Ebook Lịch sử hình thành, đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Hưng: Phần 1
lượt xem 3
download
Ebook Lịch sử hình thành, đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Hưng: Phần 1 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Mảnh đất và con người Vinh Hưng; sự nghiệp đấu tranh cách mạng vẻ vang. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Lịch sử hình thành, đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Hưng: Phần 1
- LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ VINH HƯNG 1
- 2
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ VINH HƯNG LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ VINH HƯNG NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 2016 3
- BAN CHỈ ĐẠO TRẦN ĐÌNH QUANG HUYỆN ỦY VIÊN, BÍ THƯ ĐẢNG ỦY, TRƯỞNG BAN NGUYỄN TRÌNH PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC ĐẢNG ỦY CHỦ TỊCH HĐND XÃ LÊ VĂN HÙNG NGUYÊN PHÓ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY, CHỦ TỊCH UBND XÃ NGUYỄN QUANG HUY CHỦ TỊCH UBND XÃ BAN BIÊN SOẠN NGUYỄN ĐÌNH NAM (Chủ biên) NGUYỄN VĂN MINH 4
- LỜI NÓI ĐẦU Khoảng 600 năm trước bên kia đầm Cầu Hai lịch sử đã xuất hiện 2 ngôi làng nổi tiếng, Diêm Trường và Phụng Chánh. Đó là hai trong số 67 ngôi làng thuộc huyện Tư Vinh và 127 ngôi làng thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế có mặt trong “Ô Châu cận lục” của Tiến sĩ Dương Văn An, cuốn sách đầu tiên viết về vùng đất Thuận Hóa xưa, bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và phần phía bắc tỉnh Quảng Nam. Cũng trong thời gian đó, làng Lương Viện ra đời, hợp cùng Diêm Trường, Phụng Chánh và sau này bổ sung thêm vạn chài Trung Chánh, góp phần hình thành nên xã Vinh Hưng ngày nay. Cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường trong đấu tranh chống áp bức và xâm lược, có đời sống văn hóa tinh thần phong phú và giàu tình nghĩa trong cuộc sống hằng ngày là những ghi nhận đáng tự hào về vùng đất và con người Vinh Hưng. Truyền thống vẻ vang đó đã và đang được phát huy trong lịch sử đấu tranh cách mạng chống phong kiến, thực dân và đế quốc cũng như trong công cuộc xây dựng và kiến thiết quê hương Vinh Hưng ngày càng giàu đẹp hôm nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Nhằm ghi lại quá trình hình thành, những chặng đường lịch sử phát triển của mảnh đất và con người Vinh Hưng, đặc biệt là sự nghiệp cách mạng vẻ vang trong 85 năm qua 5
- dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 2015), được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Phú Lộc và thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Vinh Hưng tiến hành tổ chức biên soạn và xuất bản cuốn sách: Lịch sử hình thành, đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Hưng. Quá trình biên soạn, chúng tôi nhận sự cộng tác tích cực, có hiệu quả của Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Phú Lộc; các đồng chí lão thành cách mạng, lãnh đạo chủ chốt của xã qua các thời kỳ và bà con các họ tộc đang sinh sống tại địa phương cũng như trên khắp mọi miền đất nước. Các đồng chí và bà con đã nhiệt tình cung cấp tư liệu, tích cực tham gia ý kiến đóng góp để công trình hoàn thành đảm bảo tính chính xác, khoa học và kịp thời ra mắt, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc gần xa. Do thời gian lùi xa, công tác lưu trữ và bảo quản không đầy đủ, không ít nguồn tư liệu quý báu bị thời gian phá hủy, nhiều nhân chứng lịch sử không còn; đồng thời, năng lực của tập thể những người trực tiếp tham gia biên soạn còn nhiều hạn chế nên cuốn Lịch sử hình thành, đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Hưng không tránh khỏi những tồn tại và thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phê bình, góp ý của các đồng chí và bạn đọc gần xa. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ VINH HƯNG 6
- CHƯƠNG I MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƯỜI VINH HƯNG I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN Xã Vinh Hưng nằm ở ven bờ phía đông đầm Cầu Hai, là một trong 5 xã thuộc khu III huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế(1). Xã Vinh Hưng cách trung tâm thành phố Huế khoảng 30 km theo đường chim bay. Từ Huế, có thể về Vinh Hưng theo nhiều cung đường khác nhau. Một là, dọc theo Quốc lộ 1A cách Huế chừng 35 km đến bến đò Đá Bạc (còn có tên chữ Bạch Thạch), rồi vượt đầm Cầu Hai bằng tàu thuyền và cập bến Vinh Hưng. Hai là, dọc theo Quốc lộ 1A cách Huế chừng 15 km rẽ vào đường Thủy Phù - Vinh Thanh, qua cầu Trường Hà (trước đây là bến đò Trừng Hà), rồi men theo Quốc lộ 49B, đi qua địa phận các xã Vinh Thanh và Vinh An ( huyện Phú vang) để về tới Vinh Hưng. Ba là, từ Huế dọc theo Quốc lộ 1A đến km 885 + 400, rẽ vào đường Lộc Bình (Quốc lộ 49B), qua cầu Tư Hiền rồi tiếp tục đi theo Quốc lộ 49B qua Vinh Hiền, Vinh Mỹ để ngược lên Vinh Hưng. Ngoài ra, có thể từ Huế về Thuận An, rồi dọc theo Quốc lộ 49B đi thẳng khoảng 20 km về Vinh Hưng. So với các xã còn lại của khu III Phú Lộc, Vinh Hưng là một xã lớn, có diện tích tự nhiên 1.604,11ha; phía bắc (1) 5 xã vùng khu III Phú Lộc gồm Vinh Hưng, Vinh Giang, Vinh Hiền, Vinh Mỹ và Vinh Hải 7
- giáp xã Vinh An (huyện Phú Vang), phía nam giáp xã Vinh Giang, phía đông giáp xã Vinh Giang và Vinh Mỹ, phía tây giáp đầm Cầu Hai. Toàn xã có 680,05 ha đất nông nghiệp (chiếm 42,39%); bao gồm đất lúa nước 109,20 ha; đất trồng cây hàng năm 69,70ha; đất trồng cây lâu năm 45,35 ha; đất rừng sản xuất 105,53 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 350,27 ha. Đất phi nông nghiệp có 694,07 ha.(1) Về đại thể, Vinh Hưng mang đặc điểm chung của khí hậu Thừa Thiên Huế nói riêng và Bình Trị Thiên nói chung với những biến dị do vị trí địa lý quy định, đó là một phía giáp biển, một phía giáp đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và có những rặng núi cao của dãy Trường Sơn ăn ra tận biển. Nhiệt độ trung bình trong năm là 24,4°C; cao nhất khoảng 35 - 39°C vào các tháng 6 - 7 và thấp nhất khoảng 15 - 20°C vào các tháng 1 - 2. Nhiệt độ nước ở đầm phá chịu ảnh hưởng mạnh của sự biến đổi khí hậu, thời tiết với mức trung bình là 24,9°C. Độ ẩm tương đối, khoảng 83%. Mùa mưa ở Vinh Hưng kéo dài từ cuối tháng 8 đến tháng 1 năm sau. Mưa thường lớn, có tháng lên tới 600 - 700 mm. Kèm theo mưa là rét và lụt bão, cao điểm vào các tháng 9 và tháng 10 âm lịch. Lúc này, nhiệt độ có thể hạ thấp xuống còn 12 - 18°C, nhất là khi có gió mùa đông bắc kèm theo. Mùa nắng bao gồm những tháng còn lại trong năm với nhiệt độ trung bình 30 - 32°C và kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, trong đó các tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 5 và tháng 7. Các hướng gió chính là gió đông nam, tây nam, tây bắc, đông bắc. (1) Quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020 theo Quyết định số 1287/QĐ - UBND ngày 04 - 05 - 2012 của UBND huyện Phú Lộc. 8
- Vùng đồng bằng Bình Trị Thiên nói chung được hình thành từ hiện tượng biển thoái nhiều hơn là sự bồi đắp phù sa của các con sông. Hiện tượng biển thoái xảy ra khoảng đầu kỷ đệ tứ, cách nay khoảng 70 triệu năm. Trải qua quá trình hình thành và tiến hóa lâu dài, khu vực đầm phá và biển ven bờ Tam Giang - Cầu Hai - An Cư, trong đó có xã Vinh Hưng được hình thành, bao gồm đầm phá, dãy cồn đụn cát chắn bờ và biển ven bờ. Toàn bộ phía tây là đầm Cầu Hai, trong khi phần phía đông giáp biển lại được che chắn bởi hai xã Vinh Giang và Vinh Mỹ nên xã Vinh Hưng chủ yếu là khu vực đồng bằng nhỏ hẹp ven đầm và dãy cồn đụn cát chắn bờ. Dải đồng bằng nhỏ hẹp tiếp giáp với đầm Cầu Hai được hình thành do ảnh hưởng của mạch nước ngầm mặn hoặc do ảnh hưởng của nguồn nước mặn tràn vào không thường xuyên (được gọi là đất mặn ít và trung bình). Thành phần cơ giới khác nhau, tùy thuộc vào nguồn gốc phát sinh. Đất có phản ứng trung tính. Hàm lượng mùn trung bình (1 - 1,5%), đạm tổng số trung bình, lân tổng số hơi nghèo - trung bình, nhưng lân dễ tiêu rất nghèo, hàm lượng tổng số muối tan dao động từ 0,3 - 0,91%. Loại đất này, chỗ bằng phẳng sử dụng trồng lúa, hoa màu và cây ăn quả; riêng lúa năng suất thấp và không ổn định. Một số diện tích loại đất mặn trung bình có thể cải tạo để nuôi trồng thủy sản.(1) Dãy cồn đụn cát chắn bờ chủ yếu nằm ở khu vực tiếp giáp với xã Vinh Mỹ và Vinh Giang. Dãy cồn đụn cát chắn bờ nằm xen giữa đồng bằng duyên hải hoặc đầm phá bên trong và biển Đông ở bên ngoài, đi từ tây bắc (Điền (1) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, phần tự nhiên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr 167. 9
- Hương, Phong Điền) xuống đông nam (chân đèo Hải Vân), được xem là một đặc điểm quan trọng của địa hình Thừa Thiên Huế(1). Bề rộng và độ cao của dãy cồn đụn cát chắn bờ ở Thừa Thiên Huế có sự biến đổi phức tạp. Bề rộng đoạn đi qua Vinh Hưng, Vinh Mỹ khoảng trên 4.000m; còn độ cao, đoạn từ Phú Diên (Phú Vang) đi qua Vinh Hưng đến cửa Vinh Hiền, ít có biến động lớn và dao động chỉ trong khoảng 5 - 12m. Có thể nhận thấy hình ảnh dãy độn cát chắn bờ ở Vinh Hưng là mặt cát được nâng cao lên, có đỉnh tương đối rộng và phẳng, tạo thành một dải trảng hay rú cát; tiêu biểu như rú Ông Trợt, rú Ông Chính, trảng Đồn… Rú cát ở Vinh Hưng có diện tích không nhiều, nhìn chung đất xấu, nghèo dinh dưỡng. Một số diện tích được sử dụng để chôn cất mồ mả từ lâu đời. Hiện nay, đa phần được khai hoang, chuyển thành đất canh tác, trồng rừng phòng hộ và thổ cư. Rú cát ở các làng thuộc xã Vinh Hưng có nhiều giống cây bản địa quý, như cây rõi, bứa, mù u… Đáng chú ý là cây rõi, một loại cây tự nhiên mọc ở vùng đồi cát cao ráo, có thân cao nhiều cành, lá mọc đối nhau, quả giống như quả măng cụt. Mỗi quả thường có 3 múi với cơm màu trắng có thể ăn được, hạt màu ngà. Hạt rõi thu lượm có thể ép dầu làm thức ăn rất tốt. Ở các rú cát còn có loại khoai mài, dân gian còn gọi là củ mài, tên chữ là hoài sơn hoặc thự dự. Khoai mài có thân nhỏ, dựa vào các cây bụi khác để bò và leo cao, lá nhỏ, trên thân có rễ phụ phát triển thành củ nhỏ, tròn và có lông như khoai tía. Đặc biệt, phần rễ dưới đất phát triển thành củ, có trường hợp dài đến 2 mét, không chỉ (1) (UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, phần tự nhiên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr 65). 10
- là một thức ăn ngon mà còn là thứ thuốc quý, có tác dụng bổ thận, lợi tỳ vị, dưỡng tim… Trên những trảng cát ở Vinh Hưng có một loài động vật khá đặc biệt, đó là con nhông cát (còn gọi là con dông, con mồn, con mồn mồn), có hình dáng gần giống con tắc kè, đào hang sống trong cát. Dân gian phân biệt có 3 loại nhông: nhông hương màu xanh, nhông lửa màu đỏ và nhông kỳ màu sẩm. Con nhông chỉ hoạt động trên đất (cát) từ khoảng 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều, “ngủ đông” từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Con nhông cát sinh sản từ tháng 4 đến tháng 7 hằng năm; một con mỗi lần đẻ 2 trứng, nặng chừng 2 gam. Nhông cát trưởng thành cân nặng 0,075 đến 0,1 kg. Thịt nhông cát thơm ngon và có hương vị như thịt gà, hàm lượng đạm cao, giúp phần bồi bổ sức khỏe, đặc biệt cho người ốm và phụ nữ mới sinh con. Địa hình chủ yếu là những trảng cát, đụn cát mênh mông của Vinh Hưng được điểm xuyết bằng rất ít những bàu nước (bàu Trảm), khe nước (khe Trung Kiều) và con sông Lương Viện, là nơi quần tụ dân cư, tổ chức sản xuất canh tác, tiến hành các hoạt động giao thương. Đặc biệt, những nguồn nước ít ỏi này còn có tác dụng rất lớn trong sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt và điều hòa sinh thái. Tương truyền, xưa có con sông bắt nguồn từ thôn Diên Lộc và Phương Diên (xã Phú Diên), chảy qua các xã Vinh Thanh, Vinh An (Phú Vang), về tới xã Vinh Hưng, rồi đổ ra đầm Cầu Hai thuộc địa phận xã Vinh Giang (Phú Lộc). Sông không có tên chung. Theo các vị bô lão dân làng Lương Viện cho biết, tên sông được gọi theo các tên làng mà nó chảy qua. Đi qua địa phận làng Lương Viện, sông mang tên Lương Viện có chiều dài khoảng 2,5 km. Sông Lương Viện có ba bến đò ngang là bến 11
- Đào, bến Sát ở phía trên và bến Quang ở phía dưới. Bến Sát, bến Đào từ lâu đã mất dấu tích. Riêng bến Quang là bến đò ngang nối liền hai làng Lương Viện và Diêm Trường. Ngay ở bến Quang, từ đầu thế kỷ 20, người ta đã bắc một cây cầu tre để bảo đảm cho việc đi lại thuận lợi. Trước ngày giải phóng 1975, cầu tre được thay thế bằng một chiếc cầu bằng ri sắt. Sau ngày giải phóng, cầu được xây lại kiên cố bằng bê tông cốt thép, tồn tại cho đến nay. Sông Lương Viện đã bị bồi lấp, gần như quanh năm khô cạn, chỉ có nước dâng vào mùa mưa lũ. Hiện, ở nhà thờ làng Lương Viện và nhà thờ họ Phạm (làng Lương Viện) còn lưu giữ tấm họa đồ làng Lương Viện xưa, trong đó nổi bật hình ảnh dòng sông Lương Viện đi qua cánh đồng, có ghi dấu bến đò xưa và ngôi chợ làng. Bao bọc cả phía tây xã Vinh Hưng, có chiều dài lên tới 7 km là đầm Cầu Hai, vùng gần bờ còn được gọi là đầm La Hong.(1) Cầu Hai là tên gọi do người Pháp đặt. Trước đó, đầm có tên là Cao Đôi(2) và sau đó được gọi là Hà Trung, có thể bao gồm các đầm Sam, Hà Trung, Thủy Tú và Cầu Hai nay. Nhà bác học Lê Quý Đôn cho biết về đầm Hà Trung và vị thế thôn Diêm Trường (xã Vinh Hưng) vào thế kỷ thứ XVIII, khi ông từ miền Bắc vào, như sau: “Huyện Phú Vinh trên là núi, giữa là hồ, ở dưới là bể. Cái hồ to Hà Trung rộng (1) Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là khu đầm phá lớn nhất Đông Nam Á, nằm cách Cố đô Huế khoảng 7 km về phía đông bắc, ở toạ độ địa lý từ 16°14’ đến 16°42’ vĩ độ bắc và từ 107°22’ đến 107°57’ kinh độ đông, là một la - gun ven bờ nhiệt đới gồm 4 vực nước nối liền nhau từ bắc vào nam, lần lượt là: Phá Tam Giang, đầm Sam - Chuồn, gọi tắt là đầm Sam và đầm Thuỷ Tú - Hà Trung, gọi tắt là đầm Thủy Tú và cuối cùng là đầm Cầu Hai rộng lớn với với 11.200 ha. (2) Theo Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Bản dịch và chú giải của Văn Thanh - Phan Đăng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. 12
- mênh mông, không thể biết rõ là bao nhiêu mẫu. Nhân dân các xã ở vòng quanh bốn bên hồ ấy. Xã Diêm Trường ở giữa hồ. Một bến có cái cầu thông ra bờ sông Nghi dài 110 gian. Bên bờ hồ những nơi lõm vào có những cái đầm lầy như là đầm Minh Lương, đầm Ô Tra và cửa Đá Đả. Số tiền thuế hàng năm phải nộp đến hàng nghìn quan tiền”(1). Quốc sử quán triều Nguyễn chép: “Phá Hà Trung ở phía đông bắc huyện Phú Lộc năm dặm, nước theo các sông Lợi Nông, Sư Lỗ, Cao Đôi chảy dồn về. Phá rộng 2 dặm lẻ, chu vi hơn 100 dặm, trong đó có hai đầm Hà Trung và Minh Lương. Nước trong đầm có một dòng chảy theo hướng đông nam đổ ra cửa biển Tư Hiền, một dòng chảy theo hướng đông bắc, đổ ra cửa biển Thuận An. Phá này nguyên trước thuộc huyện Phú Vang. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) đổi thuộc huyện Phú Lộc. Năm Thiệu Trị, vua có thơ vịnh 20 cảnh ở Thần kinh thì đây là cảnh “Hải nhi quan ngư” (xem cá ở phá Hà Trung). Có khắc lên bia đặt ở nhà bia bên đầm Minh Lương”(2). Đầm Cầu Hai “có dáng vẻ lòng chảo hình bán nguyệt, tương đối đẳng thước và có diện tích 104 km². Tham gia cấu tạo bờ và đáy đầm Cầu Hai có cả trầm tích mềm rời đệ tứ lẫn đá granit phức hệ Hải Vân. Trong đó, phần trên cùng của trầm tích đáy hiện đại phổ biến nhất (chiếm 2/3 diện tích) có bùn sét - bột xám đen, xám xanh phân bố ở trung tâm, tiếp đến gặp cát nhỏ, cát trung và cát thô cấu tạo bãi bồi ven bờ tây nam, bãi bồi delta ở cửa sông Đại Giang, sông (1) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Ngô Lập Chí dịch, Khoa Xã hội Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1959, tr 47). (2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, tập 1. Nxb Lao Động, Hà Nội, 2004, tr 122. 13
- Truồi, sông Cầu Hai, bãi bồi delta triều lên gần cửa Vinh Hiền. Đầm Cầu Hai liên thông với biển Đông qua cửa biển Tư Hiền”(1). Ven đầm Cầu Hai thuộc địa phận xã Vinh Hưng nổi lên nhiều cồn lớn nhỏ, như cồn Trần, Trại, cồn Ta, cồn Tơi, cồn Tròn, cồn Sáo…Từ nhiều năm nay, những khu vực này được xã quy hoạch và đã hình thành nên những vùng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm phân tán. Riêng ở khu vực cồn Tròn được quy hoạch thành điểm sơ chế và thu gom thủy hải sản. Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là nơi giàu tài nguyên với động thực vật phong phú bậc nhất ở khu vực Đông Nam Á. Ở đây có tới 230 loài cá, 63 loài động vật đáy, 43 loài rong, 70 loại chim, 15 loại cò biển, 171 loài phù du thực vật, 37 loại phù du động vật; trong đó, có 30 loại cá có giá trị kinh tế, chiếm 70% lượng khai thác hàng năm; có 34 loài chim di cư và 36 loại chim bản địa. Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai còn là nơi tập trung các bãi giống, bãi đẻ của các loài thủy sản. Rong là nguồn lợi lớn mà đầm Cầu Hai mang lại cho người dân các thôn làng ở Vinh Hưng. Đầm Cầu Hai nổi tiếng với nhiều loại rong: Rong lục, rong lam, rong đỏ, rong nâu, rong từ, rong mái chèo, rong đuôi chồn, rong kim… Đây là loại phân xanh đặc biệt, vừa có chất hữu cơ tăng cường độ phì nhiêu, lại vừa là vật giữ độ ẩm tốt nhất cho đất đai. Rong khai thác về có thể phục vụ cho nhu cầu trồng trọt, chăn nuôi của gia đình. Ngoài ra, xưa kia gặp lúc khó khăn, đó cũng là thức ăn dành cho con người. Theo Quốc (1) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, phần tự nhiên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2005, tr 63. 14
- sử quán triều Nguyễn, “rong mái chèo (thư thảo) còn gọi là tiểu tảo. Kinh thư có câu: Vu dĩ thái trao (đi hái rau tảo). Tảo tức là thứ rau này. Hái lấy lá và rể non, lựa nhặt rửa sạch, xắt nhỏ luộc chín trộn dầu muối ăn, hoặc thêm một ít gạo nấu cháo càng ngon”. Trong khi đó, “rong đuôi chồn (thủy đậu nhi), hái mầm non và rễ, rửa sạch sẽ nấu ăn, hay để sống bỏ muối làm dưa ăn cũng được”(1). Thủy sản đầm Cầu Hai nổi tiếng tươi ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Tiêu biểu là con cua gạch, tuy không to ký nặng cân, nhưng luôn chắc đầy quanh năm, có vỏ mỏng tang, càng cua có thể bóp vỡ bằng tay, gạch đỏ như son, quánh lại thành từng khối nhỏ sau khi nấu chín và khi nhắm nháp ta lại nghe thoảng mùi thơm giống như mùi cốm hay cỏ non. Bên cạnh đó là các loại trìa, tôm rảo, cá đối... Con trìa (còn gọi là ngao nước lợ) thuộc giống nhuyễn thể là một loại đặc sản. Đây là nguồn thực phẩm chứa rất nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Trìa có thể hấp rồi ăn với rau răm hay xào, nấu. Nước trìa là một dưỡng chất “giải độc” thanh nhiệt rất tốt. Con tôm đất dài từ 120 - 130mm, nặng 15 - 20g, có thói quen đẻ trứng ở khu vực xa bờ, độ sâu trên 20m, nơi có đáy bùn, nước trong có nhiệt độ và độ muối thích hợp. Tôm rảo sinh sản liên tục, quanh năm, đặc biệt rộ vào các tháng từ tháng 4 tới tháng 8 và tháng 10 tới tháng 11. Tôm có chứa nhiều vitamin, trong đó có vitamin A, D là những chất quan trong trong việc phát triển xương của trẻ cũng như tăng cường hỗ trợ hoạt động của hệ tiêu hóa và chức năng ruột. Cá đối có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn có màu trắng bạc, thịt thơm mềm, béo ngọt, dễ chế biến các món ăn. (1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, tập 1. Nxb Lao Động, Hà Nội, 2004, tr 274. 15
- II. ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ Những thành tựu của khảo cổ học cho thấy con người nguyên thủy sinh sống trên mảnh đất Thừa Thiên Huế muộn nhất là vào thời kỳ đá mới, cách ngày nay chừng 5.000 năm. Cũng trên mảnh đất ở Thừa Thiên Huế, giới nghiên cứu khảo cổ học đã phát hiện dấu tích của nền văn hóa Sa Huỳnh tương ứng với thời đại kim khí, từ sơ kỳ đồ đồng đến sơ kỳ đồ sắt. Cách vùng đất Vinh Hưng không xa, các nhà nghiên cứu đã phát hiện nhiều hiện vật, như rìu, bôn đá ở Truồi (Lộc An). Ngoài ra, tại xã Lộc Thủy đã phát hiện nhiều mảnh gốm thuộc tiền văn hóa Sa Huỳnh (có niên đại khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2). Di tích được Bộ Văn hóa cấp giấy phép khai quật năm 1997, với diện tích khoảng 100 m2(1). Phát hiện này cho thấy sự có mặt rất sớm của con người trên vùng đất phía nam Thừa Thiên Huế, trong đó có xã Vinh Hưng. Ngay trên địa phận các làng xóm ở Vinh Hưng, người dân đã phát hiện nhiều vật dụng bằng gốm. Rất nhiều trong số đó có dấu hiệu là loại hình mộ táng bằng chum/vò, một nét đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh là nền văn hóa thuộc giai đoạn sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển ven Việt Nam, cách nay 3.000 - 2.500 năm, hoặc cuối thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên. Thư tịch cổ cho biết, vùng đất Thừa Thiên Huế thuộc bộ Việt Thường, là một trong số 15 bộ của nước Văn Lang xưa. Dưới thời nhà Hán đô hộ nước ta vào năm 111 TCN, Thừa Thiên Huế thuộc quận Nhật Nam. Năm 192, Khu Liên cùng nhân dân Chămpa nổi dậy đánh đuổi quân Hán lập nên (1) UBND huyện Phú Lộc, Hồ sơ danh mục di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện Phú Lộc, năm 2014. 16
- nhà nước Lâm Ấp và được chia thành 5 châu: Địa Lý, Mê Linh, Bố Chính, Ô và Rí (Lý)(1). Từ năm 192, bắt đầu ra đời Vương quốc Chămpa, lần lượt có các tên Lâm Ấp (192 - 758), Hoàn Vương (758 - 866), Chiêm Thành (866 - 1471), trong đó tồn tại tình trạng các tiểu quốc dọc theo các hệ thống sông. Thừa Thiên Huế bấy giờ được xem thuộc tiểu quốc Ulik(2). Những phát hiện khảo cổ học ở khu vực lân cận Vinh Hưng tiếp tục cung cấp những bằng chứng củng cố cho sự có mặt rất sớm của con người trên vùng đất này. Tiêu biểu như tại thị trấn Lăng Cô, các nhà nghiên cứu đã phát hiện địa điểm khu mộ vò của người Chămpa có niên đại khoảng thế kỷ XI - XV và được Bộ Văn hóa cấp giấy phép khai quật năm 1997 trên diện tích 100 m2. Tại xã Lộc Thủy, các nhà nghiên cứu khoa học còn phát hiện ra những dấu tích khảo cổ học có ý nghĩa quan trọng về mặt lịch sử. Đó là khu mộ thuyền làm bằng thân cây khoét rỗng có niên đại khoảng thế kỷ XI. Năm 2001, tháp Chămpa được phát hiện ở Mỹ Khánh, xã Phú Diên (Phú Vang), cách xã Vinh Hưng khoảng 10 km về hướng bắc. Được Bộ Văn hóa Thông tin cho phép, từ ngày 5 đến 21 - 9 - 2001, Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên Huế phối hợp với Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật tháp Mỹ Khánh. Tháp nằm ở độ sâu 5m so với mặt đất, lọt thỏm giữa vùng cát trắng ven biển, một vị trí rất hiếm đối với các tháp Chămpa được phát hiện và còn tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đánh giá của các nhà (1) Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994, tr.62. (2) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, tập 3, phần dân cư và hành chính, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2013, tr.14. 17
- chuyên môn, tháp Chămpa Mỹ Khánh có niên đại sớm nhất trong số những tháp Chămpa hiện nay, niên đại xác định theo PPC14 là 750 + -40 năm - thế kỷ VIII. Tháp có kiến trúc hình chữ nhật, dài 8,22 m, rộng 7,12 m, giật cấp thu nhỏ dần phần thân tháp phía trên, thuộc nhóm tháp lùn trong nghệ thuật kiến trúc Chămpa. Tháp Mỹ Khánh được xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 52/2001QÐ- BVHTT ngày 28 - 12 - 2001. Năm 1306 ghi nhận một sự kiện mang tính lịch sử, mở đầu cho hành trình “Nam tiến “ của dân tộc khi vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chămpa (Chế Mân). Vua Chămpa đã cắt 2 châu Ô và Lý (từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân) để làm lễ cầu hôn. Từ đây vùng đất châu Ô và châu Lý, trong đó có Vinh Hưng, trở thành một bộ phận lãnh thổ lâu dài của quốc gia Đại Việt và Nhà nước phong kiến Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách di dân vào vùng đất mới khẩn ấp lập làng. Thời Trần - Hồ (1307 - 1407) cho lập châu Thuận và châu Hóa. Châu Thuận nay là tỉnh Quảng Trị và châu Hóa là tỉnh Thừa Thiên Huế, thành phố Đà Nẵng và một phần phía bắc tỉnh Quảng Nam. Dưới thời nhà Trần, đất Thừa Thiên Huế chia làm 7 huyện là Bồ Đài, Sạ Lệnh, Bồ Lãng, Trà Khệ, Thế Vang, Lợi Bồng và Tư Dung. Xã Vinh Hưng và huyện Phú Lộc thuộc huyện Tư Dung, nơi có cửa biển Tư Dung nổi tiếng (tức cửa Tư Hiền nay). Năm 1428, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh thắng lợi, Nhà Lê được thành lập. Thuận Hóa với tư cách là vùng phên giậu của Tổ quốc, là nơi cung cấp nguồn lực quan trọng cho công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh, giải phóng đất nước đã được triều đình đặc biệt chú ý khai thác và phát triển. Vua Lê đã cử 18
- các trọng thần vào trấn giữ nơi đây với nhiệm vụ bảo vệ vùng trọng trấn phía nam, tăng cường di dân bằng nhiều hình thức do Nhà nước tổ chức và di dân tự do. Theo tài liệu dân gian, từ đời Lê Thái Tổ (1428 - 1434), triều đình đã ban lệnh ở phía bắc, ai mộ được 20 người thì cấp giấy cho vào lập ấp dựng làng, mở ruộng, sau đó 3 năm mới phải nộp thuế. Thế nên, tuy tình hình Thuận Hóa chưa thực sự ổn định nhưng đã có một số lượng khá lớn các làng xã được thành lập ven dòng sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương và dọc theo bờ biển ven cửa sông. Các làng Diêm Trường, Phụng Chánh (Chính) nay thuộc xã Vinh Hưng, nằm ven cửa biển Tư Dung được ghi nhận ra đời trong giai đoạn này, cách nay hơn 500 năm. Tháng sáu năm Bính Tuất (1446), vua Lê Thánh Tông bắt đầu cải tổ hành chính, cho đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu, chia nước thành 12 thừa tuyên và đến năm 1469 thì định bản đồ các phủ, châu, huyện, xã. Xứ Thuận Hóa có 2 phủ, 7 huyện, 4 châu. Địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay thuộc phủ Triệu Phong, có 3 huyện lần lượt là Đan Điền, Kim Trà và Tư Vinh. Các xã Diêm Trường và Phụng Chánh thuộc huyện Tư Vinh. Ngày 5 tháng 4 năm Canh Tuất, Hồng Đức 21 (1490), “bản đồ thiên hạ” được điều chỉnh, thừa tuyên Thuận Hóa quản 2 phủ Tân Bình và Triệu Phong, gồm 8 huyện, 4 châu. Riêng địa bàn Thừa Thiên Huế vẫn duy trì 3 huyện, gồm huyện Đan Điền có 8 tổng, 65 xã; Kim Trà 8 tổng, 71 xã và Tư Vinh có 8 tổng, 52 xã. Thời nhà Mạc (1527 - 1552), cơ bản vẫn giữ như dưới thời nhà Lê. Tỉnh Thừa Thiên Huế thuộc phủ Triệu Phong, có 3 huyện và 1 châu, gồm các huyện Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh và châu Thuận Bình. Dương Văn An trong “Ô Châu 19
- cận lục” cho ta danh sách cụ thể tên của từng xã ở 3 huyện vừa nêu. Diêm Trường và Phụng Chánh là 2 trong số 67 xã của huyện Tư Vinh(1). Tuy không được ghi vào “Ô Châu cân lục”, nhưng làng Lương Viện, một trong 4 làng của xã Vinh Hưng cùng với làng Lương Viện ở xã Phú Đa (Phú Vang) cũng được ghi nhận ra đời trong thời điểm này. Theo chính sử, vùng đất từ Hoành Sơn đến Hải Vân có dấu ấn cư dân người Việt ngay trong đợt Nam chinh đầu tiên vào năm 982 của Lê Hoàn và sau đó càng mở rộng điều kiện cho quá trình di cư, làm cho vùng đất này nhanh chóng trở nên “đất chật, người đông”. Để đáp ứng cho nhu cầu sinh tồn và phát triển, người Việt lại tiếp tục di chuyển và một trong các hướng đó là về phía đông khai thác triệt để vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, hình thành nên cộng đồng cư dân mới - cư dân mặt nước, trong đó có các bậc tiền nhân của vạn chài Trung Chánh. Năm 1558 đánh dấu một bước ngoặt mang tính lịch sử trong hành trình mở cõi về phương nam của tổ tiên ta. Vâng lệnh vua Lê - chúa Trịnh, Đoan Quốc quân Nguyễn Hoàng đã đem thủ hạ, bộ tốt vào trấn thủ đất Thuận Hóa và sau đó kiêm luôn Quảng Nam (1570). Thực chất, đây là một cuộc chạy trốn nhằm tránh bị tiêu diệt của chúa Tiên Nguyễn Hoàng trước thủ đoạn loại trừ nham hiểm của anh rể là Trịnh Kiểm. Với quyết tâm xây dựng vùng kiểm soát của mình thành nơi “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dải Hoành Sơn dung thân muôn thuở), ngay từ khi mới ổn định tình hình, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã bắt tay vào việc cải tổ hành hành chính và khẩn hoang lập làng. (1) (Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng đổi là Phú Vang). 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử hình thành: Phần 1
219 p | 94 | 15
-
Ebook Lịch sử hình thành, đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Hưng: Phần 2
166 p | 12 | 4
-
Ebook Lịch sử đặc công tỉnh Bình Thuận (1952-1975): Phần 1
77 p | 11 | 4
-
Ebook Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và nhân dân xã Thiện Nghiệp, phường Hàm Tiến (1930-1975): Phần 1
196 p | 8 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Lộc (1977-2017): Phần 2
130 p | 10 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015): Phần 1
224 p | 10 | 4
-
Ebook Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Hưng (1930-1975): Phần 1 (Tập 1)
97 p | 6 | 3
-
Kỷ yếu lịch sử hình thành vùng đất An Giang: Phần 1
46 p | 22 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hàm Thuận Bắc (1975-2005): Phần 1
132 p | 6 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ thành phố Tam Kỳ (1975-2010): Phần 1
114 p | 9 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Sông Trầu (1994-2015): Phần 1
107 p | 7 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 1
162 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử bộ đội biên phòng Quảng Nam-Đà Nẵng (1959-1997): Phần 1
365 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã An Viễn (1975-2015): Phần 1
129 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Cửu (1930-2000): Phần 1
99 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử truyền thống xã Suối Kiết (1945-2010): Phần 1
102 p | 7 | 2
-
Ebook Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân phường 13 (1930-2015): Phần 1
85 p | 7 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn