intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngữ âm tiếng Việt thực hành cho học viên quốc tế - Nội dung và phương pháp giảng dạy: Phần 1

Chia sẻ: Năm Tháng Tĩnh Lặng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

443
lượt xem
90
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu “Nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ âm tiếng Việt thực hành cho học viên quốc tế” bàn về nội dung, phương pháp giảng dạy phát âm, rèn luyện kỹ năng tiếp thụ và sản sinh ngôn ngữ âm thanh tiếng Việt cho học viên quốc tế. Đây là Tài liệu được viết phục vụ cho đối tượng là giảng viên, sinh viên học tập tiếng Việt như một ngoại ngữ và những người quan tâm đến lĩnh vực này. Tài liệu được chia thành 2 phần, sau đây là phần 1 của Tài liệu. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngữ âm tiếng Việt thực hành cho học viên quốc tế - Nội dung và phương pháp giảng dạy: Phần 1

  1. NGUYỄN CHÍ HÒA NéI DUNG Vµ PH¦¥NG PH¸P GI¶NG D¹Y NG÷ ¢M TIÕNG VIÖT ThùC HµNH CHO HäC VI£N QuèC TÕ NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 1
  2. 2
  3. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 5 Phần thứ nhất: CƠ SỞ LÝ LUẬN 7 Chương 1: ÂM THANH NGÔN NGỮ 7 NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP 1.1. Những đặc trưng cơ bản của âm thanh ngôn ngữ 7 1.2. Nội dung cơ bản trong giảng dạy ngôn ngữ âm thanh 15 1.3. Những vấn đề lý luận trong phương pháp giảng dạy ngôn ngữ 26 âm thanh 1.4. Tiểu kết 31 Phần thứ hai NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 33 GIẢNG DẠY NGÔN NGỮ ÂM THANH TIẾNG VIỆT Chương 2: GIẢNG DẠY PHÁT ÂM TIẾNG VIỆT 33 2.1. Tính tất yếu của việc giảng dạy phát âm 33 2.2. Những vấn đề đặt ra và cách tiếp cận trong giảng dạy ngữ âm 35 2.3. Tiểu kết 62 Chương 3: NGUYÊN ÂM VÀ GIẢNG DẠY NGUYÊN ÂM 64 3.1. Những nhận thức chung về nguyên âm 64 3.2. Các nguyên âm trong tiếng Việt 67 3.3. Giảng dạy các nguyên âm 71 3.4. Tiểu kết 77 Chương 4: PHỤ ÂM VÀ GIẢNG DẠY PHỤ ÂM 79 4.1. Những nhận thức chung về hệ thống âm vị phụ âm 79 4.2. Đặc trưng của các âm thanh phụ âm tiếng Việt 83 4.3. Giảng dạy các phụ âm 88 4.4. Tiểu kết 91 Chương 5: ÂM TIẾT VÀ GIẢNG DẠY ÂM TIẾT 92 5.1. Những nhận thức chung về âm tiết 92 5.2. Đặc trưng âm tiết tiếng Việt 93 5.3. Giảng dạy âm tiết tiếng Việt 95 5.4. Tiểu kết 99 Chương 6: THANH ĐIỆU VÀ GIẢNG DẠY THANH ĐIỆU 101 6.1. Những nhận thức chung về thanh điệu 101 6.2. Thanh điệu tiếng Việt 107 6.3. Giảng dạy các thanh điệu 110 3
  4. 6.4. Tiểu kết 120 123 Chương 7: TRỌNG ÂM VÀ GIẢNG DẠY TRỌNG ÂM 7.1. Những nhận thức chung về trọng âm 123 7.2. Trọng âm trong tiếng Việt 127 7.3. Giảng dạy trọng âm 134 7.4. Tiểu kết 145 147 Chương 8: NGỮ ĐIỆU VÀ GIẢNG DẠY NGỮ ĐIỆU 8.1. Những nhận thức chung về ngữ điệu 147 8.2. Ngữ điệu trong tiếng Việt 150 8.2.1. Quan hệ giữa ngữ điệu với các bình diện khác của câu nói 150 8.2.2. Ngữ điệu và cấu trúc thông tin trong tiếng Việt 153 8.2.3. Ngữ điệu và ngữ pháp trong câu nói tiếng Việt 158 8.2.4. Ngữ điệu và cấu trúc đề - thuyết trong tiếng Việt 162 8.3. Giảng dạy ngữ điệu 164 8.4 Tiểu kết 188 Chương 9: PHÁT ÂM VÀ CHÍNH TẢ 190 9.1. Những nhận thức chung về phát âm và chính tả 190 9.2. Những đặc trưng có tính quy luật của phát âm và chính tả tiếng Việt191 9.3. Giảng dạy phát âm và chính tả 194 9.4. Tiểu kết 201 Kết luận 202 Tài liệu tham khảo 208 4
  5. LỜI NÓI ĐẦU Cuốn sách “Nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ âm tiếng Việt thực hành cho học viên quốc tế” bàn về nội dung, phương pháp giảng dạy phát âm, rèn luyện kỹ năng tiếp thụ và sản sinh ngôn ngữ âm thanh tiếng Việt cho học viên quốc tế. Đây là cuốn sách được viết phục vụ cho đối tượng là giảng viên, sinh viên học tập tiếng Việt như một ngoại ngữ và những người quan tâm đến lĩnh vực này. Mục đích chính của chuyên khảo này là lựa chọn những kiến thức cơ bản về ngữ âm tiếng Việt làm tiền đề cho việc áp dụng vào việc giảng dạy phát âm, rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ âm thanh. Phần nội dung có tính lý thuyết được dựa vào những kết quả nghiên cứu của Đoàn Thiện Thuật, Cao Xuân Hạo và những tác giả khác… Đồng thời, người viết cũng trình bày một vài kết quả nghiên cứu của mình. Vấn đề cách thức giảng dạy phát âm và tương tác bằng ngôn ngữ âm thanh được dựa trên kết quả nghiên cứu có tính chất lý luận và những kinh nghiệm thu lượm được từ thực tế làm nhiệm vụ giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ của nguời viết trong hơn 30 năm qua. Điều được đặc biệt chú ý trong tập tài liệu này là những ý tưởng và kỹ năng điều hành lớp học. Khi khảo sát nội dung và phương pháp giảng dạy các đơn vị ngữ âm, tập tài liệu này chú ý đến ba vấn đề: (1) Những nét chung về các đơn vị được bàn, nhằm nhìn nhận các đơn vị này ở những nét khái quát có tính phổ niệm ngôn ngữ; (2) đặc trưng của các đơn vị đó trong tiếng Việt. Đây là một sự miêu tả các đơn vị ngữ âm có tính đặc thù của tiếng Việt, và (3) cách thức giảng dạy các đơn vị đó. Từ mục đích và nội dung nói trên, cuốn sách này gồm hai phần: Phần 1: Cơ sở lý luận Phần 2: Nội dung và phương pháp giảng dạy các đơn vị âm thanh tiếng Việt 5
  6. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ chúng tôi trong việc cho ra đời cuốn sách này. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Hoàng Trọng Phiến, GS.TS. Mai Ngọc Chừ, PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc đã đọc bản thảo và cho những nhận xét quý báu. Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 2013 PGS.TS. Nguyễn Chí Hòa 6
  7. Phần thứ nhất CƠ SỞ LÝ LUẬN Chương 1 ÂM THANH NGÔN NGỮ NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP 1.1. Những đặc trưng cơ bản của âm thanh ngôn ngữ Trong các cộng đồng ngôn ngữ hiện đại, thường có hai loại hình giao tiếp cơ bản: giao tiếp bằng âm thanh, giao tiếp bằng ký tự. Để đề xuất một cách có sức thuyết phục các kỹ năng giao tiếp bằng âm thanh mang tính chất phương pháp thì buộc phải nghiên cứu quan hệ giữa giao tiếp khẩu ngữ và giao tiếp bằng ký tự. Tìm hiểu sự giống nhau và khác nhau cũng như sự tác động tương hỗ giữa hai loại hình này là một yêu cầu có tính chất bắt buộc. Nó là cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu những bước sâu hơn trong việc rèn luyện kỹ năng nói và kỹ năng nghe, vì toàn bộ vấn đề này có ý nghĩa quan trọng bậc nhất trên quan niệm mô tả đầy đủ các hiện tượng của giao tiếp ngôn ngữ cũng như đối với phương pháp giảng dạy ngôn ngữ. Vậy, giữa giao tiếp bằng âm thanh với giao tiếp bằng ký tự có những đặc trưng nào giống và khác nhau? Điểm giống nhau chung nhất giữa hai hình thức nói và viết là, cả hai hình thức này đều mang đặc trưng chung; chúng đều là hình thức có tính vật lý của các yếu tố cấu thành các đơn vị giao tiếp hay nói một cách chính xác hơn là, chúng đều là các sản phẩm ký hiệu hoặc âm thanh hoặc ký tự. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau mà sự khác nhau này có liên quan đến tất cả các ký hiệu có tính chất trừu tượng. 7
  8. Sản phẩm ký hiệu âm thanh nói có hình thức vật lý ở dạng các dao động của không khí trong biên độ của các tần số mà tai người có thể nghe được. Các dao động này có đặc điểm là hoàn toàn không ổn định, thể hiện ở hai khía cạnh: trước hết, khi người ta ngừng nói thì các dao động âm thanh tắt ngay sau đó, và thứ hai là chúng giảm cường độ đi rất nhiều tuỳ theo khoảng cách kể từ điểm người nói phát ra. Từ đây có thể suy ra, các tính chất quan trọng nhất của giao tiếp bằng âm thanh và có định hướng cụ thể cho việc sản sinh và tiếp nhận các âm thanh ngôn ngữ. Những đặc điểm giao tiếp bằng âm thanh đặt ra những vấn đề dưới đây về giao tiếp và giảng dạy lời nói. Vấn đề thứ nhất là tính không lặp lại của âm thanh ngôn ngữ. Người Việt thường nói "lời nói gió bay" để khẳng định một đặc trưng của giao tiếp khẩu ngữ là không một ai có thể lấy lại lời nói của mình, có nghĩa là, trừ các phương tiện kỹ thuật thì một khi âm thanh giao tiếp đã bay vào không khí thì không còn cách nào quay trở lại đoạn âm thanh với tư cách là sản phẩm của tín hiệu ngôn từ. Điều đó dẫn đến một hậu quả là người nghe một ngoại ngữ khó mà tìm lại được nghĩa của những phát ngôn, nếu anh ta không nắm vững được các ký hiệu âm thanh đã được nghe qua một lần để tìm nghĩa. Người nghe chỉ có thể dựa vào trí nhớ của mình để lưu lại một đoạn ngắn sau cùng của sản phẩm tín hiệu âm thanh. Sản phẩm tín hiệu âm thanh có tính tuyến tính; tức là, những mẩu âm thanh cứ liên tục thay nhau xảy ra theo trình tự kế tiếp của thời gian. Vấn đề thứ hai là vấn đề tốc độ truyền các tín hiệu âm thanh. Việc truyền và nhận các thông báo nói bằng âm thanh phải được thực hiện theo một trình tự chặt chẽ và một tốc độ tương đối cao. Nếu như giảm tốc độ một cách quá mức trong quá trình truyền thông báo thì người nghe không có khả năng bao quát toàn bộ cấu trúc của nó. Khi người nói đi đến phần cuối của phát ngôn thì người nghe rất dễ đã quên mất phần đầu của phát ngôn đó rồi. Tốc độ truyền nhanh đem lại hậu quả khác trong việc học ngoại ngữ là người nghe không kịp “sắp xếp” để hiểu các sản phẩm ký hiệu âm thanh, vừa mới nhận được thì nó đã vội vàng biến mất, nghĩa là, không kịp phân định và tri nhận ý nghĩa của phát ngôn đó. Vấn đề thứ ba là, khoảng cách giữa những người đối thoại. Điều này phụ thuộc vào tiếng ồn nhiều hay ít. Nếu không dùng các phương 8
  9. tiện kỹ thuật để kích to âm thanh của người nói thì cần phải có khoảng cách gần cần thiết về không gian giữa người nói và người nghe. Khi có nhiễu - những tiếng ồn từ bên ngoài với mức độ cao thì khoảng cách giữa những người giao tiếp càng phải gần hơn. Khoảng cách giao tiếp, theo một số nhà khoa học, là không nên xa hơn một mét, tuy nhiên trong các trường hợp thuận lợi có thể đến hàng chục mét. Vấn đề thứ tư là tích luỹ hay bảo tồn những âm thanh giao tiếp. Do tính không ổn định của giao tiếp cho nên việc bảo tồn, tích lũy thông tin, phổ cập thông tin đến các thành viên của tập thể ngôn ngữ và việc để lại thông tin từ thế hệ này sang thế hệ sau gặp nhiều khó khăn. Một số vấn đề được nêu ra ở trên của giao tiếp bằng âm thanh được xem như là những hạn chế và nhược điểm của nó. Trong số nhược điểm cần phải kể thêm là khối lượng thông tin do cơ quan thích giác nhận được trong mỗi giây đồng hồ là rất nhỏ. Các phương tiện liên lạc hiện đại được sáng tạo ra trong mấy chục năm trở lại đây đã cho phép vượt qua những hạn chế ấy ở một mức độ nhất định và trong những hoàn cảnh nhất định bằng cách ứng dụng các hệ thống tự động, mã hoá lại các tín hiệu âm thanh thành tín hiệu khác, ổn định và thuận lợi hơn để phổ cập. Chẳng hạn, sự không ổn định của sản phẩm ký hiệu âm thanh có thể vượt qua được một phần nhờ vào các thiết bị ghi âm và giới hạn phổ cập của nó được mở rộng rất nhiều nhờ vào sự liên lạc bằng kỹ thuật điện, điện thoại và hiện nay là kỹ thuật số. Các phương tiện kỹ thuật đã mở rộng khả năng giao tiếp bằng âm thanh rất nhiều trong hiện tại và tương lai, tuy nhiên, hiện nay còn có những trở ngại chưa loại trừ hết được những hạn chế của nó. Giao tiếp bằng âm thanh ở dạng nói trực tiếp đã trải qua hàng nghìn năm nay. Và nó là phương tiện trao đổi thông tin duy nhất giữa người và người. Nhưng khi mà sản xuất bắt đầu phát triển nhanh và giao tiếp bằng âm thanh thực sự không tương xứng với nhu cầu giao tiếp ngày càng lớn của con người, giao tiếp trở thành vấn đề thời sự thì một hình thức giao tiếp mới xuất hiện - giao tiếp viết, là loại giao tiếp cho phép khắc phục những nhược điểm của giao tiếp bằng lời nói. Mặc dầu vậy, giao tiếp bằng ngôn ngữ âm thanh có một loạt các ưu điểm mà ta cần chú ý: 9
  10. 1. Đối với giao tiếp nói trực tiếp thì không cần một thứ trang bị nhân tạo nào - nó tồn tại một cách tự nhiên bằng các bộ máy giao tiếp có sẵn trong cơ thể con người. 2. Chính vì nguyên nhân đó và cũng do tốc độ của việc truyền miệng cao hơn nhiều so với truyền viết, cho nên chỉ có giao tiếp bằng âm thanh mới có thể đáp ứng được sự phản xạ bằng lời đối với những hoàn cảnh luôn thay đổi của cuộc sống và giúp cho các cuộc thoại đư- ợc thực hiện nhanh chóng và thoải mái. 3. Các thông báo bằng ngôn ngữ nói bao giờ cũng hàm chứa nhiều thông tin mỹ cảm và thông tin ngoại ngôn hơn là các ký hiệu viết. Điều đó là do tính có trước của ngôn ngữ nói ở khía cạnh cội nguồn. Đứa trẻ học ngôn ngữ âm thanh “từ sữa mẹ” và đã quen với độ hàm súc tình cảm của nó, mà ở giai đoạn đầu của sự phát triển của con người, nó còn vượt cả nội dung ngữ nghĩa của thông báo. Điều đó còn được tăng cường hơn nhiều nhờ vào tính biến thể của ngữ điệu, cho phép truyền đạt một tập hợp không giới hạn các cung điệu tình cảm - tình thái của thông tin ngữ nghĩa. Lẽ dĩ nhiên, ngôn ngữ nói là công cụ chủ yếu và duy nhất của đứa trẻ trong giao tiếp đối với người lớn trong mấy năm liền khi bắt đầu hình thành cá tính của đứa trẻ, và do đó nó mang nhiều thông tin ngoại ngôn hơn là thứ ngôn ngữ viết ít nhiều phi “cá tính” và chỉ có trong văn học mới phản ánh cá tính của người truyền. 4. Còn một điều quan trọng nữa là tư duy của con người sử dụng một cách tự nhiên những hình tượng của các tín hiệu ngôn ngữ nói hơn là của ngôn ngữ viết. Điều này lại cũng chỉ có thể giải thích được bằng sự có trước của ngôn ngữ nói trong sự phát triển tư duy của đứa trẻ. Những đặc điểm vừa kể trên đây của giao tiếp bằng âm thanh và viết xảy ra từ sự khác nhau cơ bản của hình thức vật lý của các tín hiệu sử dụng, và do đó đã xác định “sự phân công lao động” giữa các thể loại của giao tiếp ngôn ngữ rất đặc trưng cho các tập thể ngôn ngữ hiện đại. Ngôn ngữ âm thanh rất thuận tiện cho việc phục vụ các tình huống thay đổi nhanh của cuộc sống, trong việc biểu hiện tình cảm và tiếp nhận thông tin ngoại ngôn, nó thống lĩnh trong môi trường các 10
  11. quan hệ gia đình - sinh hoạt, sản xuất và dịch vụ. Nó được sử dụng chủ yếu cho các nhu cầu của giao tiếp ngôn ngữ có định hướng. Ngôn ngữ viết làm nhiệm vụ đảm bảo các hoạt động tri thức và xã hội của con người, phổ biến thông tin hàng ngày và các sáng tạo văn học. Nói cách khác, nó phục vụ chủ yếu cho giao tiếp phi định hướng. Sự phân công chức năng này giữa giao tiếp bằng âm thanh và bằng ký tự không hoàn toàn tuyệt đối. Một mặt, các phát kiến và liên lạc vô tuyến điện cho phép sử dụng rộng rãi ngôn ngữ nói vào việc định hướng trong tất cả ba loại thông tin chủ yếu (thông tin sự kiện, tri thức, thẩm mỹ). Ngoài ra, giao tiếp nói trực tiếp (không dùng phương tiện kỹ thuật) từ lâu được ứng dụng trong lĩnh vực giảng dạy và thông báo khoa học (các báo cáo và phát biểu khoa học, cũng như trong đời sống chính trị). Một mặt khác, ngôn ngữ viết được ứng dụng trong môi trường gia đình - sinh hoạt (thư từ) trong những trường hợp, vì lý do gì đó không tiện dùng giao tiếp nói (có người ngoài) hoặc không thực hiện được (ở xa mà không có điện thoại). Và mặc dù có một sự trùng lặp nào đó về chức năng, sự “phân công” giữa các hình thức nói và viết của giao tiếp ngôn ngữ có tính chất cơ bản và lâu dài. Sự thống lĩnh của ngôn ngữ nói trong dòng định hướng và ngôn ngữ viết trong dòng không định hướng trong giao tiếp đã dẫn đến sự khác nhau trong việc phân bổ vai trò của người truyền và người nhận giữa các thành viên của tập thể ngôn ngữ tham gia vào hai hình thức giao tiếp nói trên. Trong giao tiếp bằng âm thanh, mỗi cá nhân lần lượt giữ vai trò của người truyền và người nhận. Trong giao tiếp viết khả năng nhận của con người cao hơn khả năng sản sinh, vì sự sản sinh ra các thông báo viết hiện nay là công việc của một phần nhỏ của các thành viên trong cộng đồng ngôn ngữ. Giao tiếp bằng âm thanh và giao tiếp bằng ký tự có quan hệ tương hỗ với nhau. Một số vấn đề khá thời sự của ngôn ngữ học và phương pháp dạy ngoại ngữ chưa được nghiên cứu đầy đủ là vấn đề tác dụng tương hỗ giữa các ngôn ngữ âm thanh và chữ viết trong giao tiếp. Bổ sung vào lỗ hổng đó, chúng tôi đã khảo sát mối quan hệ này trong một chuyên khảo khác. 11
  12. Vài mươi năm gần đây, có một quan niệm khá rộng rãi cho rằng, ngôn ngữ viết chỉ đóng vai trò phụ như một mã thứ yếu (và không hoàn chỉnh) của ngôn ngữ âm thanh, do đó, trong các hành động giao tiếp bằng ký tự nhất định phải có sự chuyển mã từ các ký hiệu âm thanh ra ký hiệu chữ viết (ở đầu truyền) và từ ký hiệu chữ viết ra ký hiệu âm thanh (đầu nhận). Từ quan niệm ấy, người ta đi xa hơn đến những kết luận rằng đối tượng chân chính của ngôn ngữ học dạy tiếng là nắm cho được các thói quen của ngôn ngữ nói. Cũng cần nói rằng hệ thống quan niệm này hoàn toàn ngược lại với quan điểm trước đây. Sự xuất hiện hai quan niệm ngược nhau này không có gì là khó hiểu. Quan niệm cho rằng ngôn ngữ viết là thống soái, là kết quả của sự phát triển ngôn ngữ khoa học, xuất hiện từ đầu thế kỷ 19 ở dạng mô tả so sánh các ngôn ngữ viết cổ đại (La tinh, cổ Hy Lạp, Xanerit, Cốt v.v.), mà về các tương liên âm thanh của chúng chỉ dựa vào những giả thuyết ít nhiều gắn với sự thật. Các nhà ngôn ngữ cho rằng ngôn ngữ nói hiện đại là “con đẻ” của các ngôn ngữ cổ đại mà những dấu vết còn lại là các tác phẩm bằng chữ viết. Còn đối tượng của phương pháp dạy ngoại ngữ trong mấy thế kỷ liền là ngôn ngữ La tinh viết và sau nó là ngôn ngữ Hy Lạp cổ. Nếu như trong khi học, người ta cố gắng học nói bằng các ngôn ngữ chết ấy thì đó chỉ là công việc mang tính chất thứ yếu và điểm xuất phát vẫn là ngôn ngữ viết được mã hoá thành thông báo âm thanh. Và sức mạnh của truyền thống lớn đến nỗi, sau đó, khi người ta bắt đầu tổ chức dạy các ngôn ngữ sống (sinh ngữ) thì đối tượng chính ở đây lại cũng chỉ là ngôn ngữ viết. Truyền thống này vẫn thể hiện ở chỗ các cố gắng dạy ngôn ngữ nói vẫn dựa vào các bài viết lấy từ sách, báo, tiểu thuyết, ngay cả những giáo trình dạy tiếng mới mẻ nhất hiện nay cũng làm như vậy. Về sau này, tuy hơi muộn màng nhưng các nhà ngôn ngữ, đã nghiên cứu và mô tả cơ chế của giao tiếp ngôn ngữ âm thanh một cách nghiêm túc. Dĩ nhiên, đối tượng chủ yếu của việc nghiên cứu bây giờ là ngôn ngữ âm thanh, là thứ ngôn ngữ có “uy tín” cao hơn so với ngôn ngữ viết không phải chỉ trên khía cạnh nguồn gốc ngữ văn (ngôn ngữ âm thanh đã tồn tại hàng trăm nghìn năm, còn chữ viết thì mới chỉ xuất hiện hai ba nghìn năm nay trên cơ sở của ngôn ngữ nói, còn việc phổ cập rộng rãi của ngôn ngữ viết chỉ mới có trong thời đại của chúng ta) mà cả trên khía cạnh nguồn gốc phát sinh và tiến hoá (mỗi 12
  13. chúng ta đã học nói tiếng mẹ đẻ từ khi còn thơ ấu, còn ngôn ngữ viết thì chậm hơn và trên cơ sở ngôn ngữ nói”). Sự tập trung chú ý vào ngôn ngữ nói của các nhà ngôn ngữ cũng còn nhờ vào những thành tựu của ngữ âm học, là một ngành đầu tiên của ngôn ngữ học đã mô tả được các quy luật cấu trúc có ý nghĩa bậc nhất trong giao tiếp. Sự chuyển hướng nghiên cứu của ngành Ngôn ngữ học vào ngôn ngữ âm thanh được phản ánh ngay vào phương pháp dạy ngoại ngữ, nhất là trong những năm gần đây. Tuy vậy, sự tăng cường nghiên cứu ngôn ngữ nói còn có những nguyên nhân của nó: Sự phát triển như vũ bão của các phương tiện truyền thông, các biến chuyển trong đời sống kinh tế và xã hội đã làm tăng nhu cầu giao tiếp viết và cả nói lên rất nhiều. Sự xuất hiện phương pháp “trực tiếp” là phản ứng gay gắt nhất đối với sự thống lĩnh lâu dài của ngôn ngữ viết trong trường học, là sự “xem thường” giao tiếp bằng viết ở dạng cực đoan mặc dù không thể xem nhẹ vai trò to lớn của nó (ngôn ngữ viết) trong xã hội hiện đại. Các nhà nghiên cứu phương pháp giảng dạy ngoại ngữ trên thế giới đã cho rằng, sự học tập “mã thứ yếu” sẽ đạt được rất dễ dàng, nếu như “mã chủ yếu” được nắm chắc. Cũng nên lưu ý rằng, những người nói ngôn ngữ bình thường lại giữ một quan niệm trung gian giữa giao tiếp nói và viết. Do chỗ có sự tương ứng giữa hệ thống ký hiệu của âm thanh và ký tự. Họ xem hai hệ thống này chỉ “là một và chỉ một". Sự tồn tại của những quan niệm mâu thuẫn nhau về sự tác động tương hỗ của giao tiếp nói và viết đòi hỏi chúng ta phải trở lại vấn đề này. Chúng ta có đầy đủ các dẫn liệu để nói lên “tính độc lập” của hai hình thức giao tiếp này mặc dù vẫn công nhận những mối liên hệ chặt chẽ và tác dụng tương hỗ giữa chúng. Tính độc lập của ngôn ngữ nói rất rõ ràng: Trong hàng chục ngàn năm nay, ngôn ngữ nói là phương tiện trao đổi thông tin duy nhất và đồng thời là công cụ hình thành và hoạt động của tư duy. Kinh nghiệm cho thấy rằng có thể hoàn toàn nắm vững ngôn ngữ nói mà không cần biết đến chữ viết, tức là “mù chữ” theo cách hiểu thông thường, hàng vạn người mù chữ thuộc các thế hệ trước cách mạng tháng Tám vẫn tiến hành giao tiếp thông thường mà không hề biết phương tiện giao tiếp bằng các ký tự. 13
  14. Còn tính độc lập của ngôn ngữ viết thì khó thấy hơn nhưng có thể chứng minh và bác bỏ lý luận về vai trò “mã thứ hai” của nó. Những bằng chứng của luận điểm này như sau: Không thiếu dẫn chứng để chứng minh rằng một người hoàn toàn không thể giao tiếp được bằng ngôn ngữ nói nhưng có thể đọc và viết tiếng nước ngoài khá trôi chảy. Như thế, bất cứ một cá nhân nào cũng có thể nắm được việc đọc và viết tiếng nước ngoài mà hoàn toàn không cần biết đến hình thức âm thanh của nó. Điều này là không bình thường đối với tiếng mẹ đẻ nhưng lại rất bình thường khi học tiếng nước ngoài bằng các phương pháp truyền thống cũng như khi tự học ngoại ngữ bằng sách thông qua đọc. Những người đọc được sách bằng tiếng nước ngoài nhưng không nói và hiểu được nó là chuyện thường tình. Rất nhiều người lúc đầu học viết rồi sau đó mới học nói tiếng nước ngoài. Và trong khi làm như vậy thì khả năng viết lại không liên hệ gì với khả năng nói cả. Chẳng hạn tốc độ đọc nhẩm và chất lượng phát âm hoàn toàn không tương ứng với nhau - chẳng hạn sinh viên nước ngoài đọc tiếng Việt và hiểu nó không mấy khó khăn nhưng khi họ nghe và viết bằng tiếng Việt thì sự nhầm dấu là hiện tượng rất phổ biến. Sự tương ứng tương đối giữa âm thanh và các ký tự trong tiếng Việt là một điều dễ thấy. Nhưng những sai lạc về nghe chính tả và viết lại của sinh viên thì vấn đề dấu trở thành vấn đề mà sinh viên nào cũng kêu là khó khăn. Nhưng khi họ đọc hiểu một văn bản thì lại không có mấy khó khăn. Từ kết quả những điều vừa trình bày ta có thể rút ra những kết luận bổ ích sau đây cho phương pháp dạy ngôn ngữ. Các loại hình viết và nói của giao tiếp ngôn ngữ là độc lập với nhau, mặc dù chúng có mức độ tương ứng nhất định, cho phép chuyển từ hệ thống trao đổi thông tin này sang hệ thống thông tin kia. Vì mỗi cá nhân có thể tạo ra ngôn ngữ viết của mình cho nên giao tiếp viết bắt đầu cuộc sống độc lập được nảy mầm từ giao tiếp nói. Nó là loại giao tế có trước giao tiếp viết về mặt xã hội và trong đại đa số các trường hợp cả về mặt cá nhân cũng như vậy. Vấn đề về trọng lượng của giao tiếp ngôn ngữ nói và viết và tác dụng tương hỗ giữa chúng trong quá trình dạy ngôn ngữ phải được giải quyết không phải với một khuôn đúc cho sẵn về vai trò tuyệt đối 14
  15. của loại hình giao tiếp này hay nọ mà phải xuất phát từ những nhiệm vụ giao tiếp và dạy ngoại ngữ cụ thể cũng như từ các điều kiện dạy học cụ thể. Khi dạy ngôn ngữ nói và viết cần phải lưu ý đầy đủ đến đặc thù của hai hình thức trao đổi thông tin này, mối quan hệ và tác dụng giữa chúng. Trên cơ sở những nhận thức có tính lý luận như trên, phần này sẽ giải quyết vấn đế cơ bản: Nội dung và phương pháp giảng dạy các đơn vị âm thanh tiếng Việt. 1.2. Nội dung cơ bản trong giảng dạy ngôn ngữ âm thanh Âm thanh ngôn ngữ gồm những thành tố nào? Trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, công việc đầu tiên cần tiến hành là giảng dạy phát âm. Vậy thì, những đặc điểm nào là đặc điểm cơ bản của việc giảng dạy ngôn ngữ âm thanh nói chung và giảng dạy phát âm nói riêng. Dưới đây chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi này. Để nghiên cứu bất kỳ một vật thể nào đó và xem nó hoạt động như thế nào thì việc phân tích vật thể đó thành những bộ phận khác nhau, tức là trả lời câu hỏi nó gồm những những thành tố nào, là một việc luôn luôn hữu dụng. Sơ đồ dưới đây chỉ ra những thành tố chính của âm thanh ngôn ngữ mà hầu như ngôn ngữ nào cũng có1. 1 Thanh điệu là đặc trưng của một số ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, một số ngôn ngữ vùng Đông Nam Á… 15
  16. Các âm vị (đơn vị đoạn tính) Có nhiều cách định nghĩa về âm vị, nhưng có một định nghĩa đáng chú ý cho rằng “âm vị là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống biểu đạt thành tiếng của một ngôn ngữ được quan niệm như một tổng thể các nét khu biệt được thể hiện đồng thời”.1 Âm vị là phân đoạn nhỏ nhất của âm thanh dùng để cấu tạo nên sự phân biệt giữa các cách phát âm. Mặc dù có những khác biệt nhỏ trong những âm đặc biệt có tính cá nhân nhưng chúng ta có thể vẫn miêu tả được mỗi âm được sinh ra như thế nào. Khi xem về mặt ý nghĩa, chúng ta thấy việc sử dụng một âm này thay thế cho một âm khác có thể làm thay đổi ý nghĩa của từ. Ví dụ, từ “khóc” trong tiếng Việt, nếu thay đổi âm vị ở giữa bằng âm vị |a| thì chúng ta có một từ hoàn toàn khác: “khóc” khác với “khác”. Nếu người ta phát âm “kh” trong tiếng Việt có một sự khác biệt chút ít thì từ vẫn không thay đổi và chúng ta vẫn hiểu được rằng chúng chỉ ý nghĩa của cùng một vật. Để tạo ra một sự tương ứng, những sự nhận thức có tính cá nhân có thể thay đổi về mặt lý thuyết (có nghĩa là khái niệm "xanh" của bạn có thể không đồng nhất hoàn toàn đối với tôi), nhưng chúng ta đều hiểu rằng chúng ta nghĩ giống nhau về cùng một sự vật, hiện tượng hay quá trình. Chúng ta đều cùng thấy ánh sáng đèn mầu xanh và hiểu ý nghĩa của chúng và phân biệt được nó khác với ánh sáng đèn màu đỏ như thế nào. Các âm thanh có thể là vô thanh; có thể là hữu thanh. Các âm thanh hữu thanh xảy ra khi mà dây thanh trong thanh quản bị rung lên. Có thể biết một âm nào đó là vô thanh hay hữu thanh bằng việc đặt một hoặc hai ngón tay vào yết hầu. Nếu đang sản sinh ra một âm thanh hữu thanh thì chúng ta sẽ cảm thấy một sự chuyển động. Nếu đang sản sinh ra một âm vô thanh thì chúng ta sẽ không thấy "quả yết hầu" chuyển động. Thí dụ, sự khác biệt giữa /f/ và /v/ có thể được cảm nhận bằng sự khác biệt khi đặt răng hàm trên vào vào môi của hàm dưới rồi thở ra một dòng liên tục. Làm như thế chúng ta đã sản sinh ra /f/. Sau đó, thêm thanh vào để tạo ra âm /v/. Có nghĩa là làm cho “quả táo Adam” của chúng ta rung động. 1 Đoàn Thiện Thuật (1977 tr.49), Ngữ âm tiếng Việt, NXB. ĐHVTHCN. 16
  17. Một bộ âm vị gồm có hai loại: Những âm thanh nguyên âm và những âm thanh phụ âm. Tuy nhiên, hai bộ âm vị này không phù hợp một cách hoàn toàn với những nguyên âm và phụ âm mà chúng ta quen dùng trong bảng chứ cái A,B,C. Tất cả những nguyên âm (âm thanh của nguyên âm) đều là hữu thanh, và có thể là nguyên âm đơn (giống như /a/ trong /ta/ của tiếng Việt và /et/ trong /let/ của tiếng Anh; hoặc là một sự liên kết bao hàm sự chuyển động từ âm thanh của một nguyên âm đối với một nguyên âm khác, như “iê” trong từ “liên” của tiếng Việt hoặc /ei/ như trong từ “late” của tiếng Anh. Sự liên kết như thế tạo ra nguyên âm đôi (diphthong). Một thuật ngữ nữa còn được sử dụng là nguyên âm ba (triphthongs), nó được miêu tả như sự liên kết của ba nguyên âm (giống như /auƏ./ trong “our” hoặc “power” trong tiếng Anh. Nguyên âm có thể là ngắn (như /i/, như trong “hit” hoặc, /i:/ trong “heat” trong tiếng Anh.Người ta thường dùng ký hiệu /:/ để đámh dấu một âm dài. Các âm thanh phụ âm có thể là hữu thanh và có thể là vô thanh. Đặc trưng của các đơn vị siêu đoạn tính Âm vị là đơn vị âm thanh mà chúng ta có thể phân tích hay chiết đoạn ra được. Chúng được biết như là những đoạn âm, còn những đặc trưng siêu đoạn tính, như tên gọi thường được sử dụng của nó có những đặc trưng mà trong đó áp dụng cho một nhóm các âm đoạn, hoặc âm vị. Những đặc trưng quan trọng đó là đặc trưng của những đơn vị siêu đoạn, đó là trọng âm và ngữ điệu, và chúng ta cần tìm hiểu xem những âm thanh thay đổi như thế nào trong một lời nói được nối kết. Thông thường, trong một số ngôn ngữ, chẳng hạn như tiếng Anh, các từ có hơn một âm tiết. Và do đó, cần phải tính tới việc phát âm các trọng âm từ. Trong việc giảng dạy các từ rời, theo đó, điều quan trọng là người ta phải dạy trọng âm từ cho người học. Thông thường, một âm tiết trong một từ nổi hơn so với một âm tiết khác, chẳng hạn như “Paper”, hoặc “Bottle”. Những trọng âm này của từ thường được xác định trong từ điển. Do vậy, vấn đề đặt ra là, trong tiếng Việt có trọng âm từ hay không? Vấn đề này sẽ được đề cập trong các phần sau của chuyên khảo. Với việc hướng đến nghiên cứu các phát ngôn, chúng ta cần phân tích và dạy ngữ điệu, cũng như trọng âm câu, mặc dầu những đơn vị 17
  18. này có thể khá khó khăn để nhận diện và miêu tả chúng theo thời gian. Trọng âm tạo ra nhịp lời nói. Một hoặc nhiều từ trong mỗi phát ngôn được lựa chọn bởi người nói như là có giá trị nhấn mạnh và như thế, tạo ra một hoặc hơn một điểm nổi bật đối với người nghe. Một mặt khác, ngữ điệu là cách mà trong đó giọng nói lên cao và xuống thấp trong một dòng âm thanh của một phát ngôn nào đó. (Khi thảo luận về lời nói, thuật ngữ phát ngôn hoặc câu nói được sử dụng tốt hơn là khái niệm câu, khi nó biểu thị một ngữ đoạn bao gồm cả những câu không hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp và có những cách khác nhau để nói về cùng một câu). Trọng âm của phát ngôn và những mô hình ngữ điệu thường được liên kết lại để biểu thị ý nghĩa trong giao tiếp. Ví dụ trong phát ngôn: [1] Bạn sống ở đâu? Thì ngữ điệu của phát ngôn sẽ được biểu thị như dưới đây: [1] Bạn sống ở đâu? Nghĩa là, ở phần cuối của phát ngôn tiếng Việt sẽ được phát âm cao hơn so với phần đầu. Cường độ của tiếng nói sẽ cao dần lên và đỉnh của nó là từ “đâu”. Nhưng điều này đối với tiếng Anh lại không hẳn như vậy. Trong phát ngôn “Where do you live?” [2] được bắt đầu từ cao và xuống thấp ở đoạn cuối. [2] Where do you live? Nhưng ở trường hợp câu hỏi lại lần thứ hai [3] thì tình hình cũng sẽ khác: [3] (-Anh vừa nói gì?) ___ ____ __ ___ - (Tôi vừa nói:) Anh sống ở đâu. 18
  19. Mỗi từ trong ngữ đoạn “anh sống ở đâu” của ví dụ [3] được phát âm hoàn toàn ngang nhau. Những phát ngôn trong ví dụ [4] dưới đây thể hiện trọng âm có thể có vai trò trong việc tạo sắc thái nghĩa (những chữ cái viết hoa biểu thị trọng âm): [4] Câu trả lời Câu hỏi Cho tôi một ly nước CAM Anh uống gì ? Cho tôi một LY nước cam Anh uống ly hay uống hộp? Cho tôi một ly NƯỚC cam Anh muốn mua cam quả hay cam vắt? Đặc trưng sinh lý của phát âm Các giảng viên cũng cần xem xét các âm thanh mà con người sử dụng một cách linh hoạt. Việc nghiên cứu đặc trưng sinh lý của việc phát âm cho phép chúng ta sử dụng được những âm đó. Tất cả chúng ta đều sử dụng cùng một bộ phận để sản sinh ra những âm thanh quen dùng. Một bộ các âm thanh mà chúng ta thụ đắc được, có thể khác nhau; một đứa trẻ trong môi trường nói tiếng Việt sẽ phát triển âm vị tiếng Việt; một đứa trẻ sinh ra trong môi trường nói tiếng Anh sẽ phát triển các âm vị của tiếng Anh, một đứa trẻ nói tiếng Pháp sẽ phát triển một bộ âm vị khác. Chúng ta cũng có thể học được những giọng khác nhau theo những cách khác nhau: Một đứa trẻ nói tiếng Anh sẽ học sử dụng những mẫu trọng âm và những mẫu ngữ điệu phù hợp còn một đứa trẻ nói tiếng Việt sẽ học cách sử dụng các thanh điệu để tạo ra những ý nghĩa khác nhau với cùng một bộ âm thanh. Đối với một nội dung cơ bản về âm thanh ngôn ngữ, chúng ta sẽ học cách sử dụng các bộ phận cấu âm theo những cách thức mới để sản sinh ra những âm thanh của ngôn ngữ đích - một ngoại ngữ mà tạm quên đi những âm thanh của ngôn ngữ riêng của chúng ta - ngôn ngữ mẹ đẻ, không phù hợp với ngoại ngữ đó. Nhưng dường như, sau thời trẻ con thì khả năng tiếp nhận và sử dụng một bộ âm thanh không quen thuộc bị hạn chế một cách đáng kể. 19
  20. Con người có những cơ quan giúp ta phát âm ra các âm thanh ngôn ngữ nói chung. Trong thanh quản của người có hai cái vành co giãn (có thể đàn hồi). Khi thở thông thường cũng như trong khi sản sinh ra những âm thanh vô thanh thì dây thanh mở. Khi cái gờ của dây thanh đóng lại thì luồng khí đi qua giữa chúng làm cho chúng rung lên tạo ra sự rung. Cường độ của âm thanh đó hoặc cao hoặc thấp được kiểm soát bởi các cơ. Người ta thường sử dụng các môi, lưỡi, răng ngạc cứng và ngạc mềm, hàm răng để tạo âm thanh. Khoang mũi tạo ra những âm thanh cơ bản và sự chuyển động của khoang miệng thấp hơn cũng đóng vai trò quan trọng. Các âm được phát ra khi dòng không khí được cản, được phát triển hoặc được định hướng. Chúng ta sẽ xem xét một số đặc điểm sinh học của các nguyên âm và các phụ âm tại các phần dưới đây. Cách phát âm các âm vị Cách phát âm các nguyên âm Các nguyên âm được sinh ra khi dòng không khí được phát thành âm qua sự chuyển động của các dây thanh trong thanh quản và sau đó được định âm bằng việc sử dụng lưỡi và sử dụng môi để xác định hình dáng toàn bộ của miệng. Hãy so sánh một số âm vị nguyên âm trong hai sơ đồ nguyên âm trong tiếng Việt và tiếng Anh dưới đây: Âm vị nguyên âm tiếng Việt gồm những đơn vị dưới đây: Bảng hệ thống nguyên âm tiếng Việt2 Trong tiếng Anh có các loại nguyên âm: 1. Nguyên âm đơn (Đơn âm) 2 Ngôn ngữ.net 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2