
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 488 - THÁNG 3 - SỐ 2 - 2020
225
THỰC TRẠNG DỰ PHÒNG BIẾN CỐ GIẢM BẠCH CẦU TRUNG TÍNH DO
HOÁ TRỊ LIỆU BẰNG THUỐC TĂNG SINH BẠCH CẦU (G-CSF) TRÊN
BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ VÀ U LYMPHO TẠI BỆNH VIỆN K
Trần Thị Thu Trang1, Dương Khánh Linh1, Đỗ Huyền Nga2,
Phùng Quang Toàn2, Nguyễn Thị Hồng Hạnh1, Nguyễn Thị Liên Hương1
TÓM TẮT58
Mục tiêu: Phân tích tính phù hợp của dự phòng
sốt giảm bạch cầu trung tính (BCTT) do hoá trị liệu
bằng G-CSF so với khuyến cáo và hiệu quả dự phòng
trong việc làm giảm biến cố giảm BCTT. Đối tượng,
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô
tả trên bệnh án của các bệnh nhân chẩn đoán ung thư
vú sử dụng phác đồ AC và u lympho sử dụng phác đồ
(R)CHOP tại các khoa Nội bệnh viện K, có thời gian ra
viện từ 01/2019 đến 6/2019. Ghi nhận các thông tin
cần thiết trên bệnh án để đánh giá nhu cầu cần dự
phòng biến cố giảm BCTT tại mỗi chu kỳ, từ đó đánh
giá tính phù hợp việc sử dụng G-CSF theo các hướng
dẫn điều trị. Ghi nhận các đợt giảm BCTT và biến
chứng liên quan để đánh giá hiệu quả dự phòng. Kết
quả: Nghiên cứu thu thập được 159 bệnh án (412 chu
kỳ AC và 284 chu kỳ (R)CHOP). Tỷ lệ các nhóm chu kỳ
phân loại theo đặc điểm dự phòng G-CSF: dự phòng
phù hợp (68,2%), dự phòng thừa (18,4%), dự phòng
thiếu (13,4%). Trong đó, dự phòng không phù hợp
cao hơn ở phác đồ nguy cơ trung bình so với phác đồ
nguy cơ cao. Dự phòng thừa chủ yếu xảy ra ở các chu
kỳ sau và trên bệnh nhân u lympho. Tỷ lệ giảm BCTT
bất kỳ mức độ nào, giảm BCTT nặng và các biến
chứng giảm BCTT ở nhóm dự phòng thiếu cao hơn
nhóm dự phòng phù hợp (p<0,05), và không có sự
khác biệt giữa nhóm dự phòng phù hợp và nhóm dự
phòng thừa (p>0,05). Kết luận: Thực trạng dự
phòng biến cố giảm BCTT bằng G-CSF trong thực
hành lâm sàng còn có sự chưa thống nhất so với các
khuyến cáo hiện nay. Dự phòng G-CSF đầy đủ tuân
thủ theo các khuyến cáo có thể mang lại lợi ích trong
việc giảm tỷ lệ biến cố BCTT, dự phòng thiếu có nguy
cơ cao hơn xảy ra biến cố này.
Từ khoá:
giảm bạch cầu trung tính, sốt giảm bạch
cầu trung tính, thuốc tăng sinh bạch cầu.
SUMMARY
AN ASSESSMENT OF THE PREVENTION OF
CHEMOTHERAPY-INDUCED NEUTROPENIA BY
GRANULOCYTE-COLONY STIMULATING FACTOR
AMONG BREAST AND LYMPHOMA CANCER
PATIENTS IN THE NATIONAL CANCER HOSPITAL
Aim: To examine the compliance to the standard
guidelines of prescribing granulocyte-colony
1Trường Đại học Dược Hà Nội
2Bệnh viện K
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Liên Hương
Email: huongntl@hup.edu.vn
Ngày nhận bài: 6.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 2.3.2020
Ngày duyệt bài: 9.3.2020
stimulating factor (G-CSF) for the prevention of
chemotherapy-induced neutropenia and the
effectiveness among patients with breast cancer and
lymphoma at the National Cancer Hospital. Study
method: A descriptive retrospective study on breast
cancer patients treated with AC regimen and
lymphoma patients treated with (R)CHOP at the
Department of Internal Medicine, National Cancer
Hospital, discharged from January 2019 to June 2019.
Data on the prophylaxis patterns of G-CSF,
neutropenia and the related complications at each
cycle were retrieved from medical records to evaluate
the compliance to the guidelines and to examine the
effectiveness. Results: We enrolled 159 patients with
a total of 412 cycles of AC and 284 cycles of (R)CHOP.
68.2% of the cycles had appropriate prophylaxis,
18.4% and 13.4% had over- and under-prophylaxis,
respectively. The proportion of cycles with
inappropriate prophylaxis was highest in the group
with the intermediate risk for febrile neutropenia (FN).
Over-prophylaxis occurred mostly in the subsequent
cycles and in lymphoma patients. The proportions of
cycles with neutropenia, grades 3/4 neutropenia and
related complications in the under-prophylaxis group
were significantly higher than the appropriate
prophylaxis group (p<0,05) but did not differ between
the over-prophylaxis and the appropriate prophylaxis
group (p>0,05). Conclusions: Prophylaxis for
chemotherapy-induced neutropenia remained not
compliant to the guidelines. Under-prophylaxis of G-
CSF according to guidelines was associated with worse
outcomes while over-prophylaxis did not provide more
clinical benefit.
Keywords:
Chemotherapy-induced neutropenia,
Neutropenia, Febrile neutropenia, Granulocyte-colony
stimulating factor.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảm bạch cầu trung tính (BCTT) là một biến
cố thường gặp và có thể gây ra các hậu quả
nghiêm trọng trong hoá trị cho bệnh nhân ung
thư. Biến cố này làm tăng nguy cơ biến chứng
nhiễm khuẩn có thể dẫn tới giảm liều hoặc trì
hoãn hoá trị, ảnh hưởng tới hiệu quả và chi phí
điều trị. Dự phòng các yếu tố kích thích tăng
sinh dòng bạch cầu hạt (thuốc tăng sinh bạch
cầu – G-CSF) trên bệnh nhân hoá trị liệu trở
thành chiến lược quan trọng trong quản lý biến
cố giảm BCTT. Hầu hết các khuyến cáo hiện nay
đều thống nhất dự phòng G-CSF cho những
bệnh nhân có nguy cơ sốt giảm BCTT cao. Tại
mỗi chu kỳ, bệnh nhân cần được đánh giá nguy