intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đường Hồng (1987-2020): Phần 1

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đường Hồng (1987-2020): Phần 1 gồm các nội dung chính như sau: Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người xã Đường Hồng; Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xã Đường Hồng thi đua phát triển kinh tế - xã hội trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới (1987 - 2000). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đường Hồng (1987-2020): Phần 1

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC MÊ BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ ĐƯỜNG HỒNG ….. TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ ĐƯỜNG HỒNG (1987 - 2020) Xuất bản năm 2021 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Đường Hồng là xã nằm ở phía Đông Nam huyện Bắc Mê, cách trung tâm huyện lỵ 30 km, là địa bàn có nhiều dân tộc cùng chung sống. Ngày 13/2/1987, xã Đường Hồng được thành lập, đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng; Kế hoạch số 355-KH/HU, ngày 17/04/2020 của Ban Thường vụ Huyện ủy Bắc Mê về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng giai đoạn 2020 - 2025. Đồng thời để phản ánh trung thực, có hệ thống quá trình xây dựng và trưởng thành, phát triển của Đảng bộ xã hơn 30 năm qua là việc làm rất cần thiết, là cơ sở cho Đảng bộ và nhân dân xã Đường Hồng ôn lại và tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng, xây dựng quê hương Đường Hồng ngày càng giàu đẹp, văn minh. Với ý nghĩa đó, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đường Hồng khóa IX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 quyết định biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đường Hồng (1987 - 2020)”. Cuốn sách là tài liệu quan trọng góp phần thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách 2
  3. mạng và nâng cao niềm tự hào dân tộc cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ trên địa bàn xã Đường Hồng. Qua đó, từng bước giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần dám nghĩ, dám làm, hăng say trong lao động sản xuất, tích cực thực hiện xóa đói, giảm nghèo, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Trong quá trình biên soạn, Ban Biên soạn đã sưu tầm được nhiều tư liệu có giá trị, nhận được những ý kiến đóng góp nhiệt tình của các đồng chí nguyên là lãnh đạo xã, cán bộ, đảng viên qua các thời kỳ và sự quan tâm chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Bắc Mê; sự giúp đỡ về mặt chuyên môn của phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó để nội dung cuốn sách được hoàn thiện. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và biên soạn nhưng do nguồn tài liệu lưu trữ thất lạc nhiều, các nhân chứng lịch sử của thời kỳ trước còn lại không nhiều do đó nội dung cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong những ý kiến đóng góp của các đồng chí và bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đường Hồng (1987 - 2020)” đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc. T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BÍ THƯ 3
  4. Lê Minh Căn Chương I Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người xã Đường Hồng 1. Điều kiện tự nhiên Đường Hồng là xã thuộc vùng núi cao, nằm ở phía Đông Nam của huyện Bắc Mê, cách trung tâm huyện lỵ 30 km. Phía Đông giáp xã Đường Âm; phía Tây giáp xã Sinh Long (huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang); phía Nam giáp xã Thượng Nông (huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang); phía Bắc giáp xã Yên Cường. Xã Đường Hồng có độ cao trung bình từ 700 - 1.200m so với mực nước biển. Địa hình khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi, chủ yếu là đồi núi đất, đá với những khe suối nhỏ xen kẽ các thung lũng tạo thành những cánh đồng ruộng bậc thang. Toàn xã có tổng diện tích đất tự nhiên là 4.256,55 ha, trong đó đất nông nghiệp 1.139,94 ha, đất lâm nghiệp 2.121,6 ha, diện tích ao hồ 6,14 ha, còn lại là diện tích rừng tạp, đồi núi trọc, núi đá và núi đất. Khí hậu ở xã Đường Hồng mang những đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Hằng năm, nhiệt độ trung bình 22,3oC; lượng mưa trung bình khoảng 1.000 - 1.500mm/năm; độ ẩm không khí đạt 80 - 4
  5. 90%. Một năm được chia thành 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông; tính theo lượng mưa có hai mùa là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 hằng năm, khí hậu nóng ẩm, lượng mưa cả năm thường tập trung vào mùa này (chiếm khoảng 70 - 80% lượng mưa cả năm). Mùa khô khí hậu khô hanh và thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa thấp, nhiều sương mù, nhiệt độ có thể xuống thấp dưới 10 0C. Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông - lâm nghiệp của xã, đặc biệt là việc trồng những loại cây có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tuy nhiên, trong mùa mưa, lượng mưa lớn cùng với địa hình dốc, trên địa bàn xã thường xảy ra sạt lở đã ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Về tài nguyên thiên nhiên, trước đây xã Đường Hồng có diện tích rừng nguyên sinh khá lớn với nhiều cây gỗ quý như: Đinh, lát hoa, trầm hương, nghiến, ngọc am... và nhiều động vật quý hiếm sinh sống như: Hổ, gấu, hươu, nai, gà lôi… Tuy nhiên, do việc khai thác các tài nguyên thực vật, động vật chưa có quy hoạch, đến nay các loại gỗ quý, động vật quý hiếm trên địa bàn xã hầu như không còn. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về trồng cây gây rừng, ý thức chăm sóc, bảo vệ rừng của người dân từng bước được nâng cao, diện tích rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc trên địa bàn xã 5
  6. đang dần được khôi phục, lâm nghiệp đã trở thành ngành nghề chính của nhiều hộ gia đình. Xã Đường Hồng không có sông lớn chảy qua. Tuy nhiên, xã có hệ thống các khe suối, khe nước xen kẽ ở các thôn trên địa bàn. Đây là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Trước đây hệ thống giao thông trên địa bàn xã hết sức khó khăn chỉ là đường mòn dành cho người đi bộ và ngựa thồ, những năm gần đây được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, hệ thống giao thông trên địa bàn xã cơ bản được mở rộng; các tuyến đường liên thôn cơ bản được bê tông hóa, xây dựng kiên cố... Có thể khẳng định, điều kiện tự nhiên của xã Đường Hồng tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nhất là việc phát triển cây lương thực thực phẩm, như: Lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ tương và một số cây trồng khác. Tuy nhiên, do sự chia cắt về mặt địa hình cũng đã tạo ra những khó khăn cho giao thông đi lại giữa các thôn trên địa bàn xã. Thực tế đó đã phần nào làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. 2. Điều kiện kinh tế - xã hội và con người vùng Đường Hồng trước năm 1987 Thời kỳ Pháp thuộc, Đường Hồng là một vùng đất thuộc xã Đường Âm, tổng Yên Phú, châu Vị Xuyên, trấn (tỉnh) Tuyên Quang. Ngày 20/8/1891, tỉnh Hà 6
  7. Giang được thành lập; vùng Đường Hồng, xã Đường Âm thuộc tổng Yên Phú, châu Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Đến ngày 18/11/1983, thực hiện Quyết định số 136-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về thành lập huyện Bắc Mê và điều chỉnh địa giới của 4 huyện thuộc tỉnh Hà Tuyên, Đường Hồng là một vùng thuộc xã Đường Âm, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Tuyên. Thực hiện Quyết định số 28/QĐ-HĐBT, ngày 13/02/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về chia tách một số xã và thành lập thị trấn của các huyện Bắc Mê, Na Hang và Yên Sơn của tỉnh Hà Tuyên, xã Đường Âm được chia tách thành 2 xã: Đường Âm và Đường Hồng. Sau khi được thành lập và điều chỉnh địa giới hành chính xã Đường Hồng có 3 hợp tác xã (Tiến Minh, Nà Nưa, Bản Đúng) với 336 hộ, 2.333 khẩu; trụ sở Ủy ban hành chính xã đặt tại thôn Nà Nưa. Trong quá trình xây dựng và phát triển, đến năm 2020, xã có tổng số 10 thôn (Khuổi Hon, Tiến Minh, Nà Nưa I, Nà Nưa II, Nà Khâu, Lùng Cuối, Khuổi Mạ, Khuổi Luông, Bản Đúng và Nà Lầu) với 889 hộ, 4.395 khẩu. Đường Hồng là địa bàn sinh sống lâu đời của 7 đồng bào dân tộc (Tày, Dao, Nùng, Kinh, Giấy, Bố Y, Hoa). Trong đó, dân tộc Dao chiếm khoảng 74%, số còn lại là dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Giấy, Bố Y, Hoa. Trải qua quá trình xây dựng và phát triển mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng được thể hiện qua ẩm thực, nhà ở, trang phục; phong tục, tập quán, tín ngưỡng cùng với 7
  8. các nghi lễ, lễ hội văn hóa đặc trưng được phát triển và gìn giữ qua nhiều thế hệ như: Lễ hội cấp sắc, lễ hội nhảy lửa của dân tộc Dao; lễ hội xuống đồng của dân tộc Tày, Dao; lễ hội cầu trăng cầu mùa, cúng cơm mới của dân tộc Tày… Cùng với đó là các ngành nghề truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm, làm ngói máng âm dương… được duy trì và phát triển nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân. Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1884, chúng kéo quân đánh chiếm Hà Giang, đến năm 1887 Pháp mới căn bản chiếm được hạt Hà Giang (thời kỳ này hạt Hà Giang là đơn vị hành chính thuộc tỉnh Tuyên Quang). Sau khi chiếm đóng Hà Giang, thực dân Pháp nhanh chóng nắm lấy thổ ty, biến chúng thành tay sai đắc lực, kiểm soát mọi công việc hành chính ở địa phương và dùng họ để gây ra những hành động chia rẽ, gây hiềm khích nghi ngờ, hằn thù lẫn nhau giữa các dòng họ, giữa các dân tộc, từ đó gây mất đoàn kết để dễ cai trị. Mỗi dân tộc chúng lại có bộ máy cai trị riêng. Vùng người Dao bị chia thành Động do Quản chiểu đứng đầu. Vùng người Tày có chánh tổng, lý trưởng, tổng xã đoàn và hội đồng kỳ mục. Chúng tăng cường bắt lính để xây dựng Căng Bắc Mê đóng chốt tại các vị trí xung yếu, cửa ngõ giao thông. Từ Bảo Lạc (Cao Bằng) đến Na Hang, Chiêm Hóa (Tuyên Quang); Vĩnh Tuy, Bắc Quang, Hoàng Su Phì (Hà Giang)… nơi nào 8
  9. chúng cũng xây dựng đồn bốt, tăng cường các đội lính dõng đi tuần, lùng sục đến các vùng sâu, ngõ hẻm để kiểm tra, giám sát và ngăn chặn mọi hoạt động của đồng bào ta. Thời kỳ này, thực dân Pháp duy trì nền kinh tế lạc hậu, tự cấp, tự túc cùng phương thức du canh, du cư của đồng bào các dân tộc; ruộng đất chủ yếu nằm trong tay chức dịch. Chúng thao túng và chiếm đoạt ruộng công làm của riêng. Đời sống của đồng bào chủ yếu phụ thuộc vào nương rẫy, săn bắn… Hơn nữa, chúng ra sức bóc lột nhân dân bằng chế độ thuế khóa nặng nề phu phen, tạp dịch, cống nạp sản phẩm… Do vậy, kinh tế vốn thấp kém, càng trở nên sa sút. Hạn hán, mất mùa, nạn đói thường xuyên xảy ra khiến đời sống nhân dân thêm cực khổ. Bọn thống trị thi hành chính sách ngu dân, khuyến khích các hủ tục, mê tín, dị đoan; đầu độc đồng bào bằng rượu cồn và thuốc phiện; giáo dục, y tế không được mở mang. Phần lớn đồng bào các dân tộc mù chữ. Nhân dân ốm đau bệnh tật chủ yếu dựa vào cúng bái, chữa bằng lá cây rừng hoặc phó thác cho số phận may rủi. Điều kiện sống không được đảm bảo khiến cho dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm nhiều người chết. Dưới ách cai trị của thực dân phong kiến đời sống của đồng bào của khu vực Đường Hồng thời bấy giờ vô cùng cực khổ, nạn đói, dịch bệnh thường xuyên 9
  10. xảy ra; xã hội lạc hậu, kém phát triển. Chính điều đó đã nung nấu ý chí đấu tranh và chỉ chờ khi có điều kiện chín muồi là bùng phát nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước. Ngày 03/02/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc; tập hợp giai cấp công nhân, nông dân, trí thức… phát động đấu tranh mạnh mẽ trong cả nước. Ngày 19/5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) với sứ mệnh là tổ chức, tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tại Căng Bắc Mê, các đồng chí tranh thủ tuyên truyền, giác ngộ đồng bào các dân tộc, chủ yếu là lực lượng thanh niên. Có lần các đồng chí định khởi nghĩa nhưng không thành. Lo sợ ảnh hưởng của đảng viên cộng sản tới quần chúng quanh vùng, đồng thời từ năm 1941 đến năm 1942 do nghi ngờ một số tù nhân có âm mưu phá trại tự giải thoát ra ngoài hoạt động cách mạng nên thực dân Pháp đã chuyển một số tù nhân đi giam giữ nơi khác cho đi đầy ở các nhà tù Hà Nội, Sơn La và dần giải tán Căng Bắc Mê. Thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, phong trào đấu tranh cách mạng cả 10
  11. nước phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đầu tháng 9/1943, một số cán bộ Việt Minh do đồng chí Hồng Tụ và đồng chí Tô Vũ phụ trách từ huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng) xâm nhập vào Thoôm Toòng (nay là thôn Thâm Quảng, xã Đường Âm) để tuyên truyền chủ trương đánh Pháp, đuổi Nhật giành độc lập dân tộc, vận động quần chúng nhân dân gia nhập các tổ chức cứu quốc. Ban đầu các đồng chí ở nhà ông Nguyễn Văn Pỉa, tiếp đó là gia đình ông Hứa Văn Vương, nhà bà Nguyễn Thị Hộ. Cán bộ được dân che chở nuôi cơm; nhiều hộ cử người trong gia đình canh phòng người lạ để bảo vệ cán bộ. Được tuyên truyền vận động, tất cả 12 hộ người Dao ở bản này tự nguyện gia nhập Hội cứu quốc, trong đó có gia đình ông Bàn Văn Lan, Bàn Văn Hành, Lý Văn Thì… nhân dân cắt tiết gà, uống máu ăn thề một lòng đi theo cách mạng. Hằng tháng, mỗi gia đình đều nộp hội phí và tham gia sinh hoạt; 24 thanh niên của xã thành lập đội tự vệ làm nhiệm vụ bảo vệ phong trào cách mạng, cung cấp tin tức, làm liên lạc, tuyên truyền, vận động nhân dân quanh vùng ủng hộ Việt Minh. Từ cơ sở Thoôm Toòng (Đường Âm) phong trào cách mạng nhanh chóng phát triển mở rộng ra các vùng lân cận thuộc khu vực Đường Hồng và các khu vực khác trên địa bàn huyện. Cuối năm 1943, thực hiện chủ trương của Đảng giao, đội tuyên truyền của ta do đồng chí Việt Bằng và đồng chí Mạnh Hùng được điều động thực hiện nhiệm 11
  12. vụ tuyên truyền cách mạng xuống cơ sở. Được liên lạc báo tin, toán quân Nhật có khoảng 200 quân lính được trang bị vũ khí, kéo quân từ Hà Giang vào lùng sục tại các thôn Nà Nèn, Bó Củng, Bản Sáp (xã Yên Phú), tìm bắt cán bộ Việt Minh. Lúc này, đội tuyên truyền của ta đang từ hướng Đường Âm di chuyển đến điểm Đồn Điền, xã Yên Cường. Không bắt được cán bộ Việt Minh, chúng cho quân lính bắt, cướp tài sản (trâu, bò, ngựa) của người dân nơi đây, rồi chúng kéo quân vào Bản Tính (xã Phú Nam) đi theo hướng Bảo Lạc - Cao Bằng. Trước tình thế trên, nhận định tình hình và so sánh lực lượng giữa ta và địch có nhiều bất lợi cho ta. Quân địch đông hơn nhiều, lại được trang bị vũ khí hiện đại. Đội tuyên truyền vũ trang của ta đã chủ động rút quân theo hướng Đồn Điền đi thôn Khâu Thiếc - thôn Tiến Xuân - thôn Tả Lùng (xã Yên Cường hiện nay) để bảo toàn lực lượng. Tại Hà Giang, do điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh miền núi có nhiều khó khăn, nên phong trào cách mạng phát triển muộn hơn. Từ năm 1939 phong trào cách mạng ở Hà Giang mới được nhen nhóm gây dựng và từ năm 1945 phát triển mạnh. Đầu năm 1944, xứ ủy Bắc Kỳ chủ trương tăng cường vận động cách mạng ở Hà Giang, điều động một số cán bộ Việt Minh do đồng chí Đặng Việt Hưng phụ trách ba tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng và Bắc Cạn để vận động quần chúng nhân dân giác ngộ cách mạng. Tháng 4/1944, cán bộ Việt Minh từ 12
  13. Cao Bằng đến hai tổng Yên Phú và Yên Định hoạt động cách mạng. Ngày 05/8/1944, Ban Việt Minh ở Nhiễu Lai (Cao Bằng) được thành lập, trong đó có 5 xã giáp ranh của 3 huyện: Bảo Lạc (Cao Bằng); Yên Minh, Bắc Mê (Hà Giang). Tiếp đến ngày 15/9/1944, Ban Việt Minh tổng Đường Thượng, gồm các xã Mậu Duệ, Đường Thượng của huyện Yên Minh; xã Yên Phú, Yên Định của huyện Bắc Mê; xã Nam Thắng (Bảo Lạc – Cao Bằng) được thành lập. Ban Việt Minh có đầy đủ đại biểu của các xã và các dân tộc, có nhiệm vụ vận động, tổ chức các hội cứu quốc như: Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc để đấu tranh chống lại sự bóc lột của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Cùng với nhân dân các dân tộc ở tổng Yên Phú nói chung và khu vực Đường Hồng nói riêng được cán bộ Việt Minh tuyên truyền chủ trương đánh Pháp, đuổi Nhật của Đảng. Được tuyên truyền những chủ trương, quan điểm lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân trong vùng đã hết lòng ủng hộ cán bộ Việt Minh, tin tưởng và một lòng theo cách mạng, phục vụ cách mạng, từ đó phong trào cách mạng được hình thành và phát triển mạnh mẽ, rộng khắp tới các thôn bản. Bước sang năm 1945, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa phương trong và ngoài tỉnh, đã ảnh hưởng trực tiếp tới phong trào cách mạng của Đường Hồng. Giữa tháng 3 năm 1945, đội vũ trang 13
  14. tuyên truyền gồm các đồng chí Hồng Quốc, Mệnh Lệnh, Bảo Toàn, Tài Nam, Minh Ngọc và nữ đồng chí Hồng Đào từ tỉnh Cao Bằng vào thôn Bản Tính xã Phú Nam và thôn Bản Sáp xã Yên Phú để gây dựng cơ sở cách mạng và tổ chức xây dựng tuyên truyền vũ trang ở hai tổng Yên Phú và Yên Định (đội vũ trang của hai tổng có 13 đồng chí, do đồng chí Hồng Quốc và Mệnh Lệnh chỉ huy). Chỉ trong một thời gian ngắn, đội tuyên truyền vũ trang và một số quần chúng giác ngộ cách mạng đã tuyên truyền, vận động được đông đảo quần chúng nhân dân tự giác tham gia cách mạng. Tuy nhiên, thời kỳ này tại vùng Đường Hồng nói riêng, các xã trong Tiểu khu Bắc Mê nói chung, chính quyền thực dân phong kiến kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của cán bộ Việt Minh, vì thế đã phần nào gây khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động cách mạng tại địa phương. Tháng 8/1945 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổi dậy tổng khởi nghĩa và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố nước nhà độc lập. Từ đây, cách mạng nước ta bước sang một kỷ nguyên mới, độc lập dân tộc dân chủ và đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với cả nước, nhân dân vùng Đường Hồng bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ chế độ mới. 14
  15. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Tiểu khu Bắc Mê được thành lập gồm 7 xã: Đường Âm, Yên Phú, Phú Nam, Lạc Nông, Yên Định, Giáp Trung, Minh Ngọc với khoảng 6.000 dân. Đường Hồng là vùng đất thuộc xã Đường Âm, Tiểu khu Bắc Mê. Ngày 29/8/1945, Nhật rút khỏi Hà Giang. Ngày 30/8/1945, quân Tưởng Giới Thạch đã nhảy vào chiếm đóng dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật gây cho ta nhiều khó khăn trở ngại. Chúng lập ra chính quyền tay sai phản động Việt Nam Quốc dân Đảng ở thị xã Hà Giang. Ở Bắc Mê, Quốc dân Đảng đã phục hồi lại bộ máy tay sai với đủ các chức dịch do ông Nông Văn Tông (thôn Bản Sáp, xã Yên Phú) làm Bang tá; Nguyễn Văn Cấp (xã Lạc Nông) làm Tổng đoàn Yên Phú; Nguyễn Đình Phù (thôn Nà Nèn, xã Yên Phú) làm Phó tổng đoàn Yên Phú; Hoàng Văn Sài (Yên Định) làm Tổng đoàn Yên Định; Bế Văn Hộ (Yên Định) làm Phó tổng đoàn Yên Định. Ngày 8/12/1945, Quốc dân Đảng ở thị xã Hà Giang bị tiêu diệt, thị xã Hà Giang được giải phóng. Chính quyền phản động ở Hà Giang nói chung, Bắc Mê nói riêng bị tan rã. Ngày 15/12/1945, tại thôn Bản Sáp (xã Yên Phú), cán bộ Việt Minh và nhân dân các xã đã họp, bầu ra Ủy ban hành chính lâm thời Tiểu khu Bắc Mê do ông Nông 15
  16. Văn Tông làm trưởng ban khu, ông Nông Văn Tường làm phó ban khu, ông Nguyễn Văn Thọ làm ủy viên thư ký. Ủy ban hành chính huyện Vị Xuyên cử đại diện bên cạnh Ủy ban khu để chỉ đạo và điều hành công việc. Tổng Yên Định và Yên Phú cũng bị giải tán từ thời gian đó. Ngay sau đó, Ủy ban hành chính xã Đường Âm được thành lập do ông Nông Văn Long (người vùng Đường Hồng) làm Chủ tịch, ông Tiểu Thành Phín (người vùng Đường Hồng) làm Phó chủ tịch, ông Hứa Đình Văn (Bản Lòong - Đường Âm) làm Ủy viên thư ký. Trong thời kỳ này, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính xã Đường Âm, nhân dân các dân tộc vùng Đường Hồng tích cực thực hiện phong trào tăng gia sản xuất. Là địa bàn khó khăn, diện tích đất sản xuất ít, dân cư thưa thớt, sống rải rác ở xung quanh các triền núi cao, nhưng với tinh thần quyết tâm cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân khu vực Đường Hồng tích cực tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang” để cứu đói và ủng hộ kháng chiến. Với tinh thần “Lá lành đùm lá rách”, nhiều gia đình lập “Hũ gạo cứu đói”, cứ mỗi bữa bớt ra một bát gạo bỏ vào hũ “tích tiểu thành đại”, rồi đem số gạo đó ủng hộ những gia đình thiếu đói. Do đó, nhiều gia đình trên địa bàn được cứu đói kịp thời. Trong phong trào “chống giặc dốt”, với tinh thần “người biết chữ dạy người không biết chữ” các lớp bình 16
  17. dân học vụ được thành lập, hoạt động và nhận được sự tham gia của các tầng lớp nhân dân đủ mọi lứa tuổi không phân biệt người già, trẻ. Từ đó, nạn mù chữ từng bước đạt được những thành quả bước đầu. Ngày 06/01/1946, nhân dân các dân tộc Đường Hồng cùng với nhân dân xã Đường Âm và cả nước hăng hái tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, người dân được cầm lá phiếu đi bầu những người đại diện cho mình vào cơ quan quyền lực Nhà nước. Trước tình hình cách mạng nước ta ngày càng gặp nhiều khó khăn. Tháng 02/1946, thực dân Pháp đưa quân ra miền Bắc thay cho quân Tưởng làm nhiệm vụ tước khí giới quân Nhật. Tại đây, quân Pháp tăng cường khiêu khích cách mạng, Chính phủ ta đã thực hiện chính sách nhân nhượng để tranh thủ thời gian hòa hoãn, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, kẻ thù càng lấn tới. Trước tình hình đó, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta chỉ có một con đường là đứng lên cầm vũ khí chống lại thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập còn non trẻ của dân tộc. Đêm 19 rạng sáng ngày 20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”; ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn 17
  18. dân kháng chiến, trong đó khẳng định tính chất cuộc kháng chiến do Đảng lãnh đạo là "Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh". Từ đó, nhân dân ta thấy được tính chất ác liệt, gian khổ và lâu dài của cuộc kháng chiến, củng cố lòng tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, giải phóng dân tộc. Ngày 15/8/1948, Đảng bộ huyện Vị Xuyên được thành lập. Ngày 10/10/1948, Huyện ủy Vị Xuyên quyết định thành lập Chi bộ Yên Phú tại Bản Sáp. Đây là Chi bộ Đảng đầu tiên và là chi bộ ghép của tất cả các xã trong Tiểu khu gồm 18 đồng chí, đồng chí Nông Văn Thuy được chỉ định làm bí thư Chi bộ. Chi bộ Đảng Yên Phú ra đời có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với các tổ chức Đảng ở Tiểu khu Bắc Mê, trong đó có vùng Đường Hồng, xã Đường Âm. Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng địa phương, năm 1950 Chi bộ xã Đường Âm được thành lập. Việc thành lập chi bộ có ý nghĩa quan trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị cụ thể ở địa phương. Tháng 4/1950, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ nhất được tổ chức. Đại hội đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lớn nhằm huy động cao độ sức mạnh đoàn kết của toàn dân vào cuộc kháng chiến kiến quốc ở địa phương. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, đồng bào nhân dân các dân tộc khu vực Đường Hồng 18
  19. dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chi bộ xã Đường Âm đã dấy lên phong trào thi đua sản xuất, chiến đấu sôi nổi rộng khắp, phấn đấu sản xuất lương thực đủ ăn và có tích lũy để phục vụ kháng chiến. Nhằm khắc phục khó khăn do kỹ thuật canh tác lạc hậu. Chi bộ, chính quyền xã tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động nhân dân cải tiến kỹ thuật canh tác, chú trọng xây dựng thủy lợi cung cấp nước tưới tiêu, dùng phân bón cho cây trồng… Qua đó, việc phát triển lúa, ngô, cây hoa màu các loại, chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm được đẩy mạnh. Đồng thời, việc trồng bông, dệt vải, làm ngói máng theo phương thức thủ công truyền thống theo quy mô hộ gia đình tại các thôn được khuyến khích mở rộng, đảm bảo phục vụ nhu cầu ăn, mặc, ở của nhân dân và đóng góp cho kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng giành được nhiều thắng lợi, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng. Lúc này, yêu cầu về nhân lực và vật lực cung cấp cho cuộc kháng chiến để đi đến thắng lợi cần phải được tăng cường hơn trước. Tháng 9 năm 1951, Chính phủ ban hành sắc lệnh thuế nông nghiệp, về cơ bản và lâu dài, thuế nông nghiệp là một nguồn thu lớn để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng trước mắt đó là nguồn thu cần thiết, cấp bách để phục vụ kháng chiến. Việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp đã được cấp ủy, chính quyền các cấp xác định là 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2