Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải (1961-2020)
lượt xem 1
download
Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải (1961-2020)" nhằm ghi lại truyền thống cách mạng của Chi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Lao Chải trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979; thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải (1961-2020)
- ĐẢNG BỘ HUYỆN VỊ XUYÊN BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LAO CHẢI TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ LAO CHẢI (1961 – 2020) Hà Giang, năm 2020 1
- 2
- LỜI GIỚI THIỆU Xã Lao Chải nằm bên sườn phía Tây của dải núi Tây Côn Lĩnh, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Tây Côn Lĩnh (rộng khoảng 30.000 ha do tỉnh Hà Giang quản lý). Là xã vùng sâu, vùng cao, vùng xa; 1 trong 5 xã biên giới, nằm ở phía Tây của huyện Vị Xuyên; có địa hình chủ yếu là đồi núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn; đây còn là địa bàn đã từng xảy ra nhiều trận đánh thời kỳ kháng chiến chống Pháp trong những năm 1948 - 1952; chịu nhiều đạn pháo dày đặc trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc năm 1979... Hiện nay, đây cũng là địa bàn có nhiều tiềm năng để đẩy mạnh việc phát triển cây đặc sản như: Chè Shan tuyết, thảo quả… Trải qua quá trình hình thành và phát triển, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng người dân Lao Chải luôn giữ gìn bản sắc văn hóa; nỗ lực, cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất; dũng cảm, kiên cường, thông minh, sáng tạo, giàu lòng yêu nước. Cuối năm 1961, Chi bộ xã Lao Chải được thành lập; đến năm 1996 Chi bộ xã được nâng lên thành Đảng bộ, dưới sự lãnh đạo của Chi, Đảng bộ, nhân dân xã Lao Chải đã phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực tự cường và tinh thần đấu tranh bất khuất, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. 3
- “Lịch sử Đảng là một pho sử bằng vàng” và “Ôn cố tri tân” (học cũ để biết mới), việc kế thừa, phát huy cái cũ trong điều kiện mới là truyền thống vô cùng quý báu. Nhận thức được ý nghĩa, vai trò tầm quan trọng đó và thực hiện Kế hoạch số 342-KH/TU, ngày 02/8/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng; Kế hoạch của Ban Thường vụ Huyện ủy Vị Xuyên về sưu tầm, biên soạn, xuất bản cuốn Lịch sử Đảng, truyền thống cách mạng các xã, thị trấn; Ban Chấp hành Đảng bộ xã Lao Chải (khóa IV, nhiệm kỳ 2015 – 2020) đã chỉ đạo biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải (1961 - 2018)”. Nội dung cuốn sách nhằm ghi lại truyền thống cách mạng của Chi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Lao Chải trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979; thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Cuốn sách là một tài liệu quan trọng phục vụ cho công tác tuyên truyền, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lịch sử cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trên địa bàn xã. Đồng thời khơi dậy 4
- niềm tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực nêu cao tinh thần quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng các cấp, góp phần xây dựng quê hương Lao Chải ngày càng giàu đẹp, phát triển. Trong quá trình hoàn thiện nội dung cuốn sách, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Lao Chải đã nhận được sự giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vị Xuyên; phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và các nhân chứng lịch sử, đội ngũ cán bộ chủ chốt của xã qua các thời kỳ... Tuy nhiên, do công tác sưu tầm tư liệu thành văn còn gặp nhiều khó khăn (bởi chiến tranh kéo dài, công tác lưu trữ còn hạn chế; thời gian từ năm 1979 đến năm 1989, trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, xã Lao Chải là một trong những địa bàn bắn phá của địch, Chi bộ và nhân dân xã phải đi sơ tán về tuyến sau, hầu như không lưu giữ được tài liệu có giá trị lịch sử); phần lớn các nhân chứng lịch sử hoặc đã qua đời, hoặc còn sống nhưng đã già yếu, không còn khả năng hồi tưởng được đầy đủ các sự kiện lịch sử... Vì vậy, nội dung cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải (1961-2018)” không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Chấp hành Đảng bộ xã rất mong nhận được sự đóng góp của đông đảo bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. 5
- Trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải (1961-2018)” đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÍ THƯ Giàng Văn Khoa 6
- Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN XÃ LAO CHẢI TRƯỚC NĂM 1961 DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG 1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Lao Chải là xã vùng cao, biên giới, nằm ở phía Tây của huyện Vị Xuyên, cách trung tâm huyện lỵ Vị Xuyên 65km; cách trung tâm thành phố Hà Giang trên 40km. Phía Bắc giáp xã Xín Chải; phía Nam giáp xã Thèn Chu Phìn (huyện Hoàng Su Phì); phía Đông giáp xã Phương Tiến; phía Tây giáp Hương Múng Tủng, huyện Ma Ly Pho (Châu Vân Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc). Xã có 7.712 mét đường biên với 9 mốc giới. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 5.012,57ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 4.311,52ha, đất phi nông nghiệp 59,29ha, diện tích đất chưa sử dụng 641,76ha. Đất trên địa bàn xã gồm có 9 nhóm chính, trong đó nhóm đất xám (đất pha cát) chiếm phần đa số diện tích. Đất sản xuất của xã chủ yếu nằm dọc theo lưu vực các suối, khe; quỹ đất sản xuất nhìn chung là eo hẹp. Địa hình xã Lao Chải bị chia cắt mạnh, phần lớn là đồi núi, có độ dốc tự nhiên lớn, bị chia cắt mạnh bởi các dòng suối, độ cao trung bình từ 960 - 1.000m so với mặt nước biển, có lớp phủ thực vật cao chiếm trên 60% diện tích. 7
- Xã nằm trong khu vực có khí hậu cận nhiệt đới ẩm gió mùa, được chia thành 2 mùa: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô (mùa đông) từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình từ 2.300 - 2.500mm/năm, chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, lượng bốc hơi trung bình 750mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22 - 230C; nhiệt độ tháng cao nhất là 26,6oC – 27,20C (tháng 7) và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,1oC (tháng 1). Vào mùa khô thường có sương mù, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối có khi xuống dưới 50C. Hàng năm vào mùa mưa trên địa bàn xã thường xảy ra tình trạng mưa lớn, mưa đá, kèm theo gió lốc kéo dài, gây ra nguy cơ bị lũ quét, sạt lở, làm tốc mái nhà. Vào mùa khô, do địa hình dốc, nguồn nước chủ yếu từ các khe suối nhỏ nên việc cung cấp nước tưới tiêu cho những cánh đồng ruộng bậc thang dưới chân núi gặp nhiều khó khăn. Về nguồn nước, trên địa bàn xã có các con suối, gồm: suối Tảo Hồ và suối Lạ Tỉnh (Mốc 11) hợp thành suối Lao Chải và nhiều khe nhỏ bắt nguồn từ dải Tây Côn Lĩnh. Đây là nguồn nước chủ yếu để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Về tài nguyên khoáng sản, theo các tài liệu nghiên cứu cho thấy: Địa bàn xã Lao Chải không có nhiều khoáng sản phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghiệp khai khoáng. 8
- Trước đây Lao Chải là địa bàn có nhiều loài động - thực vật khá phong phú, đa dạng và quý hiếm. Về động vật có các loài như: Hổ, báo, gấu, sơn dương, hươu, nai, lợn rừng, khỉ, trăn…Về thực vật có các loại gỗ quý như: Trai, nghiến, lát, Pơmu, Samu… và nhiều song mây, tre, nứa, vầu và các loại thảo dược, thảo quả, chè rừng… Tuy nhiên trong quá trình sinh sống và phát triển, do hậu quả của chiến tranh gây ra cũng như việc khai thác không đúng quy định nên tài nguyên động – thực vật trên địa bàn xã đã bị cạn kiệt, tài nguyên rừng, muông thú quý hiếm hầu như không còn. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của xã tương đối khó khăn. Đó là một trong những yếu tố gây trở ngại cho việc phát triển kinh tế - xã hội của xã, nhưng với truyền thống cần cù, chịu khó, sáng tạo, nhân dân xã Lao Chải đã luôn nỗ lực vươn lên trong phát triển kinh tế, từng bước nâng cao đời sống, tinh thần… Lao Chải là vùng đất có từ lâu đời. Năm 1928, trong thời kỳ Pháp thuộc, Lao Chải là một vùng đất thuộc tổng Thanh Thủy, châu Vị Xuyên. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Lao Chải thuộc tiểu khu Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên. Đến năm 1955, xã Lao Chải được thành lập1. 1 Theo cuốn Địa chí tỉnh Hà Giang có viết: Từ năm 1955 đến năm 1962, Xín Chải thuộc xã Lao Chải. Căn cứ theo Quyết định số 433/QĐ/HC, ngày 16/9/1949 của Uỷ ban Hành chính Liên khu 10 về thành lập các xã thuộc 9
- Ngày 15/12/1962, thực hiện Quyết định số 211-CP của Hội đồng Chính phủ, xã Lao Chải (huyện Vị Xuyên) được tách thành 2 xã: Xã Lao Chải và xã Xín Chải. Xã Lao Chải gồm các thôn: Ngài Là Thầu, Bản Phố, Cáo Sào, Lùng Chu Phùng và Tả Ván. Ngày 25/9/1975, thực hiện Nghị quyết số 245- NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên; theo đó xã Lao Chải thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên. huyện Vị Xuyên (thời điểm này huyện Vị Xuyên không có tên xã Lao Chải); Theo Nghị quyết số 57-NQ/TU, ngày 03/4/1959 của Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Tháng 3 năm 1959) có ghi danh sách Chủ tịch xã Lao Chải trong văn bản của tỉnh. Tiếp đó, năm 1962, theo Quyết định số 211-CP, ngày 15/12/1962 của Hội đồng Chính phủ, xã Lao Chải (huyện Vị Xuyên) được tách thành 2 xã: Xã Lao Chải và xã Xín Chải. Cùng với đó, theo cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện có ghi: “Ngay khi hòa bình lập lại một số xã của huyện Vị Xuyên chưa có chính quyền nhân dân, vẫn dưới sự khống chế của các thế lực thổ ty, bang tá. Trước tình hình đó, Đảng bộ và Ủy ban hành chính Hà Giang tiến hành ngay công tác chấn chỉnh, kiện toàn và xây dựng chính quyền các cấp”. Từ những căn cứ trên có thể xác định thời gian xã Lao Chải được thành lập có thể xác định từ sau tháng 9/1949 đến trước tháng 3/1959. Tại Hội thảo khoa học cuốn sách, ngày 17/6/2020 các đại biểu nhất trí lựa chọn năm 1955 thành lập xã Lao Chải và thành lập Ủy ban hành chính xã (Sau khi miền Bắc được giải phóng). Khi có căn cứ tư liệu chính thức được bổ sung sẽ tiếp tục điều chỉnh mốc thời gian này. 10
- Ngày 14/5/1981, thực hiện Quyết định số 185-CP của Hội đồng Chính phủ: Điều chỉnh địa giới một số xã của các huyện Mèo Vạc, Quản Bạ, Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, Xín Mần thuộc tỉnh Hà Tuyên. Theo đó, xóm Tả Ván của xã Lao Chải được sáp nhập vào xã Xín Chải cùng huyện. Ngày 12/8/1991, thực hiện Nghị quyết Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9, tỉnh Hà Tuyên được chia thành 2 tỉnh: Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang; xã Lao Chải thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Trải qua quá trình phát triển và có sự thay đổi về địa giới hành chính, đến nay xã gồm 04 thôn: Bản Phùng, Lùng Chu Phùng, Cáo Sào và Ngài Là Thầu. Xã Lao Chải là xã vùng cao, là địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc Mông. Từ bao đời nay đồng bào dân tộc Mông trong xã luôn cần cù, chịu khó, giữ vững tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau; tích cực khai phá, cải tạo đất đai để trồng trọt, chăn nuôi; tham gia các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, các cuộc xâm lấn và công cuộc giữ gìn, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng nơi biên giới. Trước đây, người dân vùng Lao Chải sinh sống thưa thớt, chủ yếu tập trung ở các triền núi cao. Hiện nay, dân cư đã sinh sống tập trung ở các khu vực thấp hơn, với 312 hộ dân, 1.843 nhân khẩu. Tuy nhiên đời sống nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã còn gặp nhiều 11
- khó khăn, có 109/312 hộ gia đình thuộc diện hộ nghèo (chiếm 34,94%). Dân tộc Mông xã Lao Chải có không gian văn hóa phong phú, giàu bản sắc và lưu giữ được những giá trị, nét văn hóa đặc sắc của người Mông. Đặc biệt, phong tục tập quán thờ cúng tổ tiên thể hiện tinh thần hướng về cội nguồn, được người dân Lao Chải thực hiện trang nghiêm và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ truyền thống như hát cọi, thổi khèn lá, đàn môi… được duy trì và phát huy, nhất là vào dịp lễ, tết, các ngày kỷ niệm lớn trong năm... Hiện nay, đồng bào trên địa bàn xã vẫn giữ gìn và phát huy tốt các môn thể thao truyền thống như: Kéo co, đẩy gậy, bắn nỏ, đánh yến, đánh cù... Trong lao động sản xuất, trước đây trồng trọt và chăn nuôi vẫn là nghề sản xuất chính của người dân, tuy nhiên chủ yếu mang tính chất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp. Bên cạnh đó, đồng bào Mông xã Lao Chải đều biết dệt vải và các đồ trang sức cho phụ nữ, biết làm lưỡi cày, cuốc, xẻng... Tuy nhiên chủ yếu chỉ sản xuất ra để phục vụ trong gia đình, trừ khi nào cần thiết thì mới đem ra chợ bán hay đổi lấy những vật phẩm thiết yếu. Trải qua quá trình phát triển, hiện nay ngành nghề sản xuất của người dân đã ngày càng phong phú, đa dạng. Người dân trong xã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, quy mô ngày càng lớn hơn. Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự hỗ 12
- trợ của Nhà nước, nhân dân xã đã sử dụng tương đối hiệu quả nguồn vốn vay để phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Lao Chải còn là vùng đất hình thành sự giao thương khá sớm, xuất phát từ chính nhu cầu tự trao đổi hàng hóa của người dân. Đây chính là tiền đề để đến năm 1936, chợ Lao Chải đã được thành lập, trở thành nơi giao lưu, trao đổi hàng hóa của nhân dân trong và ngoài khu vực Lao Chải2. Ngoài ra, tại chợ Lao Chải còn có sự giao thương của nhân dân Trung Quốc vùng giáp biên đến trao đổi hàng hóa thông qua các con đường tiểu ngạch… Do xã có đặc điểm địa hình tương đối phức tạp, đồi núi dốc nên khó khăn cho việc phát triển giao thông, phát triển kinh tế - xã hội của xã. Tuy nhiên trong quá trình sinh sống, nhân dân các dân tộc Lao Chải đã tích cực khai phá, mở những tuyến đường đất, đường mòn cho người và ngựa thồ, để đi lại trao đổi hàng hóa. Hiện nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, trên địa bàn xã có tuyến đường quốc lộ 4D Thanh Thủy - Lao Chải dài hơn 25km, là tuyến giao thông huyết mạch nối liền từ xã đi đến các xã, huyện và thành phố Hà Giang. Thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong những năm qua với sự quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và sự chung tay của nhân dân, xã Lao 2 Theo tư liệu cuốn Địa chí tỉnh Hà Giang. 13
- Chải đã mở mới được nhiều tuyến đường bê tông từ xã đến các thôn và khu dân cư. Trải qua các thời kỳ phát triển, mặc dù còn nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần nhân dân xã đã cơ bản được từng bước nâng cao. Nhân dân trong xã đã được hưởng những phúc lợi xã hội như: Điện lưới quốc gia; đường giao thông từ trung tâm xã đến huyện và từ xã đến các thôn; các trường học và điểm trường; trạm y tế xã; khu dân cư... Phát huy những kết quả đạt được, Đảng bộ và nhân dân xã Lao Chải luôn nỗ lực xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và văn minh. II- NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ LAO CHẢI THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1961 DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Năm 1858 thực dân Pháp kéo quân, nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, chính thức mở cuộc xâm lược Việt Nam. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn bạc nhược, đầu hàng, đất đai của Tổ quốc dần rơi vào tay giặc. Đến năm 1887 vùng đất Hà Giang nằm trong tay thực dân Pháp. Dưới chế độ quân quản khắc nghiệt, đời sống của nhân dân các dân tộc Hà Giang trở nên điêu đứng. Tại khu vực Lao Chải, thực dân Pháp nắm lấy bọn phong kiến, tay sai để lập bộ máy thống trị; huy động bắt lính lập nên hệ thống lính dõng người địa phương…; bắt người dân đi phu phen, tạp dịch để xây dựng đồn, bốt, tường thành và làm đường giao thông tới những nơi 14
- chúng đóng quân, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân hết sức khổ cực. Về kinh tế, nhân dân Lao Chải do chủ yếu sản xuất phân tán, kỹ thuật canh tác lạc hậu, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, năng suất thấp, cùng với đó lại bị bọn thực dân và tay sai thi hành các chính sách thuế; cướp đoạt, vơ vét tài nguyên và các sản phẩm nông, lâm nghiệp nên đời sống ngày càng đói khổ, cùng cực hơn… Dưới sự cai trị của thực dân Pháp và tay sai, trường học không được mở mang, người dân Lao Chải có tới 99% dân số là mù chữ. Ngoài ra, thực dân Pháp và tay sai còn duy trì những hủ tục lạc hậu như mê tín, dị đoan, nạn cúng bái, ma chay, thách cưới rất nặng nề; các tệ nạn xã hội khác như: rượu chè, nghiện hút… được khuyến khích phát triển. Trên địa bàn Lao Chải thời kỳ này người dân khi ốm đau không được khám, chữa bệnh, phải tự chữa bằng thuốc nam hoặc tự cúng bái để chữa bệnh. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, trực tiếp là sự cai quản của đội ngũ tay sai, đời sống nhân dân Lao Chải hết sức khổ cực. Sự phân hóa và mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc. Những thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp và thổ ty ngày càng khơi thêm ngọn lửa căm thù trong quần chúng nhân dân đối với chúng. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt hai phần ba thế kỷ bế tắc và khủng hoảng 15
- về đường lối cách mạng từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam sang một thời kỳ mới. Tại Hà Giang từ năm 1932 - 1945, nhiều cán bộ cách mạng của Đảng, của Mặt trận Việt Minh đã đến hoạt động tuyên truyền, vận động cách mạng, gây dựng cơ sở Việt Minh, xây dựng căn cứ cách mạng và thành lập được Ban Việt Minh tại các địa phương như: Đồng chí Hồ Xanh đến Sở lục lộ (Sở Giao thông công chính); đồng chí Lê Đình Tuyển đến gây dựng cơ sở tại Làng Trần, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên; đồng chí Phạm Trung Ngũ đến gây dựng cơ sở tại xã Bằng Hành, huyện Bắc Quang. Đặc biệt từ sau năm 1941, phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở các địa phương trong tỉnh, thành lập được các đội du kích, đội tuyên truyền, giác ngộ quần chúng chuẩn bị cho cách mạng giành chính quyền khi thời cơ đến. Đêm ngày 09/3/1945, phát xít Nhật thực hiện thành công cuộc đảo chính hất cẳng thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Chúng nhanh chóng nắm lấy chính quyền tay sai, tăng cường đàn áp phong trào cách mạng, ra sức vơ vét của cải của nhân dân ta phục vụ chiến tranh toàn cầu của Nhật. Tại Hà Giang, quân Nhật đã tỏa đi khắp nơi bắt lính Pháp. Một số ít tàn quân Pháp phải lánh sang Trung Quốc. 16
- Tháng 8/1945, tình hình cách mạng Việt Nam có những thuận lợi mới. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe Đồng Minh. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, tê liệt. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam gục ngã. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí phát xít Nhật. Vì thế vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Trước tình thế cách mạng vô cùng khẩn cấp và đang sục sôi trong cả nước, đêm 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc đã ra lệnh tổng khởi nghĩa. Từ ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hội nghị đã nhận định “Điều kiện khởi nghĩa của Đông Dương đến nay đã chín muồi, Đảng phải lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền”. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại của Mặt trận Việt Minh trong tình hình mới. Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công, giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt cho toàn thể quốc dân, đồng 17
- bào đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với thế giới việc khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với ý nghĩa lịch sử to lớn, thắng lợi của Cách mạng Tháng tám đã có tác động sâu sắc, tạo bước chuyển biến mới đối với phong trào cách mạng ở một tỉnh miền núi, biên giới Hà Giang. Ngày 25/12/1945, đồng thời với việc thành lập Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Hà Giang, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Giang. Đảng bộ, chính quyền được thành lập, nhân dân các dân tộc Hà Giang nói chung và nhân dân trên địa bàn Lao Chải luôn tin tưởng đi theo con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo để hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc thoát khỏi sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chế độ Thổ ty trên mảnh đất miền biên ải. Ngay sau ngày thành lập, Tỉnh ủy Hà Giang đã cử 2 cán bộ xuống huyện Bắc Quang và Vị Xuyên để trực tiếp chỉ đạo mọi mặt công tác trên địa bàn huyện, nhất là xúc tiến việc chuẩn bị xây dựng cơ sở đảng, chăm lo, bồi dưỡng đội ngũ quần chúng tích cực, các hội viên cứu quốc tiêu biểu đã được tôi luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng để kết nạp vào Đảng. Bên cạnh những mặt thuận lợi, sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước non trẻ của chúng ta đã phải đối đầu với những nguy cơ hiểm họa mới. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân 18
- Tưởng ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng Minh giải giáp quân đội Nhật đã đồng lõa và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy! Cuối năm 1946, quan hệ giữa ta và Pháp hết sức căng thẳng. Thực dân Pháp âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Ngày 20/11/1946, thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn, tiếp đó chúng cho quân đổ bộ lên cảng Đà Nẵng. Tại Hà Nội, Pháp luôn khiêu khích và gây ra nhiều vụ đổ máu. Trước những hành động gây chiến ngày càng trắng trợn của thực dân Pháp, ngày 17/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị kêu gọi toàn dân kháng chiến và đề ra những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! chúng ta phải đứng lên”. Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến vạch ra đường lối cơ bản cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước ta đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trong 19
- tư thế khẩn trương nhưng bình tĩnh với niềm tin chiến thắng. Hòa chung với khí thế sôi sục của cả nước, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, huyện Vị Xuyên, nhân dân Lao Chải vừa tích cực đẩy mạnh tăng gia sản xuất, vừa xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào miền xuôi tản cư đến. Đầu năm 1948, tình hình cách mạng có nhiều chuyển biến mới. Sau khi thực dân Pháp thất bại trong chiến dịch sông Lô, chúng phải rút khỏi Tuyên Quang, Việt Trì, mặt trận chính của Liên khu 10 chuyển sang hướng Tây Bắc gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Mai Đà (Hòa Bình). Tỉnh Hà Giang nằm trong âm mưu bao vây khống chế vùng biên giới của địch. Đối với địa bàn huyện Vị Xuyên, quân Tưởng Giới Thạch do tên Triệu Công Vũ cầm đầu, đã thường xuyên cho quân lính đi lùng sục cán bộ, cướp bóc của cải của nhân dân ở các xã Phú Linh, Lao Chải, Phương Độ... nhằm âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập. Chúng tung ra những luận điệu tuyên truyền lừa bịp nhân dân, gây chia rẽ giữa các dân tộc, chống chủ trương “Hoa – Việt thân thiện” của ta. Chúng lập ra “Nam Dương Hoa Kiều hiệp hội”, bắt nhân dân nộp tiền mua thẻ “Hoa Kiều”. Nhân cơ hội đó, bọn Việt Nam Quốc dân đảng tụ tập lực lượng gây áp lực đối với 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
131 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn