Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phú Lũng (1945-2018): Phần 1
lượt xem 4
download
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phú Lũng (1945-2018) phần 1 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội Phú Lũng; Chi bộ Phú Lũng lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1961 - 1975). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phú Lũng (1945-2018): Phần 1
- ĐẢNG BỘ HUYỆN YÊN MINH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ LŨNG *** TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ PHÚ LŨNG (1945 - 2018) Xuất bản năm 2020 1
- 2
- LỜI GIỚI THIỆU Phú Lũng là xã vùng cao biên giới nằm ở phía Tây Bắc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng luôn phát huy truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng luôn đoàn kết, vượt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, góp phần cùng nhân dân trong tỉnh và cả nước viết nên trang sử oanh liệt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, quân và dân Phú Lũng được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ năm 1986 đến nay, Chi bộ xã tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chủ động nắm bắt thời cơ, vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương, qua đó đạt được nhiều thành tích quan trọng. Năm 1995, Chi bộ được nâng lên thành Đảng bộ, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Đời sống của nhân 3
- dân ngày càng được cải thiện và nâng cao; các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển; thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững; công tác xây dựng Đảng được tiến hành thường xuyên, hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố và kiện toàn. Để ghi lại những mốc son của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong chặng đường đã qua, thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư và Kế hoạch số 342-KH/TU ngày 02/8/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang về “thực hiện Chỉ thị số 20- CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”; Kế hoạch số của Ban Thường vụ Huyện ủy Yên Minh, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Lũng khóa XVIII (nhiệm kỳ 2015 - 2020) quyết định tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phú Lũng (1945-2018)”. Nội dung cuốn sách ghi lại chặng đường lịch sử vẻ vang, những thành tích đạt được trong lao động, sản xuất và chiến đấu của nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng; thể hiện sự tri ân đến các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh, các đồng chí thương, bệnh binh cùng các thế hệ cán bộ xã qua từng thời kỳ đã hết lòng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương. Cuốn sách cũng là tài liệu quan trọng trong công tác giáo dục lịch sử truyền thống cho thế hệ trẻ. 4
- Trong quá trình sưu tầm, biên soạn, Ban Chấp hành Đảng bộ xã nhận được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Giang, Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Yên Minh, sự đóng góp công sức của các đồng chí cán bộ chủ chốt từng có nhiều năm gắn bó với phong trào cách mạng của địa phương, sự góp ý của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng do tài liệu lưu trữ qua thời gian bị thất lạc, các nhân chứng lịch sử không còn nhiều nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Ban Chấp hành Đảng bộ xã rất mong nhận được những ý kiến tham gia đóng góp của bạn đọc để khi tái bản, cuốn sách được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn! T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÍ THƯ Phạm Cao Cường 5
- Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ PHÚ LŨNG I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN Xã Phú Lũng là một xã vùng cao núi đá, cách trung tâm huyện lỵ 42 km về phía Tây Bắc. Phía Tây giáp Trung Quốc với đường biên giới dài 10,84 km (với 15 vị trí cột mốc, từ mốc 358 đến mốc 372); phía Đông và Bắc giáp xã Thắng Mố; phía Nam giáp xã Bạch Đích. Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 1.254,71 ha, nhân dân sinh sống trong 13 thôn bản, trong đó có 4 thôn giáp biên giới gồm thôn Xín Chải, Phú Lũng, Sủng Lìn, Xà Ván. Hệ thống giao thông nông thôn tương đối hoàn chỉnh. Trước kia, việc đi lại giữa các thôn, bản còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Ngày nay, được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân, các trục đường liên thôn, liên xã được cứng hóa, 100% đường trục xã, liên xã đã được nhựa hóa, 100% đường trục thôn, liên thôn đã được bê tông hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu buôn bán trao đổi hàng hóa với bên ngoài. Thuộc khu vực đồi núi phía Tây Bắc huyện, xã có độ cao trung bình khoảng 1.000 m, địa hình Castơ, bị chia cắt phức tạp. Phần lớn diện tích của xã là đồi núi đá vôi (chiếm trên 80%), tầng đất dày, kết cấu đất tốt. Xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, xét theo lượng mưa, một năm chia làm 2 mùa: mùa mưa và mùa 6
- khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, gió mùa Đông Nam hoạt động mạnh, mưa nhiều, độ ẩm cao; mùa khô mưa ít, thời tiết lạnh và khô, tập trung chủ yếu từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, gió mùa Đông Bắc kèm theo giá rét và sương muối. Nhiệt độ trung bình năm 22ºC; lượng mưa trung bình hàng năm 1.745 mm; độ ẩm dao động từ 75 - 80%. Do địa hình núi đá, nguồn nước mặt trên địa bàn xã rất hạn chế, chủ yếu được lấy từ nguồn nước mưa, nên nhân dân Phú Lũng đã có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm để lưu giữ nguồn nước quý giá này. Hình ảnh người dân vùng cao nguyên Đá Đồng Văn nói chung và nhân dân Phú Lũng nói riêng gùi đất đưa vào các hốc đá để canh tác đã trở thành minh chứng rõ nét về truyền thống lao động cần cù, tinh thần vượt khó vươn lên, trở thành hình ảnh đẹp trong con mắt du khách trong và ngoài nước. Những năm gần đây, được sự đầu tư của Nhà nước xã đã xây dựng nhiều hồ chứa trên địa bàn qua đó đã khắc phục được phần nào nhu cầu về nước tưới trong sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Nhìn chung, xã Phú Lũng có khả năng phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp hàng hóa với các cây trồng như ngô, đậu tương… phát triển chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi tập trung theo quy mô gia trại, chăn nuôi bò hàng hóa…Song có hạn chế là đá lộ thiên quá nhiều, về mùa khô thường thiếu nước một cách nghiêm trọng gây khó khăn cho đời sống và sản xuất của nhân dân. Đó là những thách thức lớn đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân trong 7
- xã phải nỗ lực vượt qua để thực hiện sự nghiệp đổi mới, nhất là công cuộc xóa đói, giảm nghèo hiện nay. II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ PHÚ LŨNG Vùng đất Phú Lũng được hình thành từ lâu đời. Vào khoảng đầu thế kỷ XIX, Phú Lũng nằm trong tổng Vân Quang, châu Bảo Lạc, phủ Tương Yên, xứ Tuyên Quang1. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), triều đình nhà Nguyễn chia châu Bảo Lạc thành 2 huyện: Huyện Để Định (khu vực Bảo Lạc và một phần huyện Đồng Văn, Mèo Vạc ngày nay); huyện Vĩnh Điện (khu vực Bắc Mê, Yên Minh, Quản Bạ ngày nay) có 2 tổng, 9 xã. Vùng đất Phú Lũng lúc đó thuộc tổng Đông Quan, huyện Để Định, phủ Tương Yên. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858) chúng tách tổng Đông Quan ra khỏi Bảo Lạc để thành lập đại lý Đồng Văn. Ngày 20/8/1891, tỉnh Hà Giang được thành lập, vùng đất Phú Lũng thuộc xã Sủng Máng, tổng Quang Mậu, đại lý Đồng Văn, phủ Tương Yên. Trên thực tế, tên Phú Lũng có từ bao giờ đến nay chưa có tài liệu nào đề cập tới. Chỉ biết, đến khi thực dân Pháp thiết lập xong bộ máy cai trị ở vùng Đồng Văn thì Phú Lũng đã trở thành tên xã. Như vậy, tên gọi Phú Lũng muộn lắm cũng có từ đầu thế kỷ XX, khi thực dân (1) Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981, tr. 88. 8
- Pháp bắt đầu thành lập bộ máy chính quyền đến tận tổng xã như ở miền xuôi. Theo nhân dân địa phương, tên gọi Phú Lũng với ý nghĩa là: “Lũng” là từ để chỉ khu vực hay một vùng; “Phú” tức là trù phú, giàu có, nhiều sản vật, thóc gạo. Tên gọi Phú Lũng mang ý nghĩa đầy đủ là vùng đất giàu có, trù phú, nhiều sản vật. Đến năm 1928, tỉnh Hà Giang có 2 châu (Bắc Quang, Vị Xuyên) và 2 đại lý (Đồng Văn, Hoàng Su Phì). Đại lý Đồng Văn được chia thành 2 tổng: Quang Mậu (khu Đồng Văn) và tổng Đông Minh (khu Yên Minh) gồm các xã: Phú Lũng, Bạch Đích, Đường Thượng, Lũng Chinh, Lũng Phìn, Mậu Duệ, Mèo Vạc, Na Khê, Ngam La, Phố Cáo, Sà Phìn, Sủng Là, Sủng Thài, Vần Chải và xã Yên Minh. Thời điểm này xã Phú Lũng có 1.018 người(1), trong đó có thôn: Túng Chúng Phìn, Xà Ván, Sủng Lìn, Phú Lũng, Xín Chải, Sủng Sử… Ngày 05/6/1961, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 91/CP về chia xã của tỉnh Hà Giang. Theo đó, xã Phú Lũng được chia thành 3 xã: Phìn Lồ (tháng 12/1962, xã Phìn Lồ đổi tên thành xã Phú Lũng), Thắng Mố, Sủng Chiếng (Sủng Cháng). Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 211/CP tách huyện Đồng Văn thành 3 huyện: Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc. Xã Phú Lũng thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. . Ngô Vi Liễn, Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb. Văn hóa thông (1) tin, Hà Nội, 1999, tr. 51, 394. 9
- Thực hiện Quyết định số 179/HĐBT, ngày 21/10/1982 của Hội đồng Bộ trưởng, xã Phú Lũng được chuyển từ huyện Đồng Văn về huyện Yên Minh quản lý. Từ đây, xã Phú Lũng dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Yên Minh. Trong giai đoạn diễn ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (ngày 17/02/1979 - 1989), nhiều hộ dân trong xã đã di chuyển về tuyến sau sơ tán, trú ẩn nên dân số của xã giảm đáng kể; trên địa bàn chủ yếu là bộ đội, lực lượng thanh niên xung phong, dân quân, lực lượng lao động trẻ khỏe ở lại để bảo vệ biên giới. Từ năm 1989, thực hiện chủ trương vận động nhân dân ra xây dựng kinh tế ở khu vực biên giới, nhiều hộ dân xã Phú Lũng trước đây đi sơ tán đã trở lại địa phương sinh sống, xã tiếp nhận nhân dân từ nhiều xã khác trong huyện, tỉnh về định cư, lập nghiệp, nên dân số của xã tăng nhanh. Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra Quyết định chia tách tỉnh Hà Tuyên thành 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Xã Phú Lũng thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Thời điểm này, xã Phú Lũng có 250 hộ với trên 1.200 nhân khẩu, sinh sống ở các thôn: Túng Chúng Phìn A, Túng Chúng Phìn B, Xà Ván, Sủng Lìn, Phú Lũng, Xín Chải, Sủng Sử A, Sủng Sử B, Páo Cờ Tủng. Sau thời điểm năm 1996, để phù hợp với cơ chế quản lý hành chính mới, thôn Túng Chúng Phìn A tách thành 2 thôn: Túng Chúng Phìn A1, Túng Chúng Phìn A2; thôn Túng Chúng Phìn B tách thành 3 thôn: Túng 10
- Chúng Phìn B1, Túng Chúng Phìn B2, Túng Chúng Phìn B3; thành lập thêm thôn Mẻo Ván. Đến năm 1999, xã Phú Lũng có 1.928 người, mật độ dân số đạt 145 người/km². Năm 2017, toàn xã có 581 hộ với 3.236 khẩu, sinh sống ở các thôn: Túng Chúng Phìn A1, Túng Chúng Phìn A2, Chúng Phìn B1, Túng Chúng Phìn B2, Túng Chúng Phìn B, Xà Ván, Sủng Lìn, Phú Lũng, Xín Chải, Sủng Sử A, Sủng Sử B, Mẻo Ván, Páo Cờ Tủng. Xã có 6 dân tộc cùng chung sống (Mông, Dao, Cờ Lao, Pu Péo, Tày, Kinh), trong đó dân tộc Mông chiếm 48,95%; dân tộc Dao chiếm 45,21%; còn lại là các dân tộc khác. Là xã có nhiều dân tộc cùng sinh sống, song đồng bào các dân tộc xã Phú Lũng luôn đoàn kết, giúp đỡ nhau xây dựng và phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới ách cai trị hà khắc của chế độ thực dân phong kiến thổ ty, cuộc sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã vô cùng khó khăn, cực khổ. Nhân dân quanh năm làm không đủ ăn, ốm đau không có thuốc chữa, trẻ nhỏ không được học. Cũng giống như nhiều địa phương trong huyện, trước đây cây thuốc phiện được trồng nhiều trên địa bàn. Mặc dù không có số liệu thống kê chính thức, nhưng gần như thôn nào cũng trồng, sản lượng cao nhất cũng tới vài trăm kilogam/năm. Thuốc phiện là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội, làm kiệt quệ 11
- giống nòi, là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn dòng họ, thôn xóm... Sau khi chính quyền cách mạng được thiết lập, sản phẩm từ cây thuốc phiện được Nhà nước thu mua quản lý; đến thời kỳ đổi mới, cây thuốc phiện được xóa bỏ, thay vào đó là các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Từ năm 1986 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế nông - lâm kết hợp, chú trọng dịch vụ - thương mại, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, phấn đấu xóa đói, giảm nghèo, tiến tới thoát khỏi xã đặc biệt khó khăn. Tại Phú Lũng, do địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn nên nông - lâm nghiệp là ngành kinh tế chính của cư dân. Bên cạnh các loại cây lương thực chủ yếu như lúa, ngô, khoai... người dân còn trồng các cây màu (lạc, đậu tương…), cây công nghiệp, cây ăn quả, kết hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm. Bên cạnh đó, với vị trí nằm sát biên giới Trung Quốc, có chợ biên giới nên hoạt động thương mại - dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp tại xã có điều kiện phát triển. Từ năm 2000 trở lại đây, Đảng ủy, chính quyền xã thường xuyên khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp tư nhân mở rộng đầu tư kinh doanh; một số cơ sở chế biến lương thực, thực phẩm cùng nhiều cửa hàng, đại lý buôn bán hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng xuất hiện góp phần thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế của 12
- xã. Cơ sở vật chất, hạ tầng được đầu tư xây dựng, hệ thống điện - đường - trường - trạm ngày càng hoàn thiện, phục vụ việc học tập, đi lại và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 11,88% (năm 2017). Đặc biệt, với những nỗ lực cố gắng không biết mệt mỏi của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương, năm 2017 xã được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới - địa phương biên giới đầu tiên của khu vực miền núi phía Bắc đạt Nông thôn mới. Đây là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân xã sau một chặng đường nỗ lực phát triển. Nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng có đời sống văn hóa khá phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa, phong tục độc đáo riêng, song về tín ngưỡng đều đề cao tục thờ cúng tổ tiên. Trong mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi tôn nghiêm nhất, thể hiện lòng biết ơn và sự thành kính của con cháu đối với những người đã khuất. Hàng năm, vào các dịp lễ, tết, ngày rằm... con cháu trong gia đình chuẩn bị mâm cỗ, thắp hương tưởng nhớ công ơn của tổ tiên và cầu mong sự bình an, may mắn. Văn hóa trở thành nền tảng tinh thần thúc đẩy nhân dân các dân tộc hăng hái thi đua lao động sản xuất, xây dựng quê hương ngày càng ấm no, hạnh phúc. Là vùng đất biên giới của Tổ quốc, nhân dân các dân tộc Phú Lũng cùng với nhân dân Yên Minh ghi dấu nhiều chiến công giữ nước oanh liệt của dân tộc. Biên giới phía Bắc xưa kia luôn là vùng tranh chấp quyết liệt 13
- giữa các triều đại phong kiến Việt Nam và Trung Quốc; là địa bàn hoạt động của thổ phỉ, tội phạm, phản động ở các nơi dạt về. Trong lịch sử, không ít lần nhân dân Phú Lũng nói riêng, Yên Minh nói chung cùng quan quân triều đình nhà Nguyễn vùng lên đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Các đội dân binh ở vùng biên giới luôn được Nhà nước phong kiến trao cho sứ mệnh làm người lính gác trên địa đầu đất nước; mỗi khi có giặc phương Bắc tràn sang, những dân binh ấy là những người lính đầu tiên xung trận giáp mặt với quân thù. Ngày nay trong dân gian vẫn lưu truyền những câu truyện gắn với tên tuổi của hai thủ lĩnh người Tày là Nguyễn Văn Phủ, Nguyễn Văn Quang đã tụ binh khởi nghĩa góp phần cùng vua tôi nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên - Mông, giữ yên bờ cõi. Không chịu khuất phục trước ách đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng nói riêng, nhân dân các dân tộc ở cao nguyên Đồng Văn nói chung tham gia các cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Hà Quốc Thượng lãnh đạo những năm 1894 - 1896; cuộc nổi dậy ở Đồng Quang do thủ lĩnh Sùng Mí Chảng ở xã Đồng Văn lãnh đạo (1903 - 1905); cuộc khởi nghĩa do Vàng Chỉn Pang ở xã Đường Thượng lãnh đạo (1911 - 1912). Các cuộc khởi nghĩa này tuy không thành công nhưng đã tô thắm thêm truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước của các dân tộc, không chịu áp bức bóc lột của thực dân phong kiến. 14
- Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) và đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng cùng với nhân dân các dân tộc trong huyện và nhân dân cả nước phát huy tinh thần đoàn kết, huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến, làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng nêu cao tinh thần cách mạng, vững vàng, kiên cường, đoàn kết đồng lòng chiến đấu và tham gia chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Với những thành tích đã đạt được, ngày 29/8/1985, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Lũng được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Tóm lại, trải qua thời gian, trước những biến động của lịch sử và tác động của thiên nhiên, với bản lĩnh và nền tảng văn hóa sẵn có, nhân dân các dân tộc xã luôn phát huy cao độ đức tính cần cù trong lao động, tinh thần đoàn kết, gắn bó, kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. III. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ PHÚ LŨNG THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1961 Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm nước ta, đến năm 1887, chúng chiếm đóng Hà Giang. Tháng 8/1890, sau khi điều chỉnh phạm vi quản lý, thực dân 15
- Pháp xác lập chế độ quân quản. Trước hết chúng tiếp tục duy trì và củng cố đội ngũ tay sai ở cấp cơ sở như: Vùng người Nùng do các Quằng - tức thổ ty nắm giữ, giúp việc cho Quằng là các chẩu (chẩu mường, chẩu sảng, chẩu họ, chẩu hiến, chẩu chướng…); vùng đồng bào dân tộc Tày có Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý, Hội đồng kỳ mục; đối với khu vực người Dao cư trú, chúng lập thành động và cử người Dao làm Quản động; vùng người Mông chia thành giáp do bọn Tổng giáp, Mã phài nắm, dưới sự kiểm soát của Bang tá người Mông. Về lĩnh vực kinh tế, thực dân Pháp và bè lũ tay sai ra sức bóc lột về kinh tế, vơ vét của cải, tài nguyên, chủ yếu là khai thác, cướp đoạt các sản phẩm nông - lâm nghiệp, nguồn tài nguyên quý giá của địa phương. Chúng còn bắt người dân phải đi phu xây dựng đồn bốt; bóc lột đồng bào bằng sưu cao, thuế nặng hết sức tàn nhẫn như: thuế đinh, thuế điền, thuế địa, thuế nuôi quân, thuế thuốc phiện... Chúng tự chiếm giữ một vùng để phục vụ riêng cho gia đình, nhân dân phải cày cấy, gặt hái cho chúng. Những sản phẩm làm ra, nhân dân hầu như không được sử dụng, chủ yếu phải nộp cho bọn thống trị, nộp từ con gà, quả trứng trở lên. Thực dân Pháp và bè lũ tay sai triệt để thi hành chính sách “ngu dân”, kìm hãm nhân dân các dân tộc trong cảnh tối tăm, lạc hậu. Cả xã không có lớp học nào, nên hầu như 100% người dân thất học, mù chữ. Người dân khi ốm đau chủ yếu dùng thuốc nam và cúng ma, 16
- nên khi bị bệnh thường dẫn tới tử vong, tuổi thọ trung bình thấp, tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” diễn ra phổ biến. Thâm độc hơn, chúng còn khuyến khích người dân trồng, hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc… Các hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội luôn song hành với các chính sách ngu dân của chúng, với mục đích đầu độc và làm tổn hại giống nòi của nhân dân ta. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp và bọn tay sai, đời sống nhân dân vùng Phú Lũng hết sức khó khăn, khổ cực, bị đàn áp về chính trị, đói khổ về kinh tế, tối tăm về văn hóa tinh thần. Chính vì vậy, đông đảo đồng bào các dân tộc vùng Phú Lũng căm thù sâu sắc bọn thống trị, sẵn sàng vùng dậy đấu tranh làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương khỏi áp bức bóc lột của kẻ thù và bè lũ tay sai, tìm lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Với đường lối đúng đắn là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, thực hiện “người cày có ruộng”, đảm bảo quyền tự do, bình đẳng cho mọi người, Đảng nhanh chóng tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân từ Bắc chí Nam đứng lên đấu tranh. Sau 15 năm (1930 - 1945) đấu tranh không biết mệt mỏi, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ, xóa bỏ bộ máy chính quyền thực dân phong kiến, thiết lập chính quyền dân 17
- chủ nhân dân, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ở khu vực Đồng Văn, do phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù nên chưa giành được chính quyền, người dân Phú Lũng nói riêng và nhân dân huyện Đồng Văn nói chung vẫn phải gồng mình gánh chịu kiếp tôi tớ, nô lệ cho bọn phản cách mạng. Bước sang năm 1946, quan hệ giữa ta và Pháp ngày càng căng thẳng, chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, chúng quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa. Nhân dân ta buộc phải đứng lên cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cuộc kháng chiến bùng nổ trên cả nước. Tuy nhiên, ở Đồng Văn cũng như Phú Lũng - một địa phương xa xôi, hẻo lánh, trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phần lớn ruộng đất nằm trong tay thổ ty, địa chủ, sức kéo, nông cụ thiếu trầm trọng, ruộng đất bỏ hoang, nạn đói, nạn mù chữ, dịch bệnh diễn ra, trong khi chính quyền cách mạng chưa được thiết lập, lực lượng thổ ty lúc này đang còn rất mạnh. Dựa vào danh nghĩa Chủ tịch huyện và lợi dụng tình thế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta còn nhiều khó khăn, Vương Chí Sình - một thổ ty có thế lực trong vùng đã ra sức củng cố địa vị và mở rộng phạm vi thống trị của mình ở khu vực Đồng Văn nói chung và Phú Lũng nói riêng. Về mặt kinh tế, Vương tự đặt ra chính sách 18
- thuế riêng như thuế nương rẫy, thuế thuốc phiện, thuế bếp lửa, thuế lao dịch, thuế sòng bạc, thuế chợ... Thời gian này ở huyện Đồng Văn không chấp nhận tiêu tiền giấy Cụ Hồ (đồng tiền do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát hành), mà có tiền tệ riêng, đó là đồng bạc già do Pháp đúc và phát hành từ trước. Các chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai ở vùng tự do nhưng chưa được thi hành ở đây. Không có cuộc vận động tăng gia sản xuất, tiết kiệm, nuôi quân, tòng quân giết giặc, không có phong trào xóa nạn mù chữ. Các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mê tín dị đoan vẫn đương nhiên tồn tại. Thắng lợi của chiến dịch “Đông - Tây tập đoàn” (từ tháng 5 - 10/1952) đã tạo ra bước tiến lớn của phong trào kháng chiến khu vực cao nguyên Đồng Văn. Từ năm 1953, ở Yên Minh, khu vực mà thổ ty khống chế ngày càng thu hẹp, ta ngày càng mở rộng vùng ảnh hưởng, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kháng chiến và kiến quốc của quân dân địa phương. Nhân dân từ chỗ còn tin tưởng thổ ty phong kiến, nộp thuế cho chúng, chịu sức bóc lột của chúng, không hiểu biết gì về Chỉnh phủ Hồ Chí Minh, nay đã hiểu rõ cán bộ, bộ đội, chán ghét chế độ thổ ty và đại đa số nhân dân đã tán thành đóng thuế nông nghiệp, thuế thuốc phiện và hăng hái đi dân công phục vụ kháng chiến. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, mở ra 19
- một giai đoạn lịch sử mới của đất nước: Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất nước nhà. Bước vào thời kỳ mới, nhân dân các dân tộc xã Phú Lũng có những thuận lợi cơ bản: nhân dân được sống trong hòa bình, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sẵn sàng bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Tuy nhiên, Phú Lũng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách: phần lớn diện tích canh tác bị bỏ hoang, nông cụ phục vụ sản xuất thiếu nghiêm trọng, cả xã không có công trình thủy lợi nào; thời tiết diễn biến thất thường (rét đậm, rét hại, sương muối...) khiến mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; giặc đói, giặc dốt, dịch bệnh hoành hành; các hủ tục lạc hậu tồn tại nặng nề. Đặc biệt, thời kỳ này, lực lượng thổ ty trong xã và ảnh hưởng của Thổ ty Vương Chí Sình tới địa phương - nơi có đông đồng bào người Mông còn rất mạnh và sâu sắc. Vì vậy, mặc dù trong kháng chiến chống Pháp đã lập được chính quyền nhưng đều do lực lượng thổ ty nắm giữ và chi phối. Trên cơ sở đó, Huyện ủy nhận định, ở Phú Lũng ngoài công tác cấp bách về cứu đói, đồng thời phải cải tạo chính quyền của thổ ty trở thành chính quyền nhân dân. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy Đồng Văn, chính quyền xã lãnh đạo nhân dân xã trước mắt tập trung cho nhiệm vụ “chống đói, chống dịch bệnh và tiễu trừ giặc 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
131 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn