intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Liên Hiệp (1945-2020)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:154

9
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Liên Hiệp (1945-2020) được biên soạn nhằm ghi lại chặng đường cách mạng của Chi, Đảng bộ và nhân dân xã qua các thời kỳ; đồng thời thông qua đó góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau về tinh thần dũng cảm, hy sinh, cống hiến của thế hệ cha anh, từ đó tiếp tục kế thừa, gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng, phát huy niềm tự hào và trách nhiệm đối với quê hương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Liên Hiệp (1945-2020)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC QUANG BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LIÊN HIỆP TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ LIÊN HIỆP (1945 - 2020) XUẤT BẢN NĂM 2020 1
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Xã Liên Hiệp nằm ở vị trí trung tâm cụm xã Bằng Hành - Liên Hiệp - Hữu Sản, là xã nằm trong Tiểu khu Trọng Con (gồm các xã Kim Ngọc - Vô Điếm - Bằng Hành - Liên Hiệp - Hữu Sản). Nhân dân các dân tộc trong xã có truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, đoàn kết, kiên cường, dũng cảm trong đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Dưới chế độ thực dân - phong kiến, cuộc sống của người dân Liên Hiệp phải lâm vào cảnh cơ cực, bần hàn nhưng vẫn luôn nung nấu ý chí vươn lên, đấu tranh giành quyền tự do. Ngày 3/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng, ánh sáng của Đảng đã khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của nhân dân nơi đây. Sự kiện đảng viên cộng sản có mặt tại thôn Linh, Bằng Hành cùng với quá trình tiến triển cách mạng của các xã thuộc Tiểu khu Trọng Con đã tác động không nhỏ, dẫn tới sự ra đời của Chi bộ Đảng liên xã Liên Hiệp - Kim Ngọc vào tháng 4/1948. Sự kiện trên đã đánh dấu bước lớn mạnh của phong trào cách mạng ở Tiểu khu Trọng Con nói chung, xã Liên Hiệp nói riêng. Đây chính là tiền đề quan trọng để đến tháng 11/1948, Chi bộ xã Liên Hiệp đã được tách thành Chi bộ độc lập, phát triển thành Đảng bộ xã (năm 1965). Trong suốt quá trình cách mạng, Chi, Đảng bộ đã bám sát tình hình thực tiễn cụ thể, lãnh đạo nhân dân xã thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. 3
  4. Nhằm ghi lại chặng đường cách mạng của Chi, Đảng bộ và nhân dân xã qua các thời kỳ; đồng thời thông qua đó góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau về tinh thần dũng cảm, hy sinh, cống hiến của thế hệ cha anh, từ đó tiếp tục kế thừa, gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng, phát huy niềm tự hào và trách nhiệm đối với quê hương. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Liên Hiệp khóa XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã chỉ đạo biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Liên Hiệp (1945 - 2020)”. Trong quá trình tìm hiểu, sưu tầm và biên soạn cuốn sách, Ban Thường vụ Đảng ủy xã đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí cán bộ, lãnh đạo của xã qua các thời kỳ, Đảng ủy xã Hữu Sản, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Bắc Quang; sự giúp đỡ về mặt chuyên môn của phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giao Tỉnh ủy. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Liên Hiệp xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu đó. Do trình độ chuyên môn trong công tác biên soạn truyền thống cách mạng, lịch sử địa phương có hạn, thời gian dành cho việc nghiên cứu diễn biến của lịch sử chưa nhiều, chưa sâu, công tác lưu trữ tài liệu qua một số thời kỳ không đầy đủ, các nhân chứng lịch sử nay đã già yếu và phần lớn quá cố, nên nội dung cuốn sách không tránh khỏi sự thiếu sót. Rất mong nhận được sự 4
  5. góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Đảng bộ xã (1965 - 2020), trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Liên Hiệp (1945 - 2020)”. T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Nông Hoàng Chương 5
  6. Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ LIÊN HIỆP Xã Liên Hiệp nằm ở phía Đông Nam huyện Bắc Quang, nằm ở vị trí trung tâm cụm xã Bằng Hành - Liên Hiệp - Hữu Sản; là xã nằm trong Tiểu khu Trọng Con (gồm các xã Kim Ngọc - Vô Điếm - Bằng Hành - Liên Hiệp - Hữu Sản), cách trung tâm huyện 35km. Phía Bắc giáp xã Hữu Sản. Phía Nam giáp Đức Xuân; phía Tây giáp xã Bằng Hành; phía Đông giáp xã Hồng Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (nay là huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang). Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 5502,41ha. Trong đó, đất nông nghiệp 5339,74ha, đất phi nông nghiệp 112,64ha, đất chưa sử dụng 6,81ha, đất khu dân cư nông thôn 43,22ha, còn lại là đất khác. Chiều dài của xã là 13km, được tính từ thôn Tân thành 3 đến thôn Đi; chiều rộng là 6km, được tính từ thôn Nà Ôm đến xóm Bản Phiến. Xã Liên Hiệp nằm ở vùng núi thấp của huyện Bắc Quang, xã có nhiều khu vực bằng phẳng nằm xen kẽ với các thung lũng nhỏ, bị chia cắt bởi nhiều suối, khe. Địa hình của xã gồm 2 vùng khác nhau: Vùng cao núi đất xen lẫn núi đá nằm ở khu vực thôn Nà Ôm. Vùng đồi núi thấp nằm ở khu vực các thôn còn lại, các thôn này có 5 dãy núi cao bao quanh: Dãy núi Đán Đén cao 6
  7. 1.100m, núi Khâu Nàng cao trên 1.700m, núi Bản Phiến, núi Tát Lợi cao 1.000m, núi Tát Vận cao 1.000m giáp núi Nà Kè cao 800m. Các dãy núi trên là nơi canh tác và trồng rừng phục vụ cuộc sống hàng ngày và mang lại thu nhập cho người dân. Về nguồn nước, xã có con suối Hít chảy qua, con suối này được bắt nguồn từ thôn Trung Sơn, xã Hữu Sản và suối Nà Ôm, xã Đức Xuân chảy xuống, hợp thành suối Hít. Dòng suối Hít có chiều dài 12km, chảy dọc từ đầu xã đến cuối xã theo hướng Đông - Tây, chảy ra Suối Sảo và chia cắt diện tích xã thành hai bên. Bên cạnh đó, trên địa bàn xã còn có hệ thống suối nhỏ bắt nguồn từ các khe chảy thuộc các dãy núi cao như: Khuổi Tùn, Khuổi Nàng, Khuổi Nà Ôm... Hệ thống suối, khe trên địa bàn xã tuy không lớn nhưng phân bố khá đồng đều tại các thôn trên địa bàn, tạo nhiều thuận lợi về nguồn nước cho tưới tiêu, làm ao nuôi thủy sản cũng như cung cấp các nguồn tôm, cá, ốc… giúp cải thiện nhu cầu hàng ngày của người dân. Xã Liên Hiệp nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10; mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình chỉ có 31,96mm/năm, nhiệt độ trung bình cả năm từ 22,6 - 25 độ C, nhiệt độ trung bình cao nhất 27,5 độ C, nhiệt độ thấp nhất 19,6 độ C, lượng mưa cả năm 4.665mm, lượng mưa trung bình 388,75mm/tháng. 7
  8. Địa bàn xã Liên Hiệp được thiên nhiên ưu đãi về nguồn động vật, thực vật cả về nguồn gen và trữ lượng, chất lượng. Trước đây, trên địa bàn có nhiều loại động vật quý hiếm như: Hổ, báo, hươu, nai, các loại chim, cá. Về thực vật có các loại gỗ quý như: Đinh, sến, trai, nghiến, trò. Các loại cây phục vụ đời sống hằng ngày như: Nứa, dùng, vầu và các loại lâm sản phụ: Lá giang, lá chít, cây guột...Ngoài ra, còn có nhiều dược liệu quý dùng để chữa bệnh, làm thực phẩm, men lá nấu rượu… tạo thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, trong quá trình sinh sống con người khai thác quá mức, đến nay nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm cơ bản không còn. Trước tình hình đó, cấp ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ thiên nhiên, trong đó chú trọng việc huy động người dân tích cực trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Đến năm 2020, tổng diện tích rừng của xã lên 2948,9 ha; nâng độ che phủ rừng trên địa bàn xã đạt 60%. Trên địa bàn xã có nhiều nguồn khoáng sản quý như: Vàng sa khoáng, kim loại quý hiếm, cát, sỏi, đá vôi... Tuy nhiên, do trước đây trên địa bàn xã còn xảy ra tình trạng khai thác tự phát nên đã ảnh hưởng lớn đến trữ lượng và chưa đem lại hiệu quả kinh tế cao. Những năm gần đây, cấp ủy, chính quyền xã tăng cường công tác quản lý, quy hoạch hợp lý nhằm đảm bảo khai thác hợp lý nguồn tài nguyên, khoáng sản của địa phương. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của xã tương đối thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi 8
  9. thủy sản. Bên cạnh đó cũng gây ra những khó khăn nhất định như: Thổ nhưỡng, khí hậu không phù hợp với các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao; hệ thống suối tương đối dày đặc do đó gây khó khăn việc xây dựng các tuyến đường giao thông liên thôn, vào mùa mưa thường xảy ra tình trạng lũ quét, sạt lở, ngập úng hoa màu.... Liên Hiệp là vùng đất có từ lâu đời, theo các cụ cao tuổi trong xã kể lại: Trước đây vùng đất Liên Hiệp có tên gọi là Vinh Quang. Nửa cuối thế kỷ XIX, vùng đất này thuộc tổng Bằng Hành, huyện Vị Xuyên, phủ Tương Yên. Đến cuối năm 1929, vùng đất này (gồm các thôn ngày nay như: Làng Đi (nay là thôn Đi), Làng Muộng (nay là thôn Muộng)…) thuộc tổng Bằng Hành, châu Bắc Quang. Tháng 10/1946, Ủy ban Việt Minh lâm thời xã Vinh Quang và các xã: Quý Quân, Quý Khôn, Đức Xuân được thành lập, sáp nhập thành một xã lấy tên là xã Liên Hiệp (gồm toàn bộ địa giới hành chính xã Liên Hiệp, Hữu Sản, Đức Xuân ngày nay). Ngày 15/12/1962, Hội đồng chính phủ đã ra Quyết định số 211/QĐ-CP về chia tách xã, theo đó xã Liên Hiệp được tách thành 2 xã: Liên Hiệp và Hữu Sản. Xã Liên Hiệp lúc này có 3 thôn: Thôn Thìu, thôn Ba Hồng và thôn Đức Xuân (hay còn gọi là Cao Đường); xã Hữu Sản có hai thôn: Quý Quân, Quý Khôn. 9
  10. Ngày 19/2/1986, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 14/QĐ-HĐBT chia tách toàn bộ thôn Đức Xuân (xã Liên Hiệp) thành lập xã mới là Đức Xuân. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, đến năm 2000 xã gồm 6 thôn: Tân Thành I, Tân Thành II, Tân Thành III, thôn Muộng, thôn Ba Hồng, thôn Đi. Đến năm 2002, xã thành lập thêm 2 thôn mới là thôn Trung Tâm (tách từ thôn Tân thành I) và thôn Nà Ôm. Qua đó nâng tổng số toàn bộ thôn trên địa bàn xã là 8 thôn từ năm 2002 đến nay, cụ thể là các thôn: Tân Thành I, Tân Thành II, Tân Thành III, thôn Muộng, thôn Ba Hồng, thôn Đi, thôn Trung Tâm và thôn Nà ôm. Về dân số, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xã Vinh Quang có khoảng 120 hộ/1.000 nhân khẩu, gồm 3 dân tộc: Tày, Nùng, Dao. Trong đó, dân tộc Tày chiếm chủ yếu 85%, dân tộc Nùng chiếm 10%, dân tộc Dao chiếm 5%. Vào cuối những năm 70-80 của thế kỷ XX, khi xảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc, xã đã tiếp nhận nhiều hộ gia đình là người dân tộc Nùng, dân tộc Dao đến sinh sống. Cùng với đó, do đây là vùng đất màu mỡ, đã có nhiều cư dân chuyển từ nơi khác đến, trong đó có nhiều người là dân tộc Kinh miền xuôi đến đây sinh sống, kinh doanh, buôn bán, góp phần thúc đẩy sự phát triển về kinh tế tại khu vực trung tâm xã như ngày nay. Đến năm 2020, toàn xã có 990 hộ/4.450 khẩu với 8 dân tộc cùng chung sống. Trong đó dân tộc Tày 2.594 người, chiếm 55,3%; dân tộc Kinh 179 người, chiếm 10
  11. 0,04%; dân tộc Nùng 1.110 người, chiếm 24,94%; dân tộc Dao 492 người, chiếm 0,11%; dân tộc Hoa 11 người, chiếm 0,002%; dân tộc Ngạn 19 người, chiếm 0,004%; dân tộc Giấy 26 người, chiếm 0,005%; dân tộc Mông 7 người và một số dân tộc khác có 04 khẩu trở xuống như: La Chí 2 khẩu, Mường 1 khẩu, Cao Lan 4 khẩu, Xuồng 2 khẩu. Văn hóa các dân tộc trên địa bàn xã phát triển sớm và khá phong phú, độc đáo với các làn điệu như: Hát cọi, hát iếu, hát quan làng, hát then; duy trì tiếng nói dân tộc và thực hiện nếp sống, sinh hoạt theo bản sắc văn hóa, truyền thống, tập quán dân tộc mình... 100% đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã duy trì phong tục thờ cúng tổ tiên. Các ngày lễ tết như: Tết Nguyên Đán, tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, rằm tháng 7 âm lịch… các dân tộc trên địa bàn xã đều tổ chức ăn tết. Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình duy trì việc ăn tết lúa mới, ngày 10 tháng 10 tổ chức lễ cốm của năm… Về trang phục, trước đây đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã duy trì việc mặc theo các trang phục của dân tộc mình, người dân thường tự tạo áo bông, vải được nhuộm màu đen từ cây chàm để phục vụ nhu cầu hàng ngày. Về nếp sống sinh hoạt, người dân còn tự tạo chăn từ vỏ cây sui để đắp, tự chế tạo các vật dụng sử dụng trong gia đình bằng cây gỗ như: Muôi, đũa, thìa…; sử dụng các cây tre, nứa, vầu để đan lát thành rổ, rá, sọt, quây… để làm thành các vật dụng phục vụ sinh hoạt; sử dụng cối giã gạo. Đặc biệt hiện nay đồng bào các dân tộc Tày còn lưu giữ được những nếp nhà sàn với những nét đẹp truyền thống như 11
  12. làm bằng gỗ, lợp mái lá, được xây dựng tựa lưng vào đồi, trước mặt là ao cá, hoặc suối, xen kẽ xung quanh là đồng ruộng canh tác, tạo được không gian yên bình nơi làng bản… Nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, trong đó nghề trồng lúa nước là chủ yếu, tuy nhiên chỉ sản xuất một vụ lúa do chủ yếu dựa vào lượng nước mưa, chưa có hệ thống mương phai, tưới tiêu. Qua quá trình phát triển, người dân xã đã từng bước phát huy tinh thần lao động tập thể, đoàn kết cộng đồng các dân tộc trong việc xây dựng hệ thống mương phai, tưới tiêu; làm ống dẫn nước, làm cọn (làm bằng tre, nứa, vầu…) từ các con khe, suối về ruộng để canh tác. Việc chăn nuôi trâu, dê, lợn, gà, cá… cũng là nghề truyền thống lâu đời của bà con nhân dân. Bên cạnh đó, người dân xã còn có một số nghề phụ như: Dệt thổ cẩm, đan lát, khai thác lâm sản, thổ sản phục vụ đời sống sinh hoạt. Các hoạt động kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp, đời sống còn rất khó khăn. Trước đây, hệ thống giao thông trên địa bàn xã chủ yếu là đường mòn... phương tiện vận chuyển là ngựa thồ. Ngoài ra, người dân xã đã sớm có các hoạt động giao thông đường thủy, nhất là trong thời kỳ sau năm 1954, người dân xã đã sử dụng các phương tiện như: Bè, mảng… thực hiện việc vận chuyển lương thực, nộp thuế cho Nhà nước tại kho lương thực Sảo (trung tâm xã Kim Ngọc hiện nay) và vận chuyển hàng hóa ra sông Lô để chuyển hàng hóa về xuôi hoặc lên Tân Quang (khu vực 12
  13. huyện lị cũ)… Đến cuối những năm 80, 90 của thế kỷ XX mới có đường ô tô đến xã. Hiện nay, hệ thống giao thông trên địa bàn xã đã được xây dựng cơ bản và đang từng bước được hoàn thiện. Ngoài trục đường Quốc lộ 279 đi qua địa bàn xã dài 13 km từ xã Bằng Hành, đi qua trung tâm xã thông với đường quốc lộ xã Hồng Quang, huyện Lâm Bình, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), xã còn có các tuyến đường giao thông quan trọng như: Tuyến đường Liên Hiệp - Hữu Sản dài 7km; Liên Hiệp - Đức Xuân dài 12km; các tuyến đường liên thôn từ thôn Trung Tâm - thôn Muộng - thôn Ba Hồng dài 7km; đường vào Bản Quý dài 2,5km; đường vào Bản Tùn dài 2km; đường vào Bản Phiến dài 3km... Đến năm 2020, toàn xã đã có 100% thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn, 8/8 thôn có đường liên thôn… Qua đó tạo điều kiện thuận tiện cho việc đi lại và giao lưu vận chuyển hàng hoá. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đến năm 1887, chúng chiếm đến Hà Giang và sử dụng bộ máy tay sai làm công cụ, áp đặt hệ thống cai trị hà khắc. Từ đây, đời sống nhân dân trên địa bàn xã vốn đã khó khăn dưới chế độ phong kiến lạc hậu, hà khắc, nay phải sống dưới chế độ thực dân phong kiến ngày càng khó khăn, cùng cực hơn. Về kinh tế, thực dân Pháp và địa chủ tay sai ra sức vơ vét bóc lột, khai thác tài nguyên, khoáng sản. Chúng bắt nhân dân đi phu làm đường, xây đồn, đắp lũy ở bất cứ nơi nào đem lại kinh tế cho chúng và những nơi có 13
  14. lợi cho mục đích quân sự. Người đi phu phải lao động trong điều kiện đói khổ, ốm đau không có thuốc men điều trị, đã có rất nhiều người chết vì bệnh tật, tai nạn và bị đánh đập nếu không đáp ứng được nhu cầu hèn hạ của chúng, nhân dân luôn phải chịu cảnh cơ cực, lầm than, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp; ngoài sự bóc lột trên, người dân còn phải chịu nạn lao dịch thuế khoá nặng nề của thực dân. Cùng với đó, dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, trên địa bàn xã không có trường học, người dân hoàn toàn mù chữ… Nạn mê tín dị đoan còn nặng nề, ốm đau chỉ có cúng bái, không có thầy thuốc; các bệnh như: Đậu mùa, ghẻ lở, hắc lào, tháo dạ, ho khan... thường xuyên xảy ra; các tệ nạn xã hội phát triển... Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”, gây mâu thuẫn mất đoàn kết giữa các dân tộc để các dân tộc chống lại nhau, quên mất thù chính là thực dân Pháp. Với chính sách cai trị hà khắc của chế độ thực dân phong kiến, đời sống nhân dân vùng Vinh Quang (từ tháng 6/1945 là xã Liên Hiệp) càng thêm điêu đứng, khổ cực. Cũng chính từ đây, nhân dân vùng Vinh Quang đã nhen nhóm tinh thần đấu tranh chống thực dân Pháp, căm thù sâu sắc bọn thống trị, sẵn sàng vùng dậy đấu tranh giải phóng quê hương khỏi áp bức bóc lột của kẻ thù và bè lũ tay sai, tìm lại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. 14
  15. Dưới ánh sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã đã sớm đi theo tiếng gọi của Đảng, Bác Hồ, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh giành chính quyền, tích cực chi viện sức người, sức của phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), đế quốc Mỹ (1954-1975) và thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhiệm vụ trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc thiêng liêng của Tổ quốc (1975-1985), thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-2018). Đến năm 2020, kinh tế - xã hội của xã đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; thu nhập bình quân trên đầu người đạt 24,6 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ khá, giàu đạt 11,2%; hộ trung bình đạt 53,1%; giảm tỷ lệ hộ nghèo còn hơn 18%; 76% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá, 8/8 thôn đạt danh hiệu thôn văn hoá. An sinh xã hội, công tác xã hội hoá giáo dục, y tế…được triển khai sâu rộng. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, giữ vững. Hệ thống cơ sở hạ tầng của xã như: Trụ sở xã, trường học, phòng khám, hệ thống lưới điện quốc gia được đầu tư xây dựng kiên cố, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Đảng viên của xã từ 4 đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ ghép Kim Ngọc - Liên Hiệp tháng 4/1948, đến năm 2020 Đảng bộ xã đã có 365 đảng viên. Cùng với đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã ngày càng tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. 15
  16. Chương II DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ LIÊN HIỆP TÍCH CỰC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ (1945-1975) I. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc xã Liên Hiệp tham gia cuộc vận động cách mạng, xây dựng chính quyền, tích cực đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) Ngày 3/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta. Đây là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng của nhân dân trong cả nước phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhưng ở Hà Giang nói chung và Bắc Quang nói riêng, do điều kiện khó khăn về tự nhiên và xã hội của một tỉnh miền núi nên phong trào cách mạng ở đây phát triển muộn và chậm hơn so với các nơi khác. Tại tổng Bằng Hành, năm 1938 đã có một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và một số thanh niên yêu nước từ Cao Bằng, Bắc Kạn đến đây dạy học, đồng thời tìm cách tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho đồng bào. Một trong những người hoạt động ở Bằng 16
  17. Hành sớm và lâu nhất là thầy giáo Văn (tức đồng chí Phạm Trung Ngũ) là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng được cấp trên phân công đến bắt mối tại tổng Bằng Hành để gây dựng cơ sở cách mạng. Tại đây đồng chí đã tích cực tuyên truyền cách mạng, vận động đồng bào tin tưởng đi theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ đồng thời tố cáo ách thống trị của thực dân - phong kiến đối với đồng bào ta. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cách mạng cho đồng bào trong vùng, khi bị thực dân Pháp phát hiện đồng chí đã đến địa bàn khác hoạt động. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp bị cuốn vào cuộc chiến. Thực dân Pháp ngày càng tăng cường khai thác bóc lột các nước thuộc địa để cung cấp sức người, sức của cho chính quốc. Cuối năm 1940, Nhật kéo vào chiếm Đông Dương. Năm 1942, Nhật đặt chân tới Hà Giang. Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã câu kết với nhau, tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân, nhân dân xã Vinh Quang (Liên Hiệp ngày nay) cũng như nhân dân các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh phải chịu cảnh “Một cổ hai chòng”. Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 được triệu tập dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tại Hội nghị này, Người đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Hội nghị đã chỉ rõ: Mở rộng sự tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu ớt và dân tộc thiểu số. 17
  18. Tháng 02/1943, cán bộ Việt Minh đến Khau Củm, Khuổi Phầy (xã Hùng An), Khuổi Nghè (xã Vĩnh Hảo). Tại đây, cán bộ Việt Minh đã thành lập ra Ban Việt Minh gồm 5 người. Hoạt động của Việt Minh dần dần mở rộng ra toàn xã Hùng An, Vĩnh Hảo và một số vùng xung quanh. Phong trào đang phát triển rầm rộ thì thực dân Pháp và tay sai tiến hành cuộc càn quét, khủng bố dã man. Mặc dù phong trào cách mạng ở một số xã Hùng An, Vĩnh Hảo… chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng đã mở đầu của thời kỳ chuẩn bị xây dựng lực lượng đấu tranh chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai ở địa phương. Phong trào cách mạng đã ảnh hưởng tích cực tới các xã trên địa bàn huyện, trong đó có xã Vinh Quang. Ngày 01/6/1945, thi hành Chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gồm 54 chiến sỹ do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba), Nam Hải (tức Bế Triều) lãnh đạo đã đến Bằng Hành tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng về kháng Nhật cứu nước, gây cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh cao trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Lúc này, bộ máy cai trị cũ của Pháp bị tê liệt hoàn toàn. Phát xít Nhật chưa lập được chính quyền tay sai, bọn chúng đang lúng túng. Thời cơ giành chính quyền ở Bằng Hành đã tới. Ngày 7/6/1945, lực lượng vũ trang với sự đồng tình, ủng hộ của đồng bào, Ủy ban Việt Minh lâm thời xã Bằng Hành được thành lập gồm 7 đồng chí. Ngày 18
  19. 10/6/1945, Ban Việt Minh xã Quang Minh cũng được thành lập. Cũng trong thời gian này, tại địa bàn xã Vinh Quang, các đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba), Nam Hải (tức Bế Triều) và các đồng chí Nam Long, Hồng Quang, Lĩnh Thành, Nông Quốc Chủng (Chí Sùng) đã bắt liên lạc với cụ Ma Văn Tông và được cụ phối hợp, giúp đỡ về nơi ăn, ở, địa bàn hoạt động. Đồng thời, các đồng chí đã được một số gia đình trực tiếp che chở, nuôi dưỡng như: Gia đình ông Hoàng Kim Phú (tức Cai Xạ Phú) giúp một nhà 3 gian để cán bộ cách mạng làm nơi hội họp; gia đình bà Nông Thị Xuân trực tiếp phục vụ sinh hoạt cho cán bộ cách mạng; ông Nông Nhạn Môn và ông Ma Đức Tú (cụ Môn và cụ Tú) đã dẫn đường cho các đồng chí cán bộ Việt Minh… Dưới sự tuyên truyền, vận động của cán bộ Việt Minh, tinh thần cách mạng của nhân dân xã Vinh Quang đã ngày càng được khơi dậy, phát huy. Ngày 06/6/1945, Ủy ban Việt Minh lâm thời xã Vinh Quang (nay là xã Liên Hiệp) được thành lập gồm 05 người do ông Mai Đức Tú làm Chủ tịch; ông Hoàng Kim Chung1 thư ký; ông Lương Văn Tài làm thủ quỹ; ông Nông Văn Pó, ông Ma Văn Đức, ủy viên. Ngày 08/6/1945, Ủy ban Việt Minh lâm thời xã Quý Quân (nay là xã Hữu Sản) gồm 05 người do ông Ma Văn Thạch làm Chủ tịch; ông Hoàng Hà Phú, Phó 1 Là con trai cụ Hoàng Kim Phú (tức Cai xạ Phú). 19
  20. chủ tịch; ông Ma Văn Hiên, Nguyễn Đình Thành làm thư ký; ông Nông Hoàng Quế, đội trưởng đội tự vệ. Ngày 09/6/1945, Ủy ban Việt Minh lâm thời xã Quý Khôn (nay là xã Hữu Sản) thành lập gồm 3 người, do ông Triệu Phúc Sinh làm Chủ tịch; ông Triệu Hoàng Lý làm ủy viên; ông Bàn Hoàng Ngọc làm thư ký. Tháng 6/1945, Ủy ban Việt Minh lâm thời xã Đức Xuân (trước đó gọi là Lạc Bản) được thành lập, gồm 3 người ông Ma Văn Chung làm Chủ tịch; ông Ma Văn Quế làm Ủy viên; ông Mo Văn Viện, thư ký. Ngày 14/6/1945, đồng bào các xã Liên Hiệp, cùng với đồng bào các xã Bằng Hành, Vô Điếm, Kim Ngọc, Hữu Sản đã hội họp, bầu ra Ủy ban nhân dân cách mạng các xã và thành lập đội tự vệ. Các xã này hợp thành một tiểu khu lấy tên là khu Trọng Con (Lý Tự Trọng). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Ủy ban Việt Minh lâm thời, thực hiện cuộc vận động quyên góp, ủng hộ cách mạng, nhân dân xã Liên Hiệp cùng với nhân dân các xã thuộc Tiểu khu Trọng Con đã góp được 1.190 đồng tiền Đông Dương, 3.671 công để làm đường giao thông, vận chuyển tiếp tế 5.750kg gạo, 4.700kg thóc, 242 con gà, vịt, 51 con lợn và nhiều rau xanh phục vụ cách mạng; cử 20 người sang huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang mua về 300kg muối để tiếp tế cho đội tự vệ. Ngoài ra, cán bộ Việt Minh còn thuyết phục các xã đoàn, lính đồn nộp cho lực lượng cách mạng một số vũ khí, súng đạn có giá trị. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0