intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Lịch sử ngoại giao Việt Nam: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Lịch sử ngoại giao Việt Nam Phần 2 do tác giả TS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh, PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy biên soạn, cung cấp cho người học những kiến thức như ngoại giao Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975); ngoại giao Việt Nam trong thời kì xây dựng, bảo vệ tồ quốc, đồi mới và hội nhập quốc tế (1975 - 2015). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Lịch sử ngoại giao Việt Nam: Phần 2

  1. Chương 3 NGOẠI GIAO V IỆT NAM TRONG TH ỜI KÌ KHÁNG CHIÊN CHỐNG Mĩ CỨU NƯỚC ( 1 9 5 4 - 1 9 7 5 ) M ụ c đ ích yêu cầu : - Bối cảnh lịch sử của việc đề ra chủ trirơng và hoạt động ngoại giao của Việt Nam từng thời kỳ trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. - Chủ trương và các hoạt động ngoại giao của Việt Nam từ sau ngày kí kết Hiệp định Giơnevơ 1 9 5 4 đến trước Hội nghị Pari 1 97 3 - Quá trình đấu tranh ngoại giao của Việt Nam đê đi đến ký kết Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh lập lại hoàn bình ử Việt Nam. 3 .1 . Ngoại giao Việt Nam giai đ o ạ n 1 9 5 4 - 1 9 6 7 3.1.1. Hoàn cảnh lịch s ử Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 195 4, tình hình thế giới có nhũng thuận lợi đáng kể: Chủ nghĩa xã hội sau khi hình thành hệ thống, đã phát triển mạnh mẽ, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới nố ra rộng rãi, sôi nổi. Sức mạnh tổng hợp của ba yếu tố trên đã tạo nên thế tiển công toàn diện vào chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ phong trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào cách mạng ở Việt Nam thời kỳ 1 9 5 4 - 1 9 6 7 nói riêng. Cũng trong thời kỳ này, trong nội bộ của chủ nghĩa tư bản cũng có những biến động đáng kể. Là cường quốc số 1 thế giới, mục tiêu nhất quán trong chính sách đối ngoại của Mĩ là giành, giữ ảnh h ư ỏn g thị trường thế giới và trử thành bá chủ thế giới. Sau Chiến tranh thế giới II, Mĩ thực hiện chiến lược toàn cầu, ráo riết
  2. chạy đua vũ trang, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước, tổ chức đảo chính, dựng lên những chính quyền bù nhìn tay sai. Chiến lược toàn cầu của Mĩ gồm có chiến lược chung (chiến lược tổng quát) và chiến lược quân sự toàn cầu. Chiến lược chung bao gồm những quan điểm, tư tưởng và phương hướng chỉ đạo chiến lược cho tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao và thường được mang tên học thuyết hoặc chủ nghĩa (Học thuyết ToTuman có chiến lược quân sự toàn cầu là "chiến lirợc ngăn chặn"; Chủ nghĩa Aixenhao có chiến lược quân sự toàn cầu là "trả đũa ồ ạt"; Học thuyết Kennơdy có chiến lược quân sự toàn cầu là "phản ứng linh hoạt"...). Mĩ đã giương cao khẩu hiệu “Chống bành trướng của chủ nghĩa cộng sản” làm ngọn cờ chủ đạo để tập hợp lực lượng trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh với nhiều tên gọi khác nhau như "Ngăn chặn và đẩy lùi”, "Trả đũa ồ ạt”, "Bên miệng hố chiến tranh". Thực hiện âm mưu bá chủ thế giới, Mĩ tập hợp các nước đế quốc trong các liên minh quân sự do MI căm đầu: Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), khối CENTO ở Trung Cận Đông ( 1 9 5 9 ) , và nhiều hiệp định song phương khác... Trong quá trình điều chỉnh chiến lược ngăn chặn ở Châu Á, giới chiến lược quân sự Mĩ phát hiện thấy lúc này hướng yếu nhất trong chiến lược của Mĩ ở Châu Á là Đông - Nam Á, một khu vực rộng lớn tiếp xúc với Trung Quốc ở phía Nam. Đông - Nam Á có tầm quan trọng về chiến lược, nó kiểm soát cửa ngõ ra vào giữa hai biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Chiến lược ngăn chặn Đông Nam Á bắt đầu và Đông Dương trở thành trọng điểm của chiến lược này. Sau m ột thời gian dài tiến hành chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang, cuộc ganh đua giữa hai cường quốc Xô - Mĩ đã bắt đâu chững lại, thay vào đó là xu thế hoà hoãn. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lăn thứ XX (1 9 5 6 ), N.Khơrútxôp chính thức lên
  3. nắm quyền, đưa ra kế hoạch nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ s ở vật chất của Chủ nghĩa cộng sản trong vòng 2 0 năm. Để thực hiện mục tiêu đó, Liên Xô đã đề nghị với Mĩ giảm b ớ t chạy đua vũ trang, giũ’ nguyên trạng Châu Âu với khẩu hiệu "Thi đua hoà bình", “Chung sống hoà bình, tập trung xây dụng kinh tế, ổn dịnh tình hình chính trị". Đối với phong trào cách mạng thế giới, Liên Xô chủ trương đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình. Sau khi hoà bình lập lại ử Đông Dương, Trung Quốc tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, duy trì và m ở rộng quan hệ với Liên Xô, tỏ thái độ hoà hoãn với Mĩ và tìm cách bình thu ờng hoá với một số nước phương Tây. Trên con đường tập hợp lực lượng, Trung Quốc chủ trương lấy vấn đề ủng hộ Việt Nam làm khẩu hiệu thu phục nhân tâm. Trung Quốc xem Việt Nam là đối tác trung gian tốt nhất để có thê’ đua ra đàm phán với Liên Xô và Mĩ khi cần th iế t Để khống chế được Việt Nam, Trung Quốc vận động Việt Nam thi hành tốt Hiệp định Giơnevơ năm 19 5 4 , viện trợ cho Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh. Riêng đối với miền Nam, Trung Quốc cho rằng ta nên trường kỳ mai phục, không nên nóng vội phát động đấu tranh vũ trang. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là tập trung xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vững mạnh, trở thành cơ s ở vũ ng chắc cho cách mạng cả nước. Thái độ này của Trung Quốc là hoàn toàn dễ hiểu. Một trong những nét nổi bật nhất của chính sách ngoại giao của Trung Quốc đó là thường xuyên muốn duy trì hoà bình ở sườn phía Nam bằng cách thiết lập một sự cân bằng dựa trên sự kình địch giữa các quốc gia trong khu vực. Song song với xu thế hoà hoãn Xô - Mĩ, trong thời gian này, lịch sử thế giới còn chứng kiến những bất đồng nảy sinh trong phc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là mâu thuẫn Xô - Trung. Thực ra, mâu
  4. thuẫn này đã xuất hiện từ năm 1945 sau khi Hội nghị Ianta diễn ra, Mao Trạch Đông đã không tán thành việc đi theo đường lỗi của Liên Xô, ông chủ trương dựa vào Mĩ để tiến lên. Quan hệ Liên Xô - Trung Quốc dịu đi sau cuộc chiến tranh Triều Tiên ( 1 9 5 0 - 1 9 5 3 ) và ngày càng tốt đẹp, đánh dấu bằng các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước như: Chủ tịch Mao Trạch Dông thăm Matxcơva và ký Hiệp ước Xô - Trung ( 2 / 1 9 5 0 ) ; Khorutxôp thăm Trung Quốc (tháng 1 0 /1 9 5 4 )... Kết quả của mối quan hộ tốt đẹp này là m ột bản tuyên bố giữa các Đảng cộng sản đã được công bố. Tuy nhiên, sau Hội nghị Matxccrva năm 1957, quan hộ Xô - Trung lại dần trở nên nguội lạnh và ngày càng có nhiều bất đồng gay gắt giữa 2 Đảng, 2 nước xung quanh những vấn đề lý luận, đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế như lời tuyên bố của Khơrutxôp: Cuộc xung đột với Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Mâu thuẫn Xô - Trung đã làm cho tình hình thế giới phức tạp, từ một trụ cột của các nước xã hộl chủ nghĩa, Trung Quốc đã xem Liên Xô là kẻ thù thứ nhất của phong trào cách mạng thế giới. Mối quan hệ Liên Xô - Trung Quốc và Mĩ đã có những tác động mạnh mẽ tới Việt Nam nói riêng, các nước thuộc địa nói chung thời kỳ này. Cả Liên Xô và Trung Quốc trong xu thế hoà hoãn với Mĩ và mâu thuẫn với nhau như vậy đều muốn sử dụng Việt Nam như một lá bài trong các cuộc thương thuyết vì quyền lợi của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, Việt Nam chịu sức ép rất lớn từ cả hai phía Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải có chính sách chiến lược như thế nào trong một tổng thể quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô - Mĩ chồng chéo, đan xen nhau. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thòi kỳ này phải trên cơ sờ phân tích một cách họp lý, phù hợp với từng nước, dựa trên nguyên tác đối ngoại chung
  5. làm sao vừa thu hẹp được những bất đồng giữa các nước đồng minh vừa giữ vũng được đường lối độc lập, tự chủ của mình. Chính quyền Kennedy điều chỉnh chiến lược chính trị, quân sự, đối ngoại từ chiến lược"trả đũa ồ ạt” sang chiến lược “phản ứng linh hoạt” với ba mức độ "chiến tranh đặc biệt”, "chiến tranh cục bộ”, "chiến tranh hạt nhân”. ử trong nước, cuộc kháng chiến bcn bỉ, anh dũng của nhán dân Việt Nam mà đỉnh cao thắng lợi là chiến dịch Diện Biên Phủ đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ ( 7 / 1 9 5 4 ) , công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Đây là một thắng lợi lớn của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Thắng lợi đó đã m ở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới, với nhũng điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc, căn bản hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sử vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, chính quyền Aisenhao đã kiên quyết biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng, là “thành trì chống chủ nghĩa cộng sản", là "cơ sở để chứng minh cho nền dân chủ ở châu Á của Mĩ” theo tuyên bố của Ngoại trưởng Mĩ Đalet: Điều quan trọng nhất không phải là khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ hội tu-ơng lai nhằm ngăn cản không để mất miền Nam Việt Nam, để cuối cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương. Đê thực hiện được âm mưu trên, Mĩ đã áp đặt ở miền Nam Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà đặc điểm của nó là
  6. ở chỗ "được thực hiện không phải bằng hê thống cai trị trực riếp của bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo "dân tộc dân chủ giả hiệu”. Ngày 7 / 7 / 1 9 5 4 , Mĩ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng chính quyền Sài Gòn. Ngay sau khi lên nắm chính quyền, Mĩ - Diệm liên tiếp tiến hành những hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ ngày càng nghiêm trọng và có hệ thống. Sau chín năm kháng chiến, miền Nam chưa có ngày hoà bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước nhũng thử thách tưởng chừng khó vượt qua. Tình hình trên cho thấy đế quốc Mĩ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Dông Dương. Từ năm 1961, miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Sau hội nghị Trung ư ơ n g lần 15 và Đại hội Đảng lần III của Đảng Lao Động Việt Nam, ở miền Nam cao trào Dồng Khởi - cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang giành chính quyền làm chủ nhanh chóng phát triển thành cuộc chiến tranh cách mạng. Nhân dân miền Nam không ngừng xây dựng và phát triển lực lượng, từng bước m ở rộng vùng giải phóng, đấy chế độ tay sai Ngô Đình Diệm lún sâu vào khủng hoảng triền miên. Áp dụng chiến lược toàn cầu phản ứng linh hoạt ở miền Nam Việt Nam, Mĩ thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", sau đó là chiến lược "chiến tranh cục bộ". 3.1.2. Chủ trươnq nqoạigiao T ừ ngày 15 đến ngày 1 8 / 7 / 1 9 5 4 , Ban Chấp hành Trung ưo-ng Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6 đánh giá sự chuyển biến tình hình và vạch ra nhiệm vụ mới, quyết định chủ trương, phương
  7. châm, sách lược đấu tranh của cách mạng Việt Nam. Tại hội nghị, Chú tịch Hồ Chí Minh xác định “Dế quốc Mĩ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình trong nước và thế giới, hội nghị nhận định "Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mĩ và hiếu chiến Pháp, dựa trên c ơ s ở những thắng lợi đã đạt đirợc mà phấn đấu đế thực hiện hnà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mĩ kéo dài và m ở rộng chiến tranh Đông Dương củng cố hoà bình và thực hiện thống nhất, hoà bình độc lập và dân chủ trong toàn quốc" với khẩu hiệu đấu tranh "Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”. Những chuyển hướng của hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lân thứ 6 tuy mới vạch ra những n ét chung nhất song nó có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Sau 2 tháng, ngày 5 / 9 / 1 9 5 4 , Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị bổ sung và cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị chỉ rõ 5 đặc điểm của cách mạng Việt Nam từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, trong đó, 2 đặc điểm lớn ảnh hưởng đến đường lối, chủ trương cách mạng của nước ta là Việt Nam đang trong giai đoạn “từ chiến tranh chuyên sang hoà bình” và “Nam Bắc tạm thời phân làm 2 vùng”. Nghị quyết nêu rõ: Đối với Pháp cần tiếp tục dùng hình thức thương lượng và đàm phám đổ điều chỉnh, tránh quá căng thẳng gây tan vỡ; mở rộng quan hệ kinh tế mậu dịch trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi với Pháp; m ở rộng quan hệ với các nước như: Ấn Độ, Nam Dương...; phát triển và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và tất cả các nước dân chủ nhân dân khác.
  8. Sau Nghị quyết Trung ương 15, nhiệm vụ ngoại giao Việt Nam là phải không ngừng củng cố và mở rộng quan hệ về mọi mặt giữa nước ta với các nước trên thế giới, không ngừng nâng cao địa vị của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miên Bắc và cuộc kháng chiến chống Mĩ ở miền Nam. Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa; các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mĩ ở miền Nam và đối với sự nghiệp hòa bình thống nhất tổ quốc của nhân dân ta. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ III, Đảng và Chính phủ đe ra những nội dung cơ bản về chính sách đối ngoại của ta là: Ra sức góp phăn tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; phát triển quan hệ hợp tác tương trợ với các nước anh em theo những nguyên tắc của quốc tế vô sản. Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh. Tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước dân chủ nhân dân, phát triển sự hợp tác kinh tế và văn hoá với các nước đó. Chúng ta hoan nghênh và ủng hộ đường lối hoà bình trung lập thật sự và hoà hợp dân tộc và mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị với vương quốc Campuchia. ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Lào nhằm thực hiện đường lối hoà bình trung lập thật sự và hoà hợp dân tộc và mong muốn xây dựng quan hệ với vương quốc Lào. Đối với tất cả các nước khác, chúng ta sẵn sàng đặt quan hệ hữu nghị trên cơ s ở bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Đi đôi với việc xây dựng và tăng cường quan hệ giữa chính phủ ta và chính phủ các nước, cần mở rộng mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
  9. 3.1.3. Hoạt động ngoại giao Dâu tranh thi hành hiệp định Giơnevơ Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của toàn đảng, toàn dân ta lúc này là đấu tranh thi hành hiệp định Giơnevơ để thực hiện thống nhất nước nhà. Mục tiêu là đòi lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc, thực hiện hội nghị hiệp thương để chuẩn bị thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử tự do Iihư Hiệp định Giơnevơ quy định. Trước hết là đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản về đình chiến, tập kết, chuyến quân, lập khu phi quân sự. Kết quả, lệnh ngừng bắn được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp thực hiện đúng thời hạn, quân đội Pháp rút hết khỏi Việt Nam vào ngày 1 6 / 5 / 1 9 5 5 , hai bên trao trả tù binh. Chủ tịch Hô Chí Minh, Đảng và nhà nước Việt Nam chủ trương vận dụng mọi hình thức đấu tranh ngoại giao để đòi chính quyền Sài Gòn bàn về hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Tuy nhiên, đề nghị trên đã bị chính quyền Sài Gòn khước từ. Chính phủ ta đã đề nghị hai đồng chủ tịch Giơnevơ thi hành mọi biện pháp cần thiết để hội nghi hiệp thương giữa hai miền được tổ chức; tố caó việc chính quyền Sài Gòn tổ chức trưng cầu dân ý, tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ, phản đối các hành động khủng bố những người kháng chiến cũ. Qua bốn năm đấu tranh đòi thi hành hiệp định Giơnevơ, hoạt động ngoại giao đã góp phần làm cho dư luận thế giới thấy rõ Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tha thiết với hòa bình và thống nhất đất nước, còn Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam. Cuộc đấu tranh ngoại giao của nhà nước và nhân dân đã tạo ra dược dư luận quốc tế quan tâm ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta và lên án các chính sách, hành động sai trái của Mĩ và chính quyền Sài Gòn.
  10. Với cá c n ư ớ c khác t.rnng phe xã hội chủ nghĩa: Xây dưng quan hệ hợp tác toàn diện và chặt chẽ với các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa, cũng như góp phần củng cố đoàn kết và hợp tác giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng mới, Việt Nam coi trọng củng cố và phát triển quan hộ hữu nghị hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc - đồng minh. Dê tăng cường mối quan hệ hợp tác toàn diện và chặt chẽ giũa Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc, ngay sau khi thủ đô được giải phóng, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nước xã hội chủ nghĩa sớm đặt Đại sứ quán tại Hà Nội, đồng thời, Việt Nam cũng sớm đặt Đại sứ quán tại các nước này. Năm 1 956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thăm chính thức 9 nước gồm các nước xã hội chủ nghĩa ở Dông Âu và Bắc Á; một số nước dân chủ ở châu Á. Qua các cuộc trao đổi, tiếp xúc ý kiến trong dịp đoàn đại biểu Việt Nam đến thăm các nhà nước, các nhà lãnh đạo các nước đều ủng hộ đường lối xây dựng củng cố miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tranh thủ được viện trợ kinh tế to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời việc các nhà lãnh đạo của các nuớ c sang thăm Việt Nam đã góp phần táng cường tình đoàn kết hữu nghị và nâng cao vị thế của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên trirờng quốc tế. Sang năm 19 60, bất đồng giữa Liên Xô với Trung Quốc bộc lộ ngày càng gay gắt, đặt ra cho ngoại giao Viêt Nam là phải đóng góp vào giữ gỉn đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và giữ cân bằng quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn xã hội chủ nghĩa vì lợi ích của cách mạng Việt Nam, vì lợi ích của phe xã hội chủ nghĩa và lợi
  11. ích của cách mạng thế giới. Xuất phát từ thực tế trên, năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm chính thức Liên Xô và Trung Quốc. Mục đích là nhằm đóng góp cho tinh thần đoàn kết giũa Liên Xô với Trung Quốc, giũ' vững tình đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế... Đỗi vớ i Là o và Cam puchia: Đảng và nhà nước Việt Nam chủ trưrrng sớm xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị về mặt nhà nước. Dồng thời, tiếp tục giúp đỡ các lực lượng cách mạng L.ào và Campuchia. Đối với Pháp: Thúc đẩy quan hệ hợp tác với chính phủ Pháp và tăng cường quan hệ đoàn kết hữu nghị với nhân dân Pháp. Với phong trào dân tộc dân chủ và các n ư ớ c khác trên th ế g iớ i: Tăng cường đoàn và hợp tác trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Tăng cườ n g tình đoàn kết chiến đấu với các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước châu Á, Phi, tầng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với các n ư ớ c vừa giành độc lập ờ châu Á. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập quan hệ tổng lãnh sự với Ấn Độ, Miến Điện, Indônêxia, thiết lập quan hệ ngoại giao với CuBa và m ột số nước ỏ" châu Phi... Năm 1 9 5 7 , Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Ấn Độ, Miến Điện, Indônêxia. Đồng thời Việt Nam cũng đón tiếp trọng thị các nguyên thủ, người đứng đầu chính phủ của các nước naỳ đến thăm Việt Nam. Tham gia vào các phong trào tiến bộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới chống các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến và vì quyền dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tranh thủ s ự ủng hộ của quốc t ế đối với cuộc chiến tranh cách mạng ở miên Nam.
  12. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam cùng chung nhiệm vụ là tuyên truyền giải thích cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta là chính nghĩa, lên án những chính sách xâm lược và tàn bạo của Mĩ - Ngụy, đồng thừi tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân ta. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tích cực vận động quốc tế công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận dân tộc giải phóng cử nhiều đoàn Dại biểu thăm các nước anh em, bè bạn, dự nhiều Hội nghị quốc tế đưa tiếng nói của nhân dân miền Nam đang chiến đấu tới các diễn đàn, các c ơ quan thông tấn, báo chí quốc tế. Các nước anh em, bạn bè lần lư ợt công nhận và lập quan hệ chính thức với Mặt trận. Đến năm 1 9 6 3 , có 321 tổ chức thuộc nhiều xu hướng chính trị ở 42 nước ủng hộ Mặt trận. Trong điều kiện miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng chống "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ, việc đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc, tranh thủ sự ủng hộ vật chất, tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngoại giao Việt Nam. Với sự chủ động, tích cực của ngoại giao Việt Nam, các nước xã hội chủ nghĩa đã cam kết và thỏa thuận giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lân thứ nhất và táng cường tiềm lực quốc phòng. Nhiệm vụ tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam có phần phức tạp hơn. Các nước lo ngại chiến tranh cách mạng ở miền Nam có thề tăng cường, mỏ' rộng, không có lợi cho hòa bình và an ninh chung. T rư ớ c tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã giải thích với các lãnh đạo các nước anh em để khẳng định rõ: trước sau Việt Nam vẫn chủ trương thi hành hiệp định
  13. Gionevơ, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình; hoạt động vũ trang có tính chất tự vệ và hỗ trợ đấu tranh chính trị, không đê chiến tranh lan rộng. Với sự thuyết phục khéo léo có lí, có tình của Dảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ và viện trợ quan trọng của Liên Xô và Trung Quốc. Tăng cư ờng đoàn k ế t với các n u ớ c Dông Dương, m ở rộng quan hệ với cá c nư ớ c xũ hội chủ nghĩa vù dân tộc chủ nghĩa. Trong khi tăng cường chiến tranh đặc biệt ử miền Nam, Mĩ m ở rộng chiến tranh đặc biệt sang Lào, tiếp tục uy hiếp chủ quyền lãnh thổ, phá hoại nền trung lập của Campuchia, mưu toan khống chế hai nước này và cô lập cách mạng miền Nam Việt Nam. Việc tăng cường đoàn kết ba nước Đông Dương trở thành nhân tố quan trọng đối vói thắng lọi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Hiệp định Giơnevơ về Lào được kí kết, tuyên bố Lào là một n ư ớ c trung lập, ngay sau đó Chính phủ Liên hiệp Lào đirợc thành lập. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vương quốc Lào đã lập quan hệ ngoại giao, lãnh đạo hai nước đã có những động thái tích cực để thúc đẩy mối quan hệ Việt-Lào phát triển thuận lợi. Khi Mĩ thực hiện "Chiến tranh đặc biệt" ở mức độ cao, dùng không quân đánh phá vùng giải phóng Lào, Việt Nam giúp đỡ toàn diện lực lượng kháng chiến Lào. Hai bên phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh chính trị, quân s ự và ngoại giao. Quan hệ giữa nước ta và Campuchia cũng phát triển thuận lọi. Năm 1 9 6 7 , Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã tuyên bố tôn trọng đôc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia. Chính quyền Campuchia cũng công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam.
  14. Chính sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã góp phần cải rhiộn một hước đárig kề quan hệ giũa ba nước Đông Dương, tạo thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mĩ cứu nước. Đâu tranh chống các chiến dịch hòa bình và luận điệu đàm phán khônq điêu kiện của M ĩ Do tiến hành chiến tranh phi nghĩa nên Mĩ sử dụng các thủ đoạn ngoại giao để lừa bịp dư luận thế giới, chúng coi ngoại giao hòa bình là một bộ phận của chiến tranh xâm lược. Để che giấu tính chất cuộc chiến tranh Mĩ đã tung ra luận điệu "miền Bắc xâm lược miền Nam, Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ tự do nơi này, Mĩ đua quân vào miền Nam là đê' thực hiện cam kết với đồng minh Mĩ". Do vậy, chúng đòi hai bên Mĩ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng rút quân khỏi miền Nam, việc Mĩ leo thang bắn phá miền Bắc là hành động trả đũa. Một thủ đoạn ngoại giao nữa mà lloa Kỳ ráo riết thực hiện đó là "đàm phán không điều kiện", Hoa Kỳ ném bom rồi ngừng ném bom ít ngày là để mở các "chiến dịch hòa bình” hòng ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào bàn đàm phán không điều kiện với Mĩ. Chống lại các luận điệu hòa bình giả hiệu của chính quyền Mĩ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao, tích cực vận động và tuyên truyền quốc tế nhằm cảnh báo trước dư luận thế giới hành động xâm lược của Mĩ; nhấn mạnh cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, nêu cao quyết tâm của nhân dân Việt Nam đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ và thiện chí hòa bình của Việt Nam. Ngày 2 2 / 3 / 1 9 6 5 , Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra tuyên bố 5 điểm:
  15. (1) Đế quốc Mĩ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, là kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ thô bạo. (2) Nhàn dân miền Nam cương quyết đánh đuổi đế quốc Mĩ để giải phóng miền Nam, thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống nhất đất nước. (3) Nhàn dân miền Nam và quân giải phóng miền Nam quyết hoàn thành đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh đuối đế quốc Mĩ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. (4) Nhân dân miền Nam biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của nhân yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và mọi dụng cụ chiến tranh của bè bạn khắp năm châu. (5) Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục xông lên quyết chiến thắng giặc Mĩ và bọn Việt gian bán nước. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương: Mĩ xâm lược Viêt Nam, Mĩ phái chấm dứt chiến tranh, rút hết quân khỏi miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 8 / 4 / / 1 9 6 5 , chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra tuyên bố bốn điểm: (1) Xác nhận quyền c ơ bản của dân tộc Việt Nam. Hoa Kì phải rút quân đội, nhân viên quân sự, các loại vũ khí Mĩ ra khỏi miền Nam, phá các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam, chấm dứt can thiệp miền Nam, các hành động chống phá miền Bắc Việt Nam. (2) Ha; miền đều không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có căn cứ quân sự, nhân viên quân sự nước ngoài trên đất của mình
  16. (3) Công việc miền Nam C nhân dân miền Nam tự giải quyết ÌO theo cirơng lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, không có sự can thiệp của nirớc ngoài. (4) Việc hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết không có sự can thiệp của nước ngoài Trên cơ sở lập trường năm điểm của mặt trận Dân tộc Giải phóng và bốn điểm của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, ngoại giao hai miền triển khai hoạt động quốc tế rộng lớn, bền bỉ nhằm tố cáo tội ác chiến tranh của đế quốc Mĩ, phê phán và bác bỏ thủ đoạn lừa bịp của chính quyền Ịonhson về đàm phán hòa bình không điều kiện và kiên quyết bác bỏ trung gian trong đàm phán. Ra sức tranh thủ Chính phủ và nhân dân các nước Á, Phi, Mĩ Latinh, các nu'ớc trong phong trào không liên kết và những người có thiện chí ở phương Tây, giải thích đê họ hiểu và đồng tình với quan điểm của Việt Nam. Thông qua tất cả các diễn đàn quốc tế và khu vực, những cuộc viếng thăm, tiếp xúc của các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận làm cho bạn bè và dư luận quốc tế hiểu rõ sự giả dối của luận điệu "đàm phán không điều kiện”, làm thất bại các "chiến dịch hòa bình" của Mĩ. Cuối năm 1 9 6 6 , đâu năm 1967, dư luận thế giới đặc biệt là các nước thế giói thứ ba đã lên tiếng đòi Mĩ chấm dứt ném bom miền Bắc. một số nước đòi Mĩ rút quân, đàm phán với Mặt trận dân tộc giai phóng miền Nam Việt Nam. Thúc đẩy hình thành phong trào nhân dân M ĩ chống chiến tranh Phong trào nhân dân Mĩ chống chiến tranh phát triển nhanh và mạnh, sớm mở ra quy mô toàn quốc và thống nhất hành động. Mùa thu năm 1 9 6 5 , khi Mĩ chính thức đưa quân đội tham chiến ở miền Nam, các tổ chức chống chiến tranh đã thành lập "ủy ban
  17. phối hợp toàn quốc" đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam. ủy ban này đã liên tiếp phát động hai cuộc đấu tranh vào tháng 1 0 / 1 9 6 5 , và tháng 3 / 1 9 6 6 , thu hút tới nửa triệu người tham gia. Một số người Mĩ đã tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh ử Việt Nam, điều đó đã gây chấn động sâu sắc trong lòng xã hội Mĩ và có tiếng vang lớn trên thế giới. Phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mĩ đã tác động đến thái độ của chính giới Mĩ. số Nghị sĩ Mĩ chống chiến tranh Việt Nam ngày càng tăng, nhiều Nghị sĩ đòi chấm dứt ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đòi thương lượng với sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tạo cục diện vừa đánh vừa đàm Đến cuối năm 1 966, quân dân miền Nam đã đánh thắng trong hai chiến lược mùa khô 1 9 6 5 - 1 9 6 6 và 1 9 6 6 - 19 6 7 , miền Bắc đã làm thất bại một bước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân hải quân của Mĩ. Phát huy thắng lợi ở chiến trường, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 (tháng 1 / 1 9 6 7 ) đã đề ra phương châm đấu tranh của ta là phát huy thế mạnh, thế thắng của ta, chủ động tấn công địch, giũ' vũng tính độc lập tự chủ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nước anh em. Trên cơ sỏ’ kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thố, cần vận dụng linh hoạt sách lược ngoại giao khôn khéo, giành thắng lợi từng bước. Thực hiện chủ trương trên, ngày 2 8 / 1 / 1 9 6 7 , Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: Chỉ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Mĩ mới có thể nói chuyện được.
  18. Chính phủ các nước xã hội chủ ngliĩa, nhiều Chính phủ các nước dân tộc dân chủ nhân dân bày tỏ hoan righênh và ủng hộ tuyên bố đó. Nhiều tổ chức, đoàn thể quốc tế, nhiều nhân vật nổi tiếng, trong đó cố Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và Giáo hoàng...đều lên tiếng đòi Mĩ chấm dứt ném bom. Trước sức cp của dư luận quốc tế và đặc biệt là phong trào chống chiến tranh ờ Mĩ, tổng thống Mĩ Ịonhson tuyên bố: Hoa Kì sẵn sàng ngừng ngay việc ném bom miền Bắc Việt Nam của máy bay và tàu chiến Mĩ khi việc này dẫn tới cuộc thỏa thuận có kết quả và không bị lợi dụng. Tuyên bố này của Mĩ là ngừng ném bom có điều kiện và "có đi có lại". Do đó Chính phủ Việt Nam đã bác bỏ. Ngày 2 9 / 1 2 / 1 9 6 7 , Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố: Sau khi Hoa Kì tuyên bố chấm dứt ném bom không điều kiện và mọi hành động khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Mĩ về những vấn đề có liên quan. Như vậy đến năm 19 6 7 , với những thắng lợi trên chiến trường đã tạo đà cho thế chủ động của ngoại giao Việt Nam được phát huy mạnh mẽ. 3.2 . Ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1 9 6 7 - 1 9 7 3 3.2.1. Hoàn cảnh lịch s ử Trên thế giới, phong trào đoàn kết với Việt Nam ngày càng m ở rộng, chính quyền Mĩ đang ở thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Mĩ bước vào thời kỳ suy yếu rõ rệt, kinh tế khó khăn, nội bộ chia rẽ sâu sắc. Từ năm 1 96 9 , Mĩ bắt đầu bị thâm hụt ngân sách liên tục. Đầu những năm 197 0, Liên Xô đạt thế cân bằng chiến lược với Mĩ.
  19. Tháng 1 / 1 9 6 9 , R.Nixon len câm quyền, đại diện cho những thế lực hiếu chiến nhất ờ M chuyển hướng chiến lược sang "Việt T Nam hóa chiến tranh" nhằm rút ra khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự trên thế mạnh mà vẫn giũ' miền Nam Việt Nam dưới ảnh hưởng của Mĩ. Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao ba bên hay còn gọi là "Tam giác chiến lược” cải thiện quan hệ với hai nước lớn XHCN, đồng minh chiến lược của Việt Nam, đê gây sức ép với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hòng gỡ "khúc xương” chiến tranh Việt Nam, tìm kiếm một giải pháp thương lượng theo những điều kiện có lợi cho Mĩ. Liên Xô và Trung Quốc đều có những lợi ích chiến lược trong việc cải thiện quan hệ với Mĩ giữa lúc Mĩ đang sa lầy và bị suy yếu trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ở trong nước, cuối năm 1967, ở miền Nam hai cuộc phản công chiến lược mùa khô bằng lực lượng Mĩ đều thất bại. Kết thúc đợt một của cuộc tấn công xuân 19 68, quân dân miền Nam Việt Nam giành thắng lọi to lớn, làm chuyến biến thế trận, đảo lộn chiến lược của Mĩ. Một thắng lợi chính trị to lớn khác là cuộc Tống tiến công T ế t Mậu Thân gây một chấn động chính trị và tâm lí mạnh mẽ, sâu sắc đối với nước Mĩ. Những năm 1 9 6 9 - 1972, khi Mĩ thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh” là giai đoạn giằng co quyết liệt trên chiến trường chính và ờ cả Lào và Campuchia thì đó cũng là giai đoạn đối đầu và đấu trí quyết liệt trên m ặt trận ngoại giao giữa Việt Nam và I loa Kỳ tại diễn đàn thương lượng và trong du' luận quốc tế. Trong năm 1 9 6 9 , cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, lực lượng bị tổn thất nặng nề, vùng giải phóng bị thu hẹp; các đơn vị chủ lực phải dạt sang đất Campuchia. Do sức ép của Mĩ, chính quyền Xihanuc khôi phục quan hệ vứi Mĩ, dê LonNon thuộc phái thân Mĩ làm Thủ tướng. Quan hệ Việt Nam - Campuchia trở nên
  20. phức tạp. Chính quyền Campuchia bắt đầu yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi lãnh thổ Campuchỉa. Đây là giai đoạn cả nước trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, miền Bắc vừa chống Mĩ xâm lược vừa sản xuẩt chi viện cho miền Nam ruột thịt. 3.2.2. Chủ trương ngoại giao Nghị quyết Trung ương lần thứ 13 chỉ rõ: Trong khi miền Bắc đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, miền Nam cần m ở rộng hơn nữa các hoạt động quốc tế nhằm làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ và ủng hộ mạnh mẽ hơn cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mĩ xâm lược... các hoạt động đối ngoại của miền Bắc và miền Nam cần phaỉ được phối hợp chặt chẽ, tuy nhiên be ngoài miền Nam có màu sắc riêng của mình, thể hiện rõ tính độc lập của Mặt trận. Đảng yêu cầu cần vận dụng sách lược ngoại giao m ột cách linh hoạt, khôn khéo, nhằm khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa Mĩ và các nước đế quốc khác; phân hóa nội bộ bọn cầm quyền Mĩ, cô lập bọn hiếu chiến ngoan cố nhất, làm tan rã tinh thần ngụy quân, ngụy quyền và làm hoang mang tính thần quân Mĩ, quân chư hầu, tạo thêm điều kiện thuận lọi cho đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ờ miền Nam giành thắng lợi. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 13 có ý nghĩa như là một bản cương lĩnh vể đấu tranh ngoại giao của Đảng, nhằm góp phăn đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ đến thắng lợi. Thực tế cho thấy, đây là lần đầu tiên Đảng ra một văn kiện, trong đó khẳng định: Đấu tranh ngoại giao là một mặt trận. Ngoại giao Việt Nam có nhiệm vụ nặng nề và phức tạp là vừa đấu tranh chống lại thủ đoạn và chính sách ngoại giao thâm độc của Mĩ, vừa đảm bảo duy trì viện trợ, ủng hộ và đoàn kết của Liên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2