VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG
ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI MÔNG TIN LÀNH Ở ĐẮC LẮC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
Ngành: Tôn giáo học Mã số: 9 22 90 09
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội - 2018
Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học xã hội
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. NGUYỄN HỒNG DƯƠNG
2. PGS.TS. CHU VĂN TUẤN
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Thanh Xuân
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Thị Minh Ngọc
Phản biện 3: TS.Bùi Thanh Hà
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án tiễn sĩ cấp Học viện
– Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2018
Có thể tham khảo luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tin Lành (Protestatism) du nhập vào Việt Nam từ năm 1911, nhưng phải 15 năm sau (1926), các giáo sĩ Tin Lành mới truyền bá vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở Nam Trường Sơn - Tây Nguyên. Qua buổi đầu phát triển khó khăn, đến năm 1938 [98], Tin Lành đã có chỗ đứng trong cộng đồng các DTTS và đến năm 1975, bức tranh đời sống tôn giáo của người Tin Lành ở khu vực Tây Nguyên hết sức phong phú với 126 Nhà thờ, 2 Trường Kinh Thánh, 7 Trung tâm truyền giáo, 3 cơ sở y tế, 216 Chi hội, 61.500 tín đồ, 42 mục sư, 91 truyền đạo và 50 truyền đạo sinh [38; tr 88], trong đó, Đắc Lắc (hay Đắk Lắk) nổi lên như một trung tâm Tin Lành với 62 nhà thờ, 12 mục sư, 38 truyền đạo, 01 Trường Thánh Kinh ở Buôn Ma Thuột, 01 trụ sở địa hạt Trung thượng hạt. Sau năm 1975, Tin Lành ở Đắc Lắc, Tây Nguyên bị các thế lực thiếu thiện chí với Nhà nước Việt Nam lợi dụng vào hoạt động chống phá an ninh trật tự, nên chính quyền đã đình chỉ mọi hoạt động tập trung của Tin Lành.
Từ năm 1986 trở lại đây, thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, trong đó có đổi mới nhận thức về tôn giáo và hoạt động tôn giáo, cùng với nhiều lý do khác, Tin Lành ở Tây Nguyên phục hồi và phát triển nhanh chóng với 15 hệ phái [99]. Nhiều DTTS như dân tộc Mông di cư đến Tây Nguyên đã chọn Đắc Lắc [100] là nơi định cư và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Tin Lành. Đến năm 2018, Đắc Lắc có 21.293 tín đồ dân tộc Mông thuộc 02 tôn giáo chính là Công giáo và Tin Lành. Buổi đầu, hầu hết đồng bào Mông theo Tin Lành Vàng Trứ (còn gọi là Vàng Chứ)[101] ở quê cũ, khi vào Đắc Lắc, có xu hướng hợp thức hóa việc theo đạo, nên họ chuyển theo hệ phái Tin Lành Trưởng Lão, Báp tít (Nam Phương), Tin Lành Việt Nam (miền Nam)... hình thành và phát triển đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, người Mông Tin Lành di cư tự do (DCTD) kéo theo tình trạng phá rừng làm rẫy, săn bắt động vật rừng, sử dụng vũ khí trái phép... Trong khi đó, hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính quyền cơ sở còn hạn chế, công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu gặp nhiều khó khăn, tình trạng phát triển đạo trái pháp luật trong vùng đồng bào Mông diễn
1
ra phổ biến. Nhất là đối với cộng đồng người Mông DCTD ở vùng sâu, xa dễ bị tác động bởi luận điệu tuyên truyền của những đối tượng lợi dụng Tin Lành nhằm mục đích chống phá Đảng, Nhà nước, khiến cho đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành tiềm ẩn phức tạp. Điển hình là vụ lôi kéo người Mông Tin Lành từ Đắc Lắc di cư ngược trở lại Tây Bắc tham gia “xưng vua” ở Mường Nhé vào tháng 5/2011. Diễn biến phức tạp xung quanh vấn đề người Mông Tin Lành đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên nói riêng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước nói chung.
Nghiên cứu về Tây Nguyên hiện nay đang được đẩy mạnh và đã đạt được những thành tựu quan trọng, song nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên nói chung và nhất là Đắc Lắc nói riêng còn chưa đáp ứng được nhu cầu nhận thức của thực tiễn. Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc từ năm 1986 đến nay” cho đề tài luận án tiến sĩ Tôn giáo học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu, làm rõ quá trình hình thành, đặc điểm, thực trạng cộng đồng người Mông theo Tin Lành ở Đắc Lắc hiện nay, đồng thời chỉ ra xu hướng chuyển biến trong đời sống tôn giáo của người Mông theo Tin Lành và đề xuất một số khuyến nghị. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ quá trình Tin Lành truyền bá trong cộng đồng Mông, quá trình di dịch cư của người Mông Tin Lành đến Đắc Lắc, hình thành niềm tin, thực hành nghi lễ, phát triển thành cộng đồng tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc.
Hai là, làm rõ những đặc trưng cơ bản của cơ cấu tổ chức Hội thánh, điểm nhóm, hệ phái Tin Lành ở Đắc Lắc với những bộ phận cấu thành, các thiết chế của nó, vị trí vai trò của chức sắc; các thành phần tín đồ trong các chi hội, điểm nhóm, Hội Thánh.
Ba là, phân tích thực trạng đời sống tôn giáo của người Mông Tin
2
Lành ở Đắc Lắc hiện nay trên các phương diện cơ bản như: niềm tin, thực hành, cộng đồng, đồng thời chỉ ra ảnh hưởng của cộng đồng người Mông Tin Lành trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng, môi trường sinh thái ở Đắc Lắc hiện nay.
Bốn là, chỉ ra xu hướng chuyển biến đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc và những vấn đề đặt ra hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc, góp phần ổn định xã hội, phát triển bền vững ở Đắc Lắc nói riêng và Tây Nguyên nói chung. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng
Luận án tập trung phân tích đời sống tôn giáo của người Mông Tin
Lành ở Đắc Lắc. 3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: từ năm 1986 đến nay. Phạm vi không gian: địa giới hành chính của tỉnh Đắc Lắc (trước năm 2004, bao gồm cả tỉnh Đắk Nông ngày nay) và đối sánh với các tỉnh khác ở Tây Nguyên.
Phạm vi các vấn đề nghiên cứu: Quá trình hình thành cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc; thực trạng hoạt động và đặc điểm đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc; xu hướng chuyển biến đời sống tôn giáo và đưa ra những đề xuất, khuyến nghị. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn giáo, đặc biệt là các quan điểm: Tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, đoàn kết tôn giáo, chống lại các tổ chức, cá nhân lợi dụng tôn giáo.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc, nhất là quan điểm đại đoàn kết toàn dân; bình đẳng giữa
3
các dân tộc; chăm lo xây dựng và nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các DTTS, thu hẹp khoảng các miền xuôi, miền ngược.
- Luận án còn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của Đảng và nhà nước về phát triển bền vững Tây Nguyên trước các vấn đề bức thiết đang đặt ra ở khu vực này như: áp lực tăng dân số; chất lượng nguồn nhân lực; đói nghèo và phân hóa đời sống; quan hệ dân tộc, tôn giáo, an ninh chính trị phức tạp; tổ chức thôn, buôn, làng đa dạng chồng chéo; mâu thuẫn quản lý và sử dụng đất đai; hệ thống chính trị ở cơ sở yếu kém; tư duy sản xuất nương rẫy tiểu nông ở các DTTS đậm nét; giá trị văn hóa của các DTTS đang ngày càng mai một.
- Tác giả kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu, các công trình có liên quan của những người đi trước gắn với việc xem xét thực tiễn đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành nói chung và người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tư liệu thứ cấp - Phương pháp chuyên gia - Phương pháp khảo sát điền dã.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án đã đưa ra một bức tranh khái quát về cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc với quá trình di cư đến, mô hình tổ chức xã hội và đặc điểm xã hội- tôn giáo.
Hai là, luận án đã phân tích thực trạng đời sống tôn giáo, nhất là sự chuyển đổi niềm tin tôn giáo trong cộng đồng người Mông nói chung và người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc nói riêng. Đồng thời, luận án cũng chỉ ra những tác động qua lại của cộng đồng người Mông Tin Lành với đời sống xã hội; gợi mở những vấn đề cần giải quyết xung quanh đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc và những địa bàn có đặc điểm tương tự trong thực tiễn.
Ba là, luận án gợi mở những vấn đề cần giải quyết xung quanh đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc và những địa bàn có đặc điểm tương tự, từ đó đề xuất những khuyến nghị chính sách có tính chất khả thi. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thứ nhất, làm rõ được những biểu hiện chuyển biến cụ thể của đời
4
sống tôn giáo trong cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc.
Thứ hai, xác định được những vấn đề đặt ra và xu hướng biến đổi
trong đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc hiện nay.
Thứ ba, cung cấp luận chứng khoa học cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách đối với các vấn đề tôn giáo của cộng đồng DCTD hiện nay, cụ thể là trường hợp người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên nói chung và ở Đắc Lắc nói riêng.
Thứ tư, là tài liệu tham khảo có tính hệ thống đối với công tác giảng
dạy và nghiên cứu về Tôn giáo học. 7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án chia làm 04 chương chính
như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn
đề tài nghiên cứu.
Chương 2: Quá trình hình thành và đặc điểm của cộng đồng người
Mông Tin Lành ở Đắc Lắc.
Chương 3: Thực trạng và ảnh hưởng đời sống tôn giáo của người
Mông Tin Lành ở Đắc Lắc hiện nay.
Chương 4: Xu hướng chuyển biến đời sống tôn giáo của người Mông
Tin Lành ở Đắc Lắc, những vấn đề đặt ra và đề xuất khuyến nghị.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu về Tin Lành Việt Nam và Tin Lành ở Tây Nguyên * Nghiên cứu từ phía các học giả bên ngoài Việt Nam Một số nghiên cứu tiêu biểu: trước hết là nghiên cứu của giáo sĩ E.F.Irwin, thuộc Hội truyền giáo C.M.A “With Christ in Indo - China” (Cùng với Chúa ở Đông Dương) xuất bản năm 1937. , , , Vợ chồng giáo sĩ G.H.Smith từ năm 1942 đến 1965 đã công bố 4 nghiên của họ là: “The Blood Hunters”
5
(Người săn huyết); “Missionary and Anthropology” (Truyền giáo và nhân chủng học); “Gongs in the Night” (Tiếng cồng trong đêm khuya); “Victory in Vietnam” (Chiến thắng ở Việt Nam). Đây là những ghi chép quan trọng đối với quá trình truyền giáo của một cặp vợ chồng giáo sĩ được coi là “xông xáo” nhất của Hội truyền giáo C.M.A tại các vùng DTTS ở Tây Nguyên - Nam Trường Sơn từ đầu những năm 30 đến giữa những năm 60 của thế kỷ XX, nghiên cứu của: A.B.Simpson với “Cất cánh bay cao”, nghiên cứu của A.W.Tozer “Một nghiên cứu về cao độ thuộc linh” (1996), nghiên cứu của K.M.Bailey có tựa đề “Nghênh đón Vua trở lại” (2000) và một số nghiên cứu khác cung cấp nhiều tư liệu quan trọng đối với nghiên cứu về lịch sử Tin Lành ở Việt Nam.
* Nghiên cứu từ phía các học giả trong nước Từ Đổi mới (1986) và nhất là từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước đến nay có nghiên cứu của hai tác giả Lê Phước Nguyên và Lê Hoàng Phu về “Lịch sử truyền giáo” (1995), đến năm 2001, mục sư Lê Văn Thiện công bố nghiên cứu “Hướng về Đại hội Tin Lành toàn quốc” (lưu hành nội bộ), “Phương hướng phát triển Hội Thánh” (2002) đăng trong nội san của giới chức Tin Lành, và công trình “Phúc âm và Văn hóa” (Nxb Tôn giáo 2010), tác giả đề cập đến Hội thánh Tin Lành Việt Nam cần xây dựng và phát triển mang bản sắc riêng: “Hội thánh Tin Lành Việt Nam không nên phát triển như một bản sao của những Hội thánh Phương Tây.
Nguyễn Thanh Xuân với tư cách là chủ biên đã công bố các công trình nghiên cứu như: “Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam” (Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2002) và “Đạo Tin Lành ở Việt Nam” (Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2006), hai nghiên cứu này cung cấp cho người đọc một hệ thống kiến thức khái lược nhất về Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam. Tác giả Đỗ Quang Hưng với công trình “Một số vấn đề về Tin Lành ở Tây Nguyên” (Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 2, 2011) phác họa những nét chung nhất về Tin Lành ở Tây Nguyên. Tháng 8/2017. 1.1.2. Những nghiên cứu về người Mông và người Mông Tin Lành
Năm 1995, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nông Văn Lưu bảo vệ thành công Luận án Phó Tiến sĩ Triết học với đề tài luận án: Giải quyết vấn đề
6
dân tộc qua việc thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo ở vùng dân tộc Mông hiện nay. Ở công trình này, từ góc nhìn Triết học, tác giả điểm qua tình hình, đề cập mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo trong vùng dân tộc Mông ở nước ta hiện nay (đến năm 1995); Năm 2007, Lê Văn Hảo thực hiện đề tài: “Một số đặc điểm tâm lý - xã hội của xu hướng lan rộng đạo Tin Lành ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam” (Báo cáo Tổng hợp Đề tài cấp Bộ của Viện Tâm lý học). Cùng với đó, Vương Duy Quang (2007) công bố nghiên cứu “Sự cải đạo theo Ki tô giáo của một bộ phận người Mông ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XIX đến nay” (Tạp chí Dân Tộc học, Số 4).
Năm 2013, tác giả Đậu Tuấn Nam cho ra mắt cuốn “Di cư của người Mông từ đổi mới đến nay” Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Tác giả Đoàn Triệu Long (2013) với công trình “Đạo Tin Lành ở miền Trung và Tây Nguyên” cung cấp bức tranh tương đối toàn diện về Tin Lành ở Miền Trung - Tây Nguyên từ buổi đầu đến nay. Năm 2014, tác giả Nguyễn Mạnh Tiến cho ra mắt cuốn: “Những đỉnh núi du ca, một lối tìm về cá tính H’Mông”, Nxb Thế giới, Hà Nội, năm 2016, tác giả Nguyễn Duy Thụy cho ra mắt cuốn “Di cư của người DTTS đến Tây Nguyên”, Nxb Khoa học xã hội, trong đó, đề cập đến quá trình di cư của người Mông đến Tây Nguyên nói chung và Đắc Lắc nói riêng. 1.1.3. Những nghiên cứu đề cập đến đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên, Đắc Lắc
Năm 2001, tác giả Lương Thị Thoa công bố công trình: Quá trình du nhập đạo Tin Lành - Vàng Chứ vào dân tộc Mông trong những năm gần đây (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 2). Tác giả phân tích, chỉ ra quá trìnhTin Lành truyền bá trong đồng bào Mông và hình thành nên đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành với niềm tin vào Giêsu Vàng Trứ. Nguyễn Bá Thủy (2004). Di dân tự do của đồng bào Tày, Nùng, Hmông, Dao từ Cao Bằng, Lạng Sơn vào Đắc Lắc (Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội) là nghiên cứu quan trọng cung cấp bức tranh về sự DCTD của một số đồng bào DTTS phía Bắc đến Đắc Lắc.
Vương Duy Quang, năm 2005 công bố cuốn: Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền thống và hiện đại (Nxb Văn hóa Thông tin
7
và Viện Văn hóa, Hà Nội), tác giả Hồ Tấn Sáng có bài “Đạo Tin Lành và ảnh hưởng của nó đối với một số lĩnh vực xã hội ở Tây Nguyên”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4/2008; công trình nghiên cứu “Ảnh hưởng của đạo Tin Lành với thiết chế xã hội truyền thống của đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Văn Nam (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 - 2008), Nguyễn Khắc Đức với đề tài luận án Tiến sĩ Triết học: Vấn đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc Mông và Dao ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, được bảo vệ thành công tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam đã đề cập và luận giải quá trình Tin Lành truyền báo trong vùng đồng bào Mông, Dao ở các tỉnh miền núi phía Bắc. 1.1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, những nghiên cứu về lịch sử Tin Lành ở Việt Nam và nghiên cứu về người Mông Tin Lành ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Các nghiên cứu về lịch sử phát triển Tin Lành Việt Nam tương đối hệ thống, phản ánh cơ bản được quá trình truyền giáo và các giai đoạn phát triển của Tin Lành ở Việt Nam.
Thứ hai, đã có một số nghiên cứu về vấn đề Tin Lành trong các DTTS ở Việt Nam, trong đó có cộng đồng người Mông. Song những nghiên cứu này còn tương đối khiêm tốn, thiếu vắng những nghiên cứu hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về vấn đề Tin Lành trong cộng đồng người Mông.
Thứ ba, nghiên cứu về người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên, Đắc Lắc nói chung vẫn còn là một khoảng trống, nhất là những nghiên cứu chuyên sâu đi vào phân tích đánh giá những chuyển biến trong đời sống tôn giáo của cộng đồng DCTD tại Tây Nguyên. 1.1.5. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án
Một là, làm rõ quá trình DCTD và hình thành cộng đồng người Mông
Tin Lành ở Đắc Lắc.
Hai là, đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc với tư cách là “nghiên cứu trường hợp” (case study) về đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên. Trong đó luận án làm rõ thực trạng, đặc điểm, những chuyển biến cụ thể đời sống tôn giáo trong cộng đồng người Mông Tin
8
Lành ở Đắc Lắc.
Ba là, từ những phân tích trên, luận án chỉ ra xu hướng chuyển biến đời sống tôn giáo, đánh giá những ảnh hưởng của sự chuyển biến trong đời sống tôn giáo người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc đối với bản thân họ và sự ảnh hưởng đối với chính quyền và các cư dân khác trên địa bàn trên các phương diện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, môi trường sinh thái, đồng thời đề xuất một số khuyến nghị nhằm đảm bảo ổn định, phát triển đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành, đóng góp chung vào sự ổn định, phát triển bền vững của Đắc Lắc và cả Tây Nguyên. 1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu và một số khái niệm 1.2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu 1.2.1.1. Câu hỏi nghiên cứu 1.2.2.2. Giả thuyết nghiên cứu 1.1.2.3. Lý thuyết tiếp cận trong nghiên cứu * Lý thuyết thực thể tôn giáo. * Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa (Acculturation): * Lý thuyết chức năng - cấu trúc. * Lý thuyết về sự lựa chọn duy lý.
1.2.2. Mô hình khung lý thuyết 1.2.3. Một số khái niệm công cụ để nghiên cứu đề tài luận án
Tôn giáo (Religion); Thực thể tôn giáo; Đời sống tôn giáo; Tin Lành; Tin Lành Vàng Trứ; Người Mông; Người Mông Tin Lành; Di cư; Di cư có tổ chức; Di cư tự do; Biến đổi xã hội.
Chương 2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI MÔNG TIN LÀNH Ở ĐẮC LẮC
2.1. Khái quát về Tây Nguyên và người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên 2.1.1. Khái quát về Tây Nguyên 2.1.2. Khái quát về người Mông Tin Lành ở Tây Nguyên 2.2. Quá trình hình thành cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc
9
2.2.1. Quá trình di cư của người Mông Tin Lành đến Đắc Lắc
Theo dõi quá trình DCTD của đồng bào Mông nói chung, người Mông Tin Lành nói riêng vào Đắc Lắc, Tây Nguyên cho thấy có hai dạng tương đối phổ biến:
Một là di cư tự phát không có tổ chức: một vài người tự di cư đến
Đắc Lắc thấy cuốc sống tốt nên ở lại.
Hai là di cư tự phát có tổ chức: Một cá nhân tự phát tổ chức cho nhiều
hộ gia đình cùng di cư.
Có 02 nguyên nhân dẫn đến việc ngày càng đông người Mông Tin
Lành di cư từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến Đắc Lắc, Tây Nguyên.
Một là, di cư vì lý do kinh tế: Ở Đắc Lắc đất đai rộng, mầu mỡ phù hợp
với làm kinh tế nông, lâm nghiệp của người Mông.
Hai là, di cư vì mục đích tôn giáo: Ở Đắc Lắc có đời sống tôn giáo của người Tin Lành phong phú, đa dạng, hoàn chỉnh từ trước năm 1975 để lại, tiếp tục phát triển sau năm 1975, nhất là sau đổi mới (1986) trở đi. 2.2.2. Mô hình tổ chức xã hội của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc
Về tôn giáo: Quá trình DCTD theo hướng Bắc-Nam kéo theo biến đổi tôn giáo từ Tôn giáo truyền thống-Tin Lành Vàng Trứ-Tin Lành mang tính chính thống. Cộng đồng cố kết theo huyết thống, dòng họ, chuyển sang cố kết theo đạo (đồng tín).
Về kinh tế, văn hóa – xã hội: Nền kinh tế ruộng nương, chủ yếu du canh du cư chuyển sang kinh tế nông-lâm nghiệp theo hướng định canh định cư ổn định, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mông ở Đắc Lắc tuy còn hạn chế, song đa số tốt hơn ở quê cũ. 2.3. Đặc điểm xã hội-tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc 2.3.1. Đặc điểm phân bố dân cư
Trải qua quá trình hơn 30 năm di trú ở Tây Nguyên, cộng đồng người
Mông Tin Lành có 3 hình thức cư trú, ở 03 cộng đồng như sau:
Cộng đồng DCTD tự phát, cư trú ở vùng sâu, xa biệt lập với xã hội bên ngoài: bộ phận dân DCTD mới đến, cư trú chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh. Lý do chính là ở đó có rừng già để chặt phá lấy gỗ, lấy đất làm
10
nương rẫy với độ phì nhiêu tự nhiên đặc biệt tốt, có nhiều thú để săn bắt và để tránh sự phát hiện, kiểm soát của chính quyền và các cơ quan chức năng.
Cộng đồng sống XCXC với các dân tộc tại chỗ: bộ phận đến sau năm 1990 có mối quan hệ anh em, họ hàng với bộ phận đến trước, có tài chính, tự thỏa thuận với người DTTS địa phương sang nhượng đất thổ cư, đất sản xuất, hình thành khu dân cư mới, chung sống với người DTTS địa phương. XCXC ở cấp độ thôn, bản chứ chưa XCXC ở mức độ hộ gia đình.
Cộng đồng ĐCĐC ổn định theo các chương trình kế hoạch của nhà nước: ĐCĐC ổn định ở khu dân cư tập trung do chính quyền địa phương đầu tư, xây dựng các dự án phát triển kinh tế, xã hội. 2.3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa
Đa số các điểm dân cư người Mông còn trong tình trạng chưa hòa nhập
về mặt xã hội và văn hoá với các cộng đồng dân cư ở Tây Nguyên.
Nguyên nhân thứ nhất do đời sống kinh tế còn quá khó khăn, một phần do đồng bào cư trú ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa hiểm trở, thậm chí có những điểm dân cư xa trung tâm xã trên 20 km, không có đường ô tô, tạo nên một không gian gần như biệt lập. Bản thân cộng đồng người Mông sống và sinh hoạt co cụm, khép kín, ít giao lưu, tiếp xúc với bên ngoài khiến họ khó hòa nhập về văn hoá.
Nguyên nhân thứ hai do công tác truyền thông, giáo dục, đầu tư về văn hoá trong nhiều năm qua chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các điểm dân cư chưa có hệ thống loa truyền thanh công cộng để đưa tiếng nói của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào. Các chương trình phát thanh bằng tiếng Mông trên Đài Tiếng nói Việt Nam, chương trình truyền hình bằng tiếng Mông trên VTV5 không đến được với đồng bào. Hầu hết cán bộ làm công tác vận động đồng bào Mông không nói được tiếng Mông, khi trò chuyện, tuyên truyền, vận động phải có người phiên dịch. Hiệu quả vì vậy không cao.
Bộ phận di cư từ 1986-1999, (chiếm khoảng 40 % tổng số người Mông) đa số định canh định cư tương đối ổn định, hình thành khu dân cư tập trung; đã hình thành khu dân cư tập trung, định hình đơn vị thôn, bản và chính quyền địa phương đã thiết lập được việc quản lý hành chính trên nhiều phương diện.. Trong đó một bộ phận là do chính quyền quy hoạch bố trí đất đai; một bộ
11
phận khác tự thỏa thuận với đông bào DTTS tại chỗ, sang nhượng đất thổ cư, đất sản xuất, hình thành khu dân cư liền kề với đồng bào DTTS tại chỗ.
Bộ phận định cư từ 2000-2005,(chiếm khoảng 32% tổng số người Mông) bước đầu tạm ổn định sản xuất và đời sống nhưng đất đai và điều kiện sản xuất còn thiếu, một số không có đất sản xuất phải đi làm thuê, tỷ lệ hộ nghèo 64%; điều kiện về nhà ở, nước sinh hoạt, học hành, chăm sóc sức khoẻ, hưởng thụ văn hoá còn rất khó khăn.
Bộ phận định cư từ 2005 đến nay:(chiếm khoảng 28%, khoảng trên 10.000 người) đang sống tự phát, rải rác trong các khu rừng và vùng trũng thường xuyên bị ngập lụt, cách xa trung tâm xã và khu dân cư hoặc sống xen kẽ với số hộ vào trước nhưng không có đất đai, nhà cửa. Cá biệt, có một bộ phận ở rất sâu trong các khu rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ, phá rừng làm rẫy, liên tục di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Nhiều nơi xảy ra tình trạng thiếu đói gay gắt.
Về y tế và giáo dục, hầu hết đã có trường học gần khu dân cư và có y tế cộng đồng đến tận thôn. Tỷ lệ trẻ em đi học trong độ tuổi đạt 78%. Tuy vậy, do trường lớp xa nhà nên việc học sinh người Mông bỏ học ở bậc tiểu học còn khá cao (khoảng 22%).
Xét về tổng thể, sản xuất và đời sống của bộ phận đồng bào Mông DCTD vào Tây Nguyên trước năm 1998 so với cuộc sống của họ trước đây ở nguyên quán đã được cải thiện khá nhiều; thể hiện trên các mặt: (1) đất sản xuất nhiều hơn và điều kiện canh tác thuận lợi hơn, (2) có việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định, (3) nhà ở, nước sinh hoạt và các phương tiện, tiện nghi sinh hoạt trong gia đình được sắm sửa nhiều hơn. Tuy vậy, vẫn còn nhiều mặt chưa thay đổi đáng kể, đó là tỷ lệ đói nghèo theo tiêu chí (chiếm tỷ lệ 47,45%); việc học hành của con em, việc chăm sóc sức khoẻ, đường sá đi lại trong mùa mưa, thông tin liên lạc còn khó khăn. 2.3.3. Đặc điểm cộng đồng tôn giáo
Cộng đồng tôn giáo người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc mang đặc trưng của người Tin Lành nói chung: Người Mông Tin Lành tiếp thu giáo lý, giáo nghi của Tin Lành chính thống tách ra từ Kito giáo thế kỷ XVI, song có cách
12
tân một số điểm về cơ cấu tổ chức, nghi lễ (như lễ Báp têm) cho phù hợp.
Cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc mang dấu ấn của người Tin Lành Việt Nam: người Mông Tin Lành tìm hiểu và gia nhập các hệ phái Tin Lành đã tồn tại và phát triển ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, dưới sự tác động của mục sư, truyền đạo các hệ phái này, đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành đang ngày một hoàn chỉnh theo hướng chính thống hơn.
Cộng đồng tôn giáo người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc mang dấu ấn của Tin Lành theo kiểu người Mông: có nghĩa là người Mông Tin Lành có niềm tin kép. Họ vừa tin, theo Tin Lành, vừa hoài vọng về Vàng Trứ, đồng nhất là Giê su Vàng Trứ là đặc điểm nổi bật.
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI MÔNG TIN LÀNH Ở ĐẮC LẮC HIỆN NAY 3.1. Thực trạng đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc 3.1.1. Thực trạng cộng đồng tôn giáo
Cộng đồng DCTD tự phát, cư trú ở vùng sâu, xa biệt lập với xã hội bên ngoài: Chủ yếu ở vùng sâu xa, rừng đầu nguồn, đời sống mọi mặt còn khó khăn, thiếu thốn. Cũng như trong xã hội truyền thống của người Mông ở quê cũ, cơ sở chủ yếu của sự cố kết của cộng đồng người Mông Tin Lành khu vực này, vượt lên sự phân tán về địa bàn cư trú là sự chia cắt bởi ranh giới hành chính, là mối quan hệ huyết thống, dòng họ. Mặc dù đã theo tôn giáo mới: Tin Lành, nhưng ở cộng đồng này vẫn đậm dấu ấn niềm tin Vàng Trứ, còn nhiều ảnh hưởng bởi niềm tin, tư tưởng, lối sống của người Mông theo tôn giáo truyền thống.
Cộng đồng sống XCXC với các dân tộc tại chỗ: Có điều kiện kính tế, tự mua đất, nhà, sống XCXC với các dân tộc khác. Người Mông Tin Lành ở cộng đồng này cố kết vừa theo đồng tộc đồng họ vừa theo đồng đạo. Khác với cộng đồng thứ nhất, số người Mông Tin Lành thuộc cộng đồng này có điều kiện kinh tế khá hơn. Khi đến Đắc Lắc, chủ động thỏa thuận, sang nhượng lại đất thổ cư, mua lại rẫy, đất đai của cư dân tại chỗ để làm ăn sinh sống. Điển hình là cộng đồng người Mông Tin Lành ở xã Cư’Pui, huyện Krông Bông. Tuy nhiên đối với cộng đồng này, mức độ XCXC chỉ dừng lại ở cấp xã, chưa ở mức thôn, bản.
13
Cộng đồng ĐCĐC ổn định theo các chương trình kế hoạch của nhà nước: chủ yếu là ở các vùng ĐCĐC theo kế hoạch của nhà nước, người Mông Tin Lành cố kết cộng đồng theo đạo. Trước tình hình người Mông DCTD đến ngày một đông, gây xáo trộn tình hình kinh tế xã hội, tài nguyên môi trường, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái, chính quyền địa phương tỉnh Đắc Lắc đã đề xuất Chính phủ cho sắp xếp, quy hoạch ổn định vùng người Mông DCTD. 3.1.2. Thực trạng niềm tin tôn giáo
Từ việc hình thành 03 cộng đồng tôn giáo với những đặc điểm tương đối khác nhau như đã trình bày ở phần trên, dẫn đến niềm tin và thực hành niềm tin tôn giáo của người Mông Tin Lành ở mỗi cộng đồng cũng có những nét chung và riêng, hình thành 03 xu hướng niềm tin tôn giáo tương đối rõ.
Niềm tin tôn giáo ở cộng đồng DCTD tự phát, cư trú ở vùng sâu, xa biệt lập với xã hội bên ngoài: Niềm tin vào tôn giáo truyền thống của người Mông Tin Lành trong cộng đồng người DCTD, ở vùng sâu, xa không còn sâu sắc như những người Mông theo tôn giáo truyền thống ở quê cũ, cũng không hoàn toàn phai nhạt như những người Mông Tin Lành ở cộng ĐCĐC, theo Tin Lành chính thống. Họ nhận là người Tin Lành, nhưng không hẳn từ bỏ niềm tin, nghi lễ của người Mông truyền thống. Khi xây dựng nhà ở, bài trí trong gia đình tuy không còn bàn thờ tổ tiên nhưng nơi ăn, chỗ ngủ, bếp còn mang nhiều nét giống ngôi nhà của người Mông truyền thống. Họ vẫn dùng trang phục truyền thống được dệt bằng sợi cây lanh. Từ xa xưa cây lanh đã gắn bó với đời sống văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người Mông. Khi người phụ nữ qua đời, họ sẽ được chôn cùng với 01 bộ váy áo truyền thống được dệt bằng sợi lanh của người Mông, với niềm tin bộ váy áo được dệt bằng sợi lanh sẽ giúp tổ tiên của người Mông ở thế giới bên kia nhận ra con cháu của mình.
Do niềm tin vào tôn giáo truyền thống không còn sâu sắc nên những lễ nghi rườm rà, phức tạp, những nghi lễ không còn phù hợp, gây tốn kém về kinh tế, đã dần mất đi.
Niềm tin tôn giáo ở cộng đồng sống XCXC với các dân tộc tại chỗ: Với cộng đồng này, đời sống tôn giáo của một bộ phận chức sắc, tín đồ đã dần ổn định, sinh hoạt tôn giáo đều đặn, niềm tin tôn giáo vững chắc. Tuy nhiên còn một
14
bộ phận tín đồ niềm tin của họ đối với Chúa Giêsu, hay với Giêsu Vàng Trứ có mức độ dao động tương đối. Niềm tin của họ không rõ ràng, nhất quán, không ổn định. Có thời gian tin, theo hệ phái Tin Lành này, thời gian khác lại tin, chuyển sang theo hệ phái Tin Lành khác. Thậm chí có một số ít người quay trở lại tôn giáo truyền thống, hoặc sang tôn giáo mới khác như Công giáo, hoặc bỏ đạo, không theo tôn giáo nào.
Niềm tin tôn giáo ở cộng đồng ĐCĐC ổn định theo các chương trình kế hoạch của nhà nước: Người Mông Tin Lành thuộc cộng đồng này theo tin Chúa Giêsu rồi thì không còn tin vào đấng thiêng, vật thiêng tôn giáo truyền thống của người Mông. Họ tham gia sinh hoạt đạo thường xuyên, có những hiểu biết nhất định về giáo lý, giáo luật của Tin Lành. Họ tin vào Chúa rồi thì không chỉ tự nhận là người Tin Lành một cách tự phát, mà họ hiểu và tin rằng để trở thành người Tin Lành, họ phải trải qua lễ Báp têm. Báp têm không có nghĩa là rửa tội hay tẩy uể. Báp têm là biểu hiện bên ngoài của sự thay đổi đời sống bên trong. Báp têm không làm cho người nào được sạch tội, cũng không có quyền thay đổi tâm linh con người, nhưng tất cả tùy thuộc vào lòng tin của người ấy nơi cứu ân của Chúa Cứu Thế. Vậy báp têm có nghĩa là một hành động xác nhận đức tin của người ấy, chứng tỏ người ấy quyết tâm sống cuộc đời mới trong Chúa Cứu Thế Giêsu Christ. 3.1.3. Thực trạng thực hành tôn giáo
Thực hành tôn giáo ở cộng đồng DCTD tự phát, cư trú ở vùng sâu, xa biệt lập với xã hội bên ngoài: Qua tìm hiểu khảo sát thực tế ở một số địa bàn trọng điểm có số đông người Mông Tin Lành cư trú tại hai tỉnh Đắc Lắc và Đắk Nông cho thấy, đa số sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Tin Lành người Mông còn khá đơn giản, thậm chí có nhiều nơi đồng bào sinh hoạt tạm bợ, nội dung sinh hoạt không thể hiện rõ đặc điểm sinh hoạt tôn giáo đó thuộc hệ phái nào. Nhiều người Mông Tin Lành tuy đã theo đạo nhưng vẫn còn uống rượu, hút thuốc, khi gia đình có người bệnh vẫn nhờ thầy cúng. Điều đó cho thấy mức độ tín ngưỡng của một bộ phận người Mông Tin Lành trong cộng đồng DCTD ở các vùng sâu, xa hiện nay còn mờ nhạt, chưa ăn sâu trong tâm trí.
15
Thực hành tôn giáo của cộng đồng sống XCXC với các dân tộc tại chỗ: Đặc điểm nổi bật của cộng đồng có nhiều điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tự phát, không đăng ký với chính quyền. Trong buổi sinh hoạt đạo, các truyền đạo viên thường có các bản Kinh Thánh bằng tiếng Mông được in sẵn ở nước ngoài và được các chức sắc, mục sư Tin Lành ở nước ngoài chuyển về trong nước. Hiện nay, đồng bào sinh hoạt tôn giáo chủ yếu tại nhà của trưởng nhóm hoặc mượn nhà của dân. Tình trạng này, trước mắt giúp được nhu cầu về nơi sinh hoạt tôn giáo tập trung, nhưng về lâu dài, có thể gây khó khăn cho việc sinh hoạt tôn giáo, gây bất tiện cho gia đình tín đồ, đặc biệt ở những nơi có đông tín đồ.
Thực hành tôn giáo của cộng đồng ĐCĐC ổn định theo các chương trình kế hoạch của nhà nước: Buổi đầu, khi mới DCTD đến Đắc Lắc, cộng đồng này không tránh khỏi sự tác động truyền đạo tự do của qua phương tiện truyền thông. Song, được các chức sắc của các hệ phái Tin Lành chính thống đến truyền đạo, bản thân một số cá nhân tích cực (như MS Hầu Văn Lầu, MS Ma Seo Dìn) của cộng đồng này đã tự liên hệ với các chức sắc này để học đạo, từ đó hướng cả cộng đồng theo Tin Lành chính thống hơn. Đó là trường hợp cộng đồng người Mông Tin Lành định cư ở buôn Ea Púk xã Ea Sô, huyện Ea Kar; cộng đồng ở Chi hội thôn Yang Hanh, xã Cư Đrăm, huyện Krông Bông, Đắc Lắc; và cộng đồng ở huyện Đắk Nông (Đắc Lắc) từ năm 1992 (nay là huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông). 3.2. Ảnh hưởng đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc đối với kinh tế, văn hóa – xã hội và an ninh – quốc phòng 3.2.1. Ảnh hưởng về kinh tế
Cộng đồng người Mông Tin Lành đến Đắc Lắc trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc khai hoang những vùng đất còn hoang hóa để đưa vào sản xuất. Trên thực tế, nguồn nhân lực từ di cư, trong đó có di cư của người Mông Tin Lành từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến Đắc Lắc đã góp phần khơi dậy những vùng đất giàu tiềm năng, bước đầu hình thành một số vùng chuyên canh mang lại hiệu quả kinh tế cao; tăng diện tích trồng cây lương thực và quy mô đàn gia súc, gia cầm, phát triển nhiều loại cây trồng mới và nhiều cơ sở sản xuất, giúp Đắc Lắc trở thành tỉnh có diện tích và sản lượng cà
16
phê đứng đầu cả nước [69; tr. 203].
Tuy nhiên, với phương thức canh tác truyền thống theo kiểu chặt đốt, người Mông DCTD đã làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, do đất rừng bị rửa trôi dẫn tới năng suất cây trồng thấp, thậm chí không thể tiếp tục canh tác được. Sức chứa của Tây Nguyên đã cạn, khả năng thu nhận người DCTD trong hoạt động nông, lâm nghiệp không còn. Đó là một trở ngại lớn cho dân DCTD trong việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. 3.2.2. Ảnh hưởng về văn hóa –xã hội: Y tế, giáo dục, an sinh xã hội, cơ cấu xã hội, xung đột xã hội
Hiện nay, tôn giáo truyền thống của người Mông vẫn tồn tại đậm nét trong đời sống xã hội với nhiều mặt tích cực và tiêu cực, trong đó, có nhiều tệ nạn, hủ tục lạc hậu, tốn kém, phức tạp, mâu thuẫn với khả năng kinh tế và sự phát triển nhận thức của người Mông, là gánh nặng đối với họ. Tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền của người Mông tồn tại gắn liền với xã hội truyền thống của dân tộc và được bảo tồn trong đời sống cộng đồng, nhất là cộng đồng dòng họ. 3.2.3. Ảnh hưởng về An ninh - Quốc phòng
Vấn đề trật tự, an toàn xã hội phức tạp cũng đang tạo ra môi trường thuận lợi cho các loại tệ nạn xã hội phát triển, đặc biệt là tệ nạn sử dụng và buôn bán trái phép chất ma túy. Những năm gần đây đã xuất hiện tình trạng buôn bán và sử dụng chất ma túy ở một số người Mông. Do đó, khi đến nơi ở mới, họ đã tìm cách móc nối với những người nghiện ở quê cũ để mua, bán và sử dụng các chất ma túy. Hậu quả là không những họ nghiện mà còn kéo theo nhiều người Mông tại chỗ lâm vào con đường nghiện ngập, sức khỏe bị ảnh hưởng, kinh tế gia đình khánh kiệt, tệ nạn xã hội ngày càng phát triển. Như vậy, có thể nói cùng với các tệ nạn xã hội (cờ bạc, trộm cắp...) và nhiều loại hình tội phạm khác phát sinh, phát triển là hoạt động mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy đã và đang tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự. 3.2.4. Ảnh hưởng về môi trường sinh thái
Thực tế cho thấy hầu hết các địa bàn có người Mông DCTD đều là vùng tiếp giáp hoặc thuộc rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên cấp quốc gia như tại địa bàn
17
xã Vụ Bổn, huyện Krông Pắk; thôn Giang Đông, xã Ea Đah, huyện Krông Năng; buôn Ea Púk, xã Ea Sô, Ea Kar. Để có đất sản xuất số này thường lén lút chặt phá rừng để làm nương rẫy, lấy đất ở, sinh hoạt, trong đó có cả các khu vực rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn; dẫn đến suy giảm nhanh tỷ lệ độ che phủ đất rừng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sinh thái.
Chương 4 XU HƯỚNG CHUYỂN BIẾN ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI MÔNG TIN LÀNH Ở ĐẮC LẮC, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
4.1 Xu hướng chuyển biến 4.1.1. Đời sống tôn giáo dần từng bước ổn định
Trước hết là niềm tin tôn giáo, dần từng bước ổn định, từ niềm tin không đầy đủ, “méo mó” vào Giêsu Vàng Trứ đến niềm tin chính thống vào Giê su. Các nghi lễ vòng đời của người Mông truyền thống được thay thế bởi nghi lễ vòng đời Tin Lành.
Hệ thống tổ chức tôn giáo, được hình thành, có cơ cấu tổ chức chi
hội, điểm nhóm rõ ràng, dần từng bước đi vào hoạt động.
Thực hành nghi lễ, dần đi vào nền nếp đối với tất cả các điểm nhóm
được hay chưa được công nhận. 4.1.2. Đời sống tôn giáo còn ẩn chứa nhiều yếu tố phức tạp
Về niềm tin tôn giáo, vẫn còn một bộ phận nhỏ người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc có “niềm tin kép”. Nghĩa là bên cạnh “niềm tin chính thống” – niềm tin giữ vai trò chủ đạo, một bộ phận nhỏ người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc vẫn còn có niềm tin vào Vàng Trứ; Vàng Trứ - Giêsu hoặc Tin Lành Vàng Trứ. Sở dĩ còn rơi rớt tình trạng như vậy vì như phần nội dung trên đề cập, người Mông đến với Tin Lành thời kỳ đầu theo các ngả đường khác nhau, từ nhóm Dương Văn Mình, đặc biệt từ việc tuyên truyền về nhân vật Vàng Trứ - Vương Chủ - Vua Người Mông.
Một bộ phận tín đồ người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc vẫn còn xao nhãng thực hiện giới răn của đạo như vẫn còn uống rượu say xỉn, không tự giác nộp 10% thu nhập, ít tham gia sinh hoạt nhóm.
Về cộng đồng: trong khi các điểm nhóm được công nhận dần từng bước ổn
18
định về tổ chức, cơ cấu nhân sự, cộng đồng cố kết khá chặt chẽ thì ở các điểm nhóm chưa được đăng ký sinh hoạt tôn giáo thuộc các hệ phái được hay chưa được công nhận tư cách pháp nhân, về tổ chức, cơ cấu nhân sự chắp vá, chưa hoàn thiện, cố kết cộng đồng còn lỏng lẻo. Trong điều kiện thiết chế, định chế Tin Lành thay thế thiết chế, định chế truyền thống mà tổ chức chưa hoàn thiện dẫn đến hệ lụy cả về lĩnh vực tôn giáo đến lĩnh vực đời sống trần thế.
Về thực hành nghi lễ : Trong việc thực hành nghi lễ trước hết là nghi lễ Báp têm dù các hệ phái rất quan tâm đến nghi lễ này và việc thực hành đa dạng nhưng tỷ lệ tín đồ được làm lễ Báp têm so với tín đồ chưa làm lễ là khá cao. Tình trạng này diễn ra cả ở những điểm nhóm đã được công nhận lẫn điểm nhóm chưa được công nhận.
Do thiếu mục sư nên lễ Tiệc Thánh ở một số điểm nhóm đã không được thực hiện vào tuần đầu tiên của tháng. Việc thực hành Thánh lễ, giảng Kinh Thánh trong Thánh lễ nhìn chung còn dài. Không ít điểm nhóm dành cả ngày chủ nhật để thờ phượng và để các nhóm (thanh niên, phụ nữ, thiếu niên…) hội họp, chia sẻ ảnh hưởng đến thời gian sản xuất, học tập, sinh hoạt của tín đồ. 4.2. Những vấn đề đặt ra 4.2.1. Về nhận thức
Người Mông Tin Lành di cư đến Đắc Lắc với mong muốn để thực hiện bổn phận của tín đồ Tin Lành một tôn giáo mà họ tin theo. Vì vậy đại bộ phận mong muốn trở thành một tín đồ chân chính. Đó thực sự là một nhu cầu chính đáng mà các cấp chính quyền phải nhận biết và tôn trọng.
Trong nhận thức cùng với việc nhìn nhận khách quan, trung thực thấy được sự vận động theo chiều hướng tốt đẹp, xóa bỏ định kiến còn là việc chống tư tưởng hữu khuynh, hoặc tả khuynh hạn chế sự phát triển của tôn giáo, không thừa nhận sự tồn tại của cộng đồng người Mông Tin Lành ở địa phương. Tư tưởng xem tôn giáo phát triển, việc các đoàn thể tôn giáo được củng cố sẽ làm phương hại đến tư tưởng của Đảng, đến các đoàn thể chính quyền, cần phải được đẩy lùi. 4.2.2. Về thực hiện quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đạo Tin Lành
19
Là một trong những tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân, ngoài việc nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, thông qua những chỉ thị, nghị quyết, chính sách như các tôn giáo khác, đạo Tin Lành do một thời gian phát triển không bình thường còn nhận được sự chỉ đạo với những chủ trương, chính sách riêng của Đảng và Nhà nước. Để thống nhất nhận thức về đạo Tin Lành và công tác đối với đạo Tin Lành, Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IX) ban hành Thông báo 160-TB/TW ngày 15-11-2004 Về chủ trương công tác đối với đạo Tin Lành trong tình hình mới. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 Về một số công tác đối với đạo Tin Lành. Chỉ thị yêu cầu các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân thực hiện 9 nhiệm vụ. Đáng kể nhất là nhiệm vụ 1: “1. Tổ chức quán triệt sâu sắc và triển khai đầy đủ các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách đối với đạo Tin Lành; đồng thời tổ chức thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và tạo điều kiện để đồng bào theo đạo Tin Lành gắn bó với cộng đồng, tham gia ngày càng tốt hơn các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” 4.2.3. Về đời sống kinh tế - xã hội
Cộng đồng người Mông Tin Lành vốn quen canh tác trên núi đá vôi với những cây trồng vật nuôi phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng ở vùng núi phía Bắc. Sinh kế ấy ăn sâu vào nếp sống, cách thức làm ăn lâu đời. Di cư tự do đến Đắc Lắc với điều kiện môi sinh khác hẳn buộc người Mông Tin Lành phải thay đổi sinh kế. Việc làm ăn này đòi hỏi phải có thời gian, phải được sự quan tâm hướng dẫn của chính quyền và sự vươn lên của người Mông. Đây là một trong những vấn đề thiết yếu để người Mông Tin Lành ổn định đời sống, phát triển kinh tế. 4.2.4. Về đời sống tôn giáo
Về niềm tin, người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc có ba xu hướng niềm tin vào đạo Tin Lành. Như phần trên đề cập, một bộ phận người Mông niềm tin vào đạo Tin Lành ổn định theo chính thống. Một bộ phận thứ hai đang
20
trong quá trình chuyển biến để hướng tới sự ổn định theo hướng chính thống. Vẫn còn một bộ phận cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc niềm tin còn mờ nhạt. Tín đồ trong bộ phận cộng đồng này niềm tin chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu tôn giáo, hoặc có nhưng chưa thực sự sâu sắc, chưa thực sự ổn định. Do một thời gian dài chịu ảnh hưởng của Tin Lành Vàng Trứ, chuyển sang niềm tin Tin Lành, do những điều kiện khác nhau họ chưa có điều kiện để học hỏi giáo lý.
Như một sự tất yếu, niềm tin như thế nào, sự thực hành nghi lễ sẽ như thế. Đó chính là mối quan hệ tương hỗ giữa niềm tin tôn giáo và thực hành nghi lễ tôn giáo. Với cộng đồng người Mông có niềm tin vào đạo Tin Lành ổn định theo chính thống việc thực hành nghi lễ đầy đủ, sinh hoạt tôn giáo nền nếp. Tín đồ cùng với việc thực hành nghi lễ tại gia còn thực hiện tại nhà thờ, nhà nguyện. Với cộng đồng người Mông đang chuyển biến hướng tới sự ổn định việc thực hành nghi lễ nhất là lễ Tiệc thánh, một số lễ trọng đôi khi còn giản đơn. Việc thực hành nghi lễ của cộng đồng Tin Lành mà niềm tin còn mờ nhạt cho thấy họ mới chủ yếu thực hành nghi lễ tại gia. Một số nghi lễ ngay cả lễ trọng họ tham gia nhưng sự hiểu biết còn hết sức hạn chế. Thậm chí một số người thực hành nghi lễ là làm theo.
Ba xu hướng về niềm tin về thực hành nghi lễ dẫn đến việc hình thành ba cộng đồng Tin Lành khác nhau. Một cộng đồng ổn định về thiết chế tổ chức, có mục sư hay mục sư nhiệm chức cai quản, có Ban chấp sự, có cơ sở thờ tự, cộng đồng đó niềm tin tôn giáo và thực hành nghi lễ sẽ ổn định, đi theo hướng chính thống. Ngược lại sẽ là chưa thật ổn định thậm chí còn có những biểu hiện lệch lạc.
Một thực tế cho thấy do đặc thù của Tin Lành về tổ chức là một tôn giáo có nhiều hệ phái. Mỗi hệ phái có cơ cấu, thiết chế khác nhau được quy định bởi Hiến chương. Người Mông Tin Lành nói chung và người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc luôn gặp một tình trạng bị một số hệ phái “xâu xé”. Thực tế này kéo theo những hệ lụy như tín đồ tự nhận mình thuộc về một hệ phái nào đó nhưng sự hiểu biết về hệ phái đó chưa thật kỹ càng, thậm chí còn rất kém. Một số điểm nhóm về danh nghĩa thuộc về một hệ phái nhưng mô hình tổ
21
chức, một số định chế chưa thật sự theo đúng Hiến chương của hệ phái đó. Chẳng hạn như cơ cấu tổ chức Điểm nhóm Tin Lành Trưởng Lão bản Sín Chải xã Đắk Ngo, Đắc Lắc, tuy có chức danh Trưởng Lão nhưng không thấy thể hiện vị trí và vai trò. Đứng đầu các ban (Thanh niên, phụ nữ…) là Ban chấp sự. Trong khi đó các điểm nhóm khác cũng thuộc Hội thánh Tin Lành Trưởng Lão Việt Nam đứng đầu các ban là Trưởng ban. 4.2.5. Về đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo
Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở Đắc Lắc nhìn chung đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, có chuyên môn sâu, có tinh thần khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Song đó là cách nhìn tổng thể. Đi vào từng vấn đề cụ thể thì thấy đã và đang bộc lộ những bất cập tác động trực tiếp đến đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện công tác tôn giáo của tỉnh.
Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo luôn có sự xáo trộn về cơ cấu, đặc biệt về nhân sự. Nhiều cán bộ làm công tác tôn giáo ở địa phương vẫn kiêm nhiệm, chuyển từ đơn vị, bộ phận khác, hạn chế thậm chí thiếu hiểu biết về tôn giáo nên trong thực hiện khi tả khuynh khi hữu khuynh. Nhiều công việc dưới cơ sở không chủ động giải quyết, thường chờ đợi, xin ý kiến chỉ đạo cấp trên.
Sự xáo trộn về nhân sự làm cho một số cán bộ làm công tác tôn giáo cấp tỉnh chưa thật yên tâm yêu nghề, thực sự học hỏi nắm vững chuyên môn sâu về tôn giáo, đặc biệt là các văn bản, nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh về công tác tôn giáo. Cá biệt có cán bộ ở phòng chuyên môn nhưng chưa tiếp cận một cách đầy đủ Chỉ thị 01, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Do vậy khi thực hiện công tác chuyên môn còn có những sai sót đáng tiếc.
Cấp ủy, chính quyền cơ sở một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến nhân sự làm công tác tôn giáo. Chưa thực sự đề bạt, tuyển chọn những cán bộ có năng lực, có tâm huyết làm công tác tôn giáo, thậm chí có nơi bố trí nhân sự là cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu.
Cán bộ làm công tác QLNN đối với hoạt động của các tổ chức tôn
22
giáo một công việc được xem là “khó, khổ, nguy hiểm” nhưng hiện vẫn chưa có được những ưu đãi nên đời sống kinh tế của một số cán bộ còn gặp khó khăn khiến họ thực sự “say nghề”, tận tâm với công việc.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên nhất là bộ phận đảm nhận công việc đảng, chính quyền cấp xã, phường chưa nhận thức đầy đủ vai trò của công tác, xây dựng, phát huy lực lượng cốt cán trong tôn giáo, còn có thái độ nghi ngờ, ngại tiếp xúc với chức sắc tôn giáo. Khi giải quyết một số vụ việc tôn giáo thường nặng về hành chính, giấy tờ thậm chí còn có những biểu hiện cứng rắn quá mức dẫn đến những phản ứng tiêu cực mà không chú ý đến đối thoại hòa giải. Hoặc còn nặng về “xiết” hơn là quan tâm, tạo điều kiện trong việc giải quyết những nhu cầu chính đáng của người dân tín đồ. 4.3. Một số đề xuất khuyến nghị 4.3.1. Cụ thể hóa và vận dụng linh hoạt thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phù hợp với tình hình tôn giáo nói chung, tình hình đạo Tin Lành trong đó có đạo Tin Lành trong người Mông nói riêng. 4.3.2. Chăm lo phát kinh tế - văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc
KẾT LUẬN
(1) DCTD là một hiện tượng xã hội khách quan, song quá trình du nhập của Tin Lành vào cộng đồng người Mông, hình thành cộng đồng người Mông Tin Lành, kéo theo hiện tượng di cư ồ ạt vào Đắc Lắc , Tây Nguyên những năm 1986 đến nay được xem như những làn sóng bất thường, tạo thành hiện tượng xã hội, cao trào, đỉnh điểm và hình thành nên cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc phong phú, đa dạng và có màu sắc riêng, góp phần làm phong phú bức tranh đời sống tôn giáo của đồng bào có đạo ở Đắc Lắc , Tây Nguyên. Song, đời sống tôn giáo của cộng đồng người Mông Tin Lành có tác động đến mọi mặt của đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái của địa phương và ngược lại. Từ một cồng đồng tương đối đồng nhất ban đầu đã chuyển biến thành 03 cộng đồng với đời sống tôn giáo có màu sắc riêng.
(2) Có thể nói, việc đa số người Mông ở Đắc Lắc chấp nhận Tin Lành là một thực thế khách quan, không phải phần lớn đồng bào bị lừa mị, ngộ nhận như
23
lâu nay đánh giá mà thức tế có một bộ phận đồng bào có nhu cầu thực sự, một mặt là để thay thế tín ngưỡng, tập tục cũ nặng nề, nhưng mặt khác họ coi đây là một chỗ dựa về mặt xã hội. Rõ ràng, chúng ta thấy, từ “Tin Lành Vàng Trứ” của người Mông các tỉnh phía Bắc khi di cư vào Tây Nguyên nói chung và Đắc Lắc nói riêng dưới tác động của các hệ phái Tin Lành đang tồn tại ở khu vực này, người Mông dần chuyển sang Tin Lành theo tinh thần “có tính chính thống hơn”.
(3) Những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm ổn định đời sống kinh tế - xã hội cũng như đáp ứng, đảm bảo quyền tự do tôn giáo của một bộ phận nhân dân, trong đó có việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo bình thường của cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc. Tuy nhiên, đời sống, sinh hoạt tôn giáo của những người Mông Tin Lành DCTD đến Đắc Lắc còn chưa được đảm bảo do sức chứa của Tây Nguyên đã cạn, các hoạt động truyền đạo và theo đạo Tin Lành trái pháp luật còn diễn ra. Những hoạt động lôi kéo tín đồ từ hệ phái này sang hệ phái khác bằng những yếu tố kinh tế, dẫn đến có những hoạt động tôn giáo trở nên không bình thường. Do đó, hình thành một số tín đồ luôn rơi tự do từ hệ phái này sang hệ khác khác. Hơn thế nữa, chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở Đắc Lắc còn hạn chế cả về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo.
(4) Để ổn định đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, tôn giáo trong cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc cần có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo cũng như nâng cao chất lượng đời sống trong cộng đồng người Mông Tin Lành và phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động truyền đạo trái pháp luật vào cộng đồng người Mông Tin Lành ở Đắc Lắc, nhằm giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong toàn tỉnh. Vấn đề đặt ra là Đảng, Nhà nước, Chính quyền địa phương tỉnh Đắc Lắc và các ban ngành hữu quan cần có chính sách, kế hoạch cụ thể nhằm đảm bảo hạn chế yếu tố tiêu cực, phát triển yếu tố tích cực, góp phần đảm bảo đời sống tôn giáo của cộng đồng người Mông Tin Lành ổn định, phát triển, đóng góp chung vào sự ổn định, phát triển bền vững của Đắc Lắc và cả Tây Nguyên./.
24
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Đoàn Đức Phương (2014), Một số vấn đề về đời sống tôn giáo của 1 đồng bào Mông ở Việt Nam theo Đạo Tin Lành hiện nay, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
Ngô Văn Doanh- Đoàn Phương (2014), Nhà thờ Công giáo ở Tây 2 Nguyên, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6(190).
Đoàn Đức Phương (2015), Một số vấn đề về sự di trú và phân bố dân 3 cư của người Mông Tin Lành ở Đắk Lắk, Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á, số 10 (187).
Đoàn Đức Phương (2015), Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo 4 của người Mông Tin Lành di cư ở Đắk Lắk, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 08 (146).
Đoàn Đức Phương (2015), Đánh giá những chuyển biến trong đời 5 sống tôn giáo của người Mông Tin Lành ở Đắk Lắk từ sau đổi mới
(1986) đến nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học do Viện Nghiên cứu Tôn
giáo- Hội thánh Tin Lành Hà Nội phối hợp tổ chức: “Trách nhiệm
của người Tin Lành trong quá khứ và hiện tại”, ngày 29/12/2015.
Đoan Đuc Phuong (2016), The Changes in the Religious Life of the 6 Migrant Hmong by Protestantism in Đăk Lăk, Vietnam, Religious
Studies Vol.10,NO.01&02,