intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đản Ván (1962-2018): Phần 2

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:130

9
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đản Ván (1962-2018): Phần 2 gồm các nội dung chính như sau: chi bộ xã Đản Ván lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975 - 1985); đảng bộ và nhân dân xã Đản Ván trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của đảng (1986 - 2018). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đản Ván (1962-2018): Phần 2

  1. Chƣơng III CHI BỘ XÃ ĐẢN VÁN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG XÃ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1985) 1. Chi bộ xã Đản Ván lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện sản xuất nông - lâm nghiệp theo hƣớng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa (1975 - 1980) Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một bước ngoặt lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc xã Đản Ván bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới với nhiều thuận lợi cơ bản: Đất nước hòa bình, thống nhất, nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ xã Đản Ván được tôi luyện trong chiến đấu, đoàn kết thống nhất về tổ chức, quyết tâm xây dựng quê hương phát triển đi lên. Xã có tiềm năng lớn về đất đai, tài nguyên, nhân dân cần cù trong lao động sản xuất quyết tâm xây dựng quê hương phát triển đi lên. Bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, xã Đản Ván cũng có những khó khăn nhất định. Là xã vùng cao biên giới, địa bàn cách biệt. Khí hậu khắc nghiệt, giao thông không thuận tiện. Sản xuất có sự phát triển nhưng tốc độ còn chậm và chủ yếu là độc canh cây lúa, năng suất cây 59
  2. trồng, vật nuôi còn bấp bênh, nhiều tiềm năng thế mạnh về vườn rừng, nguồn nhân lực chưa được khai thác hiệu quả. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, một bộ phận nhân dân thiếu lương thực kéo dài. Việc quản lý, sử dụng lao động trong hợp tác xã còn chưa tốt. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất canh tác trong các hợp tác xã còn nghèo nàn, phương pháp canh tác còn cũ kỹ, lạc hậu… Trình độ quản l‎ của đội ngũ cán ý bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Trong khi đó, các thế lực thù địch tìm mọi âm mưu chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Ngày 10/11/1975, Đại hội Chi bộ xã Đản Ván lần thứ VI nhiệm kỳ 1975 - 1977 được tổ chức với sự tham dự của 14 đảng viên. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Chi bộ xã. Đồng thời xây dựng các mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới. Đại hội đã bầu đồng chí Lù Sào Diu B giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Lèng Sào Chỉ - Chủ tịch Ủy ban hành chính xã giữ chức vụ Phó bí thư Chi bộ. Trong niềm vui hân hoan mừng ngày Chiến thắng của cả dân tộc, Đại hội lần thứ VI Chi bộ xã Đản Ván đã xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Chi bộ và nhân dân các dân tộc xã. Xác định nhiệm vụ trước mắt, hàng đầu là: Nâng cao hiệu qủa hoạt động của các hợp tác xã. Phát động và triển khai mạnh mẽ các phong trào thi đua trong các tầng lớp nhân dân, nhằm phát huy tinh thần làm chủ tập thể, làm chủ xã hội. Phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp theo hướng thâm canh, chuyên 60
  3. canh, lấy cây lúa, cây ngô làm cây lương thực chủ lực, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm tốt công tác thủy lợi, khai hoang ruộng nương, tăng cường tiếp thu khoa học kỹ thuật, gieo trồng các loại giống mới có năng suất cao để nâng cao năng suất, sản lượng lương thực nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân, hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Sau khi hòa bình lập lại ở cả 2 miền Nam - Bắc, để phù hợp với yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn mới, Trung ương chủ trương sáp nhập một số tỉnh, huyện, xã lên quy mô lớn. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa V, đầu tháng 4/1976 việc hợp nhất hai tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang đã được tiến hành và lấy tên là tỉnh Hà Tuyên. Đồng thời, đây cũng là năm mở đầu của thời kỳ xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình, thống nhất, nhiều sự kiện trọng đại diễn ra đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, trong đó đáng chú ý là cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam thống nhất khóa VI diễn ra vào ngày 25/4/1976. Cùng với cử tri cả nước, các cử tri xã Đản Ván đã đi bỏ phiếu bầu cử với tỷ lệ 94% cử tri tham gia. Tại kỳ họp thứ nhất (6/1976), Quốc hội đã quyết định những vấn đề quan trọng thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước và đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ủy ban hành chính các cấp đổi thành Ủy ban nhân dân các cấp. Ngày 14 - 20/12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã tổng kết thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp kháng 61
  4. chiến chống Mỹ, cứu nước và đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước trong giai đoạn mới, quyết định một số vấn đề về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong những năm 1976 - 1980. Đại hội thông qua Điều lệ Đảng sửa đổi, đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 29/9/1975 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc là “đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 29/9/1975 của BCH Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Hoàng Su Phì, Chi bộ Đảng xã Đản Ván đã xác định những nhiệm vụ quan trọng của Chi bộ, chính quyền và nhân dân xã trong giai đoạn mới là củng cố phát triển kinh tế theo hướng nhanh và vững chắc. Tập trung xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Phát triển mạnh cả về diện tích, năng xuất và sản lượng cây lương thực, chăn nuôi để đảm bảo cuộc sống cho nhân dân. Chú trọng công tác an ninh quốc phòng, luôn đảm bảo sẵn sàng chiến đấu. Làm tốt công tác xây dựng Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tiên phong gương mẫu, ý chí nghị lực, tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong lao động sản xuất, xây dựng quê hương, góp phần giải quyết những khó khăn trong giai đoạn cách mạng mới. 62
  5. Mặc dù có nhiều thuận lợi nhưng trong thời gian này quá trình xây dựng củng cố hoạt động của các hợp tác xã đã bộc lộ nhiều hạn chế khiếm khuyết. Nhất là việc trình độ văn hóa, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt của xã và các hợp tác xã chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn nên việc quản lý tài sản trong các hợp tác xã còn chưa tốt. Việc phân phối việc làm và sản phẩm trong các hợp tác xã còn mang nặng tính bao cấp, bình quân nên không kích thích được sản xuất. Tình trạng thiếu vốn, giống trong canh tác khiến cho năng suất cây trồng thấp, giá trị ngày công không đạt so với sức lao động. Các sản phẩm nông lâm sản nghèo nàn, nhiều hộ gia đình thiếu lương thực nhất là trong giai đoạn giáp hạt. Mặt khác, do trong quá trình hợp tác hóa nông nghiệp thì các hợp tác xã chỉ quản lý các diện tích đất cấy lúa, còn lại các diện tích đất nương trồng ngô, sắn và các loại cây hoa màu khác thì giao cho các xã viên làm riêng nên đã xảy ra tình trạng "Chân ngoài dài hơn chân trong". Nhiều người bỏ bê không tham gia các hoạt động của hợp tác xã mà chủ yếu dành thời gian ra ngoài làm để kiếm sống khiến cho tình hình phát triển kinh tế của xã càng gặp nhiều khó khăn. Trong các năm 1976, 1977 nhiều chỉ tiêu về phát triển kinh tế của xã không hoàn thành, cá biệt có một số chỉ tiêu về năng suất, sản lượng lương thực đã giảm mạnh so với năm 1975. Đối với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của cấp ủy, chính quyền xã chế độ thù lao cũng không đảm bảo, bình quân mỗi đồng chí chỉ được trả từ 300 - 400 kg thóc một năm. Vì vậy trong thời gian này nhiều đồng chí 63
  6. cán bộ xã xin nghỉ công tác để về giúp gia đình lao động sản xuất. Để giải quyết khó khăn về công tác cán bộ, tháng 8/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy đã điều động đồng chí Lù Sào Diu A (Bí thư Chi bộ xã Đản Ván giai đoạn 1963 - 1965) là cán bộ Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện về xã công tác, giữ chức vụ Phó chủ nhiệm hợp tác xã. Ngày 02/11/1977, Chi bộ xã Đản Ván tổ chức Đại hội lần thứ VII, nhiệm kỳ 1977 - 1979 với sự tham dự của 14 đảng viên. Đại hội đã bầu Chi ủy khóa mới gồm 5 đồng chí. Đồng chí Lèng Lao Phà được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Lù Sào Diu B giữ chức vụ Phó bí thư Chi bộ, đồng chí Lù Sào Diu A - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã kiêm Chủ nhiệm Hợp tác xã là Chi ủy viên. Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Chi bộ, nhất là sau 2 năm cùng cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ X1, Đại hội đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ cho Chi bộ và nhân dân các dân tộc trong xã, trong đó nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản là kiện toàn củng cố về tổ chức bộ máy Cấp ủy, Chính quyền, các hợp tác xã và các đoàn thể; Lãnh đạo nhân dân tập trung phát triển kinh tế để nâng cao mức sống cho nhân dân. 1 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ X được tổ chức vào tháng 12 năm 1976, đồng chí Nguyễn Mạnh Tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy. 64
  7. Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, của tỉnh và huyện, Chi bộ đã phát động trong Chi bộ và toàn thể cán bộ, nhân dân trong xã phong trào phấn đấu thực hiện các mục tiêu “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”, từng bước triển khai và đưa Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp vào cuộc sống. Căn cứ Nghị quyết của Chi bộ và kế hoạch của Ban Thường vụ Huyện ủy, Chi bộ Đảng xã tập trung cho công tác kiện toàn và củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, đồng thời tập trung củng cố sắp xếp lại tổ chức của chính quyền và các đoàn thể của xã theo Thông tri số 22 ngày 10/5/1977 của Ban bí thư Trung ương Đảng. Trong giai đoạn này Chi bộ tạm thời không kết nạp đảng viên mới, đồng thời tiến hành rà soát, đề nghị Huyện ủy xem xét và đưa 02 đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng do vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm kỷ luật trong quản lý kinh tế của các hợp tác xã. Đến cuối năm 1978 tổng số đảng viên của Chi bộ có 12 đồng chí. Cùng với đó, một số chức danh chủ chốt và các đoàn thể cũng được kiện toàn. Chi bộ xã đã tích cực hơn trong việc duy trì công tác sinh hoạt Chi bộ, triển khai học tập Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, kịp thời ổn định động viên tinh thần và tư tưởng để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp. 65
  8. Chính quyền và các đoàn thể được Chi bộ tập trung củng cố cả về tổ chức và phương pháp hoạt động. Mặt trận Tổ quốc đã tích cực động viên các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển văn hóa - xã hội, giữ vững khối đoàn kết toàn dân. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh sôi nổi với phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể”, tích cực lao động sản xuất, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hăng hái xung phong lên đường nhập ngũ, bảo vệ Tổ quốc. Hội Phụ nữ có phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, áp dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế gia đình. Kết quả đã tạo sự chuyển biến rõ nét trong công tác lãnh đạo, quản lý điều hành và vận động quần chúng của hệ thống chính trị của xã, từng bước hoàn thành các mục tiêu xây dựng phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Cùng với việc củng cố hoạt động và ổn định về tổ chức trong bộ máy cấp ủy chính quyền, Chi bộ cũng tập trung củng cố hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba mặt: Tổ chức, quản lý và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Thực hiện Chỉ thị số 208 ngày 16/9/1974 của Ban bí thư Trung ương Đảng về tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Huyện ủy Hoàng Su Phì đã lựa chọn xã Đản Ván, Nậm Dịch và xã Tân Tiến để triển khai thí điểm tổ chức lại sản xuất, theo đó, 2 hợp tác xã của xã Đản Ván được sáp nhập thành Hợp tác xã lớn, gọi là Hợp tác xã toàn xã do đồng chí Lù Sào Diu A làm Chủ 66
  9. nhiệm. Qua đợt thí điểm, huyện đã rút kinh nghiệm để chỉ đạo triển khai rộng trong toàn huyện. Sau khi hợp nhất các hợp tác xã, thực hiện kế hoạch của huyện, Chi bộ đã cử 3 cán bộ kế toán và Ban quản trị hợp tác xã lên huyện tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý kinh tế, nghiệp vụ phân phối. Về cơ sở vật chất kỹ thuật, Chi bộ tiến hành vận động các hộ gia đình tham gia mở đường giao thông, tu sửa và làm các tuyến mương tưới tiêu, làm chuồng trại để phát triển đàn gia súc, gia cầm và tận dụng được nguồn phân chuồng để bón ruộng, đồng thời đẩy mạnh khai hoang các thửa ruộng bậc thang để mở rộng diện tích gieo trồng, quản lý chặt chẽ diện tích nương để đưa vào tài sản chung của tập thể nhằm tăng diện tích trồng cây hoa màu. Bên cạnh đó, Chi bộ cũng tiến hành kiểm điểm nghiêm khắc một số đảng viên, cán bộ xã và trong ban quản trị hợp tác xã có vi phạm kỷ luật để củng cố về bộ máy và thực hiện tổ chức lại sản xuất trong các hợp tác xã. Chỉ đạo chính quyền và các hợp tác xã kiểm tra rà soát, làm rõ và xử lý dứt điểm một số công nợ còn tồn đọng của các hợp tác xã, đồng thời thông tin các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, của huyện cho nhân dân và các xã viên trong toàn xã nắm được để lấy lại lòng tin trong nhân dân. Sau khi kiện toàn củng cố hợp tác xã nông nghiệp, Chi bộ, Chính quyền xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo 67
  10. dồn sức cho mặt trận sản xuất lương thực, thực phẩm với nhiều giải pháp cụ thể và hiệu quả. Chi bộ đặc biệt chú trọng các khâu giống, phân bón và các giải pháp kỹ thuật như xử lý giống theo phương pháp 3 sôi 2 lạnh, bón phân đúng quy trình, đúng thời điểm. Đối với diện tích lúa ruộng hiện có, Chi bộ chỉ đạo cấy hết diện tích và kịp thời vụ, lấy cây lúa, cây ngô làm lương thực chủ lực và tận dụng các diện tích đất trống để trồng các loại hoa màu vốn là thế mạnh và phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng khí hậu của xã như đậu tương, dong riềng, tam giác mạch, cao lương... gắn với đó là phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm để đảm bảo sức kéo, đáp ứng một phần nhu cầu về thực phẩm và tận dụng nguồn phân để bón ruộng. Phát huy thế mạnh về rừng và vườn rừng. Duy trì tốt hoạt động của Hợp tác xã mua bán nhằm đẩy mạnh công tác lưu thông, phân phối, cải thiện đời sống cho nhân dân và làm nghĩa vụ với Nhà nước. Sau 2 năm phấn đấu kiên trì, bền bỉ vượt qua những khó khăn, thử thách, nhờ sự cố gắng nỗ lực chung của Chi bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong xã nên đến năm 1979 nền kinh tế của xã dần được phục hồi, nhiều chỉ tiêu kế hoạch đã đạt và vượt các mục tiêu đề ra. Năng suất lúa tăng từ 17 tạ/ha lên 21,3 tạ/ha, năng suất ngô tăng từ 6,2 tạ/ha lên 8 tạ/ha, năng suất đậu tương tăng từ 7,3 tạ/ha lên 8 tạ/ha. Các loại cây hoa màu như dong riềng, sắn, tam giác mạch, rau đậu các loại cũng tăng cả về năng suất và sản lượng, đã góp phần cải thiện đời sống cho người dân. Năm 1979 tổng sản lượng 68
  11. lương thực quy thóc đạt 201 tấn, nâng mức ăn bình quân đầu người đạt 175kg/người/năm. Tổng đàn gia súc, gia cầm cũng có bước phát triển khá. Toàn xã có 443 con trâu, trong đó trâu của hợp tác xã có 348 con, trâu của các hộ gia đình có 95 con, đàn bò có 61 con, đàn ngựa có 127 con, đàn dê có 450 con, đàn lợn có 483 con và trên 1.700 con gia cầm các loại. Nhờ việc làm chuồng trại, xã đã từng bước xóa bỏ được tình trạng thả rông gia súc và tận dụng được nguồn phân để bón ruộng. Công tác y tế được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo, thường xuyên kịp thời, phục vụ đời sống nhân dân. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được nhân dân hưởng ứng và thực hiện. Khi có bệnh, nhân dân đã đến cơ sở y tế điều trị, hiện tượng mời thầy mo khi ốm đau đã giảm dần. Các dịch bệnh được hạn chế, không lây lan thành dịch lớn. Mặc dù vậy, hoạt động y tế còn có những mặt hạn chế như cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như đội ngũ thầy thuốc chưa đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Lĩnh vực giáo dục cũng có bước phát triển, năm học 1979 - 1980 toàn xã có 2 lớp với tổng số 29 học sinh. Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu nhưng hàng năm Chi bộ và Chính quyền xã đã huy động nhân dân tham gia đóng góp ngày công tu sửa trường lớp để phục vụ công tác giảng dạy và làm chỗ ở cho giáo viên. Phong trào xóa mù chữ được duy trì đều đặn tại trung tâm xã với 9 người tham gia. 69
  12. Từ năm 1977, thực hiện kế hoạch chung của tỉnh và huyện, xã đã triển khai cuộc vận động "Thực hiện nếp sống văn minh", "Gia đình văn hóa mới". Mặc dù còn một bộ phận nhân dân chưa tự nguyện tự giác thực hiện nhưng đại đa số nhân dân trong xã đồng tình hưởng ứng tích cực, nhiều hủ tục lạc hậu như cưới tảo hôn, làm ma to, thách cưới lớn đã giảm hẳn so với trước. Các phong trào văn hóa, văn nghệ và thông tin tuyên truyền được kết hợp tổ chức với hoạt động chiếu phim của đội chiếu bóng lưu động số 124, đã có tác dụng cổ vũ, động viên tinh thần cho các tầng lớp nhân dân thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Sang đầu năm 1978, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trở nên phức tạp, phía bên kia biên giới Trung Quốc đơn phương cắt viện trợ, rút chuyên gia về nước và giữa năm 1978 trở đi, gây ra “sự kiện người Hoa”, đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở biên giới phía Bắc nói chung và huyện Hoàng Su Phì nói riêng. Tại biên giới, phía Trung Quốc thường xuyên tiến hành các hoạt động xâm canh, xâm cư, di dời cột mốc, tăng cường hoạt động quân sự, mở đường sát biên giới, tung thám báo, biệt kích vào sâu nội địa Việt Nam thăm dò tin tức, kích động gây chia rẽ, lôi kéo người Hoa về nước gây mất ổn định an ninh, trật tự trên địa bàn. Trước tình hình trên, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Chi bộ và Chính quyền xã đã kiện toàn, củng cố Ban chỉ huy quân sự xã, tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng dân quân ở các thôn bản, xây dựng huấn luyện các phương án chiến đấu bảo vệ 70
  13. địa bàn, phát động quần chúng xây dựng tổ, đội chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và giữ vững trật tự an ninh tại địa bàn, sẵn sàng ứng phó với chiến tranh xảy ra. Ngày 17/2/1979 phía Trung Quốc đồng loạt nổ súng tấn công ta trên toàn tuyến biên giới. Tại khu vực huyện Hoàng Su Phì, chúng tập trung tấn công chủ yếu vào các xã Thàng Tín, Pố Lồ, Bản Máy. Do chủ động nắm bắt và dự báo trước tình hình nên Cấp ủy, chính quyền huyện Hoàng Su Phì và xã Đản Ván đã chuẩn bị các tình huống để đối phó. Ngày 12/4/1979, Ban Thường vụ huyện ủy đã ra Nghị quyết về 4 nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: Chặn bằng được địch ở tuyến đầu biên giới, tiếp tục rà soát lại các phương án và kế hoạch tác chiến cụ thể để đánh bại các cuộc tấn công bằng bộ binh, pháo binh, thiết giáp, không quân của địch nếu chúng tiến quân vào địa bàn. Nắm chắc địa bàn, kịp thời trấn áp những vụ bạo loạn phản cách mạng, những hành động phá hoại bằng gián điệp, biệt kích. Trừng trị những phần tử phản động, xuyên tạc chính sách, dùng chiến tranh tâm lý, gây hoang mang trong nhân dân. Động viên nhân dân thi đua lao động sản xuất, bảo đảm vừa chiến đấu vừa sản xuất tạo ra hậu cần tại chỗ. Chăm sóc tốt vụ Đông - Xuân, tiến hành làm vụ mùa thắng lợi. Quyết tâm làm hết diện tích theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã giao, bảo đảm đúng thời vụ, đúng kỹ thuật. Từ đảng viên đến quần chúng phải nhận thức rõ âm mưu lâu dài của địch... Tăng cường bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chống mọi tư tưởng sợ địch, vô ý thức, vô kỷ luật, bỏ vị trí chiến đấu. 71
  14. Quán triệt Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy, Chi bộ xã Đản Ván đã chỉ đạo Chính quyền xã và Ban chỉ huy quân sự thành lập Trung đội dân quân với 24 đồng chí, tại các thôn bản thành lập 1 tiểu đội dân quân, mỗi tiểu đội có 7 đến 8 đồng chí. Ngay sau khi được thành lập, lực lượng dân quân tham gia huấn luyện và xây dựng kế hoạch tác chiến cụ thể như hậu cần, tải thương, thông tin liên lạc, sơ tán... để sẵn sàng chiến đấu chống lại các cuộc tấn công xâm lược của địch. Chi bộ và chính quyền xã huy động dân công để xây dựng lán trại, củng cố hệ thống hầm hào, công sự. Do vị trí địa lý của xã nằm sát với khu vực biên giới của xã Thèn Chu Phìn nên Chi bộ và Chính quyền xã dưới sự chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện đã huy động lực lượng dân quân và dân công hỏa tuyến của xã tích cực tham gia hoạt động tải lương thực, thực phẩm và đạn dược thuốc men lên chốt phục vụ bộ đội chiến đấu. Đồng thời, lực lượng dân quân của xã đã trực tiếp tham gia đánh địch tại khu vực Bản Máy, góp phần đem lại chiến thắng giòn giã. Sau sự kiện này, nhiều cán bộ chiến sỹ đã được Chính phủ và các cấp khen thưởng, riêng lực lượng dân quân xã Đản Ván cùng với các xã Chiến Phố, Thàng Tín, Thèn Chu Phìn đã được nêu gương điển hình trong toàn huyện1. Cùng với việc trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Chi bộ, chính quyền xã cùng lực lượng công an, quân sự thường xuyên nắm chắc tình hình, rà 1 Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2007), trang 175. 72
  15. soát, phân loại các đối tượng tàn dư của thời kỳ tiễu phỉ để kịp thời trấn áp những hành động phá hoại gây mất ổn định tình hình. Phân công các đồng chí cán bộ xã và đảng viên trong Chi bộ xuống các thôn, các hộ gia đình để vận động nhân dân tăng cường công tác phòng gian bảo mật, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc, giúp cho nhân dân xác định rõ kẻ thù của dân tộc khi đó chỉ là một bộ phận nhà cầm quyền chứ không phải toàn bộ nhân dân Trung Hoa, động viên nhân dân ổn định tư tưởng yên tâm sản xuất và sẵn sàng phục vụ chiến đấu, qua đó đã góp phần đập tan chiêu bài dùng người Hoa làm nhân tố gây mất ổn định của phía đối diện. Ngày 15/8/1979 Đại hội đại biểu lần thứ XI Đảng bộ huyện được tổ chức. Đại hội đã xây dựng phương hướng nhiệm vụ chung cho toàn huyện trong thời chiến là: Nâng cao đời sống văn hóa cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lên một bước, đồng thời tăng cường công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn của địch, bảo vệ vững chắc biên cương của tổ quốc, tổ chức chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu thắng lợi, nâng cao quyền làm chủ tập thể của quần chúng nhằm củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp ứng yêu cầu vừa chỉ đạo sản xuất vừa chiến đấu trong thời kỳ này. Trong bối cảnh chiến tranh diễn ra trực tiếp trên địa bàn huyện, ngày 26/9/1979, Đại hội Chi bộ xã Đản Ván lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1979 - 1981 được tổ chức, dự Đại hội có 13 đảng viên trong chi bộ. Tại đại hội, đồng 73
  16. chí Lèng Lao Phà đã được các đại biểu tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Thèn Đức Chảo và đồng chí Lù Sào Diu A - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã giữ chức vụ Phó bí thư Chi bộ. Đại hội đã đánh giá những kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ VII của Chi bộ. Đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới đó là: Tiếp tục lãnh đạo nhân dân trong xã yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế. Củng cố và giữ vững Anh ninh quốc phòng, chủ động đối phó với mọi tình huống, đồng thời chuẩn bị lương thực, thực phẩm và các đồ dùng dụng cụ cần thiết để sẵn sàng cho việc tản cư về hậu phương trong trường hợp chiến tranh lan rộng. Đầu năm 1980, huyện tiến hành phân vùng chuyên canh cây trồng. Toàn huyện chia thành 2 vùng, vùng 1 chuyên trồng cây lúa, ngô, đậu tương, thảo quả; vùng 2 trồng lúa, ngô, đậu tương, chè. Xã Đản Ván thuộc 1 trong 12 xã vùng 1 chuyên trồng cây lúa, cây ngô, cây đậu tương. Từ định hướng trong phát triển sản xuất của huyện, Chi bộ và Chính quyền xã đã xác định 2 vấn đề then chốt phát triển trong sản xuất nông nghiệp đó là "3 cây" (Cây lúa, cây ngô, cây đậu tương) và "3 con" (Trâu, bò, lợn). Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được xác định, Chi bộ đã tập trung lãnh đạo chỉ đạo các hợp tác xã đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích, nhiều diện tích đất trống nhưng thuận tiện về nguồn nước đã được 74
  17. khai hoang ruộng cấy lúa. Mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, trong đó chú trọng cải tiến phương pháp bón phân cho lúa và lựa chọn cơ cấu giống lúa thích hợp. Được sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, các đội sản xuất tích cực tạo nguồn phân chuồng, phân xanh, tổ chức bón phối hợp với phân hoá học một cách hợp lý. Các đội chuyên giống nghiêm túc thực hiện quy trình xử lý giống và lựa chọn giống cho phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của xã, một số giống mới cho năng suất cao như lúa bao thai hồng, đậu tương DT76, giống lạc ngắn ngày... được đưa vào sản xuất thay thế dần các giống cũ đã thoái hoá, năng suất thấp. Các kỹ thuật gieo mạ nền cứng, gieo thẳng dần được áp dụng phổ biến. Sau 1 năm thực hiện việc phân vùng trồng trọt, cùng với những biện pháp chỉ đạo sản xuất phù hợp và sâu sát của Chi bộ và chính quyền xã đã mang lại hiệu quả cao. Trong các năm 1979 đến 1980 toàn xã đã khai hoang được 6,2 ha ruộng, nâng diện tích lúa ruộng từ 77,4 ha năm 1977 lên 83,6 ha năm 1980, diện tích ngô đạt 62 ha trong đó chủ yếu là ngô nương, tăng hơn 13 ha so với năm 1977, cây đậu tương diện tích 57,7 ha, tăng 11 ha so với năm 1977. Do đẩy mạnh công tác thâm canh và thực hiện tốt các quy trình biện pháp kỹ thuật nên năng suất các loại cây trồng đều tăng. Năm 1980 năng suất lúa đạt 20,4 tạ/ha, sản lượng đạt 170,5 tấn. Năng suất ngô đạt 8,5 tạ/ha, sản lượng đạt 25,7 tấn. Cây đậu tương năng suất đạt 7,4 tạ/ha, sản lượng đạt 42 tấn. Bình quân sản lượng lương thực cây có hạt đạt trên 225 75
  18. tấn, tăng 24 tấn so với năm 1978. Mức lương thực bình quân đầu người đạt 178 kg/người/năm. Lĩnh vực chăn nuôi cũng có sự tăng trưởng khá. Mặc dù trong các năm 1978 - 1979 trên địa bàn huyện xảy ra dịch lở mồm long móng làm một số gia súc bị chết, song tổng đàn gia súc của xã vẫn phát triển ổn định. Năm 1980 toàn xã có 467 con trâu, 73 con bò, 650 con dê, 141 con ngựa, 250 con lợn và trên 2.000 con gia cầm các loại. Ngoài việc đảm bảo được nhu cầu về sức kéo, vận chuyển hàng hóa và phục vụ nhu cầu về thực phẩm trong nhân dân, xã đã làm nghĩa vụ với Nhà nước được 3,3 tấn thực phẩm các loại, đồng thời ủng hộ bộ đội và dân quân tham gia giữ chốt được 1,7 tấn gạo, 850 kg thực phẩm các loại. Đời sống của đồng bào nhân dân trong xã được cải thiện khiến mọi người thêm tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch của xã đã đề ra. Trong những năm 1978 - 1980, Chi bộ xã tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 208 của Ban Bí thư, Nghị quyết số 61/CP của Hội đồng Chính phủ về vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý nông nghiệp theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Song quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn do trình độ, năng lực quản lý của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Việc phân phối trong các hợp tác xã còn mang tính bao cấp, bình quân, bình công chấm điểm nên giá trị ngày công còn thấp so với sức lao động của xã viên. Trong điều kiện có chiến tranh, phía bên kia biên giới thường cho biệt kích thám báo sang phá hoại ở khu 76
  19. vực biên giới, song Chi bộ và chính quyền xã luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân vững tin lao động sản xuất, hỗ trợ tích cực cho Đội chiếu bóng lưu động số 124 của tỉnh xuống xã để chiếu phim phục vụ nhân dân. Phong trào xây dựng nếp sống mới, con người mới được nhân dân tích cực thực hiện. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao được quan tâm đẩy mạnh để động viên kịp thời đồng bào nhân dân các dân tộc trong xã bám bản bám làng, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Sau khi thực hiện công tác kiện toàn về tổ chức, nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của Đảng cũng như giải quyết những tồn tại trong quá trình thực hiện Chỉ thị 192 và triển khai thực hiện Thông tri 22 của Đảng. Chi bộ Đảng xã đã tích cực triển khai việc học tập Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, kịp thời động viên tinh thần và tư tưởng để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đồng thời chú trọng phát hiện bồi dưỡng quần chúng ưu tú để kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Đến năm 1980 Chi bộ xã đã kết nạp thêm được 01 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong Chi bộ lên 14 đồng chí. Công tác xây dựng chính quyền cũng có sự chuyển biến về chất lượng. Ngày 26/4/1981, cử tri xã Đản Ván đã nô nức đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội khóa VII và Hội đồng nhân dân các cấp với tỷ lệ 94% cử tri đi bầu. Trong cuộc bầu cử, các cử tri đã bầu 7 đại biểu vào Hội 77
  20. đồng nhân dân xã, Tại kỳ họp thứ nhất, Hội đồng Nhân dân xã đã bầu 5 ủy viên Ủy ban nhân dân, đồng chí Lù Sào Diu A tiếp tục được bầu làm chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Qua cuộc bầu cử, Bộ máy chính quyền xã được kiện toàn, từng bước thực hiện tốt vai trò của dân, do dân và vì dân. Đội ngũ cán bộ chính quyền xã được quan tâm nâng cao trình độ văn hoá, lý luận chính trị để từng bước đáp ứng yêu cầu công việc đặt ra. Song song với công tác lãnh đạo xây dựng kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, củng cố, xây dựng đảng, chính quyền, các đại biểu Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã cùng các tổ chức đoàn thể xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nông dân, đoàn thanh niên cũng tích cực hơn trong việc phát huy vai trò quản lý và vận động các tầng lớp nhân dân thi đua xây dựng và phát triển kinh tế, tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ chiến đấu. Trong tình hình cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, ngày 17/3/1981, Tỉnh ủy Hà Tuyên ra Chỉ thị A81 về việc chuyển toàn bộ hoạt động vào thời chiến. Để củng cố vững chắc tuyến phòng thủ biên giới, ngày 11/7/1981, Tỉnh ủy ban hành Đề án triển khai xây dựng huyện biên giới và huyện kế cận thành pháo đài quân sự, trong đó xác định nhiệm vụ trước mắt và lâu dài là chuẩn bị mọi mặt thực hiện tốt đường lối quốc phòng toàn dân, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân… quyết tâm xây dựng mỗi đơn vị làng, xã, huyện thành 78
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1