YOMEDIA
ADSENSE
Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
14
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết thu thập các dữ liệu thứ cấp để phân tích thực trạng xuất khẩu, năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, kinh nghiệm của ngành dệt may Trung Quốc, đánh giá một số khó khăn gặp phải của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Từ đó, bài viết đề xuất một số gợi ý chính sách từ phía Nhà nước và giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 12. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY TS. Đậu Xuân Đạt* Tóm tắt Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua. Các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn từ cả phía nguồn cung và nhu cầu thị trường. Dịch bệnh khiến nhiều đơn hàng dệt may xuất khẩu bị hủy, hoãn, giãn tiến độ giao hàng và chậm thanh toán. Bài viết thu thập các dữ liệu thứ cấp để phân tích thực trạng xuất khẩu, năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, kinh nghiệm của ngành dệt may Trung Quốc, đánh giá một số khó khăn gặp phải của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Từ đó, bài viết đề xuất một số gợi ý chính sách từ phía Nhà nước và giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: Dệt may, xuất khẩu, đại dịch COVID-19, Việt Nam, Trung Quốc 1. THỰC TRẠNG VỀ XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 1.1. Thực trạng về xuất khẩu dệt may giai đoạn 2019 - 2021 Ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam có mức tăng trưởng khá cao, từ hơn 28,1 tỷ USD (năm 2016) lên gần 38,9 tỷ USD (năm 2019). Tuy nhiên, kể từ khi đại dịch COVID-19 tác động vào nền kinh tế Việt Nam, ngành dệt may đã chịu sự tác động kép từ phía cung và cầu. Giai đoạn đầu năm 2020, nguồn cung của ngành dệt may xuất khẩu liên tục bị gián đoạn, đặc biệt từ thị trường Trung Quốc với thị trường chiếm gần 60% nguồn cung nguyên, phụ liệu nhập khẩu của Việt Nam. Tiếp sau đó, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam đã phải đối mặt với tổng cầu sụt giảm nghiêm trọng tại các thị trường chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam như: Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Trong năm 2020, có hàng * Khoa Kinh tế, Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội 144
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 loạt đơn hàng dệt may bị hủy, hoãn, giãn tiến độ giao hàng, chậm thanh toán làm khiến kim ngạch xuất khẩu dệt may giảm 9,82% so với năm 2019, tương ứng từ gần 38,9 tỷ USD năm 2019 giảm xuống hơn 35 tỷ USD năm 2020. Đại dịch COVID-19 cũng đã ảnh hưởng nặng nề đến các thị trường các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Mỹ giảm hơn 6% từ hơn 15,1 tỷ USD năm 2019 xuống còn 14,2 tỷ USD năm 2020. Còn các thị trường khác như: EU, Hàn Quốc, CPTPP, Trung Quốc và ASEAN cũng giảm tương ứng lần lượt 28,2%, 12,99%, 10,3%, 13,9% và 11,53% so với năm 2019 (Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2021). Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam giai đoạn 2019 - 2021 Đơn vị: triệu USD So năm 2020 So năm 2021 Chủng loại Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 với năm 2019 (%) với năm 2020 (%) May mặc 30.723 27.867 28.980 -9.30 3.99 Vải 2.127 1.943 2.490 -8.65 28.15 Xơ sợi 4.177 3.737 5.520 -10.53 47.71 Vải không dệt 589 456 1.260 -22.58 18.37 Nguyên phụ liệu dệt may 1.270 1.064 1.76 -16.18 64.47 Tổng kim ngạch xuất khẩu 38.886 35.067 39.01 -9.82 11.21 Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam Để ứng phó với đại dịch COVID-19, Chính phủ đã ban hành và triển khai để thực hiện mục tiêu kép về đảm bảo hiệu quả chống dịch và duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp đã thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt được thành quả đáng khích lệ trong bối cảnh đại dịch. Kết quả đó được thể hiện qua mức tăng trưởng xuất khẩu dệt may Việt Nam tăng 11,21%, tương ứng với hơn 35 tỷ USD (năm 2020) tăng lên hơn 39 tỷ USD (năm 2021). Các doanh nghiệp không chỉ chú trọng phát triển xuất khẩu thị trường hàng may mặc (tăng 3.99%) mà còn chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng dệt như: vải không dệt, vải, xơ sợi và nguyên phụ liệu (năm 2021) với mức tăng tương ứng là: 18,37%, 28,15%, 47,71% và 64,47% so với năm 2020. 145
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Hình 1. Tỷ trọng mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2021 Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam Các doanh nghiệp dệt may đã phải triển khai nhiều kịch bản và giải pháp để dịch bệnh không lây nhiễm trong đội ngũ lao động, đồng thời phải tìm mọi cách duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với giải pháp duy trì sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã chấp nhận các đơn hàng giá rẻ, thời gian giao hàng ngắn, chuyển đổi mặt hàng, thay thế nhiều mặt hàng thời trang, cao cấp bằng các mặt hàng cơ bản, truyền thống, chấp nhập lãi thấp hoặc không có lãi. Tỷ trọng xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2021 như: áo thun chiếm 19,59%, áo Jacket chiếm 19,43%, quần chiếm 18,43%, khẩu trang và hàng bảo hộ lao động chiếm hơn 14,8%. Giai đoạn 2020 - 2021, các doanh nghiệp gia công xuất khẩu của Việt Nam linh hoạt chuyển hướng sang sản xuất hàng bảo hộ lao động, khẩu trang, thời trang giá rẻ, thời trang nhanh và thực hiện đàm phán với các khách hàng quốc tế về điều kiện về giao hàng, cũng như chấp nhận chậm thanh toán đến mức cho phép phù hợp với chính sách chống dịch giữa các nước. 1.2. Thực trạng năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp dệt may Việt Nam Theo thông lệ hàng năm, tháng 8 các doanh nghiệp dệt may đã nhận được đơn hàng đến hết năm và sang nửa năm sau. Tuy nhiên, theo Bộ Công Thương, đến tháng 8/2020 chỉ có một số doanh nghiệp dệt may nhận được 50% - 60% đơn hàng tháng 9 còn các tháng khác chưa có đơn hàng nào. Một số doanh nghiệp chỉ nhận được đơn hàng theo từng tuần. Ví dụ như Công ty May 10, các đơn hàng lớn của Công ty bị sụt giảm mạnh, điển hình như đơn hàng của thị trường Mỹ, châu Âu về mặt hàng chủ lực như: veston, sơ mi, quần âu và các sản phẩm thời trang công sở bị cắt giảm mạnh từ 40% - 60%. Vấn đề công nợ vẫn đang gây trở ngại cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, ví dụ như việc khách hàng châu Âu quá hạn trả tiền 3 tháng, một số khách hàng ở Mỹ cũng chỉ xác định khi nào có tiền sẽ trả tại Công ty May Hồ Gươm. Một điểm đáng chú ý, doanh nghiệp nhận được đơn hàng là những doanh nghiệp thuộc chuỗi cung ứng toàn cầu nên chủ yếu tập trung lo nguyên liệu đầu vào để sản xuất. 146
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 Còn những doanh nghiệp chưa tham gia vào chuỗi cung ứng thì không chỉ lo nguyên liệu mà còn phải lo cả đầu ra. Tuy gặp vô vàn khó khăn nhưng trong năm 2020, ngành dệt may Việt Nam cũng đạt được một số kết quả đáng kể như: đến năm 2020, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt, may sang Mỹ lớn nhất với gần 13,99 tỷ USD, EU hơn 3,6 tỷ USD; Nhật Bản: hơn 3,5 tỷ USD; Hàn Quốc: gần 2,9 tỷ USD. Đây là kết quả hết sức đáng ghi nhận trong thời kỳ đại dịch này. Hiệp định EVFTA đã chính thức có hiệu lực từ 01/8/2020, mở ra cơ hội để các doanh nghiệp cung ứng của Việt Nam tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng với các mối liên kết hiệu quả hơn. Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với các chuỗi cung ứng dệt may mới nhằm khai thác tốt hơn không chỉ các lợi thế so sánh mà còn cả lợi thế cạnh tranh. Trong những năm gần đây, lợi thế về nhân công, chi phí đang dần không còn là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với nhiều quốc gia khác. Chi phí cho nhân công ngày càng tăng và doanh nghiệp cung ứng cũng đang phải đối mặt với tình trạng giá điện, nước, chi phí logistics, chi phí hải quan, chi phí xuất - nhập khẩu thay đổi trong nhiều năm qua. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp cung ứng của Việt Nam cũng chỉ ở mức trung bình. Trong khi đó, kỹ năng người lao động mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể song so với các đối thủ cạnh tranh đến từ Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ... nhưng cơ bản trình độ lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp hơn. Đến nay, lao động phổ thông trong ngành dệt may Việt Nam vẫn chiếm đến 76%; sơ cấp, trung cấp chuyên nghiệp chiếm 17,3%; cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm 6,8% (Nguyễn Văn Quang, 2018). Về thời gian sản xuất, theo các loại hợp đồng CMT, FOB thì thời gian sản xuất ngày càng có tầm quan trọng tác động lớn đến quyết định của khách hàng quốc tế. Do nhu cầu thời trang ở các nước phát triển, thậm chí ở các nước đang phát triển, thường thay đổi rất nhanh và theo mỗi mùa nên việc rút ngắn thời gian sản xuất, gia công không chỉ giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam, mà còn đáp ứng được nhu cầu thời trang đang thay đổi nhanh chóng. Đến nay, thời gian thực hiện việc sản xuất theo các hợp đồng gia công của Việt Nam đã dần được rút ngắn hơn so với trước. Trung bình các doanh nghiệp thường nhận hợp đồng khoảng 20 ngày, nhận nguyên liệu khoảng 20 - 25 ngày, sản xuất khoảng 20 - 25 ngày, tức là khoảng 60 - 70 ngày để sản xuất thành phẩm cho mỗi đơn hàng. Tuy nhiên, thời gian sản xuất của ngành may mặc Việt Nam vẫn còn dài hơn so với Trung Quốc, Ấn Độ nhưng ngắn hơn so với Bangladesh, Campuchia... Ngành dệt may của Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam hiện đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Hồng Kông… với trị giá nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm gần 70% - 80% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài. Đối với các đơn đặt hàng, nhiều doanh nghiệp đặt hàng cũng chỉ 147
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA định luôn nhà cung cấp nguyên vật liệu khiến cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không có điều kiện sử dụng những nguyên liệu sản xuất trong nước với giá thành rẻ hơn. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam mặc dù mong muốn chuyển đổi các phương thức sản xuất từ CMT sang FOB, ODM hay OBM, song vì chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên nguồn tài chính có hạn. Bên cạnh đó, khả năng liên kết sợi - dệt - nhuộm - may vẫn còn rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp vẫn chủ yếu ở công đoạn may. Sợi Việt Nam trong nhiều năm qua khoảng 60% hướng vào xuất khẩu, chỉ khoảng 40% là bán ở thị trường nội địa. Dệt - nhuộm là các công đoạn quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng sản phẩm may mặc nhưng các công nghệ dệt - nhuộm ở Việt Nam không được các doanh nghiệp chi phối mạng lưới sản xuất hàng dệt may toàn cầu đánh giá cao chất lượng vải sau khi nhuộm. Trước điều kiện hiện nay, đặc biệt là sau đại dịch COVID-19 (khó khăn về nhập khẩu nguyên liệu) và thương chiến Mỹ - Trung đã tác động đến ngành dệt một cách rõ rệt. Ngành dệt Việt Nam cũng đã có những giải pháp để tăng cường liên kết sợi - dệt - nhuộm - may. Mối liên kết này càng chặt chẽ thì càng có cơ hội tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, và ngược lại. 2. KINH NGHIỆM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA TRUNG QUỐC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY Hiện nay, nền kinh tế nói chung đã và đang bị tác động lớn bởi bối cảnh đại dịch COVID-19 kéo dài, thương chiến Mỹ - Trung, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy và sự bất ổn khó lường từ xung đột Nga - Ukraina. Các bối cảnh đó đã gây ra sự bất ổn cho ngành dệt may Trung Quốc. Giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2020 là giai đoạn vô cùng khó khăn cho ngành dệt may của Trung Quốc. Giá trị gia tăng công nghiệp của các doanh nghiệp trên quy mô được chỉ định trong ngành dệt may nước này giảm 8,2% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó, giá trị công nghiệp ngành sản xuất máy dệt giảm lớn nhất với 20,8%, ngành công nghiệp may mặc giảm 12,8%, sản lượng sợi hóa học, sợi, vải và quần áo lần lượt giảm 3,2%, 18,1%, 27,6% và 17,9% so với cùng kỳ năm 2019. Theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, trong giai đoạn này, khoản đầu tư tài sản cố định cũng đã giảm 30,5%. Bối cảnh đại dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến dệt may của khu vực các tỉnh thành của Trung Quốc. Ngoại trừ Chiết Giang thì tổng mức đầu tư cho ngành may mặc giảm rất mạnh tại 4 tỉnh ven biển phía Đông như: Giang Tô, Phúc Kiến, Sơn Đông và Quảng Đông với mức giảm lần lượt 68%, 44,9%, 50,4% và 80%. Trong khi Hồ Bắc ở khu vực miền Trung bị ảnh hưởng nặng nề, tổng vốn đầu tư của sợi hóa học giảm 62,4%, dệt giảm 75,2% và may mặc giảm 69,8%. Đầu tư vào ngành may mặc của An Huy và Hà Nam cũng lần lượt giảm 47,9% và 31,4% so với cùng kỳ năm 2019. Riêng ở khu vực phía Tây, đầu tư vào ngành dệt may ở Tân Cương tăng trưởng âm, ngành sợi hóa học giảm 70,5% ở Tứ Xuyên. Tác động của đại dịch và bất ổn của chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu đã khiến cho doanh thu của các doanh nghiệp dệt may giảm mạnh. Cũng theo Cục Thống kê Quốc gia, doanh thu của khoảng 33.000 doanh nghiệp dệt may Trung Quốc giảm 19,7% trong Quý I/2020 so với cùng kỳ năm 2019. Trong số 12 phân khúc sản xuất dệt may, ngoại trừ tơ lụa và dệt công nghiệp đạt mức tăng trưởng 148
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 lợi nhuận dương thì lợi nhuận của các ngành sợi hóa học, máy dệt, kéo sợi bông bị ảnh hưởng hết sức tiêu cực. Cụ thể, tổng lợi nhuận ngành máy dệt giảm 56%, ngành sợi hóa học giảm 60%, ngành kéo sợi bông giảm 49,2% trong gần nửa năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019 (Lê Tiến Trường, 2020). Trước sức ép to lớn từ các bối cảnh bất định, đặc biệt là diễn biến hết sức phức tạp của đại dịch COVID-19, Chính phủ và các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc đã điều chỉnh, ban hành và thực thi hiệu quả chính sách về hàng dệt may xuất khẩu. Với kết quả từ chính sách phòng, chống đại dịch COVID-19 tương đối tốt và hiệu quả kịp thời của các chính sách xuất khẩu đã giúp ngành dệt may xuất khẩu Trung Quốc chuyển biến lớn từ giữa năm 2020 đến nay. Ngành dệt may của Trung Quốc không chỉ ứng phó được với thời kỳ đại dịch mà còn giúp tốc độ tăng trưởng âm do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 chuyển sang tăng trưởng dương, đặc biệt là ngành sợi hóa học và sợi filament có mức tăng trưởng cao. Theo Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc (MIIT), mặc dù dịch COVID-19 tác động tiêu cực ngành dệt may xuất khẩu Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2020 nhưng với sự kịp thời của các chính sách thương mại và sự nỗ lực tích cực của các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc thì kim ngạch xuất khẩu dệt may Trung Quốc năm 2020 đạt 289,4 tỷ USD tăng 11% so với 257,6 tỷ USD năm 2019, năm 2021 kim ngạch xuất khẩu đạt 303,9 tỷ USD và tăng 5% so với năm 2020. Trong giai đoạn 2019 - 2021, Trung Quốc có gần hơn 102.000 doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may tương ứng bình quân mỗi năm xuất khẩu hơn 4,8 triệu tấn sợi, 45 tỷ mét vải, hơn 70 tỷ bộ quần áo đến 234 quốc gia và vùng lĩnh thổ. Với kết quả hết sức ấn tượng của xuất khẩu dệt may Trung Quốc trước sức ép to lớn của dịch bệnh và sự đứt gãy của nhiều chuỗi cung ứng toàn cầu cho thấy sự hiệu quả và kịp thời của các chính sách thương mại mà Trung Quốc đã ban hành và thực thi. Chính sách xuất khẩu dệt may chủ yếu của Trung Quốc trong giai đoạn này tập trung vào các nội dung sau: Thứ nhất, Trung Quốc khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu số lượng hàng dệt may chủ lực nhưng giảm giá xuất khẩu các mặt hàng chủ lực này. Để ứng phó với bối cảnh khó khăn giai đoạn 2020 đến nay, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách nhằm ổn định nguyên liệu đầu vào, trong đó có chính sách giảm giá bông. Từ đó, các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc chủ động nâng cao hiệu quả sản xuất do nguyên liệu ổn định và tập trung đẩy mạnh số lượng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như: sợi hóa học, sợi filament, vải, máy dệt và đặc biệt là xuất khẩu các sản phẩm dệt may chống dịch như: khẩu trang, quần áo bảo hộ. Thay vì phân bổ rộng rãi các sản phẩm chủ lực này vào các chuỗi cung ứng toàn cầu như trước đây thì các doanh nghiệp dệt may chủ động cung ứng những sản phẩm này tập trung chủ yếu vào các chuỗi cung ứng thời trang giá rẻ và chuỗi cung ứng hàng thời trang nhanh. Đồng thời, các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc cũng chủ động giảm giá xuất khẩu để tránh mất thị phần quá mức. Từ đó, duy trì được vị thế của họ trên thị trường quốc tế cũng như nâng cao lợi thế để cạnh tranh với các doanh nghiệp đến từ các quốc gia xuất khẩu dệt may dựa trên lợi thế chi phí thấp như: Việt Nam, Bangladesh… 149
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Thứ hai, Trung Quốc tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm dệt may thượng nguồn (như sợi, vải) và ứng phó linh hoạt đối với xuất khẩu dệt may hạ nguồn (hàng may mặc có những giai đoạn giảm nhưng có những lúc tăng). Giai đoạn 2015 - 2021, hoạt động xuất khẩu các sản phẩm thượng nguồn như hàng dệt có xu hướng tăng bình quân hơn 1% mỗi năm, trong khi xuất khẩu quần áo giảm hơn 3,5% mỗi năm giai đoạn 2015 - 2020, riêng năm 2019 xuất khẩu quần áo đạt 166,14 tỷ USD và đã giảm 3,85% so với năm 2018. Tuy nhiên, với chính sách phát triển xuất khẩu dệt may nhằm vượt qua đại dịch COVID-19 và sự bất ổn của chuỗi cung ứng toàn cầu nên các hàng may mặc xuất khẩu của Trung Quốc lại có xu hướng tăng mạnh từ giữa năm 2020 đến nay. Vì vậy, Trung Quốc không chỉ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm thượng nguồn mà còn nâng cao được năng lực cạnh tranh các sản phẩm hạ nguồn với các đối thủ cạnh tranh chưa có chuỗi sản xuất dệt may hoàn chỉnh trên thị trường quốc tế. Thứ ba, Trung Quốc phát triển thương mại điện tử mua sắm xuyên biên giới. Để bù đắp cho các khoản lỗ theo phương thức truyền thống, Trung Quốc chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may, đặc biệt là các sản phẩm dệt may liên quan đến phòng, chống dịch trên rất nhiều kênh trực tuyến xuyên biên giới. Nhiều doanh nghiệp đã tổ chức các chiến dịch mua sắm trực tuyến và đã nhận được rất nhiều đơn hàng có giá trị cao, tiêu biểu như “Lễ hội mua sắm 618” trong mùa dịch bệnh đã giúp nhiều doanh nghiệp nhận được nhiều đơn hàng lớn như: JD.com, Tmall… Qua đó giúp Trung Quốc không chỉ thu hẹp được sự sụt giảm của xuất khẩu dệt may trong năm 2020 mà còn nâng cao tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may trong năm 2021. Thứ tư, Trung Quốc tiếp tục hình thành và phát triển các đặc khu, vùng sản xuất phục vụ hàng dệt may xuất khẩu. Để ứng phó với bối cảnh đại dịch COVID-19, môi trường kinh tế quốc tế nhiều bất ổn, cạnh tranh từ các nước giá rẻ tăng nhanh, giá nguyên liệu toàn cầu biến động mạnh, hoạt động dịch chuyển đầu tư ra nước ngoài của ngành dệt may Trung Quốc có xu hướng tăng. Trong khoảng 5 năm qua, Trung Quốc vẫn tiếp tục hình thành các đặc khu ở Giang Tô (hàng dệt may là một trong những mặt hàng quan trọng) và các vùng xuất khẩu dệt may ở các tỉnh Chiết Giang, Sơn Đông, Tân Cương, Hà Bắc và Quảng Tây. Giai đoạn 2019 - 2021, tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dệt may của các đặc khu và vùng xuất khẩu này đều tăng trung bình hơn 10% mỗi năm. Mức đóng góp to lớn này tạo nên sự thành công của xuất khẩu dệt may Trung Quốc trong bối cảnh bất định hiện nay. Thứ năm, Trung Quốc hoàn thiện các chính sách thương mại tổng thể khác như: tiếp tục phát triển sáng kiến “Một vành đai, một con đường”, Chuyển đổi và nâng cấp “Made in China’’, tích cực chuyển giao công nghệ từ khu vực các tỉnh/thành phía Đông sang khu vực các tỉnh thành phía Tây và miền Trung, phát triển thị trường tiêu thụ nội địa, đổi mới công nghệ theo 4.0 và thực thi hiệu quả các luật quan trọng liên quan đến xanh hóa ngành dệt may như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2017, Luật Hệ thống thương mại khí thải carbon Quốc gia, phê duyệt chính thức Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 dành riêng cho ngành dệt may và đặt mục tiêu mở rộng thị phần ở những phân khúc có giá trị gia tăng cao nhất. 150
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 3. MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 - Điểm nghẽn COVID-19 tác động lớn đến ngành dệt may Việt Nam đó là sự phụ thuộc khá nhiều nguồn nguyên phụ liệu của nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc, Việt Nam thiếu nguồn nguyên liệu cần thiết trong nước nên các nhà sản xuất khó tìm được nguyên liệu do bên mua quy định. Bên cạnh đó, kỹ năng tìm kiếm nguồn nguyên liệu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn hạn chế, kỹ năng này chính là sự hiểu biết đối với tất cả các loại vải và sợi, trong đó gồm có cả đặc điểm của chúng và cách sử dụng, địa điểm nhà máy và kỹ năng thương thuyết. Điều này giải thích tại sao Việt Nam chỉ chủ yếu thực hiện CMT trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ tài chính để sản xuất nguyên liệu. Các doanh nghiệp chỉ chủ yếu thực hiện FOB loại 1, loại 2 bởi vì thiếu năng lực thiết kế và marketing cần thiết đối với FOB. Vì vậy, hiện nay, Việt Nam vẫn còn 65% các nhà sản xuất sản phẩm dệt may chủ yếu đang thực hiện kinh doanh theo hình thức CMT cho các hàng dệt may cấp thấp và mức liên kết giữa sợi - dệt - nhuộm - may vẫn còn nhiều hạn chế. Đây chính là điểm yếu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam. - Khó khăn về điều kiện và thời gian giao hàng: Do các quốc gia đối tác cũng như Việt Nam thực hiện nhiều biện pháp chống dịch nên các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp khó khăn về điều kiện giao hàng. Điều kiện và thời gian giao hàng hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam thường phụ thuộc vào vị trí địa lý, logistics, thủ tục hải quan. Thời gian giao hàng của Việt Nam sang Nhật Bản khoảng hơn 10 ngày, sang Mỹ khoảng 30 ngày, sang EU khoảng 40 ngày.... Các điểm nghẽn không chỉ từ yếu tố chủ quan của doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn từ phía Nhà nước như: các thủ tục hải quan, thủ tục cấp C/O hay do hệ thống giao thông còn yếu kém... Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam như: Trung Quốc, Ấn Độ có vị trí địa lý thuận tiện hơn nên thời gian giao hàng thường nhanh hơn, hệ thống logistic phát triển hơn nên Trung Quốc chỉ mất khoảng 10 ngày để hàng dệt may đến Mỹ, khoảng hơn 25 ngày đến Ấn Độ. - Nguồn nhân lực dệt may Việt Nam: Nhiều biện pháp chống dịch đã khiến cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thiếu nguồn nhân lực thực hiện sản xuất - kinh doanh. Ngoài ra, trình độ và kỹ năng lao động dệt may Việt Nam vẫn đang ở mức thấp, phần lớn là lực lượng lao động giản đơn, kỹ năng tay nghề còn thấp. Các bộ phận khác như: merchandise, marketing, thiết kế số lượng còn hạn chế và chưa thực sự chủ động tìm kiếm các thông tin liên quan đến thị trường, nguồn nguyên phụ liệu, xúc tiến thương mại ở các thị trường tiềm năng... Các bộ phận này đều thiếu năng lực tiếp cận thị trường và thường dựa vào những tính toán chủ quan về thị trường. Vấn đề trình độ nguồn nhân lực là một trong những hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm qua. - Mặc dù nhiều Hiệp định FTA thế hệ mới đầy hứa hẹn (EVFTA, CPTPP) và tiềm năng phát triển cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là EU, nhưng các các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mới chỉ chủ động quan tâm đến các ưu đãi về thị trường trong các điều khoản của Hiệp định và chưa thực sự chủ động tìm hiểu thông tin và động thái của 151
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA các doanh nghiệp dẫn đầu hoặc doanh nghiệp chi phối chuỗi cung ứng hàng dệt may toàn cầu. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch, sự bất ổn thương mại toàn cầu hiện nay, các chuỗi cung ứng toàn cầu hàng dệt may bị gián đoạn hoặc đứt gãy đã tác động tiêu cực đến nhiều doanh nghiệp dệt may, trong đó có các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia ở chuỗi cung ứng đó. - Nhiều doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam đã chủ động rút ngắn được thời gian giao hàng nhưng vẫn đảm bảo chất lượng hoặc tham gia vào nhiều chuỗi sản xuất khép kín. Tuy nhiên, các thông tin về thị trường từ cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn hạn thiếu, vẫn chủ yếu thông qua Bộ Công Thương, Hiệp hội Dệt may Việt Nam. Trong khi nhiều doanh nghiệp cho rằng, họ phải tự tìm kiếm thông tin qua các nguồn thông tin khác nhau như từ khách hàng, từ các đơn vị kinh doanh thông tin... Ngoài ra, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém, chi phí năng lượng đang có xu tăng đã khiến cho chi phí sản xuất hàng dệt may Việt Nam tăng khi thực hiện các đơn đặt hàng. - Mặc dù Chính phủ Việt Nam cũng như nhiều doanh nghiệp dệt may xuất khẩu chủ động xây dựng các kịch bản có thể xảy ra trong ngắn hạn để ứng phó với tình hình dịch bệnh, tuy nhiên, các giải pháp và kịch bản đó chỉ chú trọng đến các giải pháp tạm thời về thị trường, ứng dụng công nghệ 4.0, chính sách người lao động mà chưa thực sự chú trọng đến giải pháp cụ thể để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thích ứng và tham gia sâu hơn vào chuỗi, thậm chí chủ động rút ra khỏi các chuỗi yếu kém hoặc tham gia vào một chuỗi cung ứng toàn cầu mới về thời trang, đặc biệt là các chuỗi thời trang siêu nhanh và thời trang cao cấp. 4. MỘT SỐ GỢI Ý PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1. Gợi ý chính sách từ phía Nhà nước Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy các chuỗi cung ứng bị gián đoạn, đứt gãy hoặc bị cắt ngắn. Việc hoãn, hủy đơn hàng hoặc trì hoãn chuyển hàng đã sản xuất là vấn đề mà doanh nghiệp dệt may gặp phải trong thời gian qua. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động thực hiện các biện pháp phòng dịch, tổ chức lại sản xuất, đàm phán với khách hàng, chú trọng thị trường nội địa và đã dần ưu tiên mua hàng theo phương thức OEM (Original Equipment Manufacturing) và ODM (Original Design Manufacturing) thay vì thực hiện các đơn hàng theo CMT như trước đây. Mặc dù đại dịch COVID-19 mang lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế nhưng cũng mở ra những cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau: - Trước hết, cần tiếp tục hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam nhằm giảm thiểu các thiệt hại và phục hồi hậu COVID-19. Thị trường xuất khẩu vẫn còn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các sản phẩm dệt may. Đến nay, vẫn còn hơn 90% sản lượng dệt may dành cho xuất khẩu, chỉ khoảng 10% sản lượng dệt may sử dụng trong 152
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 thị trường nội địa. Chính vì vậy, những hỗ trợ kịp thời từ phía Nhà nước sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp tục duy trì, phát triển lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế và hạn chế được xu hướng của một số doanh nghiệp dệt may xuất khẩu chưa đủ năng lực nhưng đang đầu tư vào các ngành hàng có biên lợi nhuận và rủi ro cao. - Chính phủ cần nghiên cứu và sớm ban hành thêm những chính sách cho ngành dệt may để phù hợp với bối cảnh hiện nay như: chính sách về thuế giá trị gia tăng cho vải nội địa khi các doanh nghiệp nằm trong chuỗi cung ứng mua, bán lẫn nhau, chính sách cho lao động nữ, cho đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, cần công khai minh bạch trong chi phí giá cước tàu biển, chính sách bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước nếu bị các doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu nước ngoài như: Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia… bán phá giá. Điều quan trọng nữa là định hướng về sản xuất gắn với thiết kế phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu sản phẩm và thương hiệu quốc gia, phát triển công nghiệp thời trang, không để các hãng nước ngoài chi phối thị trường dệt may trong nước. - Chính phủ cần tìm hiểu rõ động thái của các doanh nghiệp dẫn đầu/chi phối chuỗi cung ứng toàn cầu hàng dệt may hiện nay để cung cấp những thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, để ứng phó với bối cảnh đại dịch, hàng dệt may Trung Quốc chủ động thâm nhập đa dạng không chỉ vào các chuỗi cung ứng thời trang nhanh, cực nhanh, chuỗi cung ứng thời trang giá rẻ mà còn tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng thời trang trung cấp và cao cấp. Vì vậy, Chính phủ cần phải hiểu rõ động thái của các chuỗi này và cung cấp kịp thời để các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam điều chỉnh chiến lược phù hợp trong thời gian tới. - Nhà nước cần ưu tiên thu hút đầu tư phát triển ngành dệt may theo hướng nâng cao chất lượng các sản phẩm dệt may chủ lực, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất, gia công. Xây dựng và hoàn thiện chính sách liên kết có hiệu quả giữa ngành sợi - dệt - nhuộm - may. Muốn vậy, trước hết cần có sự đầu tư bài bản vào sản xuất bông, sợi; cần có sự hợp tác, liên kết giữa các trường, viện, trung tâm nghiên cứu với các doanh nghiệp dệt may từ khâu nuôi trồng dâu tằm đến khâu sản xuất bông, sợi. Mặc dù Nhà nước đã có các chính sách liên kết giữa nhà trường, viện và doanh nghiệp song các hoạt động này vẫn còn nhỏ lẻ, tự phát, chưa hiệu quả và chưa phát huy hết tiềm năng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là cả nhà trường/viện và doanh nghiệp chưa tìm ra được hình thức liên kết, hợp tác có hiệu quả giữa các bên. Vì vậy, theo nhóm tác giả, cần có ba liên kết sau: Thứ nhất, liên kết đào tạo với các trường (Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội...): hợp tác thực hiện các chương trình đào tạo dài hạn và ngắn hạn; tổ chức thực tập thực tế cho sinh viên; trao đổi nguồn nhân lực. Thứ hai, liên kết trong nghiên cứu với các viện/trường. Liên kết này hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua: doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động nghiên cứu của viện/trường (đề tài, chương trình, dự án theo đơn hàng doanh nghiệp); 153
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA thành lập nhóm nghiên cứu giữa viện/trường và doanh nghiệp; các bên cùng nhau phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học. Thứ ba, liên kết trong chuyển giao công nghệ thông qua: thành lập các vườn ươm doanh nghiệp dệt may; thành lập trung tâm khởi nghiệp, văn phòng chuyển giao công nghệ tại các trường/viện; tạo ra mối liên hệ với các quỹ vốn mạo hiểm cho sản phẩm dệt may. - Thành công của ngành dệt may Trung Quốc trong thời gian gần đây cho thấy, Việt Nam cần xây dựng chính sách hỗ trợ cho ngành dệt may chủ động được nguyên phụ liệu như: phụ liệu dệt may, da giày, đặc biệt là vải thay vì phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu như hiện nay. Đồng thời, thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên, phụ liệu đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ của các FTA thế hệ mới, cũng như đẩy mạnh quá trình nội địa hóa. Đẩy mạnh chuyển từ gia công sản xuất sang các hình thức đòi hỏi năng lực cao hơn về quản lý chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, thiết kế và xây dựng thương hiệu trên cơ sở công nghệ phù hợp đến hiện đại gắn với hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động và bảo vệ môi trường theo chuẩn mực quốc tế. - Xây dựng chính sách thu hút và khuyến khích đầu tư các dự án dệt - nhuộm -hoàn tất có quy mô lớn, công nghệ hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may di dời tới các khu, cụm công nghiệp như: miễn thuế, giảm giá thuê đất, thuê hạ tầng cơ sở, hỗ trợ tuyển dụng lao động trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp luật và các quy định về trợ cấp trong khuôn khổ WTO và các FTA mà Việt Nam là thành viên. - Bộ Công Thương phải thường xuyên theo dõi diễn biến thị trường, phối hợp với các bộ, ngành tháo gỡ ngay những nút thắt cho doanh nghiệp. Đồng thời, xây dựng các giải pháp dài hạn, cải thiện nội tại sản xuất, giảm dần phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, phát triển ngành thời trang trong nước. Bộ Công Thương cũng thực hiện đẩy nhanh tiến độ xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may và da giày đến năm 2030, định hướng đến năm 2035 và hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ 4.0 trong thiết kế sản xuất, xanh hóa ngành công nghiệp dệt may, phát triển dệt, nhuộm trong nước, bảo đảm nhu cầu vải cho thị trường xuất khẩu. 4.2. Một số giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam - Đối với các doanh nghiệp dệt may lớn của Việt Nam nên tăng cường sự chủ động về nguyên vật liệu bằng cách liên kết với các doanh nghiệp khác hoặc tự xây dựng chuỗi cung ứng khép kín. Tiếp tục nâng cao khả năng thích ứng, quản trị tốt và tuân thủ tiêu chuẩn lao động và môi trường để tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu của các thương hiệu thời trang nhanh, siêu nhanh, thời trang trung và cao cấp. - Đối với các doanh nghiệp gia công xuất khẩu hoặc thực hiện các hoạt đồng gia công qua trung gian phải thực sự tuân thủ tiêu chuẩn lao động và môi trường do giá đơn hàng đang có xu hướng giảm mạnh trong thời kỳ dịch bệnh vẫn còn những diễn biến khó lường. 154
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 - Tiếp tục nâng cao năng lực sản xuất, gia công, cải thiện năng suất lao động nhằm rút ngắn thời gian giao hàng trong khi chất lượng vẫn đảm bảo theo yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu. Áp dụng các công nghệ 4.0 mới phù hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm, ví dụ như các phần mềm quản lý ERP trong các doanh nghiệp dệt may. Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường thị trường truyền thống, thị trường mới. Đồng thời, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thị trường xuất nhập khẩu. Chú trọng đào tạo cán bộ nhân viên có năng lực phụ trách thị trường mục tiêu, marketing, quản lý đơn hàng hiệu quả để dần tiếp cận sâu hơn trong chuỗi cung ứng hàng dệt may toàn cầu. - Các doanh nghiệp chủ động đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và đa dạng hóa nhà cung ứng. Đối với thị trường nhà cung ứng, các doanh nghiệp nên tích cực hơn nữa trong việc tìm nguồn cung ứng tại các quốc gia khác như Ấn Độ, một số quốc gia Đông Nam Á, thậm chí là cả khu vực châu Phi. - Các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam nên tích cực hơn nữa để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, nhiều doanh nghiệp nước này rất tích cực áp dụng công nghệ 4.0 nhằm không chỉ thích ứng với bối cảnh dịch bệnh mà còn thâm nhập sâu hơn các chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy, việc chủ động đẩy nhanh chuyển đổi số là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam thay thế các lao động giản đơn, giảm số lượng nhân công, đồng nghĩa với giảm các chi phí trả lương ngừng việc, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn khi có biến động và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 5. KẾT LUẬN Đại dịch COVID-19 đã tác động rất lớn đến ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2020 - 2021. Đầu năm 2020 đã chứng kiến tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu cho sản xuất dệt may khi dịch bùng phát mạnh ở Trung Quốc, đứt gãy nguồn cung nguyên liệu. Sau đó, các thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam như: Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc... lại bùng phát dịch bệnh, sụt giảm nhu cầu. Doanh nghiệp sản xuất ra không tiêu thụ được. Năm 2021 chứng kiến điều ngược lại, trong khi tại các thị trường như Mỹ, EU... phục hồi, nhu cầu dệt may tăng lên thì tại Việt Nam dịch bệnh lại bùng phát, thiếu nguồn lao động gây nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng. Với sự nỗ lực của Chính phủ và các doanh nghiệp nên ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã có những thành công đáng khích lệ. Mặc dù, dịch COVID-19 được nhiều quốc gia đánh giá không đáng lo ngại như trước đây song cuộc chiến với nó vẫn chưa thực sự kết thúc. Ngoài đại dịch COVID-19 thì các bối cảnh bất định khác như: cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, xung đột Nga - Ukraina đã và đang tác động tới ngành dệt may cả từ đầu vào, sản xuất đến thị trường xuất khẩu. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách nhằm giúp các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu không chỉ đạt được mục tiêu kép mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong thời gian tới. 155
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ACB (2019), Bản tin Ngành dệt may, Báo cáo của Ngân hàng ACB. 2. Đậu Xuân Đạt (2021), Một số giải pháp phát triển mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu hàng dệt may Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 3. Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2021), Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam năm 2019, năm 2020, 11 tháng năm 2021. 4. Nguyễn Văn Quang (2018), “Những xu hướng lớn trong ngành may mặc thế giới hiện nay và hàm ý chính sách đối với Việt Nam trong việc nâng cấp chuỗi giá trị toàn cầu hàng may mặc”, Tạp chí Công Thương, Bộ Công Thương. 5. Lê Tiến Trường (2020), Vinatex: 25 năm vững bước trong thị trường nhiều biến động, Báo cáo của Tập đoàn Dệt may Việt Nam. 156
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn