ĐỌC VĂN VÀ NIỀM VUI<br />
TỪ GÓC NHÌN CỦA MỘT SỐ NHÀ NGHIÊN CỨU PHÁP<br />
TRƯƠNG DĨNH<br />
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Đọc văn là niềm vui đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ. Đọc văn<br />
là để tự khám phá. Niềm vui đọc văn là niềm vui hưởng thụ khác với niềm<br />
vui bình thường. Người ta còn ví niềm vui đọc văn như niềm vui với trò chơi<br />
từ ngữ. Nhiều nhà nghiên cứu coi việc đến với văn học như đến với tình yêu<br />
và khuyến khích cách đọc riêng tư. Môi trường đọc cũng ảnh hưởng đến<br />
niềm vui đọc văn. Hiện nay, học sinh và cả xã hội chưa thích đọc văn. Đó là<br />
trách nhiệm trước tiên của nhà trường và sau đó của các nhà văn.<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Câu hỏi cần đặt ra với những ai muốn suy nghĩ về dạy học văn và mục đích dạy học văn<br />
là: Tại sao người ta viết và tại sao người ta đọc? (thường là số đông hơn). Các câu hỏi<br />
này thực ra không có gì mới nhưng tìm câu trả lời là cần thiết để khẳng định lại các định<br />
nghĩa trước đây về tác phẩm văn học.<br />
Trong các định nghĩa trước đây, người ta loại trừ các ý tưởng về sự “ giao tiếp văn học”<br />
(từ của Jakobson).<br />
“Mọi cuộc giao tiếp đều giả định một tình huống giao tiếp. Tác phẩm văn học (căn cứ<br />
vào tính đã nghĩa của nó) không giả định bất cứ điều gì”.<br />
“Đặc thù của văn bản văn học là ở ngoài mọi tình huống”. [1].<br />
“Trong phút chốc, chúng ta chìm đắm trong bóng tối tê lạnh” (Beaudelaire).<br />
Thomas Aron cho rằng câu thơ ấy không báo hiệu gì về một mùa đông tiệm cận đối với<br />
người đọc và người sáng tác. Tác phẩm văn học tách ra khỏi nguồn gốc văn hóa và cả<br />
ngẫu tính của thời điểm sáng tác. “Nhà văn sáng tác cho muôn đời” _Người đọc luôn<br />
hướng về bản ngã, không lệ thuộc và thời gian, không gian sáng tác, mặc dù nhà văn có<br />
ghi cả thời điểm và địa điểm sáng tác đó. Họ không thích đọc một bài báo cũ sau một<br />
năm nhưng lại thích đọc một nhà văn thời cổ đại.<br />
1. Vậy thì sự bí ẩn thần kỳ của việc đọc văn là ở đâu? [2].<br />
Điều người ta tìm tòi từ một tác phẩm văn học không phải là một thông báo mà là một<br />
xúc động, không phải một định nghĩa mà là một cảm giác do hiệu quả phối hợp có dụng<br />
ý giữa ngôn ngữ và ý nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng kinh nghiệm thẩm mỹ phụ<br />
thuộc vào chủ quan và quy trình của sự cảm nhận. Valery – người có ý thức rõ rệt về<br />
vấn đề này – thấy cần phải nhắc lại sự “nhập nhằng” của từ “thơ ca”, vừa chỉ “cảm xúc<br />
thơ ca”, vừa chỉ “thể loại thơ ca”.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 03(23)/2012, tr. 96-102<br />
<br />
ĐỌC VĂN VÀ NIỀM VUI TỪ GÓC NHÌN CỦA MỘT SỐ NHÀ NGHIÊN CỨU PHÁP<br />
<br />
97<br />
<br />
“Cảm xúc thơ ca” là một thứ cảm xúc thoáng qua, lay động chúng ta trước một phong<br />
cảnh, một buổi chiều tàn, cho ta một “cảm xúc vũ trụ” mà nhà văn đã làm dấy lên ở ta<br />
một cách có ý thức ngoài các điều kiện tự nhiên đã sản sinh ra nó.<br />
Tất cả các điều nói trên các trường học đều biết cả. Tuy nhiên, có một số nhà văn đã đi<br />
quá xa dẫn đến chủ nghĩa siêu thực. Họ đã đi trái quy tắc có hệ thống về nghĩa và đã đảo<br />
lộn cách hưởng thụ thẩm mỹ của chúng ta [3]. Tất cả các trào lưu hiện đại hóa thơ ca<br />
đều do đó mà ra cả.<br />
Riffateric đã khái quát cái lôgích siêu thực đó đối với văn học. Tiếp nối Breton, ông giải<br />
thích: Điều đặc thù của kinh nghiệm văn học là tự lâm vào trạng thái “lạc loài”, sự “tập<br />
dượt tha hóa”, một sự đảo lộn tư duy, tri giác và các thói quen biểu cảm [4]. Chỉ cần<br />
thay đổi xu thế xúc cảm và tri giác của cá nhân là có thể coi tác phẩm văn học nói riêng<br />
và nghệ thuật nói chung phụ thuộc chủ yếu vào sự “nhạy cảm” của người đọc.<br />
Dubrovoski nói:<br />
“Tác phẩm văn học không đưa lại cho chúng ta một hành động thuần túy của nhận thức<br />
trí tuệ mà là “một hành động tham dự” cảm tính bằng toàn bộ bản ngã [5]. Điều đó được<br />
nhiều người chấp nhận. Ngay các nhà nghiên cứu mác xít am hiểu như Marcuse trong<br />
“Những kích thước thẩm mỹ” cũng trách cứ một số nhà nghiên cứu đã phủ nhận tính<br />
chủ quan trong nghệ thuật, cho đó là biểu hiện tư sản, đồng nhất với lý tưởng giai cấp<br />
trong khi đó đặc thù của nghệ thuật là đo lường “kích thước nhân văn” của cá nhân<br />
trong sự mở rộng của nó, đánh thức trí tưởng tượng, sức nhạy cảm, lĩnh vực ý thức và<br />
vô thức – Eros và Thanatos – sự mệt mỏi và niềm vui, sự hy vọng và ưu tư, tất cả các<br />
biểu hiện đó không phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giai cấp [6]. Và cũng từ đó, giải thích<br />
được tính nhân loại và tính siêu việt của nghệ thuật.<br />
2. Người ta cũng nói - như Picard - về “trò chơi” khi viết cũng như đọc văn, luôn luôn<br />
tạo sự “phong tỏa” bản thân và tính chủ quan. Theo Picard, “trò chơi văn học” không<br />
chỉ là một công việc giản đơn từ ngôn ngữ hoặc như người ta nói “trò chơi với từ”,<br />
thuần túy thoát khỏi mọi căn cứ và mối quan hệ với bản ngã, với cảm xúc. Điều đó làm<br />
ta nghĩ đến lối viết thuần túy máy móc của các nhà văn siêu thực.<br />
Sự tiếp cận của Picard khi đồng nhất việc đọc văn với trò chơi văn học và thực hành<br />
nghệ thuật nói chung đã đặt vấn đề dưới dạng phân tâm học.<br />
Picard dẫn lời Freud: “Nhà văn sáng tác như trẻ con chơi”. Trò chơi văn học của người<br />
lớn nằm giữa văn học và ảo ảnh. Picard cũng dẫn lời của Henriot - nằm trong dòng của<br />
Freud - định nghĩa chức năng của trò chơi trong tương quan với chủ thể. “Trò chơi<br />
không sản sinh gì từ bên ngoài nó, tuy nhiên trong một chừng mực nào đó, người chơi<br />
lại là tác phẩm của trò chơi”. Và ông còn giải thích qua nhiều thí dụ: làm thế nào để trò<br />
chơi - trong đó có trò chơi đọc văn - trở nên cơ chế của sự chống trả, của sự “giải tỏa”,<br />
của sự “chiếu xuất” (projection) và sự thăng hoa (theo ý nghĩa phân tâm học của các<br />
khái niệm này).<br />
Như vậy, trong trò chơi, chính “cái tôi” (le je) lại chính là vấn đề - và trong việc đọc văn<br />
cũng như vậy.<br />
<br />
98<br />
<br />
TRƯƠNG DĨNH<br />
<br />
3. Françoise Sagan - từ uy tín của một người đọc thông thạo - đã tóm tắt đầy đủ qua<br />
kinh nghiệm cá nhân _ những hoàn cảnh trong đó việc đọc văn như là “nơi để khám phá<br />
bản thân”. Bà nói: “Những cuốn sách đã khám phá tôi”. “Tôi - dĩ nhiên là người đọc nhưng còn là “cái tôi hiện hữu” (le moi-existant) [7].<br />
Có thể khẳng định rằng sự khám phá bản thân, sự săn tìm cảm xúc, sự xâm nhập của sự<br />
nhạy cảm chứng tỏ rằng đối với việc đọc văn, người ta “chỉ đọc với tình yêu văn” và với<br />
niềm vui riêng. Đó là một sự thật giản đơn mà nhiều người không muốn biết.<br />
Daniel Pannac, trong cuốn sách “Như một cuốn tiểu thuyết”, cuốn sách được nhiều<br />
người biết, đã viết:<br />
“Niềm vui của việc đọc văn - từ xưa nay, trên mọi góc độ nghiên cứu, không có trong<br />
chương trình dạy văn và do đó kết quả của việc hiểu “văn học ở trường học chỉ là kết<br />
quả của sự đau khổ” (souffrance) - theo đúng nghĩa của từ này [8].<br />
Chúng ta sẽ xem tiếp số phận nhà trường sẽ thế nào đối với chân lý về niềm vui đọc văn:<br />
“Người đọc không bao giờ là người thu nhận lạnh lùng. Họ phải duy trì mối quan hệ sâu<br />
xa với văn bản. Không phải vô ích khi nhắc lại lý thuyết của Roland Barthes về “niềm<br />
vui văn bản” trong sự phân biệt với “niềm vui thông thường” và “niềm vui hưởng thụ”.<br />
Đó không phải là sự phân biệt về mức độ: văn bản của niềm vui (le text de plaisir) là<br />
văn bản làm vui lòng, tràn đầy, chan chứa sảng khoái, gắn liền với văn hóa nhưng<br />
không hòa lẫn, và sự thực hành nghiêm túc việc đọc” [9]. “Văn bản của sự hưởng thụ”<br />
(le texte de jouissance) đưa ta vào trạng thái mất mát, làm ta yếu mềm (có khi dẫn đến<br />
một nỗi ưu tư), nó làm chao đảo những nền tảng văn hóa, lịch sử, tâm lý của người đọc,<br />
làm chao đảo sự vững chắc của thị hiếu, của những giá trị, của những hoài niệm, đưa<br />
người đọc vào sự khủng hoảng trong mối liên hệ với ngôn ngữ”. Nói đơn giản hơn, hình<br />
thức đầu tiên của niềm vui, đó là hiệu quả tổng hợp của sự phản chiếu bản ngã, của sự<br />
tự khám phá mình, điều làm cho người đọc nhận thấy bóng dáng riêng của mình, sự<br />
thoải mái trong thói quen của tư duy, của thị hiếu, của văn hóa. Chắc chắn đó là một<br />
“niềm vui thân thuộc” nhất hay ít nhất cũng là phổ biến nhất. Niềm vui đó lay chuyển<br />
những xác tín của người đọc, tiêu hủy tâm trạng nghi ngờ, phá vỡ những niềm mong<br />
đợi. Rõ ràng niềm vui đọc văn khác với niềm vui thông thường.<br />
4. Trong mọi trường hợp vui hay hưởng thụ, mối quan hệ giữa người đọc với văn bản<br />
là “một quan hệ tình yêu”, có người còn nói đó là “tình yêu say đắm”.<br />
Theo Pennac, tình yêu đối với văn học là một tình yêu di sản từ tuổi thơ, bắt đầu từ việc<br />
nghe kể chuyện ở tuổi còn chưa tự đọc được [8]. Lớn lên, niềm say mê đọc văn mạnh<br />
mẽ dẫn đến sự “khát khao chia sẻ”, một sự chia sẻ đòi hỏi có phân biệt và chọn lọc<br />
quyết liệt.<br />
Pennac nói: “Cuốn sách mà người ta yêu thích nhất cần được chia sẻ với những người<br />
mà người ta yêu thích nhất”.<br />
Nhưng cũng như mọi sự say mê, sự say mê đọc văn có thể dẫn đến sự tự khép mình.<br />
Đọc văn phải chăng là hành động giao tiếp? Đã có bao nhiêu người bàn luận về vấn đề<br />
<br />
ĐỌC VĂN VÀ NIỀM VUI TỪ GÓC NHÌN CỦA MỘT SỐ NHÀ NGHIÊN CỨU PHÁP<br />
<br />
99<br />
<br />
này. Thật ra, điều mà ta đọc, ta thường thầm giấu. Niềm vui đọc văn luôn được giữ lại<br />
trong “bí ẩn của sự ganh ghét” (Pennac). Valéry đã chú ý đến hiện tượng đó. Và ông<br />
cũng nói về sự bí ẩn, về sự ganh tị của niềm vui đọc văn: “Nếu một người nào đó<br />
thưởng thức một bài thơ, họ sẽ có sự quyến luyến cá nhân với bài thơ đó. Tôi đã biết có<br />
người đã ganh tị với những gì họ đã say mê đắm đuối đau khổ vì người khác cũng say<br />
mê, đau khổ như thế, cho rằng sự chia sẻ là vi phạm tình yêu. Họ muốn giấu kín hơn là<br />
chia sẻ tình yêu đó như các ông chồng Á Đông thông minh giấu kín những bí mật về vợ<br />
mình” [10].<br />
Người ta biết rằng Valéry rất si tình với ngôn ngữ của mình. Ông còn nói niềm vui đọc<br />
văn còn phụ thuộc vào sự “ham muốn” (désir). Ông coi việc tiếp xúc với bài thơ như<br />
tiếp xúc với một cơ thể.<br />
“Văn bản văn học có dạng người, đó là một khuôn mặt, một đảo hình của cơ thể. Vâng!<br />
Đó là cơ thể gợi tình. Niềm vui đọc văn không hạn chế ở chức năng ngữ pháp (ngữ pháp<br />
văn bản), cũng như khoái cảm với cơ thể không chỉ là một nhu cầu sinh lý” [9].<br />
“Ngôn ngữ thơ là một người đàn bà”. Ngôn ngữ Pháp trở thành đàn bà khi ông ta<br />
(Eluard) bắt nó trải dài trên mặt giấy và niềm vui đọc văn của ông như một sự gặp gỡ<br />
yêu đương. Đối với người đọc, nó tạo nên một hiện tượng cá thể hóa không phải không<br />
có điểm giống với sự gặp gỡ yêu đương” [11].<br />
Chúng ta hãy bằng lòng với các nhận thức trên đây, dù vẫn còn ngắn ngủi - về mối quan<br />
hệ của niềm vui đọc văn với tình dục và của tình dục đối với niềm vui đọc văn.<br />
Không đòi hỏi phải đi xa hơn về phân tâm học. Chỉ cần có xác tín rằng: “mối quan hệ<br />
với văn chương không thuộc chủ yếu về trí tuệ mà thuộc về cảm xúc”, trong đó cần nói<br />
đến sự ham muốn.<br />
5. Tuy nhiên, chúng ta cần nghiên cứu các điều kiện của việc đọc văn với bản chất tự<br />
nhiên của nó như một hành động của niềm vui, một đối tượng của sự say mê.<br />
Hãy lắng nghe hành động đó trong bài thơ: “Những bước đi (Des Pas) mà Valéry coi là<br />
“bước đi” của sự sáng tạo thi ca:<br />
“Đừng vội vàng động tác dịu êm ấy<br />
Sự dịu êm tồn tại hay không tồn tại.<br />
Bởi vì tôi đã sống trong sự chờ đợi em<br />
Và trái tim tôi chỉ là bước chân của em!”<br />
Diễn biến đầu tiên của việc đọc văn nhất quyết không phải là do lời khuyên nhủ hay ít<br />
nhất là sự sai khiến. Nó không thích nghi với bất cứ một sự cưỡng ép, ràng buộc nào.<br />
Trong cuốn sách mà Pennac bắt đầu bằng một sự nhận xét, ông kết hợp tinh tế ba động<br />
từ: Đọc - yêu thương - mơ mộng.<br />
Người ta luôn luôn có thể tự thể nghiệm điều đó:<br />
<br />
100<br />
<br />
TRƯƠNG DĨNH<br />
<br />
“Mơ mộng! Đọc! Đọc! Đúng là như vậy! Hãy đọc với nhiệt huyết ! Tôi muốn anh đọc! Hãy<br />
vào trong phòng ngủ mà đọc - có hiệu quả! Hay không! Nó lịm đi trên cuốn sách” [8].<br />
Luật không thành văn của việc đọc cho phép người đọc có quyền không đọc. “Quyền tự<br />
do viết không bắt buộc đi đôi với tự do đọc” [8].<br />
Người ta có thể đọc toàn bộ hay nhảy trang. Đó chính là nhịp điệu của việc đọc tạo nên<br />
niềm vui. Người ta không bao giờ đọc Proust, Balzac, Guerre et Paix từng từ một.<br />
(Hạnh phúc cho Proust: tất cả các người đọc Proust đều không bỏ qua cùng một số<br />
trang) [9].<br />
Người ta cũng có quyền thay một chuyến du lịch bằng một quyển sách<br />
“Khi ta không có thì giờ và phương tiện để đi du lịch một tuần ở Venise, tại sao lại từ<br />
chối quyền được tham quan Venise với 5 phút đọc” (ý nói đọc cuốn sách về Venise T.D.) [8].<br />
Tóm lại, các điều kiện tự nhiên của việc đọc làm phát triển mối quan hệ say mê với tác<br />
phẩm, mối quan hệ đó điều khiển các thao tác và buộc ta chịu đựng những thay đổi bất<br />
thần. Khi người ta viết một cuốn sách hay vẽ một chân dung người nào đó, người ta tự<br />
đồng nhất với người khác - tích cực hay tiêu cực - thể hiện các phản ứng tâm lý hay<br />
chính trị của mình. Nhiều nhà văn thích thú với hiện tượng trên (Genevière Mouillaud<br />
trong hội thảo ở Cerisy (1971) hay các nhà nghiên cứu gần đây hơn như Yves Bonnefoy<br />
(xem số báo đặc biệt: “Tiếng Pháp trên thế giới” nói về việc dạy văn) khi đề cập các<br />
khái niệm: “đọc hoang dã” (lecture sauvage: ý nói đọc xô bồ), “đọc thuần hóa” (lecture<br />
domestiqueé: ý nói đọc trong gia đình), khái niệm “đọc có giám sát” (lecture policée: ý<br />
nói việc đọc trong nhà trường). Pennac đã từng đồng nhất các điều kiện tự nhiên của<br />
việc đọc tự nhiên với chủ nghĩa Bovarysme.<br />
“Nói một cách thô thiển, chủ nghĩa Bovary (trong tác phẩm Bà Bovary - T.D.) là sự<br />
thỏa mãn duy nhất và tức khắc các cảm xúc: trí tưởng tượng bừng sáng, thần kinh rung<br />
động, con tim bốc đồng, chất kích thích thượng thận tiết ra, sự đồng hóa được thực hiện<br />
trên nhiều phương vị, đầu não tưởng tượng các bong bóng nước như các ngọn đèn lồng<br />
ảo mộng. Đó chính là trạng thái đầu tiên của niềm vui đọc văn” [8].<br />
Chủ đề về việc “đọc riêng tư” (lecture dans la solitude) đối với Proust là một chủ đề<br />
được ông chú ý. Ông coi việc đọc một cách riêng tư là một “phép mầu diệu kỳ” giúp<br />
ông liên tưởng đến khái niệm “cộng hưởng trong sự cô đơn”, nhiều khi có ý nghĩa hơn<br />
việc đọc đối thoại, dù rất tâm tình. Nếu được nói đọc văn là một sự gặp gỡ của tình yêu<br />
thì như một nữ sinh viên nào đó đã nói: “Đọc một bài văn là tỏ tình với các từ ngữ và tôi<br />
nghĩ rằng không ai muốn tỏ tình công khai (trong bài: “Chúng tôi dạy văn” trong báo<br />
“Tiếng Pháp ngày nay” - Syros 1986).<br />
6. Ngoài yêu cầu riêng tư hay sự tâm tình, H.Besse còn lưu ý đến một số trường hợp đặc biệt.<br />
Tại sao người lớn thích đọc văn trong dịp nghì hè? Trong một môi trường thuận lợi, việc<br />
đọc văn có thể nuôi dưỡng trí tưởng tượng của người đọc. Sự nhàn nhã trong việc đọc văn<br />
<br />