NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ÑO LÖÔØNG TÍNH SO SAÙNH ÑÖÔÏC CUÛA<br />
THOÂNG TIN BAÙO CAÙO TAØI CHÍNH<br />
ThS. Nguyễn Vĩnh Khương*<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
T<br />
ính hữu ích của thông tin tài chính được nâng cao nếu thông tin đó có thể so sánh được. Sự<br />
khác biệt giữa các phương pháp kế toán được sử dụng có thể có một tác động tiêu cực đến<br />
khả năng so sánh của báo cáo tài chính. Do đó, có nhiều nghiên cứu tìm kiếm cách thức đo<br />
lường tính so sánh được nhằm tăng tính hữu ích của thông tin báo cáo tài chính được cung<br />
cấp đến người sử dụng. Mục đích của bài viết đưa ra các chỉ số thường được các nhà nghiên cứu sử dụng<br />
để đo lường. Bài viết sử dụng các chỉ số được chấp nhận chung (C, H, I) và những ví dụ minh họa, quan<br />
điểm khác nhau của nhiều tác giả đưa ra nhằm chứng minh sự phổ quát của chỉ số chung. Mặc dù có nhiều<br />
tranh cãi của thống kê các chỉ số sử dụng cho mục đích đo lường nhưng các chỉ số là cần thiết để phát triển<br />
một chỉ số được chấp nhận rộng rãi giúp cho quá trình hài hòa, hội tụ của hệ thống chuẩn mực kế toán.<br />
<br />
Từ khóa: tính so sánh được, đặc điểm định tính nâng cao, khuôn mẫu lý thuyết.<br />
Measuring the comparability of financial reporting information<br />
The usefulness of financial information is enhanced if that information is comparable. The difference<br />
between the accounting methods used may have a negative impact on the comparability of financial<br />
statements. Consequently, many studies seek to measure comparability in order to increase the usefulness<br />
of financial reporting information provided to users. The purpose of the article is to provide indicators<br />
commonly used by researchers to measure. The article uses generally accepted indicators (C, H, I) and<br />
illustrated examples and views of various authors to demonstrate the universality of the overall index.<br />
Although there are many controversies over the statistics of indicators used for measurement purposes,<br />
indicators are needed to develop a widely accepted index that helps harmonize the convergence of the<br />
accounting standard system.<br />
Keywords: Comparability, qualitative characteristics, theoretical models.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề Khả năng so sánh không phải là đồng nhất.<br />
Người sử dụng Báo cáo tài chính quyết định lựa Thông tin có thể so sánh phải đảm bảo sự tương<br />
chọn nhiều phương án, ví dụ bán hay nắm giữ các đồng giữa các khoản mục, chỉ tiêu tương tự và<br />
khoản đầu tư hoặc đầu tư vào đơn vị này hay đơn vị sự khác biệt giữa các khoản mục, chỉ tiêu không<br />
khác. Do đó, thông tin về đơn vị báo cáo sẽ hữu ích tương tự. Khả năng so sánh của thông tin tài chính<br />
hơn nếu có thể so sánh các thông tin tương tự với sẽ không được đảm bảo nếu các khoản mục, chỉ<br />
đơn vị khác hoặc các thông tin tương tự của đơn vị tiêu không tương tự được trình bày giống nhau<br />
mình giữa các kỳ và các ngày khác nhau. hoặc các khoản mục, chỉ tiêu tương tự lại trình bày<br />
<br />
*Khoa Kế toán, Kiểm toán - Đại học Kinh tế - Luật<br />
<br />
34 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN<br />
khác nhau. Khác với các đặc điểm định tính khác, sẽ dẫn đến phương pháp khác nhau. Bài viết này<br />
khả năng so sánh không liên quan đến một khoản không tập trung vào việc so sánh theo thời gian mà<br />
mục đơn lẻ mà yêu cầu ít nhất là hai khoản mục. dựa trên sự so sánh của báo cáo tài chính giữa các<br />
Ngày càng có nhiều cuộc tranh luận về việc cần công ty và giữa các quốc gia.<br />
thiết phải đo lường và xác định tác động của tính<br />
Sterling (1969) lập luận rằng sự thay đổi trong<br />
so sánh được đến quyết định của người sử dụng<br />
phương pháp kế toán không phải là nguyên nhân<br />
thông tin BCTC. Vì vậy, vấn đề đo lường tính so<br />
duy nhất của sự biến đổi trong các con số xuất hiện<br />
sánh được là rất cần thiết.<br />
trên báo cáo tài chính. Nhà nghiên cứu đã chứng<br />
2. Tính so sánh được minh rằng các ước tính khác nhau cho thời gian<br />
hữu ích của tài sản hình thành một nguồn thứ hai<br />
Theo khuôn mẫu lý thuyết kế toán, khả năng so<br />
của sự thay đổi và cũng quan trọng như các vấn<br />
sánh là đặc điểm định tính giúp người sử dụng Báo<br />
đề linh hoạt. Thậm chí, nếu trong cùng công ty, tất<br />
cáo tài chính nhận biết và hiểu được sự giống nhau<br />
cả sử dụng cùng một phương pháp kế toán, một<br />
và khác nhau của các khoản mục.<br />
số biến đổi nhất định sẽ vẫn còn. Sự thay đổi này<br />
Cần có sự phân biệt giữa so sánh “theo thời có thể là kết quả của những hoàn cảnh khác nhau<br />
gian’’ và so sánh “giữa khác nhau’’ của các công ty trong hoạt động của công ty, kinh nghiệm cá nhân<br />
trong cùng một nước và - do sự toàn cầu trên toàn và xét đoán của nhà quản lý. Do đó, điều quan<br />
thế giới. Để cung cấp thông tin tài chính có hữu ích trọng là phải xác định ở cấp độ so sánh nào được<br />
cho các mục đích ra quyết định, lý thuyết kế toán sử dụng.<br />
(Belkaoui, 2004) đề cập đến một số đặc tính ngoài<br />
3. Đo lường mức độ so sánh được<br />
hai đặc điểm cơ bản là tính thích hợp và trình bày<br />
trung thực thì tính dễ hiểu và so sánh là những đặc Một số phương pháp tiếp cận để đo lường mức<br />
điểm định tính quan trọng. Để đạt được sự so sánh độ so sánh sử dụng ba chỉ số khác nhau: (1) Chỉ<br />
này, các thông tin tài chính nên dựa trên sự thích số H để đo lường sự so sánh trong nước, (2) Chỉ<br />
hợp. Tính nhất quán có nghĩa là các công ty nên số C để đo lường sự so sánh trong nước với nhiều<br />
sử dụng các phương pháp kế toán tương tự cho hệ thống báo cáo và (3) Chỉ số I để đo lường sự so<br />
các khoản mục liên quan theo thời gian. Mặt khác, sánh quốc tế. Hầu hết các nghiên cứu quan trọng<br />
các so sánh nên tồn tại tính đồng nhất và tính linh đo lường mức độ so sánh đều dựa trên tư duy của<br />
hoạt. Tính đồng nhất có nghĩa là cùng một phương Tas(1988) mặc dù trong những năm gần đây xuất<br />
pháp kế toán được áp dụng bởi các công ty khác hiện các phương pháp tiếp cận có nguồn gốc từ các<br />
nhau. Tuy nhiên, những khác biệt về hoàn cảnh nghiên cứu cơ bản và mở rộng từ tư duy của Tas.<br />
<br />
Bảng 1: Tổng quan các nghiên cứu trước đây đã sử dụng các chỉ số<br />
<br />
Tác giả H C C(modified) I I(modified)<br />
Tas(1988) X X X<br />
Tay and Parker (1990, 1992)<br />
Tas(1992) X<br />
Emenyounu i Gary (1992) X<br />
Archer, Delvaille and McLeay (1995) X<br />
Hermann i Thomas (1995) X X<br />
Archer, Delvaille and McLeay (1996) X<br />
Adhikari and Emenyounu (1997) X<br />
Morris and Parker (1999) X X<br />
Canibano and Mora (2000) X<br />
Parker and Morris (2001) X X<br />
<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 115 - tháng 5/2017 35<br />
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI<br />
<br />
Aisbitt (2001) X<br />
Taplin (2003) X X<br />
Nguồn: Baker & Barbu (2007)<br />
Vì vậy, tư duy của Tas (1988,1992) là một hướng Trong đó:<br />
khởi đầu quan trọng trong quá trình làm rõ các chỉ<br />
- Pi : là tỷ lệ các doanh nghiệp có sử dụng phương<br />
số được chấp nhận chung để đo lường sự so sánh.<br />
pháp kế toán<br />
Khả năng so sánh có thể được coi là sự gia tăng tính<br />
nhất quán trong việc lựa chọn các phương pháp kế - n: là số lượng lớn nhất có thể của phương pháp<br />
toán khác nhau cho các khoản mục của báo cáo tài kế toán hiện có.<br />
chính. Việc gia tăng tính nhất quán có thể bị bắt Nhược điểm chính của chỉ số H là có những<br />
buộc, khuyến khích hoặc tự giác thực hiện. Trong khó khăn nhất định trong việc tính toán mức độ<br />
trường hợp thứ nhất, những quy định bắt buộc cho quan trọng của sự so sánh và không có khả năng<br />
phép hoặc ngăn cấm một hay nhiều phương pháp áp dụng nhiều phương pháp đo lường khác nhau.<br />
kế toán. Trong trường hợp thứ hai những quy định (Tas, 1992). Biên độ dao động của chỉ số H theo Tas<br />
được khuyến khích sử dụng một hay nhiều phương (1988) là từ 0 (không hòa hợp với rất nhiều phương<br />
pháp kế toán. Trong trường hợp thứ ba, sự gia tăng pháp khác nhau) đến 1 (hòa hợp ở các doanh<br />
tính nhất quán có thể không được đưa vào những nghiệp sử dụng cùng một phương pháp) biên độ<br />
quy định bắt buộc hoặc tùy chọn. (Tas, 1988). của chỉ số H biến động trong một khoảng nào đó<br />
Khi xác định mức độ so sánh kế toán, những sẽ cho thấy mức độ (không) tuân thủ.<br />
mục của tác giả Nair-Frank (1981) thường được Ví dụ: Có thể trình bày trong báo cáo tài chính<br />
sử dụng để đo lường và công bố: (1) yêu cầu (sử việc sử dụng ít nhất hai phương pháp khác nhau (A<br />
dụng các phương pháp kế toán hoặc thực hiện công và B). Giả sử rằng có 50 đơn vị kinh doanh trong<br />
bố một số thông tin được yêu cầu), (2) thực hiện nhóm 100 doanh nghiệp áp dụng phương pháp A<br />
theo chỉ thị, (3) việc thực hiện không quan trọng trong giai đoạn 1. Các đơn vị kinh doanh còn lại sử<br />
(4) không sử dụng hoặc (5) không cho phép. (Tas, dụng phương pháp B. Trong giai đoạn 2, có 70 đơn<br />
1992). Khả năng so sánh tăng lên khi doanh nghiệp vị sử dụng phương pháp A so với 30 đơn vị hạch<br />
chuyển từ lựa chọn giữa các phương pháp kế toán toán theo phương pháp B. Trong giai đoạn 3, tỷ lệ là<br />
khác nhau sang tập trung vào một hoặc giới hạn 90:10 nghiêng về phương pháp A. Tần số tương đối<br />
một số phương pháp kế toán (Tas,1988). và chỉ số H có thể được tóm tắt như sau:<br />
<br />
Roberts và cộng sự (2008) đã đề cập đến các dữ Bảng 2. Cách tính của chỉ số H<br />
kiện cho rằng có rất nhiều cách khác nhau để đo Phương pháp<br />
được mức độ tập trung, nhưng phương pháp được A B<br />
chấp nhận chung đó là sử dụng chỉ số Herfindahl Giai đoạn Chỉ số H<br />
(chỉ số H). Chỉ số H được sử dụng để đo lường khả 1 0,5 0,5 0,52 + 0,52 = 0,50<br />
năng so sánh của các phương pháp kế toán dùng<br />
2 0,7 0,3 0,72 + 0,32 = 0,58<br />
trong việc lập báo cáo tài chính. Về cơ bản chỉ số H<br />
3 0,9 0,1 0,92 + 0,12 = 0,82<br />
là một phương pháp đơn giản để đo lường khả năng<br />
so sánh mà bỏ qua các thông tin phụ từ các báo cáo Nguồn: Tas (1988)<br />
tài chính, và bởi vì các chỉ số có tính đơn giản nêu Bên cạnh đó, Tas còn phân biệt hai cấp độ của<br />
trên cho phép nhiều cách giải thích kết quả và kết chỉ số H: (1) chỉ số C và (2) chỉ số I. Walton và cộng<br />
quả này sẽ không đầy đủ. Chỉ số H có dạng: sự (2003) đưa ra gợi ý cho Tas về mức độ so sánh<br />
vào năm 1988, (mở rộng vào năm 1992) bằng cách<br />
sử dụng chỉ số C trong thời gian báo cáo tài chính<br />
được công bố và những thay đổi trong chính sách<br />
<br />
36 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN<br />
kế toán cho thấy sự biến động của mức độ so sánh thấy mức độ (không) tuân thủ. Phương pháp này<br />
như là bằng chứng về các đối tượng không báo cáo đáp ứng ba tiêu chí: định lượng mức độ so sánh<br />
theo quy định. Mức độ so sánh được đo bằng chỉ có liên quan trực tiếp đến khả năng so sánh, cho<br />
số C khi đơn vị kinh doanh cung cấp thông tin kế phép nhiều báo cáo và các thông tin trên thuyết<br />
toán về việc sử dụng phương pháp kế toán thay minh báo cáo tài chính và nó có thể tính toán sự<br />
thế cho phương pháp kế toán hiện tại (Mustaţă và biến động của mức độ so sánh bằng cách sử dụng<br />
Matis, 2007). So sánh chỉ số C trên nhiều báo cáo thử nghiệm (phân tích hồi quy). Chỉ số C đo lường<br />
tài chính với nhau cho thấy khả năng hòa hợp giữa mức độ so sánh của từng khoản mục dựa trên số<br />
các quốc gia và việc đo lường giữa hai quốc gia sử lượng báo cáo tài chính có thể so sánh được. Giả<br />
dụng cùng một phương pháp kế toán hoặc cung sử rằng hai báo cáo tài chính trên so sánh với một<br />
cấp đầy đủ thông tin cho phép việc so sánh lẫn loại giao dịch hoặc một sự kiện. Như vậy, không<br />
nhau. Sau đó, hai bản báo cáo tương thích nhau sẽ so sánh được giữa hai báo cáo tài chính kể từ khi<br />
so sánh với tổng số các cặp theo cách sau: (Roberts chỉ có một loại giao dịch hay sự kiện được đưa vào<br />
và cộng sự, 2008). chung khoản mục (Tas, 1992).<br />
Có nhiều lý do cho việc thiếu đo lường sự so<br />
sánh một phần đối với các giao dịch và sự kiện tổng<br />
hợp, nhưng đối với từng loại giao dịch hoặc sự kiện<br />
riêng biệt thì ngược lại. (1) Đo lường một cách<br />
riêng biệt cung cấp kết quả chính xác hơn vì nó có<br />
Trong đó: khả năng đo lường mức độ so sánh cho từng loại<br />
giao dịch hoặc sự kiện được trình bày trong báo<br />
- ni: số lượng đơn vị kinh doanh áp dụng<br />
cáo tài chính, trong khi đo lường mức độ so sánh<br />
phương pháp i<br />
cho tất cả các loại giao dịch hoặc sự kiện chỉ cung<br />
- N: tổng số các đơn vị kinh doanh. cấp kết quả tổng hợp, do đó rất khó để rút ra kết<br />
Ví dụ: Xét hai khoản mục kế toán ((1) khấu hao luận về chính sách đo lường và (2) việc đo lường<br />
(2) đánh giá hàng tồn kho) và ba phương pháp đo mức độ so sánh của các giao dịch hoặc các sự kiện<br />
lường khác nhau ( phương pháp đường thẳng, tịnh tổng hợp đòi hỏi một danh sách chi tiết của các loại<br />
tiến và số dư giảm dần hoặc phương pháp FIFO, giao dịch, sự kiện và việc đo lường riêng biệt mức<br />
bình quân gia quyền và thực tế đích danh) tại 20 độ so sánh vật chất cho từng loại giao dịch hoặc sự<br />
doanh nghiệp được thể hiện trong bảng 3. kiện sẽ thuận tiện hơn.(Tas, 1992).<br />
<br />
Bảng 3. Cách tính của chỉ số C Tas (1988) nhấn mạnh việc đo lường mức độ so<br />
sánh một phần trong quốc tế phải đáp ứng hai điều<br />
kiện. Thứ nhất, so sánh quốc<br />
tế là khả năng so sánh của báo<br />
cáo tài chính doanh nghiệp<br />
tại quốc gia đó có nghĩa là đo<br />
lường sự so sánh nên đi chủ<br />
yếu từ sự so sánh quốc gia. Thứ<br />
hai, so sánh quốc tế tồn tại ở<br />
Nguồn: Roberts và cộng sự (2008)<br />
một mức độ cụ thể của sự hội tụ hai hay nhiều quốc<br />
Biên độ dao động của chỉ số C, theo Tas (1988), gia liên quan đến việc thực hiện các hoạt động kế<br />
dao động từ 0 (không hòa hợp với nhiều phương toán trong việc lập báo cáo tài chính. Mức độ so<br />
pháp khác nhau) đến 1 (hòa hợp tại tất cả các doanh sánh một phần trong quốc tế cho thấy mức độ mà<br />
nghiệp sử dụng cùng một phương pháp), bởi vậy các doanh nghiệp ở một quốc gia áp dụng phương<br />
chỉ số C biến động trong một khoảng nào đó cho pháp kế toán giống nhau hoặc chỉ có một số phương<br />
<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 115 - tháng 5/2017 37<br />
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI<br />
<br />
pháp kế toán khác so với các doanh nghiệp ở các quan hệ với việc hạch toán kế toán của một số mặt<br />
quốc gia khác. Theo Hermann và Thomas (1995) hàng tại một thời điểm, (2) để cho thấy các biến<br />
chỉ số I đo lường mức độ so sánh quốc tế hoặc mức động của mức độ so sánh và việc đạt được mức<br />
độ so sánh trong hoạt động kế toán giữa hai hay độ hài hoà, (3) các biến động của mức độ so sánh<br />
nhiều quốc gia. Chỉ số này được tính bằng cách gia có thể do sự ra đời hoặc sửa đổi các quy định bắt<br />
tăng các thủ tục của doanh nghiệp đối với một lựa buộc về báo cáo tài chính hoặc do mức độ so sánh<br />
chọn phương pháp kế toán thay thế cụ thể và tập được phát triển từ các lý thuyết kế toán và các sự<br />
kiện quốc tế, (4) để xác định các khoản mục có vấn<br />
hợp các quy tắc thay thế tổng thể cho đến khi các<br />
đề trong báo cáo tài chính (đối tượng với mức độ<br />
yếu tố điều chỉnh, thể hiện trong các số mũ, được<br />
so sánh thấp) và (5) các tổ chức đang đối phó với<br />
sử dụng khi kiểm tra một số quốc gia. Các chỉ số<br />
mức độ so sánh của báo cáo tài chính có thể sử<br />
chung có thể được biểu diễn dưới dạng toán học<br />
dụng phương pháp đo lường để thiết lập các mục<br />
như sau:<br />
tiêu liên quan đến mong muốn mức độ so sánh cho<br />
một khoản mục trong báo cáo tài chính. Để đạt<br />
được mức độ so sánh cần so sánh với các chuẩn<br />
mực kế toán (Tas, 1988). Tay và Parker (1992) đang<br />
thực hiện các phương pháp thay thế để đo lường<br />
- m: phương pháp kế toán thay thế m sự so sánh mặc dù họ đồng ý với quan điểm của<br />
Tas(1988). Hoạt động so sánh tập trung vào việc<br />
- n: quốc gia n so sánh các kết quả từ các nước khác nhau và các<br />
- Pmn: tần số phương pháp kế toán m ở quốc nghiên cứu đo lường tập trung thực hiện những<br />
gia n báo cáo về mức độ so sánh không hoàn toàn, so<br />
sánh hoàn toàn. Mức độ so sánh có thể được định<br />
Biên độ dao động của chỉ số I theo Tas (1988)<br />
lượng bằng cách sử dụng chỉ số tập trung. So sánh<br />
dao động từ 0 (không hòa hợp với nhiều phương<br />
mức độ so sánh trong các giai đoạn khác nhau sẽ<br />
pháp khác nhau) đến 1 (hòa hợp với các doanh<br />
cho thấy sự so sánh và không so sánh. Mức độ so<br />
nghiệp sử dụng cùng một phương pháp) và từ cách<br />
sánh có thể được đo lường bằng các phương pháp<br />
tính chỉ số này cho thấy mức độ (không) tuân thủ.<br />
thay thế như thử nghiệm thống kê phi tham số, đo<br />
Ví dụ, Giả sử cho rằng hai nước (A và B) trong một<br />
lường tập trung, đo dữ liệu chọn mẫu, phương sai<br />
khoảng thời gian quy định áp dụng hai phương<br />
của logarit, chỉ số Hannah-Kay, kiểm định t-test.<br />
pháp khác nhau (phương pháp 1 và phương pháp<br />
Tas(1992) bác bỏ những nỗ lực của Tay và Parker<br />
2). Việc sử dụng phương pháp nào của chỉ số I<br />
(1992) đã nói rằng các chỉ số H được tính theo bình<br />
được thể hiện trong Bảng 4.<br />
phương các tần số tương đối thay thế phương pháp<br />
Bảng 4. Cách tính của chỉ số I đo lường cho một loại giao dịch.<br />
Mức độ tập trung của các đơn<br />
vị kinh doanh được đo bằng chỉ<br />
số H xung quanh một hoặc một số<br />
phương pháp thay thế dẫn đến mức<br />
độ so sánh của chỉ số H ngày càng<br />
tăng. Tay và Parker dựa theo quan<br />
điểm của họ trên thực tế về chỉ số H<br />
là một chỉ số đo mức độ tập trung đã<br />
được thực hiện qua các thử nghiệm<br />
không quan trọng đồng nghĩa với<br />
Nguồn: Tas (1988)<br />
những thay đổi (thống kê) không quan trọng hoặc<br />
4. Ưu điểm và nhược điểm các chỉ số đo lường có thay đổi quan trọng trong giá trị của chỉ số. Tiếc<br />
Các ứng dụng định lượng đo lường mức độ so là, Tay và Parker không thảo luận về phương pháp<br />
sánh: (1) để xác định mức độ so sánh trong mối thực tế đo lường sự so sánh của chỉ số. Chỉ số C<br />
<br />
38 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN<br />
không phải là chỉ số tập trung, nhưng tỷ lệ được chọn thay thế có sẵn trái ngược với tổng số (n)<br />
tính bằng thương số của số lượng các cặp so sánh phương pháp thay thế. So sánh tăng lên khi c tăng<br />
được của báo cáo tài chính và tổng số các cặp của hoặc giảm khi n tăng. Tuy nhiên, rất khó để dự<br />
các báo cáo tài chính. Điều này xác nhận không đoán cách đo sự hòa hợp phản ứng khi biến đổi<br />
tồn tại các vấn đề trong việc áp dụng, các cuộc thử (c,n) cùng lúc theo nhiều hướng khác nhau. Vấn<br />
nghiệm thống kê thông thường có ý nghĩa. Ưu đề trên có thể được khắc phục bằng cách đo lường<br />
điểm của chỉ số C là: (1) sự tham gia của việc đo tập trung như chỉ số H và đo lường entropy (đo sự<br />
lường mức độ so sánh không hoàn toàn có ảnh bất định trong cấu trúc của hệ thống(E)). Áp dụng<br />
hưởng đến nhiều báo cáo và công bố thông tin bổ phương pháp entropy là không phù hợp vì nó gần<br />
sung trong các thuyết minh báo cáo tài chính cho<br />
như là không thể, lấy mẫu để thử nghiệm, tính xác<br />
phép người dùng khác nhau hiểu được báo cáo tài<br />
suất của việc không sử dụng một trong các phương<br />
chính, (2) sự biến động của chỉ số C cho thấy tầm<br />
pháp kế toán có sẵn và giá trị tương đối của việc<br />
quan trọng của các thử nghiệm.<br />
đo lường entropy là không phù hợp với các giá trị<br />
Tay và Parker (1992) đã không trình bày và nghĩ tuyệt đối. Với điều này có thể kết luận rằng chỉ số H<br />
ra một phương pháp khác. Các phương pháp này là biện pháp đáng tin cậy hơn trong việc đo lường<br />
được mô tả khá phức tạp và để lại một số câu hỏi mức độ so sánh. Vấn đề chung với các giá trị của<br />
chưa được trả lời, chẳng hạn như tầm quan trọng chỉ số C là đánh giá những thay đổi chỉ số trọng<br />
của các thử nghiệm, đo lường mức độ tập trung<br />
yếu của sự so sánh với những thay đổi trong công<br />
và làm thế nào để áp dụng phương pháp tập trung<br />
bố thông tin đó xuất hiện cùng một lúc.<br />
trong việc phát hiện vấn đề. Tầm quan trọng của<br />
các thử nghiệm không có nghĩa là kiểm tra sự quan 5. Minh họa đo lường mức độ so sánh<br />
trọng của biến động mức độ so sánh, nhưng tập Nghiên cứu của Hermann và Thomas (1995)<br />
trung vào mức độ quan trọng của sự so sánh. Tầm cố gắng để xác định mức độ so sánh của kế toán<br />
quan trọng của sự biến động mức độ so sánh chưa trong Liên minh châu Âu (EU27) bằng cách xem<br />
được thử nghiệm một cách phù hợp vì các phương<br />
xét thực tiễn sự đo lường nhất định trong khoảng<br />
pháp đo lường được đưa ra có nhược điểm nhất<br />
thời gian từ năm 1992 đến năm 1993 cho các báo<br />
định như chỉ số H. Nhược điểm nữa của phương<br />
cáo hàng năm của tám quốc gia thành viên EU (Bỉ,<br />
pháp Tay & Parker là không thể ảnh hưởng đến<br />
Đan Mạch, Pháp, Đức, Ireland, Hà Lan, Bồ Đào<br />
nhiều báo cáo hoặc bổ sung thông tin trong các<br />
Nha và Vương quốc Anh). Sự so sánh đã được thử<br />
thuyết minh để đo lường sự so sánh không hoàn<br />
nghiệm bằng cách sử dụng thử nghiệm chia bình<br />
toàn từ một báo cáo tài chính được lập chỉ bằng<br />
một phương pháp thay thế của phép đo lường. phương và đo bằng chỉ số “I”. Kiểm định t-test xem<br />
Có thể kết luận rằng để đo lường mức độ so sánh xét sự tương đương của các phương pháp kế toán<br />
không hoàn toàn của các chỉ số C thì phương pháp đối với các nước này, trong khi chỉ số đo mức độ<br />
của Tay và Parker chắc chắn không phải là tốt nhất. tập trung xoay quanh các phương pháp đo lường kế<br />
toán riêng biệt được lựa chọn để thử nghiệm.<br />
Tay và Parker (1992) nhận xét tư duy của Tas<br />
(1992) như sau: vấn đề chung liên quan đến việc Bảng 5 cho thấy các kết quả nghiên cứu của<br />
sử dụng mức độ tập trung để định lượng sự so Hermann và Thomas. Mức độ tuân thủ cao nhất là<br />
sánh bắt nguồn từ tiềm ẩn của các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao dịch ngoại tệ ở thị trường trong<br />
(c) về một hoặc nhiều hơn các phương pháp lựa nước và xác định giá trị hàng tồn kho.<br />
Bảng 5. Tóm tắt các chỉ số và kiểm định chi bình phương.<br />
<br />
Chỉ số I Kiểm định T-test<br />
Bảng cân đối kế toán 0,9040 7,22<br />
Giao dịch ngoại tệ 0,8494 6,88<br />
Xác định giá trị hàng tồn kho 0,7943 17,89<br />
Báo cáo thu nhập 0,6433 54,39<br />
Phương pháp khấu hao 0,6245 134,82<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 115 - tháng 5/2017 39<br />
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI<br />
<br />
<br />
Chi phí nghiên cứu và phát triển 0,4105 38,76<br />
Đánh giá lại tài sản cố định 0,2852 93,34<br />
Lợi thế thương mại 0,2457 124,90<br />
Phương pháp tính giá hàng tồn kho 0,2292 71,88<br />
Nguồn: Herrmann and Thomas (1995)<br />
6. Kết luận Germany and UK, Accounting and Business<br />
Research, 23(89), pp. 49–58.<br />
Mục đích của bài viết này là để hỗ trợ các nhà<br />
6. Fontes, A., Rodrigues, L. L., Craig, R.,<br />
nghiên cứu trong việc lựa chọn phương pháp thích (2005), Measuring convergence of National<br />
hợp nhất để đo lường khả năng so sánh của báo cáo Accounting Standards with International<br />
tài chính. Bài viết chỉ đề cập việc sử dụng các chỉ Financial Reporting Standards, Accounting<br />
số để đo lường tính so sánh được. Người sử dụng Forum, Volume 29, Issue 4, pp. 415-436.<br />
các chỉ số có xu hướng thích đồng nhất và cho rằng 7. Herrmann and Thomas, (1995),<br />
Harmonisation of Accounting Measurement<br />
việc so sánh tối đa tồn tại khi tất cả các công ty sử Practices in the EuropeanCommunity,<br />
dụng cùng phương pháp kế toán. Ngoài ra, còn có Accounting&Business Research, 25(100):<br />
thể sử dụng mô hình thống kê. Các mô hình thống 253-265. p.264.<br />
kê thích sự linh hoạt và cho rằng việc so sánh tối đa 8. Mustata, R. V., Matis, D., (2007), Measurement<br />
tồn tại khi các công ty có thể sử dụng các phương of need for harmonization between national<br />
accounting standards and international<br />
pháp kế toán thích hợp nhất bất kể quốc gia nào.<br />
financial reporting standards, Journal of<br />
Việc lựa chọn phương pháp tùy thuộc vào cách tiếp International Business and Economics,<br />
cận khái niệm tính so sánh được. Dựa trên các yêu 3(VII), pp. 23-46.<br />
cầu này, các phương pháp thích hợp nhất sau đó có 9. Rahman, A., Perera, H., Ganeshanandam, S.,<br />
thể được lựa chọn. Bất kể phương pháp được lựa (1996), Measurement of formal harmonisation<br />
chọn, nghiên cứu thêm là cần thiết để đo lường khả in accounting: an exploratory study, Accounting<br />
and Business Research, 26(4), pp. 325–339.<br />
năng so sánh các báo cáo tài chính để kết luận rằng<br />
10. Roberts, C., Weetman, P., Gordon, P., (2008),<br />
các báo cáo tài chính có thể so sánh. International corporate reporting – a comparative<br />
approach, 4th Edition, Prentice Hall<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO 11. Sterling, R., (1969), A test of the uniformity<br />
1. Aisbitt (2001), Measurement of harmony hypothesis, Abacus, Vol. 5, No. 1, pp.37–47.<br />
of financial reporting within and between 12. Tas, L. (1988), Measuring Harmonisation<br />
countries: the case of the Nordic countries, of Financial Reporting Practice.<br />
European Accounting Review, Volume 10, Accounting&Business Research, 18(70), pp.<br />
Issue 1, pp. 51 – 72. 157-169.<br />
2. Archer, S., Delvaille, P., McLeay, S., (1995), 13. Tas, L., (1992), Evidence of EC financial<br />
The Measurement of Harmonisation and the reporting practice harmonization: The case<br />
Comparability of Financial Statement Items: of deferred taxation, European Accounting<br />
Within-Country and Between-Country Review, 1(1), pp. 69–104.<br />
Effects, Accounting & Business Research, 14. Tas, L., (1995), International accounting<br />
25(98), pp. 67-80. harmonization: American hegemony or<br />
3. Baker and Barbu, (2007), Trends in mutual recognition with benchmarks?,<br />
research on international accounting European Accounting Review, 4(2), pp.<br />
harmonization, The International Journal 255–260.<br />
of Accounting, Volume 42, Issue 3. 15. Tay, J. S. W., Parker, R. H., (1990),<br />
4. Belkaoui, A. (2004), Accounting Theory, 5th Measuring international harmonization<br />
ed., p.598, Thomson. and standardization, Abacus,26, pp. 71–88.<br />
5. Emenyonu, E. N., Gray, S. J., (1992), EC 16. Walton, P., Haller, A., Raffournier, B.,<br />
accounting harmonization, an empirical (2003), International Accounting, 2nd<br />
study of measurement practices in France, Edition, Cengage LearningEMEA.<br />
<br />
<br />
40 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN<br />