ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY THỰC HÀNH HÓA HỌC<br />
Thạc sĩ: Phan Thị Nhì<br />
Bộ môn Hóa<br />
<br />
I. Đặt vấn đề<br />
Sử dụng các phương pháp tích cực vào giảng dạy Hoá học ở bậc Đại học <br />
hiện nay là rất cấp thiết. Với việc trang bị những thiết bị và đồ dùng dạy học, <br />
phục vụ cho việc cải cách giáo dục hiện nay tại Bộ môn Hóa Đại học Nha trang <br />
(NTU) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Giảng viên sử dụng các phương pháp dạy <br />
học tích cực trong quá trình dạy và học Hoá học. Thí nghiệm Hóa học sẽ tạo cơ <br />
hội cho Sinh viên bổ sung kiến thức, nắm vững các khái niệm, định luật … về lý <br />
thuyết và rèn luyện kỹ năng làm thực nghiệm, nghiên cứu khoa học, làm sáng tỏ <br />
những gì học tại lớp và học qua sách vở. Sự hình thành những câu hỏi, kiểm chứng <br />
giả thuyết, thu thập dữ liệu và phân tích số liệu để giải quyết vấn đề trong lí luận <br />
và thực tiễn về Hóa học chỉ có thể thực hiện trong phòng thí nghiệm. <br />
Mục đích của bài viết này là làm thế nào để kích thích Sinh viên không chuyên <br />
Hóa, thích học Hóa học và thích làm thí nghiệm Hóa học. Phương pháp dạy học “ <br />
Nêu và giải quyết vấn đề trong thí nghiệm Hóa học” theo phương pháp Spickler hy <br />
vọng đạt được kết quả cao. <br />
II. Những vấn đề cần giải quyết<br />
1. Tại sao cần đổi mới phương pháp dạy trong thực hành thí nghiệm Hóa học? <br />
Mấy năm vừa qua, tuyển sinh Đại học nước ta thực hiện theo tiêu chí 3 chung. <br />
Môn Hóa học được đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm. Vì vậy, Sinh viên <br />
không quen học theo kiểu tự luận, tự mình giải quyết các tình huống có vấn đề. <br />
Qua thực tế giảng dạy, rất nhiều Sinh viên (Tôi không dám nói là phần đông) <br />
không nắm được các kiến thức cơ bản về Hóa học ở bậc trung học phổ thông. <br />
Thậm chí, công thức Hóa học, cách gọi tên … một chất Hóa học đơn giản, thông <br />
thường cũng không biết viết, biết đọc. Điều này đã cản trở Sinh viên tiếp thu <br />
những kiến thức mới, cao hơn nhiều ở bậc Đại học. Như một ngôi nhà cao tầng <br />
được xây trên một nền móng yếu kém, với lại xã hội có nhiều điều hấp dẫn hơn, <br />
Sinh viên chơi nhiều hơn học. Sinh viên phải đăng kí học lại nhiều. Đó là điều <br />
hiển nhiên. <br />
Giáo viên không chỉ “khổ sở dài dài” khi đánh giá kết quả học tập lí thuyết <br />
qua kiểu tự luận mà còn “vất vả dài dài hơn” khi cho Sinh viên thực hành Hóa học. <br />
Hiện nay, việc học tập Hóa học của Sinh viên thông qua môn thực hành thí nghiệm <br />
ở bậc Đại học, theo Tôi vẫn chưa thực sự phản ảnh đúng với bản chất của khoa <br />
học. Trong nhiều năm qua, tại NTU hình thức giảng dạy thực hành Hóa học là bắt <br />
Sinh viên phải tuân thủ đúng theo những bước đã được soạn thảo trong tài liệu thí <br />
nghiệm, tỉ mỉ rập khuôn lại các bài thực tập nhằm kiểm tra các khái niệm và lý <br />
thuyết học tại lớp (còn các môn học khác có thí nghiệm thì sao?). Nhưng thực sự, <br />
khoa học là luôn gắn liền với các yếu tố “khám phá và phóng tới” chứ không phải <br />
khuôn mẫu. Lâu nay, Sinh viên được yêu cầu mua các “tài liệu hướng dẫn thí <br />
nghiệm” mà trong tài liệu này đã có sẵn những chỉ dẫn về thao tác và từng bước <br />
thực hiện cụ thể. Như vậy, Sinh viên gần như thụ động và rập khuôn mà không có <br />
sự sáng tạo của riêng mình. Sinh viện thực hiện theo các mệnh lệnh trong tài liệu <br />
hướng dẫn. Công việc này bắt đầu từ việc Giảng viên giải thích cho Sinh viên rất <br />
chi tiết về những điều gì sẽ xảy ra từ đầu đến cuối thí nghiệm với mục đích là <br />
phải đảm bảo cho Sinh viên thí ngiệm “đúng”. Sinh viên chỉ biết thực hiện các thí <br />
nghiệm một cách máy móc, không có sáng tạo và tư duy. Cách dạy này đã tồn tại <br />
bao nhiêu năm nay rồi và kết quả là sau khi kết thúc môn học, kiến thức, kĩ năng và <br />
thái độ thực nghiệm của Sinh viên hầu như quay lại điểm xuất phát ban đầu. <br />
Tự nhận thấy trước đây, ai thích học ngoại ngữ thì học vì ít có nhu cầu về <br />
cập nhật kiến thức chuyên môn và giao tiếp, làm việc với người nước ngoài, đọc <br />
và dịch tài liệu bằng tiếng nước ngoài. Nhưng trong thời kì hội nhập ngày nay, <br />
điều đó không phải là tùy thích nữa mà nhà trường yêu cầu mỗi Giảng viên dạy <br />
Đại học để tồn tại và làm việc có hiệu quả, mỗi Giảng viên phải có các văn bằng <br />
ngoại ngữ theo yêu cầu. Bao khó khăn phải vượt qua và thực sự chúng ta đã vượt <br />
qua. NTU ngày càng có đông đảo các Thạc sĩ, Tiến sĩ được đào tạo từ nước ngoài, <br />
chất lượng người thầy, người cô được tăng lên. Chúng ta nên nhớ rằng, “ Bộ não <br />
của con người có khả năng tiếp nhận nhiều thông tin ở bất kỳ một thời điểm nào” <br />
và đó là những cái ngưỡng mà mỗi con người có ý chí phải cố gắng vượt qua. Nếu <br />
bộ não của Sinh viên hoạt động theo bài thí nghiệm đã được biên soạn tỉ mỉ thì <br />
trong suốt quá trình thí nghiệm, Sinh viên sẽ không có thời gian dành cho quá trình <br />
suy nghĩ về các vấn đề khoa học đang đặt ra. Sinh viên cũng không đủ thời gian <br />
suy nghĩ để chọn lựa cách tiến hành thí nghiệm khoa học, đặc biệt các kỹ năng xử <br />
lý sáng tạo. Cách giảng dạy rập khuôn theo từng chi tiết, đi đúng từng bước và cho <br />
từng giọt hóa chất vào ống nghiệm không những làm tê liệt việc rèn luyện những <br />
kỹ năng xử lý có tính khoa học mà còn làm cho Sinh viên nhàm chán, thiếu thích thú <br />
trong thí nghiệm. Khi Giáo viên yêu cầu Sinh viên tự thí nghiệm và tự tìm tòi khám <br />
phá với sự hướng dẫn, theo dõi của Giáo viên thì chắc chắn rằng, Sinh viên sẽ <br />
thực hiện và đáp ứng được (ngoại trừ Sinh viên Trung cấp và Cao đẳng) những yêu <br />
cầu của môn học và Họ sẽ phát triển và phát huy được khả năng tiếp nhận nhiều <br />
thông tin ở bất kỳ một thời điểm nào. <br />
2. Chúng ta cần làm gì?<br />
Thực tế tại NTU, số Sinh viên trong mỗi lớp là khá đông, trình độ Sinh viên <br />
trong lớp quá chênh lệch nên khả năng tiếp thu là khác nhau. Để nâng cao chất <br />
lượng giáo dục đào tạo, thực hiện được tinh thần chủ đạo “Lấy học sinh làm <br />
trung tâm của quá trình dạy học” theo Tôi, cần:<br />
a. Tăng cường giáo dục thái độ, không ngừng kích thích sự ham muốn tìm tòi <br />
những cái mới nhằm phát huy sự chủ động, sáng tạo của Sinh viên ở mức độ cao <br />
nhất, biến Họ thành những người có khả năng nghiên cứu, nắm vững các nội dung <br />
cần học và thiết tha những kiến thức mới về Hoá học để có thể áp dụng nghề <br />
nghiệp trong tương lai.<br />
b. Tăng cường các hoạt động rèn luyện kĩ năng thực hành của Sinh viên trong <br />
giờ học, làm cho Sinh viên trở thành chủ thể hoạt động bằng các biện pháp hợp lí <br />
như:<br />
Tổ chức cho Sinh viên tự giác làm các thí nghiệm, tự nhận xét thí nghiệm, <br />
ưu tiên sử dụng hình thức thảo luận, tranh luận, xây dựng giả thuyết…<br />
Các gợi ý của giáo viên phải làm tăng mức độ trí lực Sinh viên qua việc trả <br />
lời các câu hỏi tổng hợp, đòi hỏi so sánh, suy luận trước và sau khi thí <br />
nghiệm để Sinh viên tự mình giải quyết các tình huống có “vấn đề” từ <br />
thấp đến cao.<br />
c. Đổi mới phương pháp dạy thực hành Hóa hữu cơ bằng phương pháp <br />
Spickler.<br />
Công trình nghiên cứu của Sphickler và một số nhà giáo dục Bắc Mỹ về việc <br />
khảo sát nhiệm vụ thực hành trong các môn khoa học bậc Đại học đã cho các kết <br />
luận [2]:<br />
Gắn Sinh viên vào quá trình học tập tích cực.<br />
Làm cho Sinh viên có trách nhiệm học và lựa chọn tiến hành thí nghiệm <br />
một cách hứng thú.<br />
Đòi hỏi Sinh viên phải áp dụng nhiều kỹ năng xử lý thí nghiệm bao quát <br />
hơn và có thể đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay “Sinh viên tự <br />
nghiên cứu, tự học, tự phát triển tư duy và phát huy tính sáng tạo”.<br />
Thể hiện chất lượng công việc thí nghiệm khảo sát tốt hơn cho Sinh <br />
viên ở tất cả các trình độ, không những chỉ có những Sinh viên có trình <br />
độ cao và tư duy tốt mà thậm chí cho Sinh viên có trình độ tư duy thấp.<br />
Với yêu cầu hiện nay của nhà trường, phải đổi mới phương pháp giảng dạy <br />
bằng mọi hình thức từ nội dung đến phương pháp. Vì thế, tôi đã mạnh dạn đổi <br />
mới phương pháp giảng dạy trong thực hành Hóa học theo phương pháp Spickler <br />
(1984).<br />
3. Đổi mới như thế nào?<br />
Xuất phát từ suy nghĩ và mong muốn đem lại cách học tập chủ động hơn <br />
cho Sinh viên, Tôi đã ứng dụng phương pháp Spickler trong quá trình hướng dẫn <br />
thực nghiệm nhằm gắn Sinh viên với quá trình tự điều khiển thí nghiệm. Theo <br />
Spickler, muốn phát huy được tính tích cực của sự học qua thực nghiệm, cần tiến <br />
hành ba giai đoạn [1]:<br />
a. Giai đoạn khảo sát thăm dò là giai đoạn Sinh viên tự vạch ra cách tiến hành <br />
hoặc có thể truy tìm thí nghiệm và tham khảo trên Internet với mục đích là <br />
Sinh viên tiến hành thu thập số liệu mà không được giảng viên hướng dẫn <br />
chi tiết và tỉ mỉ.<br />
b. Giai đoạn sáng tạo là giai đoạn yêu cầu Sinh viên tự thiết kế cách thực hiện, <br />
tiến hành, phân tích số liệu và hình thành giả thiết.<br />
c. Giai đoạn khám phá, phát minh và kiểm tra giả thiết qua phản ứng thí <br />
nghiệm.<br />
Tôi đã xây dựng các thí nghiệm trên cơ sở không cung cấp chi tiết các bước <br />
tiến hành thí nghiệm như trước đây mà để Sinh viên tự tìm hiểu cách thức thí <br />
nghiệm theo sự hướng dẫn nội dung của Tôi và phải suy nghĩ làm thế nào để thực <br />
hiện được hiệu quả nội dung đó. Để Sinh viên nắm vững kiến thức, sau quá trình <br />
hướng dẫn và theo dõi Sinh viên thực hành thí nghiệm, Tôi đã củng cố lại toàn bộ <br />
kiến thức về phản ứng trong thực nghiệm cho Sinh viên nhờ minh họa qua hình <br />
ảnh, băng Video, file minh họa thí nghiệm … những thực nghiệm đó nhờ các thiết <br />
bị dạy học đã được trang bị. Và cuối cùng, Tôi yêu cầu Sinh viên viết tường trình <br />
những gì tự thực hiện được và đánh giá.<br />
Qua thực tiễn đổi mới, bảng 1 cho thấy sự khác biệt giữ 2 phương pháp dạy <br />
truyền thống và phương pháp Spickler.<br />
Bảng 1: So sánh cách dạy truyền thống và phương pháp Spickler<br />
Thứ tự Cách dạy truyền thống Cách dạy theo phương pháp Spickler<br />
1 Thí nghiệm kiểm chứng, cung Thí nghiệm cho Sinh viên tự khảo sát <br />
cấp cho Sinh viên qua tài liệu theo hướng dẫn<br />
Lý thuyết thí nghiệm trước khi Có thể cung cấp lý thuyết thí <br />
tiến hành thí nghiệm. nghiệm hoặc yêu cầu Sinh viên tìm tòi <br />
những thí nghiệm theo yêu cầu của giáo <br />
Tiến hành thí nghiệm chính viên.<br />
xác và tỉ mỉ như tài liệu hướng Hướng dẫn sử dụng thiết bị và <br />
dẫn. dụng cụ thí nghiệm.<br />
Sinh viên trình bày cách tiến hành <br />
và giáo viên kiểm tra lại tính khả thi của <br />
thí nghiệm hoặc có gợi ý kịp thời sơ bộ <br />
sau khi Sinh viên đã trình bày cách của <br />
Mô tả chi tiết như công thức mình<br />
Hóa học, hiện tượng quan sát, Không cung cấp các mô tả chi tiết cách <br />
cách tính toán, phân tích kết tiến hành thí nghiệm, cách tính toán, phân <br />
quả thí nghiệm và giải thích tích kết quả thí nghiêm. Giải thích kết <br />
kết quả và hiện tượng quan quả thí nghiệm.<br />
sát được.<br />
2 Mục đích đạt được<br />
Sinh viên kiểm tra lại hiện Mục đích đạt được<br />
tượng Hóa học và tính chất Sinh viên tự vạch ra các bước tiến hành <br />
Hóa học được học tại lớp. thí nghiệm.<br />
Sinh viên tự thu thập số liệu<br />
Sinh viên phân thích những gì thu thập <br />
Quá trình học tập được và đưa ra kết luận<br />
3<br />
Tuân theo những thí nghiệm Quá trình học tập<br />
cho sẵn và theo từng bước một Quá trình thực hiện tìm tòi và khám phá.<br />
của thí nghiệm.<br />
Giảng viên giảng trước khi <br />
Sinh viên tiến hành thí nghiệm. Giảng viên nhận xét và đánh giá quá <br />
trình học và củng cố kiến thức.<br />
<br />
<br />
III. Kết luận<br />
Những đổi mới giảng dạy thực hành Hóa học theo phương pháp Spickler <br />
này được áp dụng cho Sinh viên K51, ngành Công nghệ sinh học, hệ Đại học chính <br />
quy tại phòng thí nghiệm Hóa hữu cơ NTU. Kết quả đánh giá cho thấy kiến thức, <br />
kĩ năng và thái độ của Sinh viên tiến bộ vượt bực so với những năm trước đây. <br />
Tôi hy vọng báo cáo này sẽ có ích cho những môn học có học phần thực <br />
nghiệm và là một trong những cách đổi mới về phương pháp giảng dạy thí <br />
nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường chúng ta trong thời gian <br />
tới.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Keith W Prichard and R. mclaran Sawyer (1994). Hand book of College <br />
teachingtheory and application, Greenwood press, Westport Connectial <br />
London.<br />
2. Spickler, T.R (1884), an experiment on the efficacy of intuition development in <br />
improving higher levels of learning and reasoning in physical science. <br />
Dissertation Abstracts International, I, 143A<br />