năm 1930. Hiền đã khẳng định vị
thế bình đẳng của mình với nam giới qua vẻ đẹp thân thể, qua hành động xem người đàn
ông như là đối tượng để trải nghiệm và khám phá những cảm xúc cá nhân. Nhung (Lạnh
lùng) đã khiến người đọc thức tỉnh về quyền được sống hài hòa giữa tinh thần và thể xác
của con người cá nhân và thứ lễ giáo khắc bạc kìm hãm hạnh phúc của người phụ nữ
cần được loại bỏ.
Tiểu kết
Con đường của các nước nông nghiệp lạc hậu ở phương Đông trong đó có Việt
Nam đi lên hiện đại để hòa nhập với văn minh thế giới, tất yếu trải qua một quá trình
đô thị hóa. Đô thị hóa không chỉ xây dựng một nền công nghiệp mà còn phải xây dựng
cả một nền văn hóa, những cách sống, những mẫu người đô thị. Ảnh hưởng của văn
minh phương Tây đối với tầng lớp trung lưu đô thị ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã
tạo ra lối sống mới của con người cá nhân tư sản với điều kiện sinh hoạt vật chất và
tinh thần của phương Tây. Từ quan niệm tình yêu ngoài hôn nhân và người hồng nhan
tri kỷ ở Tản Đà, yêu theo tiếng gọi trái tim ở Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, đến sự
mở rộng cái nhìn về con người: hài hòa giữa thân và tâm, tinh thần và thể xác ở Nhất
Linh và Khái Hưng là sự kiến tạo một bản sắc nữ tính mới gắn với ý nghĩa giải phóng
con người cá nhân. Nhờ đó, chiều kích của con người trong văn xuôi nửa đầu thế kỷ
XX được mở rộng, đạt đến một tầm vóc mới so với văn học trung đại: Con người trở
nên chân thực, gần gũi hơn với diện mạo vốn có của nó trong cuộc sống đời thường.
125
CHƯƠNG 5
NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ MẶT TRÁI
CỦA HIỆN ĐẠI HOÁ/ÂU HOÁ TRONG SÁNG TÁC
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG VÀ NGUYÊN HỒNG
5.1. Những mặt trái của hiện đại hoá /Âu hoá dưới góc nhìn của trí thức Nho
giáo và trí thức Tây học
5.1.1. Mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá dưới góc nhìn của trí thức Nho giáo
Đầu thế kỷ XX, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp và nhanh chóng hiện
đại hóa theo mô hình phương Tây để hòa nhập với văn minh thế giới. Đây là sự kiện
phản ánh quy luật phát triển chung của xã hội loài người: chủ nghĩa tư bản phát triển
đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, những nước lạc hậu bị đế quốc xâm lược, biến thành
thuộc địa. Ở các nước thuộc địa xuất hiện xu hướng tư sản hóa, hiện đại hóa và hình
thành phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc. Việt Nam cũng nằm
trong sự phát triển chung đó. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã chuyển từ xã hội
phong kiến trung đại sang xã hội công nghiệp hóa, đô thị hóa; từ một xã hội phong
kiến phương Đông được quy chiếu bởi văn hóa Nho giáo sang mô hình xã hội hiện đại
của phương Tây với sự ảnh hưởng chủ yếu của văn hóa Pháp. Vì vậy, quá trình hiện
đại hóa, đô thị hóa này còn được gọi là “Âu hóa”: “Thực chất của hiện đại hóa trong
điều kiện lịch sử đầu thế kỷ XX chính là Âu hóa” [21, tr.141]. Hiện tượng này diễn ra
phổ biến với các quốc gia châu Á đi vào con đường Âu hóa với một trình độ văn minh
thấp. Theo sự vận động của lịch sử, muốn hay không muốn thì đây cũng là một bước
tiến bộ. Việt Nam muốn hòa nhập với xu thế phát triển của thế giới, không thể không
trải qua quá trình hiện đại hóa, Âu hóa. Dù quá trình hiện đại hóa đó diễn ra dưới sự
kiểm soát của chính quyền thực dân, song vẫn phải ghi nhận những thành quả cũng
như ảnh hưởng tiêu cực mà nó mang lại.
Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam – phương Tây cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,
chủ yếu trải qua 3 giai đoạn sau. Đầu tiên là giai đoạn chống đối: Thực dân Pháp mang
văn hoá của họ vào Việt Nam, dùng văn hoá để phục vụ cai trị; phương pháp đồng hoá
văn hoá diễn ra qua truyền bá tôn giáo, tư tưởng triết học, chính trị. Ban đầu dân bản
địa sẽ chống đối văn hoá của đế quốc bằng thái độ bài trừ. Tiếp theo là giai đoạn bắt
chước máy móc: Dân bản địa sẽ chạy theo những yếu tố văn hoá ngoại lai mà không
cần chọn lựa. Cuối cùng là giai đoạn sàng lọc: Dân bản địa sẽ phải chấp nhận cái gì,
126
loại bỏ cái gì, kết hợp yếu tố ngước ngoài với yếu tố bản địa. Giai đoạn 1930 – 1945
có thể xem là chặng cuối của giai đoạn bắt chước máy móc và bước đầu sàng lọc
những giá trị văn hoá ngoại lai để kết hợp với văn hoá bản địa. Trải qua giai đoạn này,
văn hoá Việt Nam sẽ thu được những thành tựu qua quá trình vượt gộp, nền văn hoá
với các giá trị mới ra đời thay thế cho các giá trị cũ không còn phù hợp, vừa mới mẻ
vừa giữ được bản sắc dân tộc. Trong tiếng Anh, theo Oxford advanced learner’
Dictionary, “Âu hoá” (Europeanize) được định nghĩa như sau: làm mất tính dân tộc và
phụ thuộc vào sự tác động của hệ thống các nước châu Âu (denationlize and subject (a
territory) to the supervision of agency of a European community of nations) hoặc làm
cho giống dân châu Âu ở khía cạnh văn hoá, đặc tính, hoặc tư tưởng (make
(continental) European in custums, character or ideas). Theo Từ điển tiếng Việt (1995),
“Âu hoá” có nghĩa là làm cho nó trở nên có tính chất châu Âu. Trong một số trường
hợp, người Việt vẫn dùng “phương Tây hoá” với nghĩa tương tự như “Âu hoá” cho cả
trường hợp bị ảnh hưởng bởi văn hoá Mỹ, dù nước Mỹ không nằm trong lãnh thổ châu
Âu nhưng cư dân châu Mỹ có nguồn gốc châu Âu. Trong quá trình xâm chiếm và khai
thác thuộc địa, văn hoá châu Âu ảnh hưởng và làm thay đổi diện mạo văn hoá của các
nước thuộc địa. Đó là nguồn gốc ra đời của từ “Âu hoá” hiểu theo nghĩa phổ biến nhất
trong ngôn ngữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Xét về mặt ảnh hưởng đối với
văn hoá bản địa, ở bất cứ quốc gia châu Á nào, Âu hoá cũng có hai mặt: tích cực và
tiêu cực. Việc tiếp biến văn hoá ngoại lai là động lực và cơ hội để đổi mới văn hoá bản
địa, khiến văn hoá bản địa phù hợp hơn, tiến bộ hơn với những thay đổi của lịch sử.
Nhưng mặt khác, nếu nền văn hoá bản địa không có nội lực chống lại sự hoà tan thì
bản sắc văn hoá dân tộc sẽ bị biến mất và bị văn hoá ngoại lai đồng hoá. Hiện tượng
Âu hoá xảy ra ở các nước thuộc địa, xét trường hợp Việt Nam cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Trong quá trình tiếp biến văn hoá Việt Nam – Phương Tây, hiện tượng Âu
hoá gây ra một số ảnh hưởng tiêu cực nếu chạy theo phương Tây một cách mù quáng
nhưng đồng thời nó cũng đem lại những ảnh hưởng tích cực cho văn hoá Việt Nam
như phát triển kinh tế, khoa học, văn hoá – nghệ thuật, giáo dục… Phong trào Âu hoá
diễn ra trên cả phương diện vật chất như những cách tân về trang phục, tiện nghi sinh
hoạt, các phương tiện vui chơi, giải trí,… và phương diện tinh thần ở sự thay đổi trong
tư tưởng và quan niệm sống như đề cao con người cá nhân, giải phóng phụ nữ, tự do
yêu đương,… góp phần xoá bỏ yếu tố phong kiến lạc hậu, thúc đẩy xã hội phát triển,
văn minh hơn. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, những yếu tố tiêu cực do phong
127
trào Âu hoá mang lại cho xã hội Việt Nam, đó là thói háo danh, sự coi trọng đồng tiền
khiến đạo đức con người bị xuống cấp, đi ngược lại các đạo lí truyền thống, các quan
hệ gia đình, quan hệ xã hội trở nên hỗn loạn. Tóm lại, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
dưới sự xâm lược của thực dân Pháp, Việt Nam đứng trước một thực tế bao gồm cả cả
cơ hội lẫn nguy cơ, thách thức: “Thực tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không chỉ là
thực tế mất nước, đấu tranh giành độc lập mà còn là thực tế tư sản hóa (kiểu chủ nghĩa
thực dân), thực tế thay cũ đổi mới trong mọi mặt đời sống” [52, tr.46].
Ở Việt Nam quá trình Âu hoá diễn ra không như một sự phát triển nội tại mà
chủ yếu từ bên ngoài áp vào. Bên cạnh chương trình khai thác thuộc địa mang tính quy
mô, thực dân Pháp cũng ban hành chính sách cai trị hà khắc đối với nhân dân thuộc
địa. Trong khi thi hành chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa để vơ vét lợi nhuận, họ
đã phổ biến một số cách thức sinh hoạt của xã hội tư sản. Hệ quả là cơ cấu xã hội Việt
Nam đã có những biến đổi sâu sắc: thành phố công nghiệp, đô thị ra đời; ý thức hệ tư
sản với các thang giá trị mới khiến diện mạo xã hội thay đổi rõ rệt. Giai cấp tư sản và
tiểu tư sản thành thị xuất hiện với tư tưởng tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ mới được hình
thành. Ý thức hệ phong kiến với các giá trị tinh thần của nó với những đạo lý cương
thường không còn là “bùa hộ mệnh” cho ai nữa cả. Nên một thời gian dài đối với
người Việt Nam, chấp nhận hiện đại hóa/Âu hóa là chấp nhận hành động đồng hóa của
thực dân xâm lược. Hành động khai hóa của thực dân Pháp nhằm mục đích vụ lợi
nhưng được thể hiện dưới luận điệu khai sáng. Chính quyền thực dân đã xây dựng hệ
thống xí nghiệp, hầm mỏ, đường xá, cầu cống nhằm mục địch bóc lột kinh tế và trấn
áp quân sự, tư sản hóa trong lĩnh vực xã hội để đảm bảo tiện nghi sinh hoạt cho tầng
lớp thống trị. Tiếp xúc với văn hóa, văn minh phương Tây dẫn đến khát vọng Âu hóa
và điều có thực trong tầng lớp Tây học đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên con đường đến với
xã hội tư sản, trở thành một nước hùng cường chẳng dễ chút nào, nhất là đối với một
nước mà chế độ phong kiến lạc hậu kéo dài như Việt Nam. Không những thế cái gọi là
văn minh, khai hóa mà thực dân Pháp thực hiện ở Việt Nam, trong nhiều trường hợp,
chỉ là những mỹ từ che đậy, biện hộ cho chính sách vơ vét, khai thác thuộc địa của
mẫu quốc. Điều này giải thích tại sao, song hành với những giá trị tích cực của hiện
đại hoá là những mặt trái của chủ nghĩa vật chất và lối sống tư sản ngày một trở nên
đậm nét, đặc biệt là trong môi trường đô thị. Cơ cấu kinh tế xã hội có nhiều thay đổi
dẫn đến sự ra đời của nhiều ngành nghề mới với nhiều kiểu, người hạng người khác
nhau. Tất cả đua chen, cạnh tranh trên con đường làm giàu, mua quan bán tước, mua
128
danh kiếm lợi để có cuộc sống giàu sang, thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ vật chất khoái
lạc khiến cho xã hội càng trở nên náo loạn, xô bồ.
Quá trình hiện đại hoá/Âu hoá đã ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam về cả hai mặt
tích cực lẫn tiêu cực. Nhìn chung đã có một sự thay đổi lớn lao và sâu sắc trong đời
sống xã hội Việt Nam từ khi thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa. Chính sách
cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã dẫn đến “một phen thay đổi sơn hà”
không chỉ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn trên lĩnh vực văn hoá, xã hội. Nền
kinh tế sản xuất phong kiến biến đổi theo hướng tư sản hoá. Sản xuất hàng hoá phát
triển, giao thông được mở mang, hàng loạt các đô thị mọc lên khắp cả nước. Theo Đại
cương Lịch sử Việt Nam, chỉ trong vòng 8 năm, từ 1913 – 1921: “Dân số Hà Nội tăng
10.000 người, Sài Gòn tăng 33.000 người, Hải Phòng tăng 40.000. Cho đến năm 1928,
thành phố Nam Định đã có 35.000 dân, Hải Phòng có 98.000 dân, Hà Nội có 130.000
dân, Huế có 41.600 dân, Sài Gòn có 125.000 dân, Chợ Lớn có 192.000 dân” [32,
tr.17]. Cơ cấu kinh tế, chính trị xã hội thay đổi kéo theo những thay đổi trong đời sống
tư tưởng của con người: xung đột giữa cũ /mới, giữa các thế hệ, phương Đông /
phương Tây liên tục xảy ra buộc người Việt đứng giữa sự lựa chọn từ bỏ hay giữ lại,
phủ nhận hay tiếp thu. Trật tự xã hội trải qua một phen điên đảo. Nhưng cùng với thời
gian, những nhân tố mới của xã hội phương Tây hiện đại đã nảy sinh, dần dần trở nên
ổn định và thay thế cho nền nếp xưa. Cái phần luân thường đạo lý mà các thế hệ trước
dày công vun đắp đã phai lạt hẳn, người người đều quay cuồng kiếm tiền và khát khao
hưởng thụ. Các đô thị đông đúc không chỉ đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá mà còn thúc
đẩy sự ra đời của con người cá nhân. Văn hoá phương Tây đã thổi vào xã hội thuộc địa
luồng gió mới làm lung lay những “khuôn vàng thước ngọc”, làm tàn tạ những tín điều
thiêng liêng của kinh viện học phương Đông, làm đổ vỡ các quan hệ xã hội vốn được
coi là nền tảng vững chắc cho sự tồn tại của xã hội truyền thống. Hệ thống các giá trị
như “tam cương, ngũ thường”, các quan niệm nhân sinh, ý thức thẩm mỹ,… rơi vào
khủng hoảng và dần bị thay thế bởi hệ các thang giá trị, các quan niệm mới đến từ
phương Tây. Sự hưởng thụ vật chất được coi là quyền lợi tự nhiên. Cái ngon, cái đẹp,
cái tiện lợi trở nên hấp dẫn. Nền kinh tế hàng hoá gắn lối sống vật chất phương Tây
khiến con người trở nên thực dụng, lọc lừa, tàn nhẫn, đạo đức xã hội bại hoại, phong
hoá suy đồi. Đây chính là lí do khiến khái niệm văn minh/ Âu hoá bị hoài nghi và chất
vấn bởi những đại diện của nền văn hoá truyền thống mà Tản Đà là một trường hợp
điển hình. Một mặt Tản Đà là người ủng hộ xã hội Việt Nam tư sản hóa, mặt khác ông
129
lại vạch ra những tệ lậu xấu xa của một xã hội đầy áp bức, bất công ấy, trong đó con
người dễ dàng bị tha hóa bởi thế lực “thần tiền”.
Dù hơn nửa đời người sống trong môi trường đô thị, tập nhiễm trong mình
không ít những giá trị và lối sống của người thị dân, Tản Đà trước sau vẫn là một nhà
Nho. Chứng kiến cảnh tượng văn minh phương Tây tràn vào tấn công dữ dội vào gia
đình, cái tế bào của xã hội cũ, Tản Đà là người đầu tiên chống đối sự phá hoại đó.
Ông than thở đạo làm con đã mất, chê bai cảnh “Thế gian vợ vợ chồng chồng, không
ai lấy ai cả”. Ông phàn nàn phụ nữ vứt bỏ cái chức trách đối với gia đình, văn minh
phương Tây đã làm hủ bại các gia đình. Tự nhận là người “chân tâm với Nho học”,
ông viết Đài gương ca tụng những người đàn bà tiết liệt ngày xưa, hô hào khôi phục
lại nề nếp gia đình hiếu đễ tam tòng tứ đức “giữ được ngày nào hay ngày ấy” (Giấc
mộng con). Càng về sau khi phong trào Âu hóa phát triển mạnh ông càng chống đối
kịch liệt. Từ chủ trương “Người đàn ông quý ở tài mà cũng phải có đức, người đàn
bà quý ở đức mà không cần tài” (Nhàn tưởng), ông đi đến tuyên bố: gia đình là của
đàn ông; đàn bà chỉ nên là nội trợ, coi việc gia đình phải “theo ý kiến của người
chồng”. Như thế gia đình mới “có thể thống” và xã hội nhờ đó “mới văn minh”, “các
bà cứ là người cáng đáng trong gia đình… cũng đã là hạng người tốt trong xã hội”.
Đối với phong trào phụ nữ đòi tham gia công việc xã hội, đòi bình quyền bình đẳng,
ông có điểm thỏa hiệp cho rằng nhà nước có nhiều công việc bề bộn cần kíp, vì tiến
hóa “bất hiềm nam nữ”, “ai gánh vác được” đều “được việc với công chúng” nhưng
cũng không nên kể bình quyền bình đẳng làm chi. Đòi bình quyền bình đẳng là “kiến
thức tùy thời” là “đổi bổn tính của người Đông Dương” cho nên ông không nói là
hay hay dở nhưng chủ trương “không nên biến đổi một cách dữ mạnh quá” (Mấy lời
kính cáo bạn thanh niên, An Nam tạp chí, Số 8 - 1926).
Bảo vệ luân thường, bảo vệ gia đình đối với Tản Đà là việc linh thiêng, cho nên
trong phạm vi đó, người tài tử chịu lùi bước. Ông coi trọng đạo Hiếu, coi tam tòng tứ
đức là những cái “dẫu rằng đất đổ trời rơi cũng không bao giờ có thay đổi”. Dẫu xã hội
có tiến hóa thì cũng không có tổ chức lại về mặt đó. Văn minh phương Tây, với Tản
Đàn, quả thực là “một trận cuồng phong thổi tan cuốn sạch cái đạo nghĩa gia đình Á
Đông”. Ông nói điều đó với một tình cảm đau xót:
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc luân thường đảo ngược ru?
Cũng muốn “hỏi thăm Âu - Mỹ đâu bờ bến” nhưng càng ngày Tản Đà càng có
130
ác cảm với văn minh tư sản. Nếu một mặt Tản Đà nhận thấy cần có khoa học kỹ thuật
để cải thiện đời sống vật chất, thì mặt khác về tổ chức xã hội, ông lại muốn giữ đời
sống công xã như tư tưởng nước nhỏ dân ít trong Đạo đức kinh, là “đại đồng” trong Lễ
ký. Ông thỏa mãn về số phận, chán ngán trước trước cảnh nước nhà lạc hậu, muốn tiến
bộ văn minh, Tản Đà háo hức hướng theo duy tân để tìm cái mới nhưng tư tưởng Nho
gia về gia đình và tổ chức xã hội làm ông nhanh chóng thất vọng. Trước sự đổi thay
của đất nước theo hướng tư sản hóa, cảm xúc của ông là cảm xúc của nhà nho bảo thủ:
“Cho hay phong hội Âu là thế
Mà cái văn minh nó ở đâu?
Sơ hải hỡi ai người thệ ước
Gió hiu trăng lạnh, tiếng ve sầu”.
(Sơ thu hoài cảm, 1926).
Tản Đà viết Đàn bà Tàu (1919) dạy cho phụ nữ ý thức giữ gìn tiết hạnh theo
kiểu phong kiến. Tóm lại, sự tiếp xúc văn hoá Pháp – Việt đầu thế kỉ XX đã có những
tác động đáng kể trong đời văn hoá dân tộc. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới đang
diễn ra theo hướng khẳng định những truyền thống tốt đẹp và phê phán lối sống phương
Tây không phù hợp với dân tộc. Từ tinh thần tự tôn dân tộc, những đại diện tiên tiến của
trí thức Nho học, tiêu biểu như Tản Đà, đã phê phán thái độ thần phục mù quáng của lớp
trí thức bản địa mất gốc trước nền văn minh phương Tây qua việc chỉ ra những tai hại
của sự phai nhạt các giá trị đạo đức truyền thống.
5.1.2. Mặt trái của hiện đại hoá dưới góc nhìn của trí thức Tây học
Phong trào Âu hoá xuất hiện trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 như
là một trong những nội dung quan trọng nhất. Giai đoạn này, Việt Nam đã trải qua một
quá trình dài tiếp xúc với văn hoá phương Tây, đây là chặng cuối của quá trình tiếp biến
văn hoá do cưỡng bức, dấu ấn của giao lưu văn hoá Đông - Tây thể hiện khá rõ nét. Do
chính sách văn hoá mị dân của thực dân Pháp, một bộ phận dân thành thị Việt Nam rơi
vào lối sống suy đồi đạo đức nên Âu hoá không chỉ bị chất vấn, nghi ngờ từ các trí thức
truyền thống mà còn được đặt ra trong sáng tác của các nhà văn thuộc tầng lớp trí thức
Tây học như Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng. Chúng ta cũng cần lưu ý đây là những trí
thức Tây học xuất thân từ tầng lớp bình dân, khác với những trí thức Tây học ở tầng lớp
đặc tuyển của TLVĐ, vì thế họ nhạy cảm với những mặt trái do hiện đại hoá gây ra cho
những người ở tầng lớp dưới đáy xã hội. Quan điểm và cá tính sáng tạo của các nhà văn
này ảnh hưởng lớn đến việc phản ánh vấn đề Âu hoá trong sáng tác của họ. Đối với sự
131
tiếp nhận của một số nhà văn hiện thực như Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng…, thì hiện
đại hóa thường được miêu tả như là nguyên nhân gián tiếp đẩy con người vào con
đường bần cùng hóa, lưu manh hóa. Họ miêu tả đời sống ít nhiều theo hướng lên án hiện
đại hóa.
Trái ngược với các nhà văn lãng mạn của TLVĐ xem Âu hoá là phương tiện để
họ bộc lộ cái tôi và khát vọng giải phóng con người cá nhân, Vũ Trọng Phụng (1912-
1939) chủ yếu xem Âu hoá là các phong trào “Vui vẻ, trẻ trung” chạy theo phương
Tây một cách mù quáng. Chính sách “khai hoá văn minh”, nói theo kiểu hoa mỹ của
thực dân, là sự áp đặt bên ngoài vào chứ chưa phải là kết quả của sự lựa chọn bởi
chính dân tộc bản địa. Vũ Trọng Phụng đã nhìn thấy một cách sắc sảo sự phá hoại
những nền tảng truyền thống của việc học đòi văn minh phương Tây một cách hình
thức, hời hợt và mù quáng. Ông nhìn thấy sự phá vỡ tính thuần nhất của văn hoá Việt
Nam là thứ chủ nghĩa tự do quá trớn trong đạo đức của giai cấp tư sản. Cái thứ tự do
vô nguyên tắc vì học đòi ấy đã đẩy biết bao con gái nhà lành vào con đường sa ngã
như ông đã miêu tả trong các tác phẩm của mình. Ông lo sợ cho cái phần luân thường,
đạo lý mà các thế hệ đi trước dày công vun đắp đã phai lạt hẳn, nó dẫn tới tình trạng
hỗn loạn trong xã hội khi mà kẻ có học lẫn người vô học đều sống bằng lừa bịp, đểu
cáng. Xã hội Âu hoá trong mắt ông là một xã hội bát nháo, “chó đểu”. Vì vậy, Âu hoá
đã trở thành một chủ đề để mỉa mai, châm biếm đặc biệt sâu cay trong các tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng. Trong kiệt tác Số đỏ, Vũ Trọng Phụng không miêu tả sự đối đầu
giữa cái cũ và cái mới như trong sáng tác của TLVĐ, ông chỉ chú trọng phơi bày cái
rởm đời, cái lố bịch, cái hình thức của phong trào Âu hóa. Ngòi bút của nhà văn hướng
vào phanh phui các hiện tượng tiêu cực của đời sống đô thị, các tệ nạn xã hội, chỉ ra
mặt trái của hiện đại hóa đã làm tha hoá nhân cách con người. Đó là cái giá phải trả
cho sự chuyển đổi từ một hình thái xã hội ổn định nhưng lạc hậu, đói nghèo sang một
xã hội hiện đại, năng động và phát triển. Xã hội trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
được Nguyễn Đăng Mạnh trong Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện
đại, định nghĩa bằng một loạt từ bịp: Âu hóa bịp, cải cách bịp, thể thao bịp, tu hành
bịp, khoa học bịp, đốc tờ bịp, triết gia bịp. Sự phê phán Âu hóa rởm đã được khái quát
thành sự phê phán mọi lí thuyết và tư tưởng rởm trong truyện ngắn Lý thuyết và thực
hành. Bản chất của lí thuyết rởm đã đã được định nghĩa hết sức ngắn gọn: đó là “lí
thuyết ở cái lỗ mồm mà thôi”. Trong Số đỏ, tác giả đã châm biếm phong trào Âu hoá
rởm với nhiều chi tiết đặc sắc. Ví dụ như do khủng hoảng kinh tế, Chính phủ buộc Sở
132
cảnh sát phạt dân thành phố bốn vạn đồng, Sở cảnh sát trung ương chia cho Ty cảnh
sát chi nhánh phạt năm ngàn đồng, thế là màn bi hài kịch diễn ra với hai cái ngược đời:
a. Cảnh sát bảo vệ pháp luật mà lại đau khổ vì dân ta văn minh mất rồi, không ai chịu
đánh chửi nhau, không ai chịu phóng uế, đái bậy ra đường, tức là không ai chịu…
phạm luật; b. Thế là họ đành bóp đầu nghĩ ra một diệu kế: Cảnh sát phải nhè chính
mình ra mà phạt lẫn nhau để đủ tiền giao nộp cho đúng chỉ tiêu trên giao cho (Chương
3). Hay nhà cải cách y phục TYPN sáng chế đủ kiểu mốt lẳng lơ: Ngây thơ, Lưỡng lự,
Hãy chờ một phút, Ngừng tay, Lời hứa, Dậy thì, Chiếm lòng, Chinh phục, Kiên trinh,
Nữ quyền,… để cổ động mọi người cách tân và ăn mặc Âu hoá, thế mà khi bắt gặp vợ
mình ăn mặc tân thời thì bỗng nổi cơn lôi đình mắng vợ là đồ đĩ, đồ lãng mạn (Chương
5). Phóng sự Cạm bẫy người phơi bày nạn cờ gian bạc bịp ở Hà Nội, một tệ nạn được
xã hội dung túng để cho mặc sức tung hoành. Cùng bao nhiêu thứ hiểm hoạ khác, nó là
một thứ cạm bẫy làm nhiều người điêu đứng, tan cửa nát nhà, thân tàn ma dại và gây
ra những cảnh đồi phong bại tục. Phóng sự Cơm thầy cơm cô đã phanh phui thực trạng
đời sống của tầng lớp thượng lưu trong xã hội thị dân. Đó là thế giới của những ông
Thông, bà Phán, cậu chủ, ông Tham đức cao vọng trọng nhưng lại hiện nguyên hình
những chủ nhà keo bẩn, chó đểu, không ra con người. Đó là những kẻ bất thành nhân
dạng với ông Tham hiếp dâm con sen, gọi bố bằng thằng; ông thầu khoán chửi tiên sư
cha ông bố, cùng với đám con sen, thằng nhỏ lưu manh đủ loại.
Qua sự phê phán hiện tượng Âu hóa “ở cái lỗ mồm thôi” trong Số đỏ, cũng như
vạch ra các tệ nạn của xã hội tư sản, Vũ Trọng Phụng đã “phản biện” về mặt trái của
Âu hóa, hiện đại hoá theo mô hình đô thị phương Tây đang được áp vào xã hội Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX. Dưới góc nhìn của Vũ Trọng Phụng, xã hội Âu hoá Việt
Nam là một sản phẩm lai ghép bất thành giữa cái cũ lạc hậu và cái mới thiếu chọn lọc.
Thế giới nhân vật trong Số đỏ chính là kết quả của sự lai ghép thất bại đó. Tác phẩm là
sự châm biếm những thành tựu nửa mùa của phong trào Âu hóa, với tư cách đại diện
cho văn minh nhưng bản chất của nó chỉ sự lai căng một cách sáo rỗng và dị hợm.
Hiện đại hóa theo lối bắt chước, thiếu chọn lọc đã dẫn đến sự ra đời của một xã hội
nhố nhăng, kệch cỡm chưa từng có. Trong xã hội đó, bản chất của các sự vật hiện
tượng đều bị đánh tráo, thực và giả, chân và nguỵ, thượng vàng và hạ cám đều bị đánh
đồng: Người đàn bà dâm đãng được phong tặng danh hiệu “Tiết hạnh khả phong”, kẻ
đầu đường xó chợ được phong anh hùng cứu quốc, kẻ bịp bợm, dối trá thì vào Hội
Khai trí Tiến Đức, thuần phong mĩ tục là một thứ hòa trộn cả Tây, Tàu, Ta. Trong xã
133
hội đó, cái bịp bợm vừa đội lốt văn minh, vừa đội lốt bình dân. Vũ Trọng Phụng đã
miêu tả cả hai thế giới: thế giới của bình dân và thượng lưu trí thức. Cả hai thế giới đó
đều tạp nham, cái thì đánh mất cội nguồn, cái thì trên thực tế chỉ là những mảnh vụn,
những đổ vỡ, những rác thải của văn minh phương Tây du nhập vào Việt Nam. Một
cuộc bình dân hóa, đại chúng hóa các tri thức khoa học, văn hóa, nghệ thuật ở một xã
hội phong kiến thuộc địa đang bước vào con đường văn minh Âu hoá đã tạo ra một thế
giới hỗn loạn và bát nháo.
Với tác phẩm Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã phủ nhận toàn bộ xã hội thượng lưu
Hà Nội cùng với những hoạt động duy tân cải cách giả dối, bịp bợm của chúng. Tác
giả phơi bày mâu thuẫn của xã hội ấy chính là mâu thuẫn của bản chất thối nát bên
trong với hình thức hào nhoáng bên ngoài. Âu hoá thực chất chỉ là trò hề, từ phong
trào Vui vẻ trẻ trung, Cải cách y phục, Thể dục thể thao, Chấn hưng Phật giáo, Giải
phóng nữ quyền… cho đến ma chay cũng chỉ là sự diễn trò, bịp bợm của bọn no cơm
ấm cật. Tội ác của xã hội ấy là đã làm tha hoá đạo đức con người bằng sức mạnh của
đồng tiền và thế lực. Dưới sự thao túng của đồng tiền, con người trở nên vị kỉ, bất
lương, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một cụ già vô phúc lúc lâm chung, bị hai đứa con bỏ lơ,
lại bị chúng cậy miệng để lấy bộ răng vàng sau khi đã chia chút ít tài sản mà ông cụ để
lại (Bộ răng vàng). Một nhà danh hoạ chăm chỉ làm việc để cống hiến tiền bạc cho bà
vợ và hai cô con gái xinh đẹp nhưng lười biếng, đua đòi một cách đáng ghét. Họ chỉ
moi tiền của ông mà chẳng bao giờ biết yêu thương, chia sẻ cùng ông những sự nhọc
nhằn (Hồ sê líu, hồ líu sê sàng). Truyện Một cái chết phê phán hành vi độc ác của
người cai thợ, đã đánh đuổi một người ăn mày trong đêm mưa gió và con người bất
hạnh đó đã chết vì đói.
Giông tố (1937) phơi bày tội ác của tầng lớp tư bản trưởng giả trong một bức
tranh toàn cảnh về xã hội Âu hoá của Việt Nam thời Pháp thuộc. Trong xã hội đó, nổi
lên quy luật: những kẻ bất lương, vô sỉ thì giàu lên nhanh chóng; những người lương
thiện thì bị đè bẹp trong guồng máy xã hội lạnh lùng. Nghị Hách không tội ác nào
không nhúng tay vào để từ một cai thợ, trở thành nhà đại tư bản: lừa thầy phản bạn,
cướp đoạt ruộng đất của nông dân, hiếp dâm, giết người, thông dâm vợ người. Nhưng
phải chăng xã hội đang trên đường hiện đại hoá đó chỉ có mục nát và vô phương cứu
chữa như Vũ Trọng Phụng nhìn thấy? Hay thực ra nó vẫn đang vận động theo một
phương hướng đầy triển vọng mà chính ngòi bút của nhà văn cũng tham gia vào việc
phản ánh quá trình thay da đổi thịt đó – một việc nằm ngoài chủ ý của ông? Chúng ta
134
thử đọc lại tiểu đoạn đã dẫn ở trên nói về sự thay đổi mà các viên cảnh sát than phiền
là ngày nay người dân không ai “chịu phạm luật” để bị phạt cả để cho thấy điều này là
không đáng chê trách. Vì đó là sự thay đổi theo hướng tích cực, nó cho thấy nếp sống
đô thị đã ngày càng văn minh, sự phổ biến của pháp luật khiến người ta không thể
sống bừa bãi như trước nữa. Hay hãy thử đọc lại lời giảng giải của bà Văn Minh trong
Số đỏ về ý nghĩa của việc xuất hiện cửa hàng Âu hoá:
“- Thưa bà, chúng tôi chỉ tiến hoá theo luật tiến hoá chung của xã hội. Giữa buổi canh
tân này, cái gì là bảo thủ thì bị đào thải đi. Bà có biết rằng từ khi chúng tôi mở cửa
hiệu này ra, thì đã bao nhiêu người vợ được cứu vớt, tìm thấy lòng yêu của chồng, lại
được hưởng hạnh phúc gia đình rồi đó không?
- “Thưa bà những nguyên tắc về ý phục đã thay đổi. Chúng tôi mà có chế ra kiểu này
cũng là vì theo cái quan niệm y phục của các nhà thợ may lớn ở Tây phương. Quần áo
để tô điểm, để làm tăng sắc đẹp chứ không phải để che đậy” (Vũ Trọng Phụng, 2016,
tr.294).
Đặt trong ngữ cảnh của tác phẩm thì đây là những chi tiết châm biếm của Vũ
Trọng Phụng nhằm cười cợt lời lẽ sáo rỗng của những kẻ học đòi văn minh phương
Tây. Song nếu tách ra thành một đoạn văn độc lập, thì cả hai ý trên của bà Văn Minh
đều phù hợp với tính chất văn minh của trang phục. Có thể thấy dưới cái nhìn phê
phán của Vũ Trọng Phụng, cái mảng hiện thực xấu xa của đời sống đương thời đập
ngay vào mắt con người, ngược lại mảng hiện thực của đời sống mới với những thay
đổi tích cực có vẻ như nằm ngoài ý thức của ông.
Là trí thức Tây học nhưng chịu ảnh hưởng của văn hóa Khổng Mạnh, lại sống
giữa môi trường đẫy rẫy những cái giả dối, độc ác đã khiến Vũ Trọng Phụng ít cởi mở
với cái mới trên các phương diện đạo đức, xã hội. Ở Bản sắc hiện đại trong các tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng (2003), Vương Trí Nhàn lưu ý rằng hiện đại hoá ngay khi
mới bắt đầu đã không được người Việt Nam tiếp nhận tích cực, kẻ biết nhìn ra ý nghĩa
tiến bộ của nó rất ít do tâm lí ngại ngùng, sợ hãi, thù ghét cái mới. Sự bảo thủ ở Vũ
Trọng Phụng, theo ông suy cho cùng là nét bảo thủ ở khá nhiều người, kể cả những
người thuộc diện tinh hoa của xã hội [34]. Trong Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến 1945, nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền lý giải những yếu tố thuộc về cá nhân và
xã hội đã ảnh hưởng tới khuynh hướng sáng tác thiên về phơi bày mặt trái của xã hội
Âu hoá ở cây bút Vũ Trọng Phụng như sau: “Nhân loại bao quanh ông là tầng lớp
thượng lưu ăn chơi truỵ lạc, đểu cáng và bịp bợm, những vua thuốc lậu, me Tây với
135
những tiệm hút, sòng bạc, nhà săm (…) cùng với bọn cờ bạc bịp, dân nghiện, ma cô,
gái điếm, những con sen, thằng quýt (…) Tóm lại, những cảnh tượng, những con
người va đập vào mắt ông hằng ngày chỉ làm cho ông thấy mặt trái của xã hội, cái xấu
của con người. Ông căm phẫn bọn có tiền trâng tráo, chó đểu nhưng bất lực trước sự
lên ngôi của chúng (...) Chính sự giáo dục của lễ giáo phong kiến qua bà mẹ, là người
sống khuôn phép và mực thước, Vũ Trọng Phụng phản ứng gay gắt với lối sống Âu
hoá rởm đang diễn ra lúc bấy giờ” [94, tr.367]. Nhà văn không hề nuôi ảo tưởng đối
với việc Âu hóa ở Việt Nam theo cái cách mà chúng được rao giảng là đem lại ánh
sáng văn minh cho dân tộc thuộc địa bởi thế lực thực dân: “Cái hỗn loạn, xô bồ, quay
cuồng bát nháo của nó chính là hắt bóng của thế giới thực tại - thực tại xã hội Việt
Nam bị cưỡng ép Âu hóa. Bao nhiêu bi hài của nó cũng xuất phát từ đấy” [34, tr.330].
Vũ Trọng Phụng có thái độ phê phán kịch liệt đối với vấn đề Âu hóa, bởi ông nhìn
thấy những “di sản” tiêu cực của quá trình này và muốn gìn giữ những nếp sống truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Ông muốn chống lại thứ văn hoá bá quyền mà thực dân áp
vào xã hội Việt Nam, vì nó đã gạt bỏ những nề nếp của dân tộc và học đòi một cách
hình thức văn hóa phương Tây. Tuy sự phê phán của Vũ Trọng Phụng có đôi chỗ quá
khích, quá thiên về miêu tả trần trụi để chỉ chỉ trích, lên án. Song, Vũ Trọng Phụng đã
làm được thiên chức của một nhà văn, đó là “phản ánh được một phần, theo cái cách
riêng của mình, những phương diện cơ bản cùng là cái xu thế phát triển của thời đại”
[34, tr.150].
Nguyên Hồng (1918-1982) lớn lên trong xã hội thực dân phong kiến, năm 16
tuổi, đã phải lăn lội kiếm sống trong một môi trường phức tạp, va chạm với đủ hạng
người, làm đủ thứ nghề để tồn tại. Chính môi trường này đã bồi đắp cho ông kinh
nghiệm và hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ của những người thuộc lớp dưới đáy xã hội
thành thị, đặc biệt là của Hải Phòng. Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, thực
dân Pháp tăng cường bóc lột kinh tế thuộc địa để đáp ứng yêu cầu chiến tranh. Hậu quả
là đã làm cho đời sống của nhân dân thuộc địa vô cùng cực khổ, nông dân phải chịu
cảnh sưu cao thuế nặng, công nhân bị bóc lột nặng nề, phải lao động từ 12 – 14 tiếng
một ngày. Trong đó, có thể nói nông dân là người khốn đốn nhất bởi sưu cao thuế
nặng, nạn cho vay nặng lãi, các hủ tục và ách áp bức của quan lại địa chủ. Có thể hình
dung những tai hoạ mà người dân thuộc địa phải gánh chịu qua nạn thuế thân trong Tắt
đèn (Ngô Tất Tố), qua bi kịch của cô gái quê phải ra thành phố kiếm sống rồi bị lừa
gạt bởi những cạm bẫy của xã hội thị dân trong Bỉ vỏ (Nguyên Hồng), qua cái uất ức
136
của người nông dân vì bị chèn ép, áp bức của địa chủ trong Bước đường cùng (Nguyễn
Công Hoan), hay sự buồn chán vô vọng của người dân quê, chỉ còn chút mơ ước vào
tương lai trong truyện ngắn của Thạch Lam. Hàng vạn gia đình nông dân phải từ giã
luỹ tre làng, ra thành thị để “Thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt rốn của họ, đời họ
có thay đổi chút nào không” (Ngọn lửa). Nhưng rốt cuộc, cuộc sống đầy cạm bẫy của
môi trường đô thị lại tiếp tục đẩy họ vào tình cảnh bi đát hơn: “Ấy là những con người
dường như có một quan niệm sống tự do, phóng túng hơn khi rời bỏ quê hương để sinh
sống ở một thành phố mới xây dựng chưa có nề nếp ổn định. Ở đây, những người đàn
ông thường có lối sống phiêu bạt giang hồ và những người đàn bà thường rất tạo bạo,
tự do trong luyến ái và hôn nhân. Vốn là người tứ xứ gặp nhau, hầu hết đã lâm vào
cảnh cùng đường mạt lộ… hoàn cảnh ấy đã rèn đúc ở họ tính can đảm đến táo tợn,
thậm chí liều lĩnh nữa và dù nam hay nữ đều có nét anh hùng hảo hán” [69, tr.254-
255]. Nguyên Hồng đã phản ánh mặt trái của xã hội Việt Nam trên đường hiện đại hóa
qua số phận lầm than cơ cực của những người dưới đáy xã hội ở các đô thị lớn như
Nam Định, Hải phòng, Hà Nội. Nhân vật trong tác phẩm của ông đa phần là những
người lao động cùng khổ, đói rách, bê tha, đặc biệt là những người đàn bà bị đè nén
bởi những tệ nạn, những bất công xã hội trở nên tha hóa, biến chất, bị xô đẩy vào con
đường tội lỗi.
Bi kịch của người dân nghèo thành thị, sống dưới đáy xã hội đã trở thành đề tài
cho nhiều sáng tác của Nguyên Hồng trước năm 1945. Nhà văn đã miêu tả trực tiếp
quá trình những người nông dân bị phá sản, bị cướp đoạt ruộng đất, phải bỏ làng quê
ra thành phố và bị xô đẩy vào con đường bần cùng hoá, lưu manh hoá. Những cô gái
quê bị đày đọa bởi những hủ tục phong kiến đã bỏ làng ra tỉnh để rồi bị lừa bịp, bị biến
thành lưu manh, gái điếm (Tám Bính trong Bỉ vỏ), hoặc rơi vào tay bọn cờ bạc bịp và
buôn lậu (Muống trong Quán Nải). Họ thành một đám đông vô danh lang thang kiếm
ăn trong điều kiện sống hết sức khắc nghiệt, vô tình của những thành phố tư sản.
Nguyên Hồng không trực tiếp miêu tả những mâu thuẫn giai cấp của xã hội như Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, bằng lòng thương cảm sâu sắc đối với người dân nghèo
thành thị, ông đã phơi bày bi kịch nghèo đói và tha hóa của họ lên trang giấy, đồng
thời không đánh mất niềm tin vào khát vọng vươn tới cuộc đời mới của họ. Tuy chưa ý
thức rõ việc cần vạch mặt những chính sách mị dân giả dối, lừa bịp và tố cáo thủ đoạn
áp bức bóc lột của bè lũ thống trị nhưng ông đã chỉ ra được nguyên nhân trực tiếp của
những số phận bi đát đó chính là những tệ nạn xã hội, những áp bức bất công của xã
137
hội thị dân. Với cảm hứng phân tích xã hội, tác phẩm của ông đã phản ánh sự tác động
của môi trường đô thị hoá, hoàn cảnh sống lên những đối tượng dễ bị tổn thương nhất
trong xã hội, đó là những người lao động nghèo khổ, nhất là phụ nữ và trẻ em. Xã hội
đô thị là môi trường sản sinh ra cái xấu, cái ác, trong môi trường đó, con người dễ
dàng đánh mất mình, dần dần rơi vào con đường tha hóa. Ở tiểu thuyết TLVĐ, làng
quê là nơi an toàn để cho các nhân vật sau khi bị tổn thương, luôn muốn quay về để
được đón nhận và chữa lành. Ở sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng, sự gắn
bó với làng quê bị cắt đứt, nhân vật luôn phải vật lộn với những bi kịch ở thành phố
mà không có một nơi chốn để trở về. Theo Phan Cự Đệ, trước năm 1945, Nguyên
Hồng chưa ý rõ rệt sự bóc lột, cướp đoạt, lối sống lạnh lùng, bất cận nhân tình của
những thành phố kỹ nghệ tư sản. Nhưng ông đã miêu tả một cách trung thực, đau đớn
và dữ dội, quá trình bần cùng hóa và lưu manh hóa của dân nghèo thành thị. Ông xứng
đáng được gọi là nhà văn của phụ nữ và trẻ em thuộc tầng lớp bị áp bức bóc lột trong
xã hội cũ. Chủ nghĩa cảm thương ở Nguyên Hồng được kế thừa truyền thống nhân đạo
chủ nghĩa của nền văn học dân tộc.
5.2. Mô hình nữ tính suy đồi và tha hoá trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng,
Nguyên Hồng và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá
5.2.1. Sự suy đồi của người phụ nữ trong xã hội thượng lưu qua sáng tác của Vũ
Trọng Phụng
Các nhân vật nữ thuộc tầng lớp trên của Vũ Trọng Phụng luôn hướng tới lối
sống văn minh Âu hoá nhưng lại mang bản chất suy đồi. Dù được khoác bên ngoài bao
nhiêu mĩ từ đẹp đẽ của văn minh Âu hoá, thì Vũ Trọng Phụng vẫn nhìn người phụ nữ
của xã hội trưởng giả với cái nhìn hư hỏng từ trong bản chất. Nhà văn rất “có nghề”
trong việc bóc trần cái dâm, cái bịp bợm, rởm đời của các kiểu người trong phong trào
Âu hóa, không loại trừ đó là đại diện cho phái nữ. Các nhân vật nữ tiêu biểu của Vũ
Trọng Phụng trong Số đỏ (1938), có bà Phó Đoan, Tuyết, Hoàng Hôn; trong Làm đĩ,
có Huyền; trong Giông tố, có Mịch. Tất cả bọn họ nếu không mang trong mình sự lố
bịch, rởm đời, đạo đức giả thì cũng dâm bôn và tầm thường. Họ là sản phẩm của một
xã hội mà theo quan niệm của Vũ Trọng Phụng đó là môi trường tập hợp của những
cái ác, dâm và đểu. Vũ Trọng Phụng tuyên bố: “Xã hội này tôi chỉ thấy là khốn nạn:
Quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn … thợ thuyền bị lầm than
bóc lột” [34, tr.109]. Số đỏ tập trung phê phán xã hội tư sản, tầng lớp thượng lưu của
Hà Nội về phương diện đạo đức và lối sống, qua đó phủ nhận các phong trào văn minh
138
Âu hoá do chế độ thực dân cổ vũ ở Việt Nam. Đối tượng bị đả kích của Số đỏ là những
ông chủ, bà chủ với những hoạt động cải cách xã hội và phong trào Âu hoá giả dối, bịp
bợm, chỉ Âu hoá ở bề mặt hình thức. Những người phụ nữ trong Số đỏ như Bà Phó
Đoan, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết càng no cơm ấm cật thì càng dâm bôn và hư hỏng.
Trong đó, nổi bật lên chân dung bà Phó Đoan: “một bà trạc ngoại tứ tuần mà y phục
còn trai lơ hơn cả các thiếu nữ, mặt bự ra những son và phấn, tóc đen lay láy nhưng mà
quăn quăn, cả người nặng ít ra cũng hơn 70 cân, nhưng cái khăn vành dây đúng mốt
hết sức thì lại nhỏ xíu và ngắn ngủi có một mẩu, một tay cầm cái dù Nhật tí hon và
một cái ví da khổng lồ, tay kia ôm một con chó bé trông kì dị như một con kì lân, bước
xuống mặt đất một cách nặng nề vất vả” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tập 2, tr.260). Sự mô
tả từ y phục đến hành vi đều đưa lại ấn tượng về một người đàn bà lố lăng và rởm. Bản
chất hư hỏng, lại dở dang với hai đời chồng khiến bà dở dói ra bao nhiêu việc làm bại
hoại đạo đức gia phong: cứu Xuân tóc đỏ khi nó can tội nhìn trộm một cô đầm thay
váy; nóng lòng muốn làm bệnh nhân của một ông đốc tờ khi nghe kể ông này toan
hiếp dâm bệnh nhân; giở đủ ngón nghề để khêu gợi Xuân, “thỉnh thoảng vỗ vào bụng,
vào đùi bì bạch” rồi “nhìn qua lỗ koá xem động tĩnh ra sao”. Miêu tả sự suy đồi đạo
đức của các nhân vật nữ trong một xã hội dâm loạn trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng
muốn lật tẩy các phong trào vui vẻ trẻ trung do tầng lớp trưởng giả hô hào, dù có tô
son trát phấn đi chăng nữa, thực chất chỉ là một phong trào khiêu dâm và sa đọa.
Dưới ngòi bút phê phán của Vũ Trọng Phụng, các nhân vật nữ khi làm quen lối
sống hưởng thụ và tự do quá trớn của xã hội tư sản, thì rất dễ dàng rơi vào hố sâu của
nhục cảm, suy đồi đạo đức, tiêu biểu như Huyền trong Làm đĩ, Mịch trong Giông tố.
Thông qua sự sa ngã của Huyền và Mịch, tác giả muốn phô bày cho người đọc thấy rõ
hoàn cảnh của xã hội Âu hoá những năm 30 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho cái xấu,
cái ác phát triển và làm tha hoá phẩm chất đạo đức của con người. Viết Làm đĩ, Vũ
Trọng Phụng muốn lên án lối sống hưởng thụ, chỉ biết chạy theo vật dục của xã hội tư
sản; ông đòi hỏi con người phải được giáo dục chu đáo từ nhỏ để có sức vượt lên bản
năng thấp kém mà sống một cuộc đời có ý nghĩa lành mạnh, cao đẹp. Huyền là một
thiếu nữ thành thị, thông minh, xinh đẹp, con nhà lương thiện. Sự hư hỏng của Huyền
được giải thích bằng căn tính dâm: 8 tuổi đã tò mò về sự sinh đẻ, 9 tuổi: thực hành trò
chơi vợ chồng với bạn trai, 13 tuổi: xác thịt đã rạo rực lên, 15 - 16 tuổi: bị khủng hoảng
tinh thần phải chống đỡ bằng thủ dâm, rồi trượt dài trên con đường sa ngã. Hoàn cảnh
gia đình và xã hội đã tạo điều kiện cho Huyền đi sâu vào con đường truỵ lạc. Nếp sống
139
ăn chơi hưởng lạc với các phong trào giải trí từ văn hóa phương Tây như khiêu vũ, chợ
phiên, chụp ảnh,… đã lôi kéo người phụ nữ vào lối sống sa đọa, đứt gẫy với đạo đức
truyền thống. Nhà văn đã để cho chính nhân vật của mình, Tú Anh trong Giông tố, tố
cáo môi trường hiện đại hóa là thủ phạm xô đẩy con người vào con đường thương luân
bại lý: “Văn chương sách vở khiêu dâm, phim ảnh khiêu dâm, phòng khiêu vũ, nhà săm,
những quân phu xe bảo ông đi lấy sự trinh tiết của mọi hạng phụ nữ bằng năm đồng, ba
đồng, âm nhạc cũng khiêu dâm, những mốt y phục càng ngày càng khiêu dâm, nói tóm
lại thì bao nhiêu cái xô đẩy người ta vào vòng thương luân bại lý” (Vũ Trọng Phụng,
2016, tập 1, tr.291). Những yếu tố liên quan đến gia đình và xã hội đã tác động đến quá
trình hư hỏng của Huyền nhưng nguyên nhân chủ yếu khiến cho Huyền, từ một cô gái
thông minh, xinh đẹp trở thành một gái đĩ theo tác giả là vì Huyền không chống đỡ nổi
sức mạnh của dục vọng thấp hèn. Bên cạnh hoàn cảnh, yếu tố bản năng chính là nguyên
nhân chủ yếu đẩy Huyền vào vòng thương luân bại lí. Việc phân tích nguyên nhân gây
nên sự suy đồi đạo đức ở người phụ nữ như trên đã để lại dấu vết của chủ nghĩa tự nhiên
và lối viết luận đề ở ngòi bút Vũ Trọng Phụng.
Ở Giông tố, Mịch cũng bị hoàn cảnh đưa đẩy tới chỗ sa ngã giống như Huyền. Mịch là một cô gái quê trong trắng, chẳng may trở thành nạn nhân của một vụ cưỡng hiếp bỉ ổi. Trong xã hội đó, công lý không đứng về phía người yếu thế nên Mịch không những không được bảo vệ mà còn bị xúc phạm ghê gớm: “Con Mịch kia, mày là đứa hư nhé!... Trước pháp luật, việc mày làm như thế là một việc làm đĩ không môn bài. Vậy mày có muốn làm nhà thổ suốt đời không?” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tập 1, tr.212). Sau khi trở thành vợ lẽ của Nghị Hách, sự biến chất của Mịch diễn ra nhanh chóng và được tác giả giải thích bằng việc Mịch đã không chống đỡ nổi sự cám dỗ của dục vọng thấp hèn. Sau khi bị cái bả vật chất cám dỗ, Mịch chỉ còn là nô lệ của hoàn cảnh, của những dục vọng ích kỉ của chính mình. Cái hèn yếu của lòng người được nhà văn tuyệt đối hoá như một sức mạnh ghê gớm và tác động tới con người như một định mệnh. Mịch đã từ một gái quê ngây thơ, hiền lành, chất phác biến thành một thiếu phụ gian dâm, lãng mạn, xảo quyệt, đáng sợ vì lẽ đó. Dưới cái nhìn bi quan của Vũ Trọng Phụng, người đời không ai đáng yêu, không ai đáng trọng, không ai đáng khinh, tất cả chỉ đáng thương hại mà thôi. Tác giả đã tạo ra cái cớ để chứng minh sự tha hoá của Mịch là do hoàn cảnh: Mịch ngoại tình với Long vì vẫn còn yêu Long, Mịch phản bội Nghị Hách là để trả thù. Nhưng rõ ràng sự biến chất của Mịch được giải thích chủ yếu bằng niềm khao khát nhục dục một cách bệnh hoạn. Ông để cho Mịch nhớ lại lúc bị hiếp dâm “say sưa như người háu đói”, tưởng tượng ra những cảnh dâm dục ghê tởm hưởng với mọi kẻ qua
140
đường. Bản chất xã hội của nhân vật bị xoá mờ, Mịch chỉ được miêu tả như một ca tâm sinh lý để chứng minh cho quan điểm của Vũ Trọng Phụng: Đã là người thì ai cũng dâm và xã hội nhố nhăng lúc bấy giờ chỉ có thể sản sinh ra lớp phụ nữ dâm đãng như Mịch. Ở đây, ảnh hưởng thô bạo của chủ nghĩa tự nhiên ở ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã làm mất đi tính chân thực và ý nghĩa tích cực ban đầu của hình tượng Mịch. Qua bi kịch của Mịch, tác giả đã làm đảo lộn tất cả, lật tẩy tất cả để phơi bày bản chất của một xã hội bất công, tàn ác, đểu cáng, vô nghĩa lý của Việt Nam thời thuộc Pháp.
Các nhân vật nữ thượng lưu trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng thường mang căn tính dâm, bị đè bẹp bởi hoàn cảnh và bản năng sinh lí. Vũ Trọng Phụng nhiều lần phát biểu trực tiếp quan điểm của mình qua lời của nhân vật về vấn đề dâm của con người trong tác phẩm: “đã là người thì ai cũng dâm” (Giông tố); “Loài người là một lũ ăn cắp và hiếp dâm” (Giông tố), “đã là đàn bà thì ai cũng hư hỏng ráo, cũng đáng khinh đáng ghét hết” (Giông tố). Ông ném ra những nhận xét về tầng lớp thượng lưu trí thức: “Nếu không được chim chuột nhau tự do, không được ôm nhau mà nhảy, thì cái bọn người này không bao giờ lại nghĩ đến đồng bào bị lụt. Mỗi khi có một tai họa gì cho xã hội thì cái bọn đáng thương này lại có dịp thỏa thích để ăn, chơi và dâm” (Vỡ đê) hay ông khái quát về nghệ thuật của bọn họ: “Bao giờ cái nghệ thuật của bọn trưởng giả lại không có tính chất dâm ô một chút” (Vỡ đê). Theo Vũ Trọng Phụng, ông viết về cái dâm để cảnh tỉnh, chế ngự hậu quả của căn tính dâm đã trở nên phổ biến trong xã hội tư sản: tả cái dâm của tầng lớp trên để phê phán thói hưởng lạc, ích kỷ của giai cấp tư sản; tả cái dâm ở tuổi dậy thì của người con gái để đề xuất biện pháp giáo dục trẻ em trong hoàn cảnh tư tưởng tự do quá trớn của phương Tây xâm lấn lan tràn trong môi trường đô thị Việt Nam. Như vậy, các nhân vật nữ trung tâm của Vũ Trọng Phụng thường được xây dựng để phục vụ cho mục đích phê phán của ông về vấn đề Âu hóa/hiện đại hóa và nỗi lo âu cho sự suy đồi phong hóa của xã hội thực dân tiền tư bản chủ nghĩa. Nữ tính suy đồi là sự thể hiện quan điểm của Vũ Trọng Phụng, một trí thức Tây học thuộc tầng lớp bình dân, về vấn đề Âu hoá và những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong lòng xã hội thượng lưu tư sản. 5.2.2. Sự tha hoá của người phụ nữ dưới đáy xã hội trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng
Đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam chuyển động theo hướng hiện đại hoá/Âu hoá.
Sự chuyển biến đó một mặt là sản phẩm của quá trình thực dân hoá mà Pháp tiến hành
ở Việt Nam, mặt khác là kết quả của phong trào duy tân, ý chí của người Việt, dấy lên
từ năm 1905. Sau một thời kì dài lấy văn hoá Hán làm trung tâm, nhiều cánh cửa nối
Việt Nam với thế giới bên ngoài đã được khai mở. Tuy nhiên, hiện đại hoá/Âu hoá
141
cũng đem lại nhiều nguy cơ, thách thức đối với xã hội thuộc địa, trong đó sự phai lạt
của các giá trị truyền thống và sự xuống cấp của nền tảng đạo đức xã hội là điều khiến
các nhà trí thức bản địa không khỏi quan tâm, lo lắng. Quá trình đô thị hoá cùng với
chính sách cai trị của chính quyền thực dân dẫn tới sự phân hoá xã hội sâu sắc, sự phân
chia giàu – nghèo ngày càng rộng. Nổi lên như một hiện tượng có tính quy luật là sự
giàu lên nhanh chóng của tầng lớp trên, những người trung lưu và thượng lưu với
nhiều đặc quyền đặc lợi; những kẻ bất lương, vô sỉ làm giàu bằng mọi thủ đoạn; và sự
bế tắc, cùng đường mạt vận của lớp người thấp cổ bé họng, những người bị đè bẹp bởi
guồng máy xã hội lạnh lùng dựa trên sự thao túng của đồng tiền, thế lực. Các chính
sách về kinh tế, văn hoá, xã hội mà thực dân Pháp đề ra đã tác động không nhỏ đến đời
sống của dân bản địa, dẫn đến nhiều vấn đề mới nảy sinh. Dưới chế độ thực dân phong
kiến, không chỉ nông dân mà cả công nhân, thợ thuyền,… đều có đời sống khổ cực.
Trong đó, nông dân là đối tượng khốn đốn nhất bởi sưu cao thuế nặng, nạn cho vay
nặng lãi, nạn hủ tục, nạn áp bức của quan lại địa chủ. Có thể hình dung những tai hoạ
mà người dân thuộc địa phải gánh chịu qua nạn thuế thân trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố),
qua bi kịch của cô gái quê phải ra thành phố kiếm sống rồi bị lừa gạt bởi những cạm
bẫy của xã hội thị dân trong Bỉ vỏ (Nguyên Hồng), qua cái uất ức của người nông dân
vì bị chèn ép, áp bức của địa chủ trong Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), hay
sự buồn chán vô vọng của người dân quê, chỉ còn chút mơ ước vào tương lai trong
truyện ngắn của Thạch Lam.
Với tư cách nhà phóng sự, Vũ Trọng Phụng đặc biệt nhạy cảm với những tệ nạn,
mặt trái của xã hội thành thị. Ông là nhà văn của những kẻ cơm thầy cơm cô, kẻ cờ gian
bạc bịp, những người đàn bà lấy Tây. Sáng tác của Vũ Trọng Phụng cho thấy cả một xã
hội chạy theo đồng tiền gây ra nhiều hệ luỵ, nhẹ thì làm cho sự việc đổi trắng thay đen
(Người có quyền), nặng thì làm cho con người mất hết nhân tính (Bộ răng vàng). Trong
xã hội khi mà đồng tiền thao túng hết mọi ngóc ngách, kể cả phạm trù đạo đức, thì hôn
nhân cũng trở thành quan hệ mua bán và phụ nữ trở thành hàng hóa, nhân cách bị hạ
xuống cùng cực. Kỹ nghệ lấy Tây là một phóng sự xuất sắc của Vũ Trọng Phụng, điều
tra về cuộc sống của đám me Tây quanh trại lính lê dương vùng Thị Cầu, Bắc Ninh. Kết
quả điều tra cho thấy lấy Tây là một cái nghề, một kế sinh nhai, một kỹ nghệ thực thụ
của những người phụ nữ. Ở đó chỉ tồn tại quan hệ lạnh lùng của những cặp vợ chồng mà
“người đàn bà chỉ nghĩ đến tiền, người đàn ông chỉ nghĩ đến nhục dục”. Những người
đàn bà ấy không tránh khỏi số phận bi hài khi trót sa chân vào nghề me Tây, một nghề
142
buôn phấn bán hoa, làm đĩ mạt hạng, phục vụ tình dục cho quân đội viễn chinh. Các me
đều biết khai thác “vốn trời cho” của mình cũng như người ta khai thác một kỹ nghệ
kinh doanh để lấy lời, đôi khi để làm giàu nữa. Các me cũng phải biết “tuỳ giá tuỳ thời”,
còn xuân thì phải biết tích cóp tiền bạc phòng khi thân tàn ma dại. Họ đều khẳng định:
Chúng tôi lấy Tây là vì tiền chứ không phải vì tình. Cho nên việc lấy Tây của những phụ
nữ vong quốc là một “sự cực chẳng lành”, “một nghiệp chướng”, một tệ nạn của xã hội
thuộc địa, chứ không phải là sự lựa chọn của họ. Đằng sau cái kĩ nghệ đó là nỗi đau khổ
trăm bề của kiếp me Tây cùng số phận tủi hờn của những đứa con lai không tổ quốc. Họ
là hiện thân cho nỗi bi thương của dân tộc một thời nô lệ. Tuy cái nghề của họ đáng chê
trách, đáng giận nhưng cũng đáng được cảm thông.
Lục xì đưa ra những con số nhức nhối về thực trạng mại dâm ở Hà Nội với
47% binh lính Pháp ở Bắc kỳ mắc bệnh hoa liễu, 70% người bị mù, chột của Nam Kỳ
là do vi trùng bệnh lậu, 1/4 số trẻ sơ sinh chết yểu là do bố mẹ có bệnh giang mai. Phụ
nữ làm nghề bán dâm chiếm một tỉ lệ khá lớn là điều mà trước đây xã hội Việt Nam
không hề có: “dân Hà Thành có 18 vạn người, có năm nghìn gái mại dâm chính thức,
bình quân “cứ 35 người tử tế thì có một người làm đĩ”, nếu so với tỉ lệ ở Pari một
thành phố ăn chơi nổi tiếng, thì tỉ lệ gái mại dâm ở Hà Nội cao hơn mười lần” [93,
tr.165]. Những cuộc truy dồn đuổi tận những cô gái có bệnh vào “Trại Phúc Đường”,
những cảnh sinh hoạt nhếch nhác đã cho thấy nỗi cơ khổ, nhục nhằn của thân phận
người phụ nữ trong các nhà Lục xì. Đa số họ vì đói nghèo mà phải sa chân vào chốn
thị phi, chịu sự phỉ nhổ của người đời. Họ phải bán nhan sắc, tuổi trẻ, tấm thân của
mình cho đến lúc ho ra máu, kiệt sức rồi chết. Thực trạng làm đĩ và lấy Tây như một
cái nghề kiếm sống của phụ nữ bản địa đã phơi bày và tố cáo mặt trái của xã hội Âu
hoá: đó là một xã hội kim tiền làm tha hóa đạo đức con người và làm đảo lộn thuần
phong mĩ tục, đẩy nhiều phụ nữ vào con đường kinh doanh thân xác.
Trên thực tế, có nhiều người không đồng quan điểm với Vũ Trọng Phụng về
vấn các vấn đề xã hội mà ông nêu lên trong Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây. Điều
này đã khiến Vũ Trọng Phụng bị hăm dọa: “báo trước cho nhà báo những sự kiện cáo
mà nhà báo sẽ phải trải qua, nếu cứ tiếp đăng thiên phóng sự này” [34, tr.323]. Các
ông Thái Phỉ, Nhất Chi Mai lên tiếng phỉ báng Vũ Trọng Phụng “nhìn thế gian qua
cặp kính đen, một bộ óc cũng đen, và một nguồn văn càng đen nữa” [34, tr.319]. Đối
với họ, Vũ Trọng Phụng đã đáp trả “Khi dùng một chữ bẩn thỉu, tôi chẳng thấy khoái
trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ, nhưng lúc ấy tôi chỉ thấy
143
thương hại cái nhân loại ô uế bẩn thỉu, nó bắt tôi phải viết như thế, và nó bắt văn
phái các ông chạy xa sự thực bằng những ngôn từ điêu trá của văn chương… Các
ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi,
muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời” [34, tr.319-320]. Vũ Trọng Phụng là một hiện
tượng độc đáo, phức tạp, thú vị một phần do nhà văn đã dám nhìn thẳng vào sự thật,
vào mặt trái của hiện thực được mang danh là văn minh Âu hóa, quyết tâm đưa ra
ánh sáng những hiện tượng văn hóa - phản văn hóa của xã hội Việt Nam trên con
đường tư sản hóa. Sáng tác của ông đã phản ánh được nét bản chất của xã hội Việt
Nam đương thời với sự đảo lộn giữa các giá trị cũ và mới, lạc hậu và văn minh,
truyền thống và hiện đại ở thời buổi mà “nề nếp mới đã dần dần ổn định và thay thế
hẳn nề nếp xưa”, “thế là hết nhẵn nhụi”. Tuy vậy, đôi chỗ, Vũ Trọng Phụng cũng đã
đẩy quan điểm của mình đến mức cực đoan, có lúc rơi vào chủ nghĩa tự nhiên. Ông
nhìn xã hội thuộc địa nửa phong kiến như một xã hội xấu xa, thù địch với con người,
không thể nào tìm thấy sự hòa hợp giữa con người và xã hội. Trong mắt Vũ Trọng
Phụng, cả xã hội Âu hoá hiện ra với tất cả sự xấu xa của nó. Cái sự thực ở đời trong
tác phẩm Vũ Trọng Phụng giống như cái “vết thương sâu quảng”, “nỗi ô uế xấu xa”,
mà con người “rất ngại nhìn vào và luôn luôn muốn gạt bỏ khỏi trí nhớ”. Mô hình nữ
tính suy đồi và tha hoá trong sáng tác của ông vì thế là sự minh họa cho thái độ phê
phán của ông đối với xã hội hiện đại với những hiện tượng lai căng, mất gốc, đánh
mất bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc.
Chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của người Pháp đã làm xuất hiện trong
xã hội Việt Nam tầng lớp thượng lưu với những trí thức Tây học và một giai cấp vô
sản đông đảo bao gồm thợ mỏ, phu đồn điền, các phu thợ. Ở nông thôn, nạn sưu cao
thuế nặng khiến cho nông dân không có đủ khả năng để đáp ứng được các loại chi phí
như nuôi sống gia đình, đóng thuế, chuộc xâu, mua phân bón, hạt giống và cùng với
những chi phí không sinh lợi khác như ăn khao, đánh bạc, chạy lí lịch… Do đó, hầu
hết nông dân bị đẩy vào tình trạng bần cùng, phải ra thành phố kiếm sống. Lặn lội giữa
đời sống dân nghèo, Nguyên Hồng đã tận mắt chứng kiến những cảnh ngộ thương tâm,
thấu hiểu nỗi khổ của người dân thuộc địa, nhất là cảnh ngộ bi thảm những người phụ
nữ dưới đáy xã hội. Họ là đối tượng dễ bị tổn thương nhất vì ít có khả năng tự vệ trước
áp bức, trước bất công của xã hội. Vì thế ông đã viết về họ một cách chân thực và cảm
động. Linh hồn là truyện viết về một người đàn bà làm muối lậu, bị tù và bị hãm hiếp
đến chết. Bà Vỷ là truyện một người đàn bà phải đi tù thay chồng để rồi chết trong tù.
144
Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng tập trung vào những người lao động nghèo bị
bần cùng hóa và tha hóa. Trong đám dân nghèo thành thị, có cả gái điếm, me Tây, trộm
cắp, lưu manh, côn đồ. Các nhân vật kiếm sống và sinh tồn trong những không gian chật
chội, tối tăm như ở bến tàu, bến ô tô, sòng bạc hay trên vỉa hè của những con phố đông
đúc. Đó là môi trường sống phức tạp dễ dẫn con người đến chỗ phạm tội. Trong sáng tác
của Nguyên Hồng, thành phố Hải Phòng với những khu công nghiệp cảng, nơi tập trung
đủ mọi hạng người, lừa lọc, chém giết lẫn nhau để mưu sinh và vì thế nó đẻ ra những hạng
người lưu manh trộm cắp, đĩ điếm, giang hồ. Họ tạo ra một xã hội thu nhỏ, trong đó có
uống máu ăn thề, có báo thù rửa hận, có hi sinh cho đồng đội. Là dân tứ xứ, gặp cảnh
cùng đường mạt vận, họ phải triệt hạ lẫn nhau để giành đất sống. Không ít người phải
kiếm sống bằng trộm cắp, lừa bịp, chém giết, rồi trả giá cho tội ác của mình gây ra. Trong
thế giới xô bồ ấy, nổi lên nhân vật người phụ nữ. Từ cuộc đời đau khổ của mẹ mình,
Nguyên Hồng đã yêu thương những người phụ nữ nghèo khổ, bị cuộc đời đày đọa tấm
thân. Ông đặc biệt chú ý đến những người phụ nữ từ nông thôn ra thành thị kiếm sống, để
rồi bị lừa bịp, bị đẩy vào nhà chứa như Tám Bính (Bỉ vỏ), hay rơi vào ổ của bọn cờ bạc,
buôn lậu như Muống (Quán Nải), hoặc trở thành lưu manh trộm cắp như Bảy Hựu (Bảy
Hựu). Họ hiền lành, nhẫn nhục chịu đựng chỉ với mong ước có một cuộc sống hạnh phúc,
được làm vợ, làm mẹ đúng nghĩa. Nhưng trong xã hội đang diễn ra sự phân hoá giai cấp,
phân hoá giàu nghèo mạnh mẽ lúc đó, những người đàn bà ấy phải gồng gánh trên lưng
gánh nặng của cuộc sống nghèo đói, vất vả vì con cái nheo nhóc, đau khổ bởi những hủ
tục, sự hành hạ, ngược đãi của mẹ chồng. Nguyên nhân sâu xa đẩy họ vào con đường bần
cùng hoá chính là chính sách “một cổ hai tròng” của xã hội thực dân nửa phong kiến. Trên
con đường đó, người phụ nữ lại tiếp tục bị xô đẩy con đường tha hoá bởi cuộc sống lạnh
lùng và nhiều cạm bẫy của xã hội đô thị hoá/Âu hoá. Họ phải sinh tồn trong môi trường
chứa đầy những bất công và tệ nạn, thường xuyên diễn ra sự cạnh tranh nghiệt ngã, phi
nhân tính bởi những luật lệ ngầm của xã hội. Môi trường hỗn độn với quan tây quan ta,
chủ tây chủ ta hùa vào nhau để ức hiếp người lao động thấp cổ bé họng. Cảnh sát thì cấu
kết với chủ chứa, chủ Tây, chủ ta trong các nhà máy, hầm mỏ để bòn rút, bóc lột, thậm chí
cưỡng bức phụ nữ. Đa số nhân vật nữ của Nguyên Hồng là những phụ nữ bất hạnh bị xã
hội dồn vào đường cùng, bế tắc nên có hành động phản kháng và trở thành lưu manh,
giang hồ. Họ bị đẩy vào ranh giới giữa sự sống và cái chết, giữa nhân phẩm, danh dự và
những ham muốn tầm thường, thậm chí tội lỗi. Họ trở thành những người sống ngoài
vòng pháp luật như Bảy Hượu (Bảy Hượu), Chín Huyền (Chín Huyền) hay những phụ nữ
145
bị đẩy vào nhà chứa, sống ê chề nhục nhã như Tám Bính, Hai Liên (Bỉ vỏ)… Chung quy
lại, là sản phẩm của môi trường đô thị hoá/Âu hoá, họ đều là những người phụ nữ nghèo
khổ, bất hạnh, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Đặc biệt, họ một mặt có thể chịu
đựng gian khổ, hy sinh vì chồng con, nhưng mặt khác lại dễ rung động và tự do đi theo
tiếng gọi của tình yêu. Song trong xã hội hiện đại nhiều cạm bẫy, tình yêu của những phụ
nữ có gốc gác từ nông thôn ra thành thị, thường ngây thơ, chất phác, dễ tin người, hiếm
khi mang lại hạnh phúc cho họ. Họ thường rơi vào cảnh nghèo đói thê thảm hoặc bị lợi
dụng, bị lừa bịp một cách tàn nhẫn như Tám Bính (Bỉ vỏ), mợ Du (Mợ Du).
Nếu Vũ Trọng Phụng nhìn phụ nữ hư hỏng từ phía bản chất thì Nguyên Hồng nhìn
thấy ở họ phía ánh sáng thiện lương của tâm hồn, chỉ khi bị hoàn cảnh “nhuộm đen”, họ
mới trở nên biến chất. Ở Bỉ vỏ, thông qua hiện tượng một cô gái bị lưu manh hóa, tác giả
đã phân tích cả một chuỗi nguyên nhân xã hội ở nông thôn và thành thị với những tổ chức
chính trị, những công cụ bạo lực bênh vực cho bọn có tiền và có quyền, đã đẩy Tám Bính
vào cuộc đời nhơ bẩn và cực nhục mà cô không sao thoát ra nổi. Tám Bính là một cô gái
quê, tâm hồn ngây thơ, lương thiện, giàu lòng tin người đã bị xã hội tư sản lừa biến thành
gái nhà chứa, một “bỉ vỏ” lành nghề. Cô cùng Năm Sài Gòn hành nghề ăn cắp đầu đường
xó chợ, móc túi trên tàu. Tám Bính rất đáng thương, đã hai lần sinh đẻ nhưng chưa bao
giờ được quyền làm mẹ. Xã hội cũ cứ đẩy Bính vào con đường tăm tối, không tìm ra lối
thoát cho đến một hôm như người mất hồn, Bính giơ hai tay cho tên mật thám còng lại:
“Thoáng phút giây Bính thấy hết cả mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay trở đi không lúc nào
không xâu xé tâm can Bính và Bính sẽ sống một đời khốn nạn vô cùng tận… Thế là hết”
(Tuyển tập Nguyên Hồng, 2008, tập 2, tr.331). Khác với Huyền (Làm đĩ, Vũ Trọng
Phụng), quá trình sa đoạ của Tám Bính trong Bỉ vỏ rõ ràng là do những nguyên nhân xã
hội, những tác động tiêu cực bên ngoài xã hội đã huỷ hoại cuộc đời cô gái. Một cô gái
trong trắng, ngây thơ bị xã hội vùi dập bởi lũ người đểu cáng, bất nhân. Điển hình là
Tham Chung, kẻ gây đau khổ khốn nạn đầu tiên cho Tám Bính, đó là “Một người đàn ông
sang trọng và trai trẻ… một người vận quần áo tây chải chuốt, … thân hình thanh tú, đầu
óc bóng mượt và thơm tho” (Tuyển tập Nguyên Hồng, 2008, tập 2, tr.298). Một trong
những điểm nút kịch tính của tác phẩm là tình thế Tám Bính phải lựa chọn giữa hai con
đường sẽ quyết định một cách tàn nhẫn số phận của cô: Sống yên ổn với thằng chồng mật
thám hay mở cửa ngục cho Năm Sài gòn trốn thoát và cùng với hắn trở về cuộc sống lưu
manh, bất trắc. Tám Bính đã chọn con đường thứ hai, và điều ấy phù hợp với tính cách
của cô. Một người giàu lòng vị tha như Tám Bính, có thể tha thứ, thậm chí thương xót đến
146
kẻ đã phản bội mình là Tham Chung, hay kẻ đã từng hắt hủi mình một cách tàn nhẫn là
cha mẹ cô, thì làm sao có thể dửng dưng với số phận của Năm Sai Gòn, người duy nhất
trên đời đã yêu thương cô thực lòng và đã từng cứu cô ra khỏi nỗi ô nhục của kiếp sống
mại dâm mà đã có lúc cô muốn lấy cái chết để tự giải thoát. Thông qua số phận của những
người phụ nữ nghèo khổ, lầm than dưới đáy xã hội, Nguyên Hồng đã phơi bày được tội ác
của xã hội tư sản đã đẩy người phụ nữ vào bi kịch nghèo đói và tha hoá. Họ không có gia
đình để dựa dẫm, không còn quê hương để quay về, là những kẻ tứ chiến giang hồ, khi
lâm vào cảnh cùng đường mạt vận, chỉ còn con đường trộm cắp, đĩ điếm chờ đón họ. Dù
thế, các nhân vật lưu manh, gái điếm của Nguyên Hồng vẫn luôn mang khát vọng hoàn
lương. Nguyên tắc đạo lí làm người với niềm tin sắt đá vào sự chiến thắng của chính
nghĩa khiến cho những nhân vật của ông dù phải chịu đựng những bi kịch khủng khiếp
vẫn không bao giờ gục ngã về tinh thần. Tám Bính bị lừa dối, bị phản bội, bị xô xuống
vực thẳm của cuộc sống cực khổ, tăm tối nhất: ăn cắp và làm nhà thổ, một thứ đĩ mạt
hạng, bị khinh bỉ, bị ghê tởm nhất. Nhưng trong vũng bùn, Tám Bính vẫn giữ bản chất
trong sáng, nhân hậu của mình mà cố vươn lên.
Những hiện tượng tiêu cực luôn cùng tồn tại với các giá trị tốt đẹp, hướng thượng
trên mọi phương diện của đời sống là tính chất phức tạp vốn có của một xã hội đang diễn
ra quá trình đô thị hoá. Bên cạnh vẻ hào nhoáng bên ngoài của bộ mặt đô thị, là những
gam màu tối gắn với số phận u ám của người phụ nữ mà người đời thường vội vã lướt qua
hơn là dừng lại để tìm hiểu rõ nguồn cơn. Với sự hiểu biết và lòng trắc ẩn, sáng tác của
Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng góp thêm một nội dung độc đáo cho bức tranh chung
của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc hiện lên đầy đủ và phong phú hơn. Việc phản mặt
trái của xã hội đô thị hoá/Âu hoá qua vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của Vũ Trọng
Phụng và Nguyên Hồng không kém phần chân thực và cũng không thiếu hơi thở cuộc
sống. Quá trình hiện đại hoá/Âu hoá không phải bắt nguồn từ mảnh đất hoang vu mà nó là
sự tiếp tục đi lên của truyền thống ở những giá trị tích cực và tầm cao mới theo yêu cầu
của thời đại. Diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá trong sáng tác của Vũ Trọng
Phụng và Nguyên Hồng vì thế là tiếng nói phản biện đối với chủ trương, con đường Âu
hoá của giai cấp tư sản với một thái độ nghiêm túc, đòi hỏi phải có những giải pháp đúng
đắn để sao cho bắt kịp trình độ văn minh khu vực và thế giới nhưng phải được đặt trên
nền tảng của những kỷ cương, đạo đức truyền thống.
147
Tiều kết
Hiện đại hoá/Âu hoá là một nhu cầu nội tại, được phê chuẩn bởi những trí thức
bản địa, đại diện cho lương tâm và trí tuệ của một thời đại. Đây là quy luật phát triển
tất yếu của xã hội thuộc địa nhưng quá trình này đồng thời cũng kéo theo những mặt
tiêu cực của nó. Từ sự đổ vỡ các giá trị truyền thống dẫn đến sự suy đồi phong hoá,
đạo đức của con người, đó là cái giá phải trả cho hiện đại hoá/Âu hoá. Nữ tính suy đồi
và tha hoá trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng là sản phẩm của diễn
ngôn về mặt trái của phong trào Âu hoá ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Khác với
TLVĐ, hiện đại hoá/Âu hoá được nhìn ở chỗ đứng của chủ thể trí thức Tây học, sáng
tác theo khuynh hướng lãng mạn, tinh thần cải cách xã hội mạnh mẽ nên mô hình nữ
tính mà họ kiến tạo là mẫu người phụ nữ đang trở thành, theo mơ ước của họ. Đối với
Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng, chủ thể trí thức Tây học sáng tác theo khuynh
hướng hiện thực, thế giới trong tác phẩm của họ là xã hội mà họ đang quan sát, nên mô
hình nữ mà họ kiến tạo là mẫu người phụ nữ đang là như thế, vốn có trong hiện thực.
148
KẾT LUẬN
Diễn ngôn về giới là do con người tạo nên và ẩn sau nó là sự thao túng của mối
quan hệ tri thức/quyền lực. Kể từ thời cổ đại, các nam nhân đã vui mừng vẽ nên bức
tranh về những điểm yếu của nữ tính và từ đó tạo ra sự độc đoán, bất công cho số phận
người phụ nữ. Đến nay, phát ngôn của Pythagore (570- 495 BC) vẫn còn vang vọng hậu
thế: Có một nguyên lý tốt đẹp đã tạo ra trật tự, ánh sáng và người đàn ông; và một
nguyên lý xấu xa đã tạo ra hỗn loạn, bóng tối và người phụ nữ. Ngày nay cùng với
những tiến bộ xã hội, những định kiến về nữ giới đã bị chất vấn và con người đang nỗ
lực để xác lập vị thế bình đẳng giữa nam giới/nữ giới. Hậu thế đã có thể mượn lời của
Poullain de la Barre (1647 – 1723) để đáp trả chủ nghĩa nam quyền: Tất cả những điều
đàn ông viết về phụ nữ là cần phải hoài nghi, bởi vì họ vừa là quan tòa vừa là đối thủ.
Dưới quan điểm của M. Foucault, những quy phạm nam tính/nữ tính không phải là
những tồn tại có tính chất tự nhiên, ổn định và bất biến mà nó là sản phẩm của diễn
ngôn, được kiến tạo từ một hệ hình tri thức và những tương quan quyền lực của một thời
đại cụ thể. Trong quá khứ, từ Đông sang Tây, vai trò và vị thế của người phụ nữ bị lép
vế so với nam giới, nữ tính được hình dung trong sự tương phản với nam tính là những
kiến tạo văn hóa nhằm biện minh và hợp lý hóa vai trò thống trị của nam giới đối với nữ
giới. Mô hình nam tính/nữ tính Đông Á truyền thống là sản phẩm của những thiết chế
văn hóa Nho giáo dùng để khuyến dụ và cưỡng chế người phụ nữ phải chấp nhận địa vị
thua kém người đàn ông.
Sự xuất hiện của một trào lưu, một khuynh hướng, một nguồn cảm hứng lớn
trong sáng tác văn chương bao giờ cũng xuất phát từ những tiền đề chủ quan và khách
quan. Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề phụ nữ đã trở thành điểm quy chiếu cho các ý
hướng, dự đồ về quốc gia, dân tộc trong sáng tác của các nhà trí thức yêu nước nửa
đầu thế kỷ XX. Suốt nghìn năm dưới chế độ quân chủ, chịu ảnh hưởng tư tưởng nam
quyền, người phụ nữ Việt Nam đã bị gò bó trong một khuôn khổ quá ư chật chội của
đạo lí luân thường, họ bị đặt ở tình trạng không có tiếng nói, hoặc nói bằng lời của
người đàn ông. Đầu thế kỉ XX, việc thoát khỏi ảnh hưởng của những thiết chế tinh
thần Nho giáo và sự mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đã hình thành nên ở
tầng lớp trí thức bản địa một khung tri thức mới với tinh thần tự do, dân chủ, nhân bản
và khai phóng. Tri thức khoa học mới cùng với các phong trào giải phóng phụ nữ và
trào lưu nữ quyền trên thế giới đã làm thay đổi nhận thức của trí thức Việt Nam về vai
149
trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Mô hình nữ tính mới được kiến
tạo dưới những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của trường tri thức mới đến từ phương
Tây và những tương quan quyền lực/tri thức phức tạp như thực dân/thuộc địa, hiện
đại/truyền thống, cá nhân/gia đình, nam tính/nữ tính, thân/tâm,... Rời bỏ khuôn mẫu nữ
tính truyền thống, người phụ nữ mới được mô tả như một nhân cách độc lập và bình
đẳng với nam giới trong các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa và quyền mưu cầu
hạnh phúc cá nhân.
Dưới ảnh hưởng của M. Foucault, nghiên cứu về vấn đề phụ nữ không chỉ là sự
mô tả đặc điểm, bản chất của mô hình nữ tính trong một thời đại văn học, trong một
khuynh hướng văn học hay trong một tác giả mà còn góp phần chỉ ra lịch sử vận động
của các kiến tạo văn hóa về nữ tính. Đồng thời nó còn chỉ ra những điều kiện, môi
trường văn hóa xã hội đóng vai trò là các tiền đề cho sự hình thành và vận hành của
cấu trúc về nữ tính mới ở văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Quá trình vừa học tập
văn minh phương Tây vừa kháng cự quyền lực thực dân, văn hóa bá quyền châu Âu,
đã làm xuất hiện hệ thống các diễn ngôn về người phụ nữ trong sáng tác của các trí
thức bản địa. Một mô hình nữ tính mới được kiến tạo dưới những quy chuẩn văn hoá
mới, gắn với các ý niệm về tự do, bình đẳng, văn minh nằm trong chiến lược thực hiện
các dự đồ dân tộc của các nhà văn nam giới. Theo đó, người phụ nữ đã được thừa nhận
bình đẳng với nam giới cả trong vai giới tính và vai xã hội. Tuy vậy, ở giai đoạn này,
quá trình hình thành bản sắc riêng của người phụ nữ vẫn do đàn ông khởi xướng và
dẫn dắt. Việc này cho phép, với vai trò của người hướng đạo, tầng lớp trí thức bản địa
– cũng đồng thời là nhà văn nam giới, giải quyết được vấn đề khủng hoảng bản sắc
nam tính Việt nửa đầu thế kỉ XX.
Hiện đại hóa đất nước và giải phóng dân tộc là diễn ngôn chủ đạo, bao trùm
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Mặt khác vấn đề phụ
nữ lại nằm trên điểm giao cắt của các diễn ngôn nói trên. Cho nên diễn ngôn nữ quyền
không chỉ giao cắt mà con tương tác với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn
ngôn về mặt trái của hiện đại hoá. Sự tương tác giữa chủ thể thực dân và chủ thể thuộc
địa cùng với sự phức tạp của chủ thể thuộc địa và mục tiêu mà các tác giả hướng tới,
đã quy định cấu trúc diễn ngôn về người phụ nữ trong sáng tác của họ. Đối với trường
hợp nhà nho “tư sản hóa” Tản Đà, hình tượng người hồng nhan tri kỷ với tình yêu
ngoài hôn nhân là sự thể hiện khát vọng của nhà thơ về một sự nghiệp giúp dân giúp
nước. Ở nhà nho yêu nước có khuynh hướng cách mạng như Phan Bội Châu, bản sắc
150
nữ tính trong sáng tác của tác giả là sản phẩm của tạo tác lịch sử với tinh thần thời đại,
nhằm cổ vũ duy tân và đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là những nữ anh hùng cách
mạng, gánh vác việc cứu dân cứu nước, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc. Với những trí thức Tây học có khuynh hướng cải cách xã hội theo hướng Âu
hóa mạnh mẽ như Nhất Linh và Khái Hưng, nữ tính truyền thống đã bị thay thế bằng
mô hình “gái mới”. Với tri thức và khả năng thực nghiệp, các “tân học nữ lưu”, hay
“gái mới” đã trở thành những chủ thể độc lập, sở hữu những phẩm chất mới, giá trị
mới và bình đẳng với nam giới trong vai giới tính lẫn vai xã hội. Sự kiến tạo nữ tính
của họ gợi liên tưởng về một dân tộc đang cố gắng thoát khỏi truyền thống để hòa
nhập vào thế giới văn minh hiện đại. Mang ý nghĩa đối thoại với diễn ngôn về hiện đại
hoá/Âu hoá của TLVĐ, mô hình nữ tính suy đồi và tha hoá trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng và Nguyên Hồng khiến cho diện mạo người phụ nữ trong văn xuôi thời
kỳ này trở nên phong phú và đa dạng.
Giới tính (gender) còn được xem xét như một phạm trù thuộc về thi pháp nhân
vật, dưới ảnh hưởng của văn minh phương Tây và lối sống đô thị hóa nửa đầu thế kỷ
XX, những quy phạm về nữ tính truyền thống không còn phù hợp với yêu cầu của thời
đại mới, mô hình nữ tính mới được các chủ thể diễn ngôn kiến tạo đã chi phối cách
nhà văn xây dựng và mô tả các nhân vật nữ của anh ta trong sáng tác của mình. Thời
kì văn học trung đại, thường xuất hiện hiện tượng các nhà văn nam mượn giọng nữ để
phản ánh vấn đề phụ nữ bởi vì người nữ không có bản sắc riêng, bị “mất tiếng nói”
trong xã hội. Đầu thế kỷ XX, anh hùng hoá nữ tính, nam tính hóa nữ tính là các phương
thức nghệ thuật để các tác giả có thể xác lập căn cước của các nhân vật nữ, biến họ
thành trở thành chủ thể độc lập và bình đẳng với nam giới. Người nữ anh hùng cách
mạng trong sáng tác của Phan Bội Châu được tô đậm ở ý thức làm chủ đất nước, hành
động mạnh mẽ, phẩm chất anh hùng. Ở Nhất Linh và Khái Hưng, người phụ nữ được
nhìn nhận như một khách thể thẩm mĩ độc lập, một thế giới riêng, hấp dẫn cần khám phá
và lý giải. Tinh thần đề cao vẻ đẹp thể chất của phương Tây đã tạo nên ý thức coi
trọng vẻ đẹp của thân thể khoẻ mạnh, sự hấp dẫn nhục cảm ở các nhân vật trong sáng
tác của TLVĐ. Ở các nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng, phụ
nữ là những chủ thể độc đáo trong công việc và tình yêu, là sản phẩm của bản năng và
hoàn cảnh xã hội.
Chủ nghĩa nam quyền trong lịch sử đã tạo ra ảo tưởng và nhận thức sai lầm về
một nửa thế giới, tạo ra những “kịch bản” nữ tính đầy bất lợi cho xã hội. Sự thật,
151
không phải tất cả nam giới và nữ giới đều giống hệt nhau và đều theo một khuôn mẫu
giới được “dán nhãn” cho họ một cách mù quáng. Văn xuôi nghệ thuật nửa đầu thế kỷ
XX với diễn ngôn về người phụ nữ đã đấu tranh xoá bỏ vị trí “bên lề”, “ngoại biên”,
“kẻ khác” do các thiết chế văn hoá nam quyền áp đặt để thống trị và áp bức phụ nữ;
thức tỉnh ý thức bình đẳng nam nữ và khơi dậy những giá trị nhân văn. Tuy vậy cho
đến ngày nay, tư tưởng gia trưởng vẫn tồn tại rải rác ở cả nam giới và nữ giới, nên việc
tra vấn bản chất ngụy tạo của văn hóa và giải cấu trúc những trật tự được thiết lập với
những quan hệ thống trị của chủ nghĩa nam quyền, cùng với những đặc quyền và
những sự bất công của nó là việc làm có ý nghĩa.
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. “Masculinizing the feminine in Tu Luc Van Doan” (A case study Khai Hung’s
Cock – Hen (Trống mái) (2018), HNUE Journal of Sciences, Volume 63, Issue 7.
2. “Xung đột của quan điểm truyền thống và quan điểm cá nhân trong Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách” (2018), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Đông Á: Những vấn đề
nghiên cứu và dạy học Ngữ văn, Trường ĐHSP Thành Phố Hồ Chí Minh.
3. “Diễn ngôn dân tộc và hình tượng người phụ nữ trong vở kịch Ông tây An Nam của
Nam Xương” (2019), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Văn học và giới, Trường
ĐHSP Huế.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tác phẩm trích dẫn
1. Phan Bội Châu (2001), “Hải ngoại huyết thư’, “Tân Việt Nam”, Phan Bội Châu toàn
tập (tập 2), Nxb Thuận hóa - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
2. Phan Bội Châu (2001), “Việt Nam quốc sử khảo”, Phan Bội Châu toàn tập (tập
3), Nxb Thuận hóa - Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
Phan Bội Châu (1958), Việt Nam vong quốc sử, Nxb Văn sử địa, Hà Nội. 3.
Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 1, Chương Thâu (sưu tầm, 4.
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
5. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
6. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 3, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
7. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 4, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
8. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 5, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
9. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
10. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 7, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
11. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 8, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
12. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập, tập 9, Chương Thâu (sưu tầm,
biên soạn), Nxb Thuận Hoá, Huế.
13. Phan Bội Châu (2020), Vấn đề phụ nữ ở nước ta, Đoàn Ánh Dương (giới thiệu và
tuyển chọn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
14. Tản Đà (1986), Tuyển tập Tản Đà, (Xuân Diệu giới thiệu, Nguyễn Khắc Xương
sưu tầm, chú thích), Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Nguyên Hồng (2008), Tuyển tập Nguyên Hồng, (tập 1), Phan Cự Đệ biên soạn và giới
thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
16. Nguyên Hồng (2008), Tuyển tập Nguyên Hồng, (tập 2), Phan Cự đệ biên soạn và giới
thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
154
17. Khái Hưng (1999), Hồn bướm mơ tiên, tái bản, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
18. Khái Hưng (2010), Trống mái, tái bản, Nxb Đà Nẵng. 19. Khái Hưng (2018), Nửa chừng xuân, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Khái Hưng, Nhất Linh (2017), Gánh hàng hoa, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội. 21. Nhất Linh (2006), Lạnh lùng, tái bản, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 22. Nhất Linh (2016), Đôi bạn, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội. 23. Nhất Linh (2017), Đoạn tuyệt, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội. 24. Nhất Linh (2018), Bướm trắng, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội. 25. Nhất Linh - Khái Hưng (2018), Đời mưa gió, tái bản, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 26. Nhất Linh – Khái Hưng (2018), Tuyển tập Nhất Linh và Khái Hưng, Nxb Văn
học, Hà Nội.
27. Hoàng Ngọc Phách (2015), Tố Tâm, tái bản, Nxb Nhã Nam, Hà Nội. 28. Vũ Trọng Phụng (2016), Vũ Trọng Phụng (tập 1), tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội. 29. Vũ Trọng Phụng (2016), Vũ Trọng Phụng (tập 2), tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Việt 1. Nguyễn Thị Vân Anh (2017), Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.
2. Lê Tú Anh (2012), Tiểu thuyết Việt Nam 1900 – 1930, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
3. Lê Tú Anh (2018), Văn xuôi Việt Nam hiện đại - Khảo cứu và suy ngẫm, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân (2002), Từ điển Văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
6. Bakhtin. M (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Trường
viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội.
7. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
8. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết, (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội
Nhà văn
9. Đặng Văn Bảy (2014), Nam nữ bình quyền, (tái bản lần 1), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
10. Simone De Beauvoir (1996), Giới nữ, (Nguyễn Trọng Định và Đoàn Ngọc Thanh
dịch), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
11. Nguyễn Duy Bình (chủ biên), Đinh Trí Dũng, Phùng Ngọc Kiên (2015), Một số
vấn đề tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam, Nxb Đại học Vinh.
155
12. Pierre Bourdieu (2017), Sự thống trị của nam giới, (Lê Hồng Sâm dịch), Nxb Tri
thức, Hà Nội.
13. Nguyễn Huệ Chi (1996), Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường văn, Nxb Văn
học, Hà Nội.
14. Nguyễn Huệ Chi (2013), Văn học cổ cận đại Việt Nam, từ góc nhìn văn hóa đến
các mã nghệ thuật, NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Huệ Chi (biên soạn) (2018), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
16. Đặng Thị Vân Chi (2001), “Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”,
http://phebinhvanhoc.com.vn.
17. Đặng Thị Vân Chi (2007), Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước cách
mạng tháng tám năm 1945, Luận án Tiến sỹ Lịch sử, ĐHQG Hà Nội.
18. Trương Chính (2016), Dưới mắt tôi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
19. Nguyễn Đình Chú (chủ biên) (2021), Văn học Việt Nam trung cận đại – hướng
tiếp cận và vấn đề nghiên cứu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Dân, (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
21. Tầm Dương (2003), Tản Đà – khối mâu thuẫn lớn, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
22. Đoàn Ánh Dương (giới thiệu), Nguyễn Minh Huệ, Vũ Thị Thanh Loan, Đào Thị
Hải Thanh (tuyển chọn) (2021), Tự Lực văn đoàn với vấn đề phụ nữ nước ta,
Nxb Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
23. Tản Đà (1997), Tản Đà trong lòng thời đại (Hồi ức – bình luận – tư liệu),
(Nguyễn Khắc Xương sưu tầm, biên soạn), Nxb Hội Nhà văn.
24. Tản Đà (2007), Tản Đà về tác gia và tác phẩm, (Tái bản lần thứ 3) (Trịnh Bá
Đĩnh – Nguyễn Đức Mậu tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945), Nxb Giáo dục.
26. Phan Cự Đệ (2002), Phan Cự Đệ - Tuyển tập (tập 1), (Lý Hoài Thu tuyển chọn), Nxb
Giáo dục.
27. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội.
28. Phan Cự Đệ (2004), (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
29. Phan Cự Đệ (2007) (biên soạn), Về một cuộc cách mạng trong thi ca: Phong trào Thơ
mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
156
30. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên), (2006), Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới
và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.
31. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Đức Mậu (2007), (tuyển chọn và giới thiệu), Tản Đà về
tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Đoàn Đức Doãn (2016), Tiểu thuyết tâm lí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (Những
dạng cơ bản), Nxb Đại học Sư Phạm.
33. Đỗ Hồng Đức, Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, Luận
án tiến sĩ 2010, Thư viện Quốc gia.
34. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ Trọng
Phụng, Nxb Văn học.
35. Hà Minh Đức (2007), Tự Lực văn đoàn trào lưu – tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Betty Friedan (2015), Bí ẩn nữ tính, Nguyễn Vân Hà dịch, Nxb Hồng Đức,
Tp.HCM.
37. Gary Gutting (2017), Dẫn luận về Foucault, Thái An – Trịnh Huy Hóa dịch, Nxb
Hồng Đức.
38. Vu Gia (1993), Khái Hưng nhà tiểu thuyết, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
39. Vu Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nxb Văn hóa.
40. Nhiều tác giả (2019), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Đông Á: Những vấn đề nghiên cứu
và giáo dục ngữ văn (2019), Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Nxb
Văn hóa – Văn nghệ.
41. Nhiều tác giả (2019), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Văn học và giới,
Trường Đại học Sư phạm Huế, Nxb Đại học Huế.
42. Dương Quảng Hàm, (1943), Việt Nam thi văn hợp tuyển, tái bản, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
43. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, tái bản, Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.
44. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2007), Từ điển
thuật ngữ văn học, tái bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Đỗ Đức Hiểu, (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
46. Nguyễn Hòa (2008), Phân tích diễn ngôn, Một số vấn đề lí luận và phương pháp,
Nxb ĐH Quốc Gia Hà Nội.
47. La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như Phương (đồng chủ biên) (2015),
Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài – Kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại,
Nxb ĐH Quốc Gia Hà Nội.
157
48. Phạm Văn Hưng (2016), Tự sự của trinh tiết, Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt
Nam trung đại thế kỉ X-XIX, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
49. Phạm Văn Hưng (2019), Văn hóa tính dục ở Việt Nam, thế kỉ X-XIX, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
50. Mai Hương (2000), (tuyển chọn và biên soạn), Tự Lực văn đoàn trong tiến trình
văn học dân tộc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
51. Trần Đình Hượu (1985), “Vấn đề chọn mấy năm mốc trong việc phân kỳ lịch sử
văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học số 3, tr.41 – 54
52. Trần Đình Hượu (2007), Trần Đình Hượu tuyển tập, tập 2, (Trần Ngọc Vương
giới thiệu và tuyển chọn), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn
hoá thông tin, TP. Hồ Chí Minh.
54. Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chương, (1998), Văn học
Việt Nam (Thế kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Phan Khôi (2018), Vấn đề phụ nữ nước ta, (Lại Nguyên Ân giới thiệu và tuyển
chọn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
56. Phùng Ngọc Kiên (2018), “Hình dung về người Pháp/kiểu Pháp trên Báo chí Việt
Nam, trường hợp Tự Lực văn đoàn”, Kỷ yếu Hội thảo Việt – Pháp, Nxb Thế giới.
57. Trần Trọng Kim, (2003), Nho giáo, Nxb Văn học, Hà Nội.
58. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 – 1945,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
60. Nguyễn Hạnh Lê (2015), Diễn ngôn về kẻ khác và bản sắc dân tộc trong các tác
phẩm của Phan Bội Châu giai đoạn 1905 – 1908, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
61. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận, (1990), Văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Khúc Hà Linh (2017), Anh em Nguyễn Tường Tam Nhất Linh ánh sáng và bóng
tối, Nxb Thanh niên, Tp Hồ Chí Minh.
63. Nguyễn Văn Long (chủ biên), Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám
1945, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
64. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
158
65. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX, tái
bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
66. Huỳnh Lý – Hoàng Dung – Nguyễn Hoành Khung – Nguyễn Đăng Mạnh –
Nguyễn Trác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, tập 4, phần I, Nxb
Giáo dục.
67. Hoàng Tố Mai (chủ biên), (2017), Di sản văn học lãng mạn - những cách đọc
khác, Nxb Hội Nhà văn.
68. Nguyễn Thị Manh Manh (1932), Nữ lưu và văn học, Phụ nữ tân văn. Số 131.
69. Nguyễn Đăng Mạnh, (2005), Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện
đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
70. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Dostoievski (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
71. Đặng Ngọc Minh - Dương Tất Thắng (2008), (biên soạn), Vũ Ngọc Phan tuyển
tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
72. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang, (2012), Văn học
trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
73. Nguyễn Đăng Na (2021), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, tái
bản, Nxb Đại học Sư phạm.
74. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
75. Phạm Thế Ngũ, (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tái bản, Nxb
Đồng Tháp.
76. Vương Trí Nhàn (biên tập) (1997), Tản Đà trong lòng thời đại, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
77. Võ Văn Nhơn (2007), “Một nhà văn đấu tranh cho nữ quyền vào đầu thế kỷ
XX”. Nhận từ https://tuoitre.vn/mot-nha-van-nu-tranh-dau-cho-nu-quyen-vao-
dau-the-ky-xx-190045.htm.
78. Võ Văn Nhơn & Nguyễn Thị Phương Thúy (2016), Văn chương phương Nam –
Một vài bổ khuyết, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
79. Thao Nguyễn (tuyển chọn), (2013), Khái Hưng nhà tiểu thuyết có biệt tài trong
cuộc cách tân văn học, Nxb Văn hóa - Thông tin.
80. Phong Lê (2014), Trăm năm trong cõi... về một thế hệ vàng văn chương Việt hiện
đại, Nxb Nhà sách Thái Hà, Hà Nội.
159
81. Vũ Ngọc Phan (2008), Vũ Ngọc Phan tuyển tập, (tập 1: Nhà văn hiện đại), Nxb
Văn học, Hà Nội.
82. Nguyễn Thị Hải Phương (2016), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại - nhìn từ góc
độ diễn ngôn, Nxb Giáo dục Việt Nam.
83. Bùi Trân phượng (2014), Ông già Bến Ngự và nữ giới, minhtrietviet.net
84. Nguyễn Hưng Quốc (2004), “Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học
Việt Nam”, http://www.talawas.org/
85 Nguyễn Hưng Quốc (2005), “Nữ quyền luận và đồng tính luận”,
http://www.tienve.org.
86. Vũ Tiến Quỳnh (1997), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn học, Thành phố
Hồ Chí Minh.
87. Edward Said (2015), Văn hóa và chủ nghĩa bá quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội.
88. Edward Said (2016), Đông phương luận, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
89. Trần Huyền Sâm (2017), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
90. Nguyễn Hữu Sơn - Trần Đình Sử (1998), Con người cá nhân trong văn học cổ
Việt Nam, Nxb Giáo dục.
91. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và
tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Trần Đăng Suyền (2013), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
93. Trần Đăng Suyền (chủ biên) (2015), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
94. Trần Đăng Suyền - Lê Quang Hưng (đồng chủ biên) (2017), Văn học Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến 1945, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
95. Trần Đăng Suyền (2021), “Khuynh hướng tư tưởng tiểu thuyết Tự Lực văn
đoàn”, Tạp chí Lý luận phê bình Văn học nghệ thuật thuật, tháng 8.
96. Trần Đình Sử (2003), “Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay”,
http: //phebinhvanhoc.com.vn
97. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
98. Trần Đình Sử (2011), Giáo trình Lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội.
160
99. Trần Đình Sử (2016), Trên đường biên của lí luận văn học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
100. Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học văn học, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
101. Trần Đình Sử (2020), Lí thuyết và thi pháp văn học, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
102. Đào Lê Tiến Sỹ (2017), Diễn ngôn về người phụ nữ trong sáng tác của Phan Bội
Châu, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.
103. Trần Hữu Tá (1999), Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
104. Trần Hữu Tá, Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang (chủ biên) (2013), Nhìn lại
Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
105. Hồ Tuệ Tâm (2013), “Gái nước Nam”, Hồ Liễu dịch,
http://phebinhvanhoc.com.vn.
106. Tess Cosslett, Celia Lury và Penny Summerfield (chủ biên) (2013), Nữ quyền và
tự truyện văn bản, lý thuyết, phương pháp, Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
107. Bùi Thị Tỉnh (2010), Phụ nữ và giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Chương Thâu, Triêu Dương, Nguyễn Đình Chú (biên soạn) (1972), Thơ văn yêu
nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900-1930), Nxb Văn học, Hà Nội.
109. Lê Thanh (2002), Nghiên cứu và phê bình văn học, Lại Nguyên Ân sưu tầm và
biên soạn, Nxb Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
110. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương (tuyển chọn) (2001), Phan Bội Châu về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
111. Phùng Gia Thế, Trần Thiện Khanh chủ biên (2016), Văn học và giới nữ, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
112. Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1930 – 1945, tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
113. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
114. Trần Nho Thìn (2016), “Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói
phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền”, in trong Văn học và giới nữ, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.195 - 210.
115. Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh (đồng chủ biên), (2019), Giáo trình văn học trung đại
Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam.
161
116. Trần Mạnh Tiến (2013), Lí luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
117. Đỗ Lai Thúy (2015), Hé gương cho người đọc, Nxb Phụ nữ, Tp. Hồ Chí Minh.
118. Đỗ Lai Thúy (2016), Những cạnh khía của lịch sử văn học, Nxb Hội Nhà văn.
119. Nguyễn Phương Thùy (biên tập) (2016), Tuyển tập Nguyên Hồng, Nxb Văn học,
Hà Nội.
120. Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc - Phùng Ngọc Kiên (2018), Xã hội học
văn học, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
121. Ngô Văn Thư (2006), Bàn về tiểu thuyết Khái Hưng, Nxb Thế giới.
122. Nguyễn Thị Minh Thương (2016), “Từ lí luận thân thể của M. Foucault đến chủ
nghĩa nữ quyền”, in trong Văn học và giới nữ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
123. Trần Văn Toàn (2010), Khuynh hướng “tả thực” với hoạt động hiện đại hóa văn xuôi nghệ thuật quốc ngữ giai đoạn giao thời, Luận án tiến sỹ Ngữ văn, Trường
Đại học sư Phạm Hà Nội.
124. Trần Văn Toàn (2001), “Nam tính hóa nữ tính – đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ
góc nhìn giới tính”, in trong Văn học và giới nữ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
125. Trần Văn Toàn (2009), “Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam
(từ đầu thế kỷ XX đến 1945) in trong Nghiên cứu Văn học Việt Nam những khả
năng và thách thức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
126. Trần Văn Toàn (2015), “Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của M. Foucault và nghiên
cứu văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5 (519), tr.45 -57.
127. Trần Văn Toàn (2015), “Phương Tây và sự hình thành diễn ngôn về bản sắc Việt
Nam” (trường hợp Phan Bội Châu từ 1905 - 1908), in trong Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài, kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
128. Trần Văn Toàn (2017), “Giới tính và nghiên cứu văn học – Trường hợp Đoạn
tuyệt của Nhất Linh”, Tiếp cận văn học châu Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.
129. Trần Văn Toàn (2019), “Nam tính hóa nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam”,
in trong Kỷ yếu Hội Thảo Quốc gia Văn học và giới, Trường ĐHSP Huế.
130. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối
thế kỷ XIX, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
131. Trần Thị Việt Trung (chủ biên), (2008), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
162
132. Hồ Khánh Vân (2010), “Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn học
nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, (7).
133. Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), (2009), Văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X –
cuối thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
134. Lê Trí Viễn, (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
135. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
136. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX – những
vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
137. Trần Ngọc Vương (2007), “Mấy đặc điểm loại hình nhân cách nhà cách mạng
Phan Bội Châu”, in trong Phan Bội Châu, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
138. Trần Ngọc Vương (2018), Loại hình học tác giả văn học - nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam, Nxb Thông tin và Truyền thông.
139. Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
140. Woolf Virginia (2009), Căn phòng riêng, (Trịnh Y Thư dịch), Nxb Tri thức, Hà
Nội.
141. Trần Hải Yến (biên soạn), Nghiên cứu văn học Việt Nam, những khả năng và
thách thức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
142. Trần Hải Yến (biên soạn) (2017), Tiếp cận văn học châu Á từ lý thuyết phương
Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
Tài liệu Tiếng Anh
143. Chris Weedon (1997), Feminist Practice and Poststruralist Theory, Blackwell
Publishers, Cambridge.
144. Louie, Kam and Louise Edwards (1994), “Chinese masculinity: Theorizing wen
and wu”, East Asian History 8, tr. 135–48.
145. Louie, Kam (2002), Theorising Chinese masculinity: Society and gender in
China, Cambridge University Press.
146. McHale.Shawn Frederick (1995), Printing, power, and the transformation of
Vietnamese culture, 1920 – 1945, dissertation, Cornell University
163
147. M. Foucault (1981), “Discourse and true: problematization of parrahesia, Six
lectures at Berkeley”, Oct – Nov.1983, Foucault.info.
148. Marr David G (1976), “The 1920s Women’ rights debates in Vietnam”, Journal
of Asian Studies, 35 (3), pp.371 – 389.
149. Marr David G (1995), Vietnamese tradition on Trial 1920 – 1945, University of
California Press Berkeley, California.
150. Seumas Miller (1990), “Foucault on Discourse & power”, Theoria, 76 Oct,
pp.115
151. Wynn Wilcox (2006), “Women, Westernization and the Origins of Modern
Vietnamese Theatre”, Journal of Southeast Asian Studies, 37(2), pp. 205-224.