Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Trà (1961-2018): Phần 1
lượt xem 3
download
Sủng Trà là xã vùng cao núi đá thuộc huyện Mèo Vạc. Một mảnh đất không được thiên nhiên ưu đãi, song người dân nơi đây luôn chịu khó trong lao động sản xuất và dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Cùng tìm hiểu về Sủng Trà qua cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Trà (1961-2018)" dưới đây nhé!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Trà (1961-2018): Phần 1
- 1
- ĐẢNG BỘ HUYỆN MÈO VẠC BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ SỦNG TRÀ ***** TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ SỦNG TRÀ (1961 - 2018) Xuất bản năm 2020 2
- LỜI GIỚI THIỆU Sủng Trà là xã vùng cao núi đá thuộc huyện Mèo Vạc. Một mảnh đất không được thiên nhiên ưu đãi, song người dân nơi đây luôn chịu khó trong lao động sản xuất và dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Năm 1961, xã Sủng Trà được thành lập trên cơ sở chia tách từ xã Lũng Chinh, cùng với đó là sự ra đời của Chi bộ Đảng - tiền thân của Đảng bộ xã Sủng Trà ngày nay. Từ khi thành lập, Đảng bộ xã đã có nhiều cố gắng trong vai trò lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao. Trên cơ sở triển khai các kế hoạch của Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần bảo vệ Tổ quốc; nỗ lực hết mình trên chặng đường phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo. Nhận thấy việc ghi lại quá trình ra đời, xây dựng, phát triển và trưởng thành của Đảng bộ xã Sủng Trà trong 57 năm (1961 - 2018) là việc làm hết sức cần thiết. Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư và Kế hoạch số 342-KH/TU ngày 02/8/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang và kế hoạch của Ban Thường vụ Huyện ủy Mèo Vạc về “thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”; Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sủng Trà khóa IV (nhiệm kỳ 2015 - 2020) quyết định tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng 3
- bộ và nhân dân xã Sủng Trà (1961 - 2018)”. Nội dung cuốn sách đã tái hiện chân thực vùng đất, con người và quá trình đấu tranh cách mạng bền bỉ, kiên cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc Sủng Trà dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ xã. Đồng thời phản ánh sinh động hình ảnh quê hương trong công cuộc đổi mới với những bước đột phá trên con đường phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh ý nghĩa giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng tình yêu quê hương - đất nước, cuốn sách còn thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc mà thế hệ người dân Sủng Trà hôm nay tri ân những người đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn cuốn sách, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sủng Trà luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy Mèo Vạc, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Mèo Vạc, sự ủng hộ nhiệt tình, cung cấp thông tin - tư liệu của những nhân chứng lịch sử hoạt động qua các thời kỳ. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do các tài liệu thành văn ở nhiều thời kỳ không lưu trữ được, các nhân chứng không còn nhiều... nên cuốn sách sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Do vậy, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sủng Trà rất mong nhận được ý kiến đóng góp của đông đảo độc giả để cuốn sách khi tái bản được hoàn thiện hơn. T/M BCH ĐẢNG BỘ XÃ BÍ THƯ Vàng Mí Dình 4
- Chương I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ SỦNG TRÀ I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN Sủng Trà là xã vùng cao núi đá của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Phía Bắc giáp xã Tả Lủng (huyện Đồng Văn); phía Đông giáp xã Pả Vi và xã Tả Lủng (huyện Mèo Vạc); phía Nam giáp xã Sủng Máng; phía Tây giáp 3 xã Lũng Phìn, Hố Quáng Phìn và Sính Lủng (huyện Đồng Văn). Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 2.488 ha, trong đó có 1.181 ha đất nông nghiệp, còn lại 5
- là các loại đất khác. Thiên nhiên đã kiến tạo cho địa hình nơi đây những dãy núi đá vôi nằm trọn trong địa bàn Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Địa hình núi đá chiếm diện tích lớn tạo nên những thung lũng nhỏ. Xã có độ cao trung bình 1.150 m so với mực nước biển, độ dốc trung bình từ 25 - 350. Tại đây có sự kết hợp giữa quá trình karst1 và đặc điểm khí hậu nên đã tạo ra các kiểu địa hình karst rất độc đáo. Vì vậy, đã tạo ra cụm di sản địa chất hình tháp nón thuộc 3 xã: Sủng Trà - Sủng Máng - Tả Lủng với cảnh quan karst điển hình gồm: các khối karst sót dạng vòm, dạng nón, chóp và karst dạng gãy (hướng Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam). Xen kẽ giữa chúng là các thung lũng thoải và hố sụt karst. Ngoài ra ở khu vực này còn tồn tại các “hoang mạc đá” được hình thành do quá trình phong hóa vật lý kết hợp với quá trình karst. Do đặc điểm của địa hình phức tạp bị chia cắt bởi các dãy núi đá, giao thông đi lại khó khăn, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Ở Sủng Trà khí hậu trong năm phân thành hai mùa tương đối rõ rệt: mùa khô (mùa đông) thường kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Khí hậu mùa này rất khắc nghiệt, khô hanh, có nhiều ngày rét đậm, rét hại và sương muối, băng giá. Mùa mưa kéo dài từ tháng 1 Karst là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn. Sự xói mòn không phải do cơ chế lực cơ học, mà chủ yếu là do khí đioxit cacbon (CO2) trong không khí hòa tan vào nước, cộng với các ion dương của Hyđrô (H+) tạo thành axít cacbonic. 6
- 4 đến tháng 10 trong năm. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.600 - 1.700 mm nhưng phân bố không đều trong các tháng. Vùng đất nơi đây nằm trên địa tầng đá vôi có nhiều khe, dốc, hố sụt địa chất và hầu như không có suối hoặc khe nước. Do đó, việc cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất rất khó khăn, chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên. Trên địa bàn xã, người dân chủ yếu trồng ngô và một số cây công nghiệp ngắn ngày khác. Ngô là cây lương thực chủ đạo, lại phụ thuộc vào nguồn nước nên sản lượng rất bấp bênh. Đây là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ đói nghèo của xã luôn chiếm mức cao. Sủng Trà không có nhiều tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có đá vôi là tiền đề để phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng, ngoài ra còn có tài nguyên rừng. Trước đây, tài nguyên rừng của xã khá phong phú với những loại cây lấy gỗ như nghiến, trai… và nhiều loại động vật như khỉ, gà rừng... cùng nhiều nguồn dược liệu, lâm thổ sản. Tuy nhiên, do quá trình khai thác và công tác quản lý chưa tốt nên diện tích rừng đang dần bị thu hẹp. Các loại gỗ và động vật quý hiếm hầu như không còn, chỉ còn một số dược liệu và lâm thổ sản từ rừng, đem lại nguồn thu nhập cho một số gia đình. Ngày nay, thực hiện chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhân dân đã được giao đất, giao rừng nhằm khoanh nuôi, tu bổ, bảo vệ, trồng mới rừng. Nhờ đó, môi trường sinh thái không ngừng được cải thiện, tỷ lệ che phủ rừng 7
- ngày một tăng. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên ở Sủng Trà nhiều khó khăn, ít thuận lợi, bên cạnh đó do nhận thức còn hạn chế và tập quán trong đời sống sinh hoạt của người dân còn nhiều bất cập nên một số tài nguyên đã bị khai thác và sử dụng quá mức (đặc biệt là tài nguyên rừng) càng khiến cho việc xóa đói, giảm nghèo ở địa phương trở nên vất vả hơn, đây là thực tế đã tồn tại ở Sủng Trà từ lâu. Để đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, Đảng bộ và nhân dân Sủng Trà đã và đang vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để đầu tư cơ sở hạ tầng, áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc vào phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, đặc biệt là trồng ngô và chăn nuôi gia súc... qua đó sẽ nâng dần hiệu quả kinh tế của địa phương, cải thiện đời sống nhân dân. Đây đã và đang là hướng đi hợp lý của địa phương trong việc khai thác tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra hướng phát triển bền vững trong tương lai. II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI Ngược dòng lịch sử, vào khoảng đầu thế kỷ XIX, địa bàn Sủng Trà nằm trong châu Bảo Lạc, phủ Tương Yên, xứ Tuyên Quang. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), triều đình nhà Nguyễn chia châu Bảo Lạc thành 2 huyện: Huyện Để Định (khu vực Bảo Lạc và một phần huyện Đồng Văn, Mèo Vạc ngày nay); huyện Vĩnh Điện (khu vực Bắc Mê, Yên Minh, Quản Bạ ngày nay) có 2 tổng, 9 xã. Vùng đất Sủng Trà lúc đó thuộc tổng Đông Quan, huyện Để Định, phủ Tương Yên. 8
- Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858) chúng tách tổng Đông Quan ra khỏi Bảo Lạc để thành lập đại lý Đồng Văn. Ngày 20/8/1891, tỉnh Hà Giang được thành lập, vùng đất Sủng Trà thuộc xã Lũng Chinh, tổng Quang Mậu, đại lý Đồng Văn, phủ Tương Yên. Đến năm 1928, tỉnh Hà Giang có 2 châu (Bắc Quang, Vị Xuyên) và 2 đại lý (Đồng Văn, Hoàng Su Phì). Đại lý Đồng Văn được chia thành 2 tổng: Quang Mậu (khu Đồng Văn) và tổng Đông Minh (khu Yên Minh) gồm các xã: Phú Lũng, Bạch Đích, Đường Thượng, Lũng Chinh, Lũng Phìn, Mậu Duệ, Mèo Vạc, Na Khê, Ngam La, Phố Cáo, Sà Phìn, Sủng Là, Sủng Thài, Vần Chải và xã Yên Minh. Thời điểm đó, địa bàn Sủng Trà thuộc xã Lũng Chinh, tổng Đông Minh. Ngày 05/6/1961, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 91/CP về chia xã của tỉnh Hà Giang, theo đó xã Lũng Chinh được chia thành 2 xã là Sủng Trà và Lũng Chinh. Xã Sủng Trà chính thức được thành lập với 10 thôn là: Lùng Vái, Phố Mỳ, Sủng Trà, Sủng Pờ, Sủng Cáng, Há Pống Cáy, Lò Lử Phìn, Sàng Sò, Há Chế, Tả Chà Lảng. Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 211/QĐ-CP tách Đồng Văn thành 3 huyện là Mèo Vạc, Yên Minh và Đồng Văn. Xã Sủng Trà thuộc huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Ngày 27/12/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về bỏ cấp khu, hợp nhất một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang được hợp nhất 9
- thành tỉnh Hà Tuyên. Xã Sủng Trà thuộc huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Tuyên. Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII quyết định chia tách tỉnh Hà Tuyên thành 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Xã Sủng Trà thuộc huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Năm 1996, thôn Sủng Pờ được tách thành 2 thôn: Sủng Pờ A và Sủng Pờ B. Thực hiện Nghị định số 74/1999/NĐ-CP ngày 20/8/1999 của Chính phủ, 2 thôn Lùng Vái, Phố Mỳ tách khỏi xã Sủng Trà sáp nhập vào xã Tả Lủng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Sủng Trà còn 9 thôn bản1 với diện tích tự nhiên là 2.488 ha và 2.853 nhân khẩu, mật độ dân số đạt 115 người/km². Đến năm 2018, toàn xã có 809 hộ với trên 4.000 nhân khẩu, trong đó dân tộc Mông chiếm khoảng 90%, còn lại là các dân tộc khác. Nhân dân các dân tộc ở Sủng Trà có truyền thống đoàn kết với nhau trong cộng đồng làng xóm. Từ quá trình lao động sản xuất, chống thiên tai địch họa, nhiều truyền thống tốt đẹp đã ra đời. Trong đó nổi bật nhất là truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, chịu kham khổ trước những điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên để sinh tồn và phát triển. Là xã có chủ yếu là địa hình núi đá, không có nhiều đất canh tác, đồng bào đã sáng tạo bằng cách dùng đá để xếp thành các bờ và gùi đất đổ vào, tạo thành các thửa đất nhỏ xen vào quanh các hốc 1 Sủng Trà, Sủng Pờ A, Sủng Pờ B, Sủng Cáng, Há Pống Cấy, Lò Lử Phìn, Sàng Sò, Há Chế, Tả Chà Lảng. 10
- đá để trồng cây lương thực, rau màu. Qua hàng thế kỷ đã tạo nên truyền thống canh tác trên đá như ngày nay. Điều này thể hiện sức mạnh và ý chí của con người trước sự khắc nghiệt của tự nhiên, biết chế ngự thiên nhiên, buộc thiên nhiên phải khuất phục trước sức mạnh của con người. Ngoài truyền thống đoàn kết, cần cù chịu khó trong lao động, nhân dân các dân tộc Sủng Trà luôn sống chân thật, thương yêu đùm bọc giúp đỡ nhau, đặc biệt trong khó khăn hoạn nạn. Đó là những giá trị văn hóa gắn kết lòng người, xây dựng tình làng nghĩa xóm. Cùng với thời gian, nhân dân các dân tộc xã Sủng Trà đã xây dựng nên thôn bản khang trang hơn, hòa quyện với nhiều truyền thống văn hóa đặc sắc, phong tục tập quán tốt đẹp để tạo nên bản sắc riêng của con người nơi đây. Nét độc đáo trong đời sống văn hóa ở Sủng Trà phải kể đến những ngôi nhà trình tường, nhà gỗ cổ của đồng bào Mông. Nhà thường làm bằng gỗ thông đá, mái lợp ngói âm dương theo kiến trúc của đồng bào Mông, gồm 5 gian (trong đó có 3 gian chính và 2 trái). Móng xung quanh nhà được làm bằng đá xẻ hoặc đá đẽo thành tảng đá chân cột giống Khu dinh thự họ Vương (Đồng Văn). Phía hiên trước có 4 cột gỗ được kê bởi những phiến đá mài nhẵn hình hoa thuốc phiện (hoa anh túc). Bên trong nhà có giường, bàn uống nước, bàn thờ tổ tiên và cối đá xay ngô đều được làm cùng thời với ngôi nhà, nhưng vẫn rất chắc chắn và còn lưu lại đến hiện nay. Đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc Sủng Trà khá phong phú. Mỗi năm vào dịp lễ, tết, ở các thôn 11
- lại vang lên tiếng khèn, điệu múa, cùng các trò chơi dân gian như ném còn, đánh sảng… Trong những ngày đó, nhân dân các dân tộc trong xã súng sính trong những bộ quần áo mới, vui tươi ca hát và chúc tụng nhau một năm mới no ấm, mùa màng bội thu. Sự lạc quan trong đời sống tinh thần là động lực để đồng bào vượt qua mọi khó khăn trong lao động sản xuất, chiến thắng điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Nhân dân các dân tộc xã Sủng Trà có lòng yêu nước nồng nàn, không chịu khuất phục trước ách áp bức, bóc lột, kiên cường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai. Trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp (1946 - 1954), chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975) và cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương của Tổ quốc, nhân dân các dân tộc xã Sủng Trà đã đóng góp lương thực, thực phẩm, nhiều thanh niên của xã xung phong tình nguyện tham gia lực lượng dân quân, du kích, tham gia bộ đội chiến đấu chống giặc ngoại xâm, góp phần cùng nhân dân cả nước giành thắng lợi cuối cùng. Từ những đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội và cùng với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; Đảng ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội cùng toàn thể nhân dân xã Sủng Trà quyết tâm đoàn kết một lòng, phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên để hoàn thành mọi mục tiêu, kế hoạch đề ra. Trong điều kiện đất canh tác ít, người nông dân nơi đây đã biết xen canh, gối vụ để bảo đảm an ninh lương 12
- thực cho gia đình. Tính năng động của đồng bào các dân tộc Sủng Trà được thể hiện khá rõ nét kể từ khi có đường lối đổi mới của Đảng. Một số bà con đã biết kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp với hoạt động dịch vụ như bán hàng tạp hóa, mở cửa hàng ăn uống, sản xuất vật liệu xây dựng… Mặt khác, ngay trong nông nghiệp, nhân dân cũng đã kết hợp chặt chẽ giữa trồng trọt và chăn nuôi lớn, mang tính chất sản xuất hàng hóa. Kinh tế chủ yếu của nhân dân các dân tộc nơi đây là nông nghiệp, cây lương thực chính là ngô. Loại cây này chiếm phần lớn diện tích trồng trọt (hàng năm lên tới hơn 500 ha). Ngô được xay thành bột đồ lên thành “mèn mén”. Do cấu tạo đất đai nên ngoài cây ngô, trên địa bàn trồng đậu tương và các loại cây ăn quả như: đào, lê, mận…; chăn nuôi đại gia súc như: trâu, bò, lợn, dê... Năm 2018, toàn xã có 1.349 con bò, 1.582 con lợn, 2.044 con dê và hàng nghìn con gia cầm. Trước đây điều kiện đi lại của xã rất khó khăn, trên địa bàn hầu như chỉ có đường mòn dành cho người và ngựa. Trải qua thời gian, được sự đầu tư của Nhà nước và công sức đóng góp của nhân dân, các tuyến đường liên thôn, liên xã dần hình thành. Đặc biệt, trên địa bàn xã có tuyến tỉnh lộ 176 chạy qua - Đây là tuyến đường huyết mạch của xã cũng như của huyện Mèo Vạc. Ngoài ra, đường trục xã và các tuyến đường liên thôn đã tạo điều kiện cho ô tô lưu thông thuận lợi, tuy nhiên phần lớn đường tới các thôn đều chưa được bê tông hoặc nhựa hóa, có nơi vẫn còn là đường mòn. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ 13
- thống lưới điện quốc gia được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn. Tính đến hết năm 2018, toàn xã có 680 cột điện bê tông kiên cố hóa, cung cấp điện cho 6/9 thôn bản trên địa bàn. Là xã miền núi khó khăn, các công trình khác như trạm y tế, bưu điện, nhà văn hóa, chợ trung tâm… chưa được đầu tư đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Do dân cư phân bố không tập trung nên xã xây dựng các điểm trường tiểu học ở ngay tại các thôn. Từ năm 2017, theo sự chỉ đạo của huyện, học sinh tại các điểm trường trên được chuyển về trường chính, nâng tổng số học sinh tiểu học tại trường chính lên 378 em (trong đó có 200 em ở bán trú). Việc chuyển học sinh tiểu học ở các điểm trường về trường chính đã giúp chất lượng dạy và học được nâng lên. Cụ thể, năm học 2017 - 2018, có 146/378 học sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập; số còn lại đều hoàn thành nhiệm vụ. Thời gian học là 9 buổi/tuần (khi còn ở điểm trường, học sinh chỉ được học 7 buổi/tuần). Để đáp ứng nhu cầu dạy và học, xã được xây thêm một trường học mới đối diện trường chính cũ với số vốn đầu tư gần 8 tỷ đồng. Các hạng mục của trường khá cơ bản như: Phòng học, nhà ở, bếp ăn, công trình phụ và trang thiết bị… Tính đến hết năm 2018, toàn xã có 1.300 học sinh ở 3 trường học1. Từ khi thành lập năm 2000 với 28 đảng viên, đến nay (2018), Đảng bộ xã Sủng Trà đã có 168 đảng viên, sinh hoạt ở 14 chi bộ trực thuộc. Trong quá trình lãnh 1 3 trường học gồm: Trường Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở, trường Tiểu học và trường Mầm non. 14
- đạo, Đảng bộ xã làm tốt công tác xây dựng Đảng, trong đó thường xuyên tổ chức quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên đến cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã, nhờ đó tạo được sự thống nhất trong tư tưởng và hành động. Những năm gần đây, trên lĩnh vực phát triển kinh tế, Đảng bộ xã tập trung lãnh đạo, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa các loại giống có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, đẩy mạnh thâm canh và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi… Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Đảng bộ xã Sủng Trà đã chủ động chỉ đạo phát huy vai trò người cán bộ, đảng viên gương mẫu thực hiện trước để quần chúng noi theo, nhờ cách làm này đã tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần làm cho bộ mặt nông thôn nơi đây dần khởi sắc, đời sống của nhân dân đã có những đổi thay rõ rệt. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình phức tạp, thời tiết, khí hậu diễn biến thất thường, rét đậm, rét hại... thường xuyên xảy ra; thiếu nước sinh hoạt và sản xuất; trình độ dân trí không đồng đều nên tỷ lệ hộ nghèo của xã còn cao; một bộ phận quần chúng nhân dân còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, chưa biết tự tìm cho mình cách làm giàu phù hợp và chưa nỗ lực vươn lên trong phát triển kinh tế, nên đến nay Sủng Trà vẫn còn là xã nghèo của huyện. Thực tế đó đòi hỏi sự lãnh đạo ngày càng sâu sát và thiết thực của Đảng bộ, sự 15
- vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết, nhất trí của nhân dân trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hướng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn trong những chặng đường tiếp theo. III. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỊA BÀN SỦNG TRÀ THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1961 Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1887, Thực dân Pháp chiếm đóng Hà Giang. Tháng 8/1890, sau khi điều chỉnh phạm vi quản lý, thực dân Pháp xác lập chế độ quân quản. Trước hết chúng tiếp tục duy trì và củng cố đội ngũ tay sai ở cấp cơ sở như: Vùng người Nùng do các Quằng - tức thổ ty nắm giữ, giúp việc cho Quằng là các chẩu (chẩu mường, chẩu sảng, chẩu họ, chẩu hiến, chẩu chướng…); vùng đồng bào dân tộc Tày có Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý, Hội đồng kỳ mục; đối với khu vực người Dao cư trú, chúng lập thành động và cử người Dao làm Quản động; vùng người Mông chia thành giáp do bọn Tổng giáp, Mã phài nắm, dưới sự kiểm soát của Bang tá người Mông. Ở cao nguyên Đồng Văn, quân Pháp đã dựng lên chính quyền tay sai người bản xứ, chia ra làm 4 khu vực do 4 dòng họ cai quản. Khu vực thuộc huyện Mèo Vạc ngày nay do Thổ ty Dương Trung Nhân cai quản. Ngoài bộ máy tay sai trên, thực dân Pháp còn dựng thêm một chính quyền riêng của người Mông, đứng đầu là Tổng 16
- giáp, Mã phài nằm dưới sự kiểm soát của Bang tá người Mông. Tại khu vực Sủng Trà và Lũng Chinh chịu sự kiểm soát của Sùng Sía Cảo1. Mục đích của chúng là chia rẽ, ngăn chặn sự đoàn kết của các dân tộc địa phương, thuận lợi cho chúng trong việc cai trị, bóc lột nhân dân. Về lĩnh vực kinh tế, thực dân Pháp và bè lũ tay sai ra sức bóc lột về kinh tế, vơ vét của cải, tài nguyên, chủ yếu là khai thác, cướp đoạt các sản phẩm nông - lâm nghiệp, nguồn tài nguyên quý giá của địa phương. Chúng còn bắt người dân phải đi phu xây dựng đồn bốt; bóc lột đồng bào bằng sưu2 cao, thuế nặng hết sức tàn nhẫn như: thuế đinh, thuế điền, thuế địa, thuế nuôi quân, thuế thuốc phiện... Chúng tự chiếm giữ một vùng để phục vụ riêng cho gia đình, nhân dân phải cày cấy, gặt hái cho chúng. Những sản phẩm làm ra, nhân dân hầu như không được sử dụng, chủ yếu phải nộp cho bọn thống trị, nộp từ con gà, quả trứng trở lên. Thực dân Pháp và bè lũ tay sai triệt để thi hành chính sách “ngu dân”, kìm hãm nhân dân các dân tộc trong cảnh tối tăm, lạc hậu. Cả xã không có lớp học nào, nên hầu như 100% người dân thất học, mù chữ. Người dân khi ốm đau chủ yếu dùng thuốc nam và cúng ma, nên khi bị bệnh thường dẫn tới tử vong, tuổi thọ trung bình thấp, tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” diễn ra phổ 1 Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc (1962 - 2015), xuất bản năm 2016, tr. 16. Đây là một thứ thuế của chế độ phong kiến, cũng là 1 dạng thuế thân 2 có thể đóng bằng tiền mặt hoặc bằng sức lao động. 17
- biến. Thâm độc hơn, chúng còn khuyến khích người dân trồng, hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc… Các hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội luôn song hành với các chính sách ngu dân của chúng, với mục đích đầu độc và làm tổn hại giống nòi của nhân dân ta. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp và bọn tay sai, đời sống nhân dân vùng Sủng Trà hết sức khó khăn, khổ cực, bị đàn áp về chính trị, đói khổ về kinh tế, tối tăm về văn hóa tinh thần. Chính vì vậy, đông đảo đồng bào các dân tộc vùng Sủng Trà căm thù sâu sắc bọn thống trị, sẵn sàng vùng dậy đấu tranh làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương khỏi áp bức bóc lột của kẻ thù và bè lũ tay sai, tìm lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Với đường lối đúng đắn là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, thực hiện “người cày có ruộng”, đảm bảo quyền tự do, bình đẳng cho mọi người, Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân từ Bắc chí Nam đứng lên đấu tranh. Sau 15 năm (1930 - 1945) đấu tranh không mệt mỏi, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ, xóa bỏ bộ máy chính quyền thực dân phong kiến, thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. 18
- Ở khu vực Đồng Văn, do phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù nên chưa giành được chính quyền, người dân Sủng Trà nói riêng và nhân dân huyện Đồng Văn nói chung vẫn phải gồng mình gánh chịu kiếp tôi tớ, nô lệ cho bọn phản cách mạng. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân các dân tộc xã Lũng Chinh nói chung và vùng Sủng Trà nói riêng càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm xóa bỏ những tàn dư do chế độ thực dân phong kiến để lại, bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Ngày 06/01/1946, nhân dân các dân tộc trong xã nô nức đi bầu cử, bầu ra 2 đại biểu là: Ông Nguyễn Thanh Phong - Chủ tịch lâm thời Ủy ban hành chính tỉnh và ông Vương Chí Sình - Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn vào Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Đồng Văn, do tình hình chính trị còn rất phức tạp, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo không tiến hành bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã. Ủy ban hành chính các xã được lập ra đầu năm 1946 nhưng chủ yếu do các thành phần lớp trên (Tổng giáp, Chánh tổng, Lý trưởng) nắm giữ theo sắp xếp của ông Vương Chí Sình. Ủy ban hành chính xã Lũng Chinh tuy đã được thành lập nhưng vẫn do Phó tổng, Lý trưởng nắm giữ; ở các thôn do Phó lý, Mã phài quản lý; cơ sở cách mạng chưa được gây dựng. Từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (tháng 12/1946), tình hình an ninh chính trị ở Đồng Văn nói chung, các xã thuộc huyện Mèo Vạc ngày nay nói riêng 19
- còn rất phức tạp. Ủy ban hành chính xã vẫn do tầng lớp trên nắm giữ; các hoạt động của địa phương vẫn do bọn phong kiến Thổ ty kiểm soát. Ở huyện Đồng Văn không sử dụng tiền giấy Cụ Hồ (đồng tiền do Chính phủ phát hành) mà sử dụng đồng bạc già do Pháp đúc và phát hành từ trước. Cán bộ Việt Minh lên công tác phải mang muối lên đổi lấy bạc già mới có tiền tiêu. Các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Chính phủ được triển khai ở vùng tự do nhưng chưa được thi hành ở vùng Thổ ty. Ngày 06/3/1949, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập Huyện ủy lâm thời huyện Đồng Văn gồm 4 ủy viên do đồng chí Triệu Quý Gia làm Bí thư. Sự ra đời của Đảng bộ huyện có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với phong trào cách mạng ở huyện Đồng Văn. Đây là sự kiện chính trị quan trọng, thể hiện sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phong trào đấu tranh cách mạng. Từ đây, nhân dân các dân tộc trong huyện đã có tổ chức Đảng độc lập lãnh đạo trực tiếp. Sau khi thành lập, Đảng bộ đã tập trung vào xây dựng, củng cố tổ chức Mặt trận Việt Minh, xây dựng cơ sở Đảng, nhất là các xã thuộc vùng Thổ ty; từng bước tuyên truyền, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm thu hẹp dần ảnh hưởng của Thổ ty. Lúc này, nhân dân các xã Lũng Chinh cùng các xã như Sà Phìn, Sủng Máng, Lũng Phìn… có cơ hội rèn luyện và đứng vào hàng ngũ đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện. Được tuyên truyền đường lối cách mạng, đồng bào 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
131 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn