Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Trịnh (1945-2015): Phần 1
lượt xem 0
download
Cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Trịnh (1945-2015)" Phần 1 trình bày các nội dung chính như sau: Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội; Nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Trịnh (1945-2015): Phần 1
- ĐẢNG BỘ HUYỆN QUANG BÌNH ĐẢNG BỘ XÃ TÂN TRỊNH LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ TÂN TRỊNH (1945 – 2015) Xuất bản năm 2019 1
- LỜI GIỚI THIỆU Tân Trịnh là xã cửa ngõ phía đông của huyện Quang Bình. Phía Bắc giáp xã Xuân Minh, phía Tây giáp xã Tân Bắc, phía Nam giáp xã Yên Hà - Bằng Lang, phía Đông giáp xã Việt Hồng và thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang. Trải qua các chặng đường lịch sử, nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh luôn phát huy tinh thần đoàn kết, cần cù, giữ gìn nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc, kiên cường vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, nêu cao tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm và kẻ thù xâm lược, tích cực từng bước xây dựng xã Tân Trịnh ngày càng giàu đẹp, văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ ý nghĩa đó và thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử đảng về đẩy mạnh công tác nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tân Trịnh, khoá XXI (nhiệm kỳ 2015 – 2020) đã chỉ đạo thực hiện việc sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Trịnh (1945 – 2015)”. Nội dung cuốn sách tập trung làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển và quá trình lãnh đạo của Chi bộ, Đảng bộ xã qua các thời kỳ. Trải qua 65 năm kể từ khi Chi bộ (năm 1950), 48 năm Đảng bộ xã (năm 1967) được thành lập, đã lãnh đạo nhân dân trong xã phát huy truyền thống cách mạng, tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã đã góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của lịch sử Đảng bộ huyện, tỉnh. Thông qua những trang sử vẻ vang đó, giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh, nhất là thế hệ trẻ lòng tự hào về truyền thống cách mạng quê hương. Từ đó, tiếp tục kế thừa và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, luôn đoàn kết nhất trí, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020. Trong quá trình tổ chức thực hiện việc sưu tầm, khai thác tư liệu, nghiên cứu và biên soạn, Ban biên soạn đã nhận được sự quan tâm của Thường trực Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Quang Bình, phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy và sự phối hợp cung cấp tư liệu quý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo xã qua các thời kỳ. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tân Trịnh xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng trong quá trình biên soạn còn gặp nhiều khó khăn về nguồn tư liệu, vì vậy, nội dung cuốn sách không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tân Trịnh xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của 2
- Đảng bộ và nhân dân xã Tân Trịnh (1945 – 2015) tới toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân trong xã cùng bạn đọc. T/M BAN CHẤP HÀNH BÍ THƯ Phù Quang Sỹ 3
- Chương I Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội I. Điều kiện tự nhiên Tân Trịnh là xã vùng thấp và là xã cửa ngõ phía đông của huyện Quang Bình. Phía Bắc giáp xã Xuân Minh, phía Tây giáp xã Tân Bắc, phía Nam giáp xã Yên Hà - Bằng Lang huyện Quang Bình, phía Đông giáp xã Việt Hồng và thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang. Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 5.181,18 ha, chủ yếu là diện tích đất đồi. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 1.371,28 ha, chiếm 26,5%; diện tích đất lâm nghiệp là 3.307,80 ha, chiếm 63,8%; diện tích đất chuyên dùng là 96,51 ha, chiếm 1,9%; còn lại là đất rừng đầu nguồn, khe suối, đất đá, đồi núi trọc. Địa hình của xã có nhiều đồi núi, khe suối, sông ngòi chia cắt và có hai dạng đặc trưng cơ bản: Địa hình đồi núi cao với độ cao từ 200 - 1.500m ở phía Bắc, độ dốc trung bình từ 25 - 300; địa hình đồi bát úp, xen kẽ có những thung lũng tương đối bằng phẳng ở phía Nam. Khí hậu – thời tiết của xã cùng chịu ảnh hưởng chung của khu vực nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 22 0c, cao nhất là 370C, thấp nhất là 90c. Mùa đông thường có nhiều đợt giá rét kéo dài. Lượng mưa trung bình là 1.500-2.000 mm/năm. Độ ẩm trung bình là 85%. Trước đây, Tân Trịnh là địa bàn có quần thể động vật, thực vật phong phú. Về thực vật có nhiều cây gỗ quý như: Lim, Sến, Dổi và các loại cây dược liệu quý, các loại cây cho củ, cho quả có thể nuôi sống con người, các loại cây làm thuốc nhuộm cùng với các loại tre, trúc, mây... Địa bàn xã còn là khu vực có nhiều loài động vật quý hiếm như: Hổ, báo, nai, lợn rừng, chồn, khỉ, cầy hương, nhím, các loại chim....Tuy nhiên, do trong quá trình sinh sống và phát triển, do bị khai thác quá mức nên các loại động vật, thực vật trên địa bàn xã đến nay đã dần cạn kiệt. Để khắc phục những hạn chế trên, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ, chính quyền xã Tân Trịnh đã lãnh, chỉ đạo, vận động nhân dân trên địa bàn xã tích cực triển khai dự án trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, đẩy mạnh giao đất, giao rừng đến hộ gia đình, tập trung phát triển rừng kinh tế, từ đó không ngừng nâng cao diện tích rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc trên địa bàn xã và nơi đầu nguồn sông Bạc. Qua đó góp phần phát triển kinh tế, giảm thiểu ảnh hưởng của thiên tai, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái. Hệ thống sông suối của xã tương đối dày đặc, có dòng Sông Bạc chảy dọc theo các thôn Tả Ngảo, Ngòi Han, Tân Bang, Tân Bình, Tân Trang, Tân Tiến và tiếp tục xuôi về Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang. Phía Đông của xã còn có dòng suối Ngòi Thủy, chảy qua địa phận các thôn Mác Thượng, Mác Hạ, Tân Bình hợp với các dòng suối nhỏ khác chảy về Sông Bạc. Trên địa bàn xã còn có nhiều khe suối nhỏ, phân bố đều khắp địa bàn xã. Vì vậy, Tân Trịnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất. Nhân dân trong xã đã biết tận 4
- dụng và khai thác nguồn nước từ các khe suối, dòng suối để tưới tiêu phục vụ sản xuất và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân...Tuy nhiên, với hệ hống sông suối phân bố đều khắp địa bàn xã và địa hình của xã vùng thấp như vậy, vào mùa hè do có lượng mưa lớn dòng nước lũ từ các sông suối tập trung đổ về đã gây nên những trận lụt, có tác động không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Bên cạnh đó, mùa đông thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài cũng đã ảnh hưởng tới việc canh tác, sản xuất, chăn nuôi của nhân dân. Do có nhiều sông, suối chia cắt nên giao thông đi lại trên địa bàn xã còn nhiều khó khăn. Trước đây, trên địa bàn xã chủ yếu là các tuyến đường mòn nối liền các thôn bản với nhau, phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng ngựa thồ. Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền tỉnh, huyện, hệ thống đường giao thông trên địa bàn xã đã được đầu tư xây dựng giúp nhân dân đi lại thuận lợi, giao thương buôn bán cũng dần phát triển, trong đó phải kể đến tuyến đường huyết mạch nối từ trung tâm xã đến trung tâm huyện Quang Bình dài 16 km. Đường giao thông liên thôn, tuyến đường từ Tân Trịnh đến các xã lân cận được đấu nối thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, thông thương vận chuyển hàng hóa của nhân dân. Bên cạnh việc phát triển hệ thống giao thông, hệ thống hạ tầng cơ sở như: Trụ sở xã, trạm y tế, trường học, nhà văn hóa thôn, điện lưới Quốc gia, thông tin liên lạc... đã được đầu tư xây dựng khang trang, góp phần nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã. II. Điều kiện kinh tế - xã hội Tân Trịnh là vùng đất có từ lâu đời. Thời kỳ Pháp thuộc đến cuối năm 1929 vùng đất này được gọi là xã Trịnh Trang, tổng Yên Bình, châu Bắc Quang, gồm các thôn, bản: Làng Mã, Làng Vén, Làng Đương, Làng Lũ, Làng Tráng, Đôn Giàng, Nậm Chừng. Tháng 12/1949, Bắc Quang tiến hành công tác nhập xã, hai xã Trịnh Trang và Tân Lộc thành xã Tân Trịnh. Ngày 1/12/2003 thực hiện Nghị định số 146/NĐ-CP của Chính phủ, huyện Quang Bình được thành lập. Theo đó, xã Tân Trịnh và 11 xã khác của huyện Bắc Quang được tách về huyện Quang Bình. Trước đây, Tân Trịnh là địa bàn có 05 dân tộc anh em cùng chung sống như dân tộc Tày, dân tộc Kinh, dân tộc Pà Thẻn, dân tộc Dao, dân tộc Nùng. Trong đó, dân tộc Pà Thẻn thường sinh sống trên các dẻo núi cao, đến năm 1972 mới hạ sơn. Những năm sau này, có nhiều dân tộc từ nơi khác di cư đến, trong đó có dân tộc H’Mông, dân tộc Hoa Hán, dân tộc La Chí, Phù Lá chủ yếu di cư từ các địa bàn như: Hoàng Su Phì, Xín Mần. Đến nay, xã có 12 dân tộc: Dân tộc Dao, Kinh, Tày, Mông, Pà Thẻn, La Chí, Phù Lá, Cao Lan, Nùng, Mường, Thái, Hoa. Trong đó: Dân tộc Tày chiếm 33,9%; dân tộc Pà Thẻn chiếm 31,8%; dân tộc Kinh chiếm 15,8%; dân tộc Dao chiếm 11,4%; còn lại là các dân tộc khác. Dân số toàn xã là 4.951 khẩu, với 1.145 hộ; mật độ dân cư 48 người/km2 nhưng phân bố không đều. Nhân dân thường sống xen kẽ, tập trung theo từng thôn bản gắn với điều kiện sản xuất canh tác ruộng nương. 5
- Từ xa xưa, trong quá trình kề vai sát cánh bên nhau để bảo vệ bản làng, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và trong quá trình lao động sản xuất, nhân dân các dân tộc Tân Trịnh đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần mang bản sắc riêng của từng dân tộc. Trong đời sống văn hóa, đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã còn lưu truyền được nhiều câu truyện giải thích về nguồn gốc dân tộc, bài thơ, ca dao, tục ngữ…Vào dịp lễ tết, đồng bào thường tổ chức những hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang bản sắc độc đáo riêng của mình: Đồng bào dân tộc Pà Thẻn tổ chức lễ hội nhảy lửa; đồng bào dân tộc Tày tổ chức lễ hội Lồng tồng (xuống đồng) khoảng từ mùng 6 đến mùng 10 tết Nguyên Đán hàng năm để cầu các vị thần nông, thần Sông, thần Suối phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; đồng bào Dao nơi đây còn lễ tục cấp sắc… Trải qua hàng ngìn năm đấu tranh với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm; nhân dân các dân tộc nơi đây đã sớm ý thức tự xây dựng cho mình những đức tính tốt đẹp đó là truyền thống đoàn kết, ý chí căm thù giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; khiêm tốn học hỏi, vượt khó đi lên. Những đức tính đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt để nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã cùng nhau tồn tại trước những thách thức nghiệt ngã của thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Năm 1887 thực dân Pháp chiếm đóng tỉnh Hà Giang. Chúng tổ chức bộ máy cai trị theo chế độ quân quản, đứng đầu là một viên công sứ Pháp, đồng thời chúng nắm lấy thổ ty và những phần tử phản động để lập bộ máy thống trị từ tỉnh xuống đến các châu, xã. Chúng thực hiện chính sách “chia để trị” chủ yếu nhằm mục đích chia rẽ tinh thần đoàn kết của nhân dân các dân tộc và khuyến khích nhân dân dùng rượu, chè, đánh cờ bạc, hút thuốc phiện... để dễ bề cai trị nhân dân ta. Đối với mỗi dân tộc khác nhau, thực dân Pháp thiết lập hệ thống tay sai với tên gọi khác nhau để dễ bề cai quản. Với dân tộc Tày chúng lập bộ máy gồm các chức danh chánh tổng, phó tổng, lý trưởng, phó lý, tổng xã đoàn, hội đồng kỳ mục; người Dao có động trưởng, chánh phó, quản chiều; người H'mông chia thành giáp do bọn tổng giáp mã phài nằm dưới sự kiểm soát của bang tá người H'mông; người Hoa chúng đặt chức bang trưởng ở cấp cơ sở, người Kinh bị chia thành phường, đứng đầu là phường trưởng cai quản. Thời kỳ này, xã Tân Trịnh nằm ở tổng Trinh Tường thuộc châu Bắc Quang do ông Chánh Lý làm Lý trưởng. Ngoài ra còn có phó lý, hương mục, chúng tiếp tay cho bọn cầm quyền ra sức bắt phu, bắt lính, thu thuế. Nhân dân phải bỏ công việc đồng ruộng để đi phu, đi lính, xây dựng đồn bốt và các công việc khác không công, phục vụ cho bộ máy cai trị của chúng (tự lo cơm gạo, thực phẩm, công cụ để đi làm), những người dân muốn tránh khỏi nạn đi phu, bắt lính thì phải chạy tiền đút lót cho lý trưởng, phó lý trong xã. Để thực hiện các chính sách chúng đề ra, chúng thành lập đội lính dõng phục vụ mưu đồ của chúng. 6
- Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, với chính sách vơ vét, bóc lột sức người, sức của của nhân dân ta để phục vụ chiến tranh, người dân Tân Trịnh đã bị tay sai của Pháp bắt đi phu mỗi năm từ 2 đến 3 lần, mỗi lần 15 đến 20 ngày; cơm không đủ ăn, dụng cụ lao động phải tự túc để làm đường. Nhiều người đi phu do lao động quá sức đã mang bệnh tật trên người hoặc mất mạng. Những người muốn tránh nạn phu phen thì phải chạy tiền đút cho bọn lý trưởng, phó lý. Thực dân Pháp còn bắt những thanh niên khỏe mạnh tham gia vào đội lính dõng trong các xã đoàn, tổng đoàn. Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách thuế khóa hà khắc với nhiều loại thuế vô lý như thuế đinh đánh vào đàn ông từ 18 đến 60 tuổi; các loại thuế điền, thuế gia ốc, thuế thổ canh, thuế nuôi quân, thuế môn bài, thuế kiểm lâm, thuế sinh tử, thuế rượu, thuế ngựa thồ...; làm cho đời sống người dân đã cơ cực lại càng bần hàn hơn. Nhiều người dân đã phải bán ruộng đất, trâu, bò... thậm chí nhiều gia đình còn phải bán vợ, bán con nhưng cũng không đủ tiền nộp thuế. Nhiều gia đình không có gạo ăn phải lên rừng tìm đào củ nâu, củ mài về ăn, dùng nước tro bếp, cỏ tranh để thay thế muối. Dưới chính sách cai trị, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, đời sống của nhân dân các dân tộc Trịnh Trang vô cùng cực khổ, nhiều người đã chết vì đói khát; trên địa bàn xã 95% dân số đều mù chữ. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn ra sức khuyến khích các hủ tục và tệ nạn xã hội, khuyến khích trồng và hút thuốc phiện, cờ bạc, rượu, chè, mê tín dị đoan. Do trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó người dân không có thuốc men, không có nơi để chữa bệnh nên khi trong nhà có người đau ốm người dân đã phải tự chữa bằng thuốc nam hoặc cúng bái. Ngoài ra, do thiếu I- ốt, công tác vệ sinh phòng bệnh không được chú ý nên nhiều dịch bệnh xảy ra như thương hàn, đậu mùa, kiết lỵ, sốt rét... đã cướp đi sinh mạng của nhiều người dân trên địa bàn xã. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, mặc dù bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, tối tăm về văn hóa - xã hội; bị áp bức, bóc lột về kinh tế; bị lệ thuộc và đánh đập về thân thể nhưng không làm khuất phục được tinh thần bất khuất của nhân dân các dân tộc Tân Trịnh, mà nó còn là ngọn lửa hun đúc tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm chống lại ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai. Năm 1901, đồng bào các dân tộc Tân Trịnh đã hưởng ứng phong trào đấu tranh chống lại các thế lực đương quyền của hai anh em Triệu Tiến Kiên và Triệu Tiến Lộc ở xã Vĩ Thượng; nhiều người dân Trịnh Trang đã tham gia vào đội quân do hai anh em họ Triệu lãnh đạo tiến công đánh vào các đồn bốt của giặc. Tuy cuộc đấu tranh bị thất bại nhưng đã thể hiện được tinh thần yêu nước, ý chí không khuất phục của nhân dân ta trước kẻ thù xâm lược và tay sai, sẵn sàng tham gia chống lại ách thống trị của chúng. Ngày 3/2/19030, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh đã đi theo tiếng gọi của Đảng đứng lên cùng nhân dân cả nước đấu tranh giành chính quyền. Đặc biệt những năm 1943 - 1944, dưới ánh sáng cách mạng của Đảng, Tân Trịnh xuất hiện ngày càng nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân chống bắt phu, bắt lính, chống việc thu thuế của Lý 7
- trưởng... những cuộc đấu tranh dù thô sơ, tự phát nhưng đã góp phần hun đúc truyền thống yêu nước, yêu cách mạng của nhân dân địa phương. Truyền thống ấy càng được đồng bào các dân tộc nơi đây thể hiện một cách mạnh mẽ kể từ khi có Đảng lãnh đạo, đặc biệt là từ khi Chi bộ, Đảng bộ xã Tân Trịnh được thành lập đã tích cực vận động nhân dân đi theo tiếng gọi của Đảng, Bác Hồ. Nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã đóng góp công sức vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, bảo vệ toàn vẹn biên giới lãnh thổ, và đặc biệt là sau 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh đã giành được những kết quả tương đối toàn diện, kinh tế có bước phát triển. Trong những năm trở lại đây; được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền huyện, sự sáng suốt, quyết tâm của cấp ủy, chính quyền xã, sự cố gắng không ngừng của nhân dân các dân tộc trong xã, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân xã Tân Trịnh không ngừng được cải thiện và nâng cao, nhân dân đã được hưởng những phúc lợi về vật chất, tinh thần như điện lưới Quốc gia, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, các thiết bị nghe nhìn, hệ thống trường học, trạm y tế được xây dựng kiên cố, khang trang. Việc triển khai thực hiện các phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, phòng trào xây dựng Nông thôn mới ở các thôn đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nếp sống văn hóa được xây dựng và củng cố vững chắc, bộ mặt nông thôn ngày càng được khởi sắc và đổi mới. Đây cũng là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân xã Tân Trịnh tiếp tục khai thác, phát huy để xây dựng quê hương Tân Trịnh ngày càng giàu mạnh, văn minh. 8
- Chương II Nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975) I. Nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh tham gia cuộc vận động cách mạng, xây dựng chính quyền (1945-1950) Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại, quyết định toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử; bắt đầu lãnh đạo xây dựng phong trào cách mạng tại các địa phương trên cả nước, Đảng lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, với đặc thù là tỉnh miền núi, đất rộng, người thưa, đa số là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí thấp, nhân dân lại bị sự kiểm soát gắt gao của bọn Chánh tổng, Lý trưởng - tay sai của thực dân Pháp, nên tại Hà Giang việc gây dựng phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn, phong trào cách mạng phát triển muộn hơn so với các địa bàn khác trên cả nước. Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ngày 22-9- 1940 quân đội Nhật đã tiến đánh Lạng Sơn và Hải Phòng. Đến ngày 23-9- 1940, Pháp chấp nhận để Nhật cùng chiếm đóng và cai trị Đông Dương. Năm 1942, quân đội Nhật tới Hà Giang, lúc đầu chúng chỉ đóng ở tỉnh lỵ, thị trấn. Đầu năm 1945 tình hình thế giới có nhiều biến chuyển, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại, mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp ở huyện Bắc Quang lâm vào tình thế cô lập, bị động, chống đỡ yếu ớt rồi bỏ chạy, Nhật nhanh chóng chiếm đồn Yên Bình và tiến xuống đồn Quang Minh rồi rút về Bắc Quang. Sau ngày đảo chính, Nhật đã nhanh chóng nắm lấy và củng cố lại chính quyền tay sai ở địa phương, chúng tìm mọi cách thanh trừng những phần tử trung thành với Pháp, đưa bọn việt gian tay sai của Nhật vào bộ máy chính quyền bù nhìn. Ngày 1-6-1945 (Ngày 21-4 Ất Dậu) thi hành Chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 54 chiến sỹ do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba), Nam Hải (tức Bế Triều) lãnh đạo đã đến Bằng Hành tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng về kháng Nhật cứu nước, gây dựng cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh cao trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 7-6-1945, lực lượng vũ trang với sự đồng tình ủng hộ của đồng bào, Ủy ban Việt minh lâm thời xã Bằng Hành được thành lập gồm 7 đồng chí. Tháng 7-1945, tại Kim Ngọc (Ngòi Sảo), Ban lãnh đạo Việt Minh họp bàn kế hoạch, chia làm hai mũi tiến công: Một mũi do đồng chí Nam Long chỉ huy tiến theo tả ngạn sông Lô, giải phóng xã Trung Thành, Bạch Ngọc, Việt Lâm, rồi chiếm đồn Bắc Quang; một mũi do các đồng chí Lĩnh Thành, Bế Triều, Hồng Quang chỉ huy vượt qua sông Lô tiến thẳng sang phía tây. Lực lượng cách mạng phát triển sang các xã Hùng An, Việt Vinh, Tiên Kiều, Đồng Yên, 9
- Vĩnh Phúc, đi đến đâu cũng được quần chúng tham gia đông đảo. Đó là điều kiện thuận lợi để cán bộ Việt Minh nhanh chóng tập hợp được quần chúng tuyên truyền, giải thích chương trình, điều lệ của mặt trận Việt Minh, bầu ra Việt Minh các xã và tổ chức các đội tự vệ, các đoàn thể cứu quốc; đồng thời tổ chức các lớp huấn luyện đường lối, phương pháp tổ chức, lãnh đạo cách mạng ngắn ngày cho cán bộ Ủy ban các xã, Ban chỉ huy và các đội viên vũ trang của địa phương. Chính sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào cách mạng và ảnh hưởng sâu sắc từ Ủy ban Việt minh lâm thời xã Bằng Hành đã tác động đến tư tưởng và nhận thức của nhân dân các dân tộc trong xã Tân Trịnh. Như vậy, trong vòng 5 tháng, từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945, hòa chung với không khí cách mạng sôi nổi của cả nước, phong trào cách mạng của Hà Giang phát triển khá nhanh và mạnh. Bắc Quang đã trở thành một trong những khu căn cứ cách mạng quan trọng của tỉnh. Tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới kết thúc, phe Đồng minh toàn thắng. Trước tình hình chuyển biến mau chóng trên thế giới và trong nước, điều kiện cho tổng khởi nghĩa chín muồi, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng chuẩn bị gấp Hội nghị toàn quốc của Đảng và tổ chức Đại hội quốc dân. Người nhấn mạnh: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập. Từ 13 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang), Hội nghị nhận định: Điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Đảng phải kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại của Việt minh trong tình hình mới. Mười chính sách mới của Việt Minh thực hiện trong khu giải phóng được coi là chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng sau khi thắng lợi. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân đã nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh. Đại hội đã quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội quốc dân Tân trào, Đảng cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào, các đoàn thể cứu quốc, các cán bộ và chiến sỹ cả nước nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân cả nước nhất tề nổi dậy, đứng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền trong phạm vi cả nước. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Những sự kiện trọng đại này đã có tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong toàn tỉnh Hà Giang và huyện Bắc Quang. Nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện Bắc Quang phấn khởi, tin tưởng vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cả nước đưa cuộc đấu tranh cách mạng đến toàn thắng. 10
- Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Ở phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng ồ ạt kéo vào nước ta với danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai phản động trong hai tổ chức “Việt quốc”, “Việt Cách”. Ở phía Nam, quân đội Anh với danh nghĩa quân đội Nhật đã đồng lõa và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương. Trên đất nước ta lúc đó còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy. Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 04-11-1945 (tức ngày 30/9 Ất Dậu), huyện Bắc Quang được giải phóng, Ủy ban lâm thời huyện Bắc Quang được thành lập và ra mắt đồng bào. Việc giải phóng huyện Bắc Quang có chậm hơn so với toàn quốc. Điều đó cũng nói lên tính phức tạp, khó khăn riêng biệt trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Bắc Quang. Mặc dù huyện Bắc Quang được giải phóng, nhưng tình hình bấy giờ tương đối phức tạp (Bắc Quang mới giải phóng được một số xã như: Liên Hiệp, Bằng Hành, Kim Ngọc, Quang Minh, Hùng An, Tiên Kiều, Việt Lâm, Trung Thành, Bạch Ngọc, Đồng Tâm, Hảo Tân và xã Vinh Thịnh, còn các xã khác, trong đó có Tân Trịnh vẫn nằm trong vùng tạm chiến của địch). Bọn Việt Nam quốc dân Đảng vẫn còn một lực lượng khá lớn do Quản lộc cầm đầu khống chế Yên Bình, Xuân Giang, Tiên Yên. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng, đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng về chống “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, mặc dù lúc này xã Tân Trịnh vẫn nằm trong vùng tạm chiến của địch nhưng nhân dân xã đã đẩy mạnh việc phát triển sản xuất để đảm bảo đời sống. Phong trào chống giặc dốt cũng đã được đẩy mạnh triển khai, một số lớp bình dân học vụ cũng đã được mở với tinh thần “người biết chữ dạy người không biết chữ”. Từ ngày 24-9-1947 đến ngày 24-4-1948, lực lượng vũ trang Bắc Quang đã dập tắt vụ “Cờ trắng" do Trảo Sành Phú, dân tộc Dao, trú tại thôn Lùng Chún, xã Khuôn Lùng cầm đầu. Phú đề ra khẩu hiệu "giết Tày lấy ruộng, giết Kinh lấy muối, giết Hoa lấy bạc già". Bọn chúng đã hành động rất dã man như 11
- đốt nhà, cướp của trong nhân dân các xã Khuôn Lùng, Vinh Thịnh, Yên Bình, Thông Nguyên của huyện Bắc Quang và Hoàng Su Phì. Qua tìm hiểu nắm bắt tình hình và xác định rõ nguyên nhân của sự việc là do mâu thuẫn sắc tộc bị khơi dậy. Dựa vào tình trạng dân trí còn hạn chế, các thế lực phản động đã tuyên truyền lừa bịp, xúi giục đồng bào tin và đi theo chúng. Tại xã Tân Trịnh cũng xuất hiện nhóm “cờ trắng” nhưng chúng hoạt động chưa công khai, chưa kịp thành lập “tổ chức” thì đã bị lực lượng của ta kịp thời phát hiện. Trước tình hình trên, sau khi nắm rõ âm mưu và thủ đoạn của kẻ địch. Đảng đã phân tích, đánh giá tình hình và coi những người dân đã chót đi theo hoạt động "cờ trắng" không phải là kẻ thù của Đảng, của nhân dân nên cần giải quyết sớm không để thực dân Pháp kịp thời lợi dụng, nhúng tay vào nhằm chia rẽ dân tộc. Với sự phân tích, nhận định, đánh giá sự việc một cách khách quan, trung thực. Thực hiện sự chỉ đạo Trung ương Đảng, cần dùng lý lẽ để thuyết phục là chính, không nên dùng vũ lực để giải quyết. Đảng bộ huyện Bắc Quang đã họp thống nhất và quyết định cử các bậc phụ lão có uy tín trong cộng đồng cùng cán bộ tuyên truyền, vận động, giải thích chính sách "cứu nạn, cứu đói" cho toàn dân trong vùng "cờ trắng" hoạt động, biến vùng "cờ Trắng" thành hậu phương án ngữ, không cho bọn Phỉ ở Hoàng Su Phì lấn ra. Ông Nguyễn Văn Vinh (tức Đặng Tằng Dùng) người có uy tín ở xã Vinh Thịnh (Ngô Khê) đã được Huyện ủy Bắc Quang giao nhiệm vụ đi thuyết phục Trảo Sành Phú. Ông Vinh cùng cán bộ tuyên truyền đã đi vào các xã Tân Lập, Thông Nguyên, Khuôn Lùng tuyên truyền, giác ngộ đồng bào dân tộc Dao hạ "cờ Trắng" treo "cờ đỏ sao vàng" để theo cách mạng, không đi cướp của, đốt nhà của nhân dân. Với chủ trương, biện pháp đúng đắn lại được các bậc phụ lão có uy tín ở địa phương tích cực giúp đỡ, thuyết phục, được nhân dân tỉnh ngộ và ủng hộ, lực lượng "cờ trắng" đã nhanh chóng bị ngăn chặn và tan rã. Đến ngày 24 tháng 4 năm 1948 Trảo Sành Phú và 12 tên đầu sỏ đã ra đầu hàng cách mạng tại xã Vinh Thịnh (Ngô Khê), sau khi được giác ngộ Trảo Sành Phú và lực lượng "cờ trắng" đã tự nguyện tham gia đánh Pháp lập công chuộc tội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, cán bộ Việt Minh đã vận động, tuyên truyền, giác ngộ đồng bào tham gia phong trào cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước, đồng bào các dân tộc của huyện Bắc Quang đã đoàn kết lại, đi theo tiếng gọi của Đảng, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang chống lại ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, đánh đuổi các đảng phái phản động. Trong quá trình vận động quần chúng tham gia cách mạng, Bắc Quang đã xuất hiện những nhân tố tích cực. Được sự giúp đỡ trực tiếp của Tỉnh ủy, tháng 12 năm 1946, Bắc Quang đã kết nạp được 2 đồng chí đảng viên đầu tiên là Chu Đức Tung (xã Bạch Ngọc huyện Vị Xuyên ngày nay) và đồng chí Hoàng Thịnh Kinh (xã Việt Vinh ngày nay). Tiếp đó, Tỉnh ủy quyết định thành lập tổ đảng Bắc Quang gồm 4 đồng chí, do nữ đồng chí Phương Lâm làm tổ trưởng. Ngày 20-02-1947, xét thấy đủ điều kiện, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập Chi bộ cơ quan huyện Bắc Quang do nữ đồng chí Phương Lâm làm Bí thư. Chi bộ đảng Bắc Quang ra đời là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu 12
- bước phát triển mới trong phong trào cách mạng trong huyện. Từ đây, nhân dân các dân tộc huyện Bắc Quang dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết thành một khối vững chắc, vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do. Ngày 15-5-1947, Huyện ủy Bắc Quang được thành lập, đồng chí Phạm Gia Tuân được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. Sau khi thành lập, để phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng từ huyện đến cơ sở, Huyện ủy Bắc Quang tiếp tục kiện toàn tổ chức Đảng ở cơ sở, thành lập một số Chi bộ liên xã ở các tiểu khu thuộc huyện Bắc Quang như: Tiểu khu Thái Học, tiểu khu Trọng con, tiểu khu Yên Bình - Gia Tự. Để phát triển đảng viên tại các chi bộ, Đảng bộ huyện Bắc Quang đã cử đảng viên của Đảng bộ huyện xuống các chi bộ phối hợp, hướng dẫn thực hiện việc gây dựng phong trào và bồi dưỡng quần chúng ưu tú. Dưới sự quan tâm lãnh đạo của Đảng bộ huyện đến năm 1949, xã Tân Trịnh đã có 04 thanh niên ưu tú được bồi dưỡng và giới thiệu, kết nạp vào Đảng gồm: Đồng chí Hoàng Văn Lộc, Hoàng Phi A, Bế Lịch, Hoàng Ngọc Ẩn. Các đảng viên của xã được kết nạp và sinh hoạt tại Chi bộ Vinh Thịnh (Chi bộ Đảng ghép của 3 xã Tân Trịnh, Việt Quang và Việt Vinh). Năm 1948, xã Tân Trịnh được giải phóng. Tháng 5 năm 1948, Ủy ban hành chính lâm thời xã Tân Trịnh được thành lập. Đồng chí Hoàng Văn Nhật (tức cai Nhật) được chỉ định giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời. Sau khi Ủy ban kháng chiến hành chính xã Tân Trịnh được thành lập đã xác định rõ việc giải quyết cơ bản nạn đói là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trên cơ sở đó tăng cường công tác chỉ đạo, vận động nhân dân xã tích cực tăng gia sản xuất, khai hoang, mở rộng diện tích gieo cấy; tận dụng đất ở soi, bãi gieo trồng các loại cây hoa màu như ngô, khoai, sắn....Đi đôi với sản xuất, thực hiện chủ trương chống “giặc dốt”, phong trào bình dân học vụ trên địa bàn xã tiếp tục được mở rộng, phát triển nhằm thanh toán nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho người dân. Cùng với đó, Ủy ban kháng chiến hành chính, đoàn thể xã đã tuyên truyền, vận động các hộ xã viên, nhân dân tích cực động viên con em trong độ tuổi tham gia quân ngũ. Vì vậy thanh niên trên địa bàn xã Tân Trịnh đã hăng hái đăng ký lên đường nhập ngũ. Tháng 12-1949, Bắc Quang tiến hành công tác nhập xã. Xã Tân Trịnh được sáp nhập từ hai xã Tân Lộc, Trịnh Trang. Hai xã Mục Hà, Hồng Yên thành xã Yên Hà; hai xã Vĩnh Tuy, Hảo Tân thành xã Vĩnh Hảo. Sau khi được sáp nhập, bộ máy chính quyền xã được củng cố, kiện toàn để bảo đảm công tác lãnh đạo. Đồng chí Lý Văn Hò được bầu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính, đồng chí Hoàng Ngọc Phòng và Hoàng Văn Lỵ được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã. Đầu năm 1950, Ủy ban hành chính xã Tân Trịnh tiến hành bầu cử. Ông Lương Văn Phú được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính, ông Hoàng Văn Nhật được bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban hành chính, ông Hoàng Ngọc Phòng làm thư ký. Trải qua thời kỳ khó khăn gian khổ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Bắc Quang, chính quyền cách mạng được thành lập là kết quả quan 13
- trọng đánh dấu sự nỗ lực của nhân dân xã Tân Trịnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng bước sang thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng, củng cố chính quyền và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Công tác quốc phòng – an ninh được quan tâm. Đội dân quân tự vệ xã được thành lập gồm 30 người. Nhiệm vụ của đội dân quân tự vệ xã là vừa sản xuất, vừa luyện tập, phối hợp với bộ đội chủ lực thực hiện các nhiệm vụ tác chiến để bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân an tâm sản xuất. Để bồi dưỡng phương pháp, nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ, ngày 20-2-1949 huyện Bắc Quang mở lớp huấn luyện công tác của Ủy ban hành chính tại xã Tiên Kiều cho 20 cán bộ ủy ban các xã trong huyện. Xã Tân Trịnh đã cử 03 đồng chí cán bộ gồm Lý Văn Hò, Hoàng Ngọc Phòng, Hoàng Văn Lỵ đi học tập, tiếp thu. Trong những năm 1945-1949, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ Việt Minh, Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng, tích cực thực hiện các nhiệm vụ căn cứ địa kháng chiến của tỉnh. Tại đây, bộ máy cai trị cũ bị xóa bỏ hoàn toàn, cơ sở cách mạng ngày càng lớn mạnh. II. Chi bộ xã Tân Trịnh được thành lập lãnh đạo nhân dân xã tích cực đẩy mạnh tăng gia sản xuất, góp phần tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp (1950-1954) Ngày 17-4-1950, Huyện ủy Bắc Quang quyết định chia tách Chi bộ xã Vinh Thịnh thành 03 Chi bộ gồm: Chi bộ xã Tân Trịnh và Chi bộ xã Việt Vinh, Chi bộ xã Việt Quang. Khi thành lập Chi bộ xã Tân Trịnh có 04 đồng chí đảng viên gồm: Hoàng Mạnh Lộc, Hoàng Văn Phia, Bế Lịch, Hoàng Ngọc Ẩn. Đồng chí Bế Lịch (quê quán tỉnh Cao Bằng) được chỉ định giữ chức Bí thư Chi bộ lâm thời. Chi bộ Đảng xã Tân Trịnh được thành lập đánh dấu một bước phát triển mới trong phong trào cách mạng của xã. Ngay sau khi được thành lập, Chi bộ đã nhanh chóng tập trung chỉ đạo, củng cố bộ máy chính quyền, các đoàn thể và lực lượng dân quân du kích, phân công từng đồng chí đảng viên và cán bộ xuống các thôn bản tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước. Đến năm 1950, mặc dù “Loạn cờ trắng” đã bị dập tắt nhưng những ảnh hưởng bởi “Loạn cờ trắng” vẫn còn để lại những hậu quả. Đa số đồng bào các dân tộc ở đây không biết chữ, còn mang nặng tư tưởng mê tín dị đoan; tập quán canh tác lạc hậu, sự đoàn kết thống nhất trong một bộ phận nhân dân chưa cao. Nhiệm vụ đặt ra cho chính quyền xã lúc này là vừa xây dựng chính quyền, vừa chỉ đạo, vận động nhân dân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất, giải quyết nạn đói, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào “Bình dân học vụ” để nâng cao trình độ văn hóa gắn với đấu tranh chống tàn dư, tay sai của Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bắc Quang, Chi bộ xã Tân Trịnh đã lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh lao động sản xuất, khai hoang, khục hóa cải tiến kỹ thuật canh tác, tăng cường chăm sóc ruộng nương kết hợp với việc đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, vận động thi đua sản xuất đi đôi với tiết 14
- kiệm tiêu dùng đảm bảo nhu cầu của nhân dân đồng thời để đóng góp cho kháng chiến. Tiếp tục thực hiện phong trào chống "giặc đói" của Hồ Chủ tịch, tiểu Ban cứu tế xã hội của xã đã được thành lập. Với tinh thần “nhường cơm, xẻ áo”, tiết kiệm, nhân dân xã Tân Trịnh đã tuyên truyền, vận động những gia đình có điều kiện khá hơn để giúp đỡ cho các gia đình khó khăn vay 5.600 kg thóc, 2.300 kg gạo. Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã, ruộng đất của phú nông đã được chính quyền thu lại và phân chia cho những gia đình chưa có đất sản xuất. Bằng các biện pháp tích cực, xã Tân Trịnh dần dần đẩy lùi được nạn đói, cuộc sống nhân dân từng bước được ổn định, tích cực tham gia đóng góp thóc gạo, thanh niên hăng hái tham gia tòng quân. Phong trào bình dân học vụ cũng được chính quyền xã quan tâm, thu hút được nhiều người dân ở mọi lứa tuổi tham gia. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình đi lại khó khăn, xã chỉ mở được 1 lớp học bình dân học vụ. Bên cạnh đó, phong trào xây dựng đời sống mới lành mạnh, tiết kiệm, giảm tốn kém trong ma chay, cưới xin, bài trừ mê tín dị đoan cũng được xã chú ý vận động. Trong thời gian này, quân Pháp ra sức tìm mọi cách để giành lại thế chủ động, chúng đẩy mạnh các hoạt động phá hoại hậu phương của ta. Ở vùng cao biên giới, thực dân Pháp và sự can thiệp thô bạo của Mỹ còn nuôi dưỡng bọn Phỉ hoạt động để chống phá cách mạng, chúng dùng thủ đoạn tuyên truyền gây chia rẽ giữa người Kinh, người Tày và các dân tộc khác trên địa bàn của ta. Đồng thời bằng mọi cách chúng xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta, chống việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, không chịu đi dân công, gây nhiều khó khăn, cản trở cho chính quyền các cấp trong việc chỉ đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc. Lúc này ở xã Tân Trịnh và nhiều nơi khác trong huyện Bắc Quang, do trình độ dân trí thấp nên một bộ phận quần chúng nhân dân đã bị dao động, tin và làm theo sự xúi giục của bọn chúng. Trước tình hình đó huyện ủy Bắc Quang đã ra Chỉ thị và cử một đoàn cán bộ xuống xã Tân Trịnh làm nhiệm vụ chấn chỉnh cở sở, đẩy mạnh mọi mặt công tác. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang, triển khai các nhiệm vụ đấu tranh chống âm mưu gây bạo loạn của bọn phản động, Chi bộ đã phân công các đồng chí đảng viên xuống từng thôn bản, từng hộ gia đình trong xã làm nhiệm vụ tuyên truyền, hướng dẫn phát triển sản xuất. Thực hiện chính sách giảm tô thuế 25%, chính quyền xã đã thực hiện điều chỉnh, bổ sung việc tạm chia ruộng đất cho nông dân nghèo. Có ruộng đất canh tác, lại được giảm tô thuế nên bà con nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã đã phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, khắc phục mọi khó khăn. Để tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, vụ mùa năm 1952 Chi bộ xã phát động phong trào "cày sâu bừa kỹ", khai phá ruộng mới, đào kênh mương dẫn nước về ruộng, làm cỏ, bón phân theo đúng kỹ thuật. Phong trào sản xuất nông nghiệp đã được đồng bào hưởng ứng và trở thành phong trào sôi nổi, rộng khắp. Các thôn bản đẩy mạnh phương thức đổi công truyền thống, phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Mặt khác, xã đẩy mạnh tuyên truyền giải thích để giảm dần nạn du canh, du cư chuyển dần sang định canh, định cư, tích cực khai hoang phát triển diện tích trồng lúa nước. Cuối năm 1952, tổng diện tích phục hóa 15
- toàn xã khoảng 3 ha, số diện tích khai phá mới khoảng 23 ha, số kênh mương đào mới được 5 con mương với tổng chiều dài bằng 2.300m. Tiêu biểu trong việc phục hóa, khai phá đất đai và mở rộng kênh mương có các thôn như: thôn Vén, Bản Lý, Tả Ngảo, Nậm Khẳm, Nậm O và thôn Lủ. Thông qua việc thực hiện chủ trương của Đảng tại địa bàn xã, được sự giúp đỡ trực tiếp của Huyện ủy Bắc Quang, trên địa bàn xã đã phát hiện, giới thiệu được một số quần chúng ưu tú, qua quá trình rèn luyện đã được kết nạp đảng 04 đồng chí gồm: Đồng Lý Văn Hò, Hoàng Ngọc Phòng, Lý Văn Sáng, Hoàng Kim Thú. Tháng 4-1953, Đại hội Chi bộ xã Tân Trịnh lần thứ nhất (nhiệm kỳ 1953-1955) được triệu tập. Dự Đại hội có 14/18 đồng chí đảng viên. Đại hội đã tổng kết công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ từ khi thành lập Chi bộ đến nay và đề ra một số nhiệm vụ chủ yếu: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; vận động nhân dân tích cực thực hiện các phong trào thi đua lao động sản xuất, phấn đấu cấy hết 100% diện tích, tập trung chăm sóc cây trồng, vật nuôi nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập, ổn định đời sống nhân dân, hoàn thành 100% kế hoạch Nhà nước giao; phát huy vai trò của chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội; vận động thanh niên lên đường nhập ngũ và thực hiện tốt chính sách hậu phương. Đại hội đã bầu 5 đồng chí trong Ban Chi ủy gồm: đồng chí Bế Lịch, Lý Văn Hò, Hoàng Ngọc Phòng, Hoàng Văn Lỵ, Chu Thái Tinh, chi ủy viên. Đồng chí Bế Lịch được bầu làm Bí thư Chi bộ. Thực hiện Nghị quyết đã đề ra, Chi bộ Tân Trịnh đã lãnh đạo, tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc tích cực tham gia, hưởng ứng, đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện biên phủ để cùng với nhân dân cả nước đưa sự nghiệp kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã, phong trào phát triển sản xuất được đẩy mạnh một bước và nhận được sự hưởng ứng tham gia của nhân dân. Việc mở rộng diện tích trồng lúa nước và phát triển hoa màu để đảm bảo lương thực được nhân dân xã đẩy mạnh triển khai. Cùng với đó, Chi bộ xã đã tích cực củng cố, bổ sung lực lượng du kích, dân quân tự vệ và công an xã đồng thời quan tâm thực hiện tốt công tác trị an, động viên con em các dân tộc trên địa bàn xã tham gia tòng quân kháng chiến. Phong trào văn hóa, văn nghệ được phát động sâu rộng trong các thôn xóm. Các hoạt động văn hóa văn nghệ nội dung được tập trung chủ yếu về việc tuyên truyền tinh thần yêu nước, tích cực tham gia kháng chiến, thực hiện nếp sống văn minh, cổ vũ động viên phong trào lao động sản xuất. Trong hai năm 1953 -1954, thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh về mở các lớp chỉnh Đảng, chỉnh huấn, chỉnh quân cho cán bộ, đảng viên và chiến sỹ lực lượng vũ trang nhằm nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, chính quyền và các đơn vị bộ đội. Chi bộ đã tiến hành kiểm điểm, đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm điểm đảng viên. Qua kiểm điểm cho thấy, đội ngũ đảng viên đã nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người đảng viên; đã đề ra nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động nhân dân thực 16
- hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, phù hợp với điều kiện về phong tục, tập quán của nhân dân trên địa bàn. Ngày 07-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngày 20-7-1954 thực dân Pháp buộc phải ký vào bản Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dương. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo sát sao của Chi bộ, nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh đã nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong những năm 1945-1954 đã có nhiều người con của xã lên đường tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong đó có 20 đồng chí là liệt sỹ, 09 đồng chí là thương binh, bệnh binh. Ngoài ra còn có nhiều đồng chí tham gia làm giao thông liên lạc, dân công. III. Chi bộ xã Tân Trịnh lãnh đạo nhân dân khôi phục kinh tế, ổn định đời sống, tích cực thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương chống chiến tranh phá hoại (1954- 1967) Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bước vào công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, Chi bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh bước vào một giai đoạn cách mạng mới với những thuận lợi và khó khăn riêng của địa phương. Tháng 5-1955, Đại hội Chi bộ xã lần thứ II (nhiệm kỳ 1955-1958) được triệu tập. Tham dự Đại hội có 16/21 đảng viên. Đại hội đã tổng kết đánh giá công tác lãnh chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ (1953-1955) và đề ra một số nhiệm vụ: Đẩy mạnh các phong trào thi đua sản xuất; tập trung chăm sóc tốt cây trồng, vật nuôi nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập; tích cực mở các lớp bình dân học vụ; tăng cường công tác chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể xã hội; quan tâm phát triển đảng viên mới. Đại hội bầu đồng chí Hoàng Văn Son làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Lý Văn Sáng, Phó Bí thư Chi bộ; đồng chí Hoàng Văn Lỵ, Chu Phúc Lộc, Chi ủy viên. Thực hiện Nghị quyết đã đề ra, Chi bộ xã đã lãnh đạo nhân dân chủ động đẩy mạnh việc khai phá diện tích trồng lúa nước, diện tích gieo trồng các loại cây ăn quả, cây màu như ngô, khoai, sắn... Các phong trào thi đua ái quốc như mua công trái quốc gia, mua công phiếu kháng chiến, quyên góp nuôi quân, ủng hộ kháng chiến do Hồ Chủ tịch và Chính phủ phát động được nhân dân hưởng ứng. Mọi phong trào đóng góp cho công quỹ kháng chiến và kiến quốc đều do nhân dân tự nguyện tham gia và đã trở thành phong trào sôi nổi của quần chúng, trở thành quyền lợi của mỗi người dân yêu nước. Qua các phong trào đó, toàn xã đã thu được trên 500 đồng tiền Đông Dương (mua công phiếu), chị em phụ nữ vận động gia đình đóng góp được hơn 150kg gạo ủng hộ kháng chiến. Công tác giáo dục đã được thực hiện tốt. Xã đã mở được trường cấp I tại xã, bắt đầu chính thức đi vào hoạt động năm học 1954-1955. Trưởng cấp I 17
- có 4 lớp với 28 học sinh, có 4 giáo viên tham gia giảng dạy và học tập. Đồng thời phong trào "bình dân học vụ" vẫn được phát triển sâu rộng tại các thôn bản và được mọi hưởng tích cực hưởng ứng tham gia học tập. Làng nào, thôn nào cũng mở lớp học với tinh thần "người biết chữ nhiều dạy người biết chữ ít”. Công tác y tế được đẩy mạnh. Ban y tế xã được thành lập. Sau khi được thành lập, các thành viên trong Ban đã tích cực xuống các thôn, bản hướng dẫn bà con ăn, ở hợp vệ sinh, phòng, chống một số dịch bệnh, vận động bà con giữ gìn nguồn nước sạch, phát quang bụi rậm quanh nhà, làm chuồng nuôi gia súc xa nhà, xóa dần hủ tục cúng bái khi trong nhà có người đau ốm. Chi bộ Đảng xã đặc biệt quan tâm đối với công tác xây dựng và phát triển Đảng, coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên. Trước hết trong các đồng chí đảng viên, từ củng cố đoàn kết trong Chi bộ Đảng, nhân dân xã cũng đã thể hiện tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong các phong trào phát triển sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, thực hiện hoàn thành mọi nhiệm vụ của cách mạng. Bên cạnh đó, Chi bộ Đảng đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh tích cực đóng góp sức người, sức của, tích cực tham gia dân công phục vụ các chiến dịch như: Chiến dịch Đông xuân 1953-1954 đã có 15 người đi tham gia làm đường giao thông, tải lương thực ra mặt trận. Năm 1954, xã huy động thêm 32 người đi dân công vận chuyển lương thực, đạn dược, tiếp tế cho mặt trận Điện Biên Phủ. Trong những năm 1950-1955, qua quá trình thực tiễn lãnh đạo cách mạng trên địa bàn, mặc dù lực lượng cán bộ, đảng viên còn mỏng, trình độ năng lực của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, nhưng Chi bộ đã phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường, ra sức phát huy những mặt ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm lãnh đạo nhân dân phát triển sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, có những đóng góp vào chiến thắng vĩ đại, thần thánh của dân tộc. Thực hiện chủ trương của mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam về xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân được cụ thể trong Cương lĩnh của Đại hội mặt trận dân tộc thống nhất huyện Bắc Quang (1955), Chi bộ Đảng xã đã tuyên truyền rộng rãi các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đến đông đảo đồng bào nhân dân trong xã. Qua đó đã tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào các tổ chức thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Phụ lão, Đoàn Thanh niên... Đồng thời, Ủy ban hành chính xã đã phát động nhân dân thực hiện các phong trào tăng gia sản xuất, khơi dậy tinh thần “tương thân, tương ái”, “nhường cơm xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau cùng vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Từ năm 1955 đến năm 1957, Chi bộ, chính quyền xã và các đoàn thể nhân dân luôn được củng cố và xây dựng ngày một vững mạnh. Chi bộ thường xuyên chỉ đạo đảng viên và cán bộ làm tốt công tác tư tưởng cho nhân dân, kịp thời định hướng cho nhân dân bắt tay vào triển khai thực hiện các nhiệm vụ khôi phục sản xuất sau chiến tranh, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng 18
- trước các phần tử phản động ở địa phương, nên tình hình an ninh, chính trị xã hội nơi đây đã sớm đi vào hoạt động và cơ bản ổn định về mọi mặt. Công tác phát triển văn hóa, giáo dục cũng được quan tâm rất nhiều. Đặc biệt phải kể đến đó là công tác xóa mù chữ, qua đó đã từng bước nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng được đẩy mạnh. Chi bộ, thường xuyên phát động những đợt tuyên truyền, sinh hoạt chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt quán triệt tinh thần của nhân dân ta trong thực hiện phong trào đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thực hiện Hiệp định Giơ-Ne-vơ, lên án Mỹ xâm lược miền Nam. Tháng 4-1958, Đại hội Chi bộ Tân Trịnh lần thứ III (nhiệm kỳ 1958 - 1961) được triệu tập. Đại hội có 18/22 đồng chí đảng viên chính thức. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 1955-1958 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1958-1961: Tiếp tục củng cố và phát triển các hợp tác xã, vận động các thôn bản thành lập hợp tác xã đạt 100%; tập trung phát triển cây lương thực, cây hoa màu, vận động nhân dân đưa giống mới vào sản xuất và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi; hoàn thành tốt các loại nghĩa vụ đối với Nhà nước, phát triển văn hóa, thể thao; tiếp tục đưa hoạt động của các đoàn thể đạt hiệu quả. Đại hội đã bầu đồng chí Lương Văn Phú làm Bí thư Chi bộ. Đồng chí Hoàng Ngọc Phòng, Phó Bí thư Chi bộ. Các đồng chí Hủng Minh Khai, Phù Quang Tân, Chu Đình Bảo, Chi ủy viên. Thực hiện Nghị quyết đã đề ra, Chi bộ xã Tân Trịnh đã lãnh, chỉ đạo các thôn đẩy mạnh việc thành lập các tổ đổi công, bình công chấm điểm. Thôn Vén là thôn đầu tiên thành lập được các tổ đổi công. Cũng từ đây trở đi, phong trào tổ đổi công được đẩy mạnh ở các thôn. Trên cơ sở của việc thí điểm xây dựng tổ đổi công và việc học tập kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã, phong trào xây dựng Hợp tác nông nghiệp, hợp tác xã mua bán trên địa bàn xã Tân Trịnh từng bước được đẩy mạnh. Tháng 5/1959, hợp tác xã nông nghiệp được thành lập đầu tiên tại thôn Vén. Tiếp đó, hợp tác xã mua bán đầu tiên trên địa bàn xã cũng đã được thành lập và đi vào hoạt động, qua đó đã kịp thời cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân như dầu hỏa, muối ăn, vải vóc, các tư liệu sản xuất, sách vở học sinh... phục vụ đời sống sinh hoạt của đồng bào. Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và của tỉnh về giảm tô, cải cách dân chủ, năm 1959 xã Tân Trịnh đã tiến hành giảm tô cho nhân dân. Để đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, Chi bộ Tân Trịnh đã giao nhiệm vụ cho các đảng viên phối hợp với chính quyền xã căn cứ vào điều kiện thực tiễn tại các thôn bản, để đề ra phương hướng và thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, vận động nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi. Do đó diện tích và năng suất trong sản xuất nông nghiệp của xã đã tăng hơn so với giai đoạn trước. Hàng năm, xã luôn hoàn thành việc thực hiện chỉ tiêu nghĩa vụ đối với chính sách thuế nông nghiệp do huyện giao. Tuy nhiên, năm 1959 trên địa bàn xã Tân Trịnh gặp rất nhiều khó khăn, do thời tiết khí 19
- hậu không thuận lợi, mùa màng bị sâu bệnh phá hoại, một số thôn diện tích lúa của nhân dân gần như bị mất trắng. Trước tình hình đó, Chi bộ, chính quyền, đoàn thể xã đã ra quân phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ mùa màng. Do vậy đã khắc phục được một phần diện tích sản xuất của nhân dân. Các phong trào văn hóa - xã hội của xã cũng được phát triển mạnh mẽ. Các lớp xóa mù chữ đã thu hút được nhiều người dân tham gia. Các tập tục lạc hậu từng bước được đẩy lùi. Nhân dân tích cực xây dựng cuộc sống mới tiến bộ hơn. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, phát triển đảng viên mới thường xuyên được quan tâm. Chi bộ đã thường xuyên quán triệt đến các đảng viên về chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Công tác phát hiện, bồi dưỡng quần chúng ưu tú được quan tâm. Năm 1960, Chi bộ Tân Trịnh kết nạp thêm 03 đồng chí đảng viên: Triệu Văn Nàm, Đặng Thị Nga, Hoàng Quang Hảo, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 25 đồng chí… Bên cạnh kết quả đã đạt được trong công tác phát triển đảng viên mới, trình độ của nhiều đảng viên, cán bộ còn thấp, dẫn đến việc chuyển tải chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ở địa phương gặp nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 1955-1958, việc củng cố hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội phụ nữ, phụ lão được củng cố và từng bước phát triển. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là việc thực hiện các phong trào thi đua lao động, sản xuất được đẩy mạnh triển khai. Bên cạnh đó, việc vận động các gia đình cho con em trong độ tuổi thanh niên lên đường tòng quân nhập ngũ góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở chiến trường miền Nam cũng đã được quan tâm triển khai. Công tác y tế trên địa bàn xã có bước phát triển mới. Năm 1959, trạm y tế xã Tân Trịnh được thành lập. Đồng chí Trần Văn Kiểu (tức cụ Tâm) là trạm trưởng trạm y tế đầu tiên của xã. Trạm y tế xã có 01 y tá và 01 nữ hộ sinh. Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất, cán bộ y tế xã còn thiếu nhưng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã được quan tâm thực hiện thường xuyên. Tháng 3-1961, Đảng bộ tỉnh Hà Giang tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ III. Đại hội đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhằm đạt được mục tiêu cơ bản là: Đoàn kết nhân dân các dân tộc, đưa tỉnh Hà Giang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện đưa vùng cao tiến kịp vùng thấp, vùng biên giới tiến dần lên kịp vùng nội địa… Nhân dịp này, Hà Giang vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh lên thăm, trong buổi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc Hà Giang, Bác đã căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang: “Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Hai là, đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người áo ấm, cơm no. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
131 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn