TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN-AFTA

Sinh viên thực hiện: Cao Nam Hải

Lớp : Nga k38 E

Giáo viên hướng dẫn: Cô Vũ Thị Hiền

HÀ NỘI 12/2003

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

LỜI MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài:

Việt Nam trở thành viên chính thức của ASEAN từ ngày 28 tháng 7 năm

1995, và đã tham gia các chương trình hợp tác về kinh tế với các nước trong khối.

Trong những chương trình đó có việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN

(AFTA) với cam kết thực hiện đầy đủ việc cắt giảm thuế quan theo chương trình

CEPT/AFTA. Cam kết này đã mang tới cho Việt Nam cả cơ hội cũng như những

thách thức trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực ASEAN.

Trong nông nghiệp nói riêng, khi Việt Nam cam kết thực hiện các quy định

về nông nghiệp đã được ký kết của Hiệp hội, ngành nông nghiệp nước ta phải thực

hiện cạnh tranh theo quy chế mậu dịch tự do của ASEAN, CEPT/AFTA. Nói cách

khác, nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới: làm thế nào

để vừa mở cửa ra thị trường khu vực, vừa củng cố được thị trường trong nước;

khai thác tối đa thời cơ mới của hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời có giải pháp

hạn chế và khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình ấy. Điều này chỉ có

thể đạt được khi chúng ta tạo được những mặt hàng nông sản phù hợp với điều

kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước, với năng suất cao, chất lượng tốt, giá

bán hợp lý, có khả năng cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại của các

nước ASEAN khác. Giải pháp tối ưu hiện nay cho nền nông nghiệp nước ta là

phải có có những thay đổi trong việc lựa chọn cơ cấu sản xuất cho phù hợp với

nhu cầu của thị trường, đồng thời phát huy được tối đa lợi thế so sánh của nền

nông nghiệp nước nhà.

Đối với Việt Nam, đây là một nhiệm vụ khó vì: một mặt, xuất phát điểm

của nền nông nghiệp nước ta còn thấp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng đáng

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

kể trong GDP, và nhất là có ảnh hưởng lớn đến đại bộ phận dân cư. Mặt khác, khả

năng cạnh tranh và tận dụng, phát huy được những cơ hội do AFTA đem lại đòi

hỏi phải có những hiểu biết sâu sắc về phân tích ngành hàng, đa dạng hoá sản xuất

theo yêu cầu của thị trường, xúc tiến thương mại và giành cơ hội thâm nhập, mở

rộng thị trường. Do vậy, việc lựa chọn những bước đi phù hợp để điều chỉnh một

cách có cơ sở khoa học cơ cấu sản xuất nông nghiệp của đất nước là rất cần thiết

nhằm đảm bảo cho quá trình hội nhập vào AFTA thành công. Nắm bắt nhu cầu

thực tế bức xúc đó, Khoá luận: “Một số giải pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất

nông nghiệp của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do

ASEAN-AFTA” đã được lựa chọn nhằm đóng góp một phần vào việc đáp ứng nhu

cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay.

Mục đích nghiên cứu của Khoá luận là:

- Làm rõ khuôn khổ pháp lý và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất

đối với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong quá trình hội nhập

AFTA/ASEAN.

- Đánh giá cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay, trong đó tập

trung vào nghiên cứu sự tham gia vào quá trình hội nhập của một số mặt hàng

nông sản xuất khẩu chính như: gạo, chè, cao su, cà phê...

- Đề xuất một số giải pháp về tổ chức và chính sách liên quan tới điều chỉnh

cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới nhằm đảm bảo

cho việc hội nhập AFTA thành công.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Nghiên cứu một số văn bản pháp luật của một số nước ASEAN liên quan

đến quá trình hội nhập vào AFTA của mặt hàng nông sản.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

- Đánh giá khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản xuất khẩu

của Việt Nam.

- Nghiên cứu trên phạm vi cả nước và các vùng lãnh thổ.

Phương pháp nghiên cứu:

Khoá luận sử dụng phương pháp thống kê so sánh, dựa trên phân tích các số

liệu, phân tích thông tin và các tư liệu hiện có và phương pháp chuyên gia.

Bố cục Khoá luận: gồm 3 Chương:

Chương I: trình bày khái quát những đặc điểm và yêu cầu của khu vực mậu

dịch tự do ASEAN/AFTA, những cam kết của Việt Nam tham gia khu vực này, sự

cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, đồng thời

trình bày kinh nghiệm của một số nước ASEAN về thực hiện điều chỉnh cơ cấu

sản xuất nông nghiệp khi tham gia AFTA, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam.

Chương II: nêu khái quát tình hình phát triển nông nghiệp Việt Nam, phân

tích, đánh giá khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu của một số

mặt hàng nông sản chính của Việt Nam thời gian qua (theo nhóm sản phẩm), đồng

thời phân tích cơ sở khoa học của việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp

Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, cũng

như phân tích thực trạng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu hàng nông sản

của Việt Nam hơn một thập kỷ qua từ đó rút ra những nhận xét cần thiết về quá

trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta thời gian vừa qua.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Chương III: đề xuất một số kiến nghị về quan điểm, định hướng và giải

pháp chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp nước ta trong những năm tới, góp phần giúp cho nền nông nghiệp Việt

Nam vững vàng hội nhập ASEAN/AFTA.

Đây là một vấn đề mới, lại đề cập tới một nội dung rộng gồm nhiều mặt

hàng, diễn biến thị trường rất mau lẹ, phức tạp và khó lường trong khi khả năng

điều tra thu thập số liệu còn gặp nhiều hạn chế trong khuôn khổ của một Khoá

luận tốt nghiệp, nên đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Do vậy, em rất mong

nhận được các ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn, để tiếp tục hoàn thiện vấn

đề nghiên cứu trong Khóa luận này.

Qua Khoá luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và

chỉ bảo tận tình của cô giáo Vũ Thị Hiền - Giảng viên khoa Kinh tế ngoại thương

cùng tất cả các thày, cô giáo trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã trang bị cho

em những kiến thức quý báu giúp em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này.

Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2003

Sinh viên thực hiện

Cao Nam Hải

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG SẢN THEO

QUY ĐỊNH CỦA AFTA VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG

NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU

DỊCH TỰ DO ASEAN/AFTA

I. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và những quy định của AFTA về

thương mại các mặt hàng nông sản........................................................................1

1.

Sự

ra

đời

của

ASEAN

AFTA.............................................................................1

2. Một số quy định chung của khu vực mậu dịch tự do ASEAN và

AFTA................2

3. Cam kết

tham gia AFTA

trong

lĩnh vực nông nghiệp của Việt

Nam.....................5

II. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất

nông nghiệp của Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA.............................8

1. Khái niệm

cấu kinh

tế và điều

chỉnh

cấu kinh

tế.........................................8

2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết điều phải chỉnh cơ cấu sản xuất

nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA...................................9

3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt

Nam....11

II. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội

nhập

AFTA

của

một

số

nước

Đông

Nam

Á.........................................................13

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

1. Điểm

tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân

tích............................13

2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước Đông Nam

Á trong quá trình hội nhập AFTA......................................................................15

3. Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của

một số nước Đông Nam Á..................................................................................27

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

VÀ CƠ CẤU HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI

ĐOẠN VỪA QUA

I. Khái quát chung về ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn vừa

qua..........................................................................................................................30

II. Thực trạng năng lực của hàng nông sản Việt Nam trong cạnh tranh với các

sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN khác khi CEPT/AFTA hoàn

thành.......................................................................................................................32

1. Khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam của các mặt hàng nông sản được sản

xuất tại các nước khác trong khối ASEAN..........................................................32

2. Khả năng thâm nhập thị trường các nước trong khối ASEAN của mặt hàng nông

sản Việt Nam.......................................................................................................36

3. Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản chính của

Việt

Nam

trên

thị

trường

ASEAN........................................................................45

III. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong giai

đoạn vừa qua........................................................................................................47

1. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp (theo nghĩa

rộng)...................................................................................................................47

2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng nông sản........................54

3. Một số chính sách liên quan đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất và mở rộng xuất

khẩu mặt

hàng

nông

sản

ở Việt Nam

trong

thời

gian

qua......................................................................................................................55

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

4. Một số nhận xét về việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam

giai đoạn vừa qua................................................................................................62

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP

TỤC HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NÔNG NGHIỆP VIỆT

NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA

I. Quan điểm và mục tiêu điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp.....................67

II. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian

tới cho phù hợp với quá trình hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do

ASEAN/AFTA.......................................................................................................72

1. Định hướng chung về công tác điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta

trong thời gian tới..............................................................................................72

2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất đối với từng nhóm sản phẩm nông sản

cụ

thể

trong

thời

gian

tới.........................................................................................73

3.

Định

hướng

điều

chỉnh

cấu

sản

xuất

theo

vùng..............................................77

III. Kiến nghị một số giải pháp, chính sách nhằm tiếp tục hoàn chỉnh điều chỉnh

cơ cấu sản xuất để ngành nông nghiệp Việt nam vững vàng hội nhập

AFTA....................................................................................................................78

1. Thực hiện phù hợp một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ

cấu

sản

xuất

nông

nghiệp

theo

hướng

hội

nhập..................................................79

1.1. Chính sách đất đai.........................................................................................79

1.2.

Chính

sách

thuế.

...........................................................................................80

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

1.3. Chính sách đầu tư, tín dụng..........................................................................81

2. Tuyên truyền và phổ biến rộng rãi các cam kết và lịch trình thực hiện

CEPT/AFTA không chỉ trong đội ngũ cán bộ công chức, doanh nghiệp mà còn

tới tận người nông dân........................................................................................82

3. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất phải trên cơ sở quy hoạch hợp lý và đúng đắn.......83

4. Tập

trung sản xuất những mặt hàng Việt Nam có

lợi

thế so

sánh.......................84

5. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất gắn liền với tổ chức thị trường và tổ chức lại sản

xuất.....................................................................................................................85

6. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản..........................................86

7. Xây dựng mối liên kết "4 nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và

Nhà

nước)

trong

điều

chỉnh

cấu

sản

xuất

nông

nghiệp..................................87

8. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình chuyển đổi cơ cấu

sản xuất nông nghiệp…………………………….......................................…...91

9. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông

nghiệp

đất

nước...................................................................................................95

10. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y, bảo vệ

thực vật ngang với trình độ trong khu vực tạo, điều kiện để thực hịên việc điều

chỉnh và hội nhập của nông nghiệp…….....………….......................................99

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

KẾT LUẬN

PHỤ LỤC 1

PHỤ LỤC 2

PHỤ LỤC 3

PHỤ LỤC 4

PHỤ LỤC 5

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

PHU LỤC 6

PHU LỤC 7

PHU LỤC 8

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 1

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG SẢN THEO

QUY ĐỊNH CỦA AFTA VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN

XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI

NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN/AFTA

I. KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH

CỦA AFTA VỀ THƯƠNG MẠI CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN

1. Sự ra đời của ASEAN và AFTA

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một tổ chức hợp tác

khu vực được thành lập ngày 08/08/1967 theo Tuyên bố Băng Cốc với năm

nước thành viên sáng lập gồm: Inđônêxia, Malaysia, Xingapo, Philippin và

Thái Lan. Năm 1984, ASEAN kết nạp thêm Brunei, sau đó kết nạp thêm 4

thành viên mới là Việt Nam (28/07/1995), Lào, Myanma (23/07/1997),

Campuchia (30/04/1999). Đến nay, tổng số thành viên ASEAN là 10 nước khu

vực Đông Nam Á.

Ngay sau khi thành lập, các nước ASEAN đã đưa ra nhiều kế hoạch hợp

tác kinh tế như: Thoả thuận thương mại ưu đãi, các dự án công nghiệp ASEAN;

kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN và kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp

cùng nhãn mác; liên doanh công nghiệp ASEAN. Tuy nhiên, kết quả thực hiện

các mục tiêu của kế hoạch hợp tác kinh tế này đã không được như mong đợi.

Trong khi đó, vào đầu những năm 90, chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và

các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, môi trường chính trị, kinh tế quốc

tế và khu vực đã có những thay đổi lớn. Trên thế giới xuất hiện các khối thương

mại khép kín như: EU, NAFTA... làm cho vị thế của ASEAN trên trường quốc

tế bị hạ thấp, hàng hoá của ASEAN vấp phải trở ngại khi thâm nhập vào các thị

trường trên. Mặt khác, nếu vào những năm cuối của thập kỷ 80, ASEAN là địa

bàn đầu tư hấp dẫn nhất ở Châu Á, thì đến đầu những năm 90, với chính sách Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 2

mở cửa và ưu đãi rộng rãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng lợi thế so

sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của nhiều nước đang phát

triển khác, ASEAN đã dần dần trở thành một thị trường đầu tư kém hấp dẫn.

Trước những yêu cầu, thách thức mới, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế

ASEAN lần thứ 23 (tháng 10/1992), các nước ASEAN đã đi đến quyết định

thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) nhằm mục tiêu:

- Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ

hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế

quan;

- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một

khối thị trường thống nhất;

- Giúp ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay

đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới.

Như vậy, mục tiêu cơ bản của AFTA là tăng cường lợi thế cạnh tranh

trong khu vực thông qua việc thiết lập một thị trường thông thoáng, xoá bỏ

hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên, tăng hiệu quả và

tính cạnh tranh lâu dài, đồng thời đem lại cho người tiêu dùng trong khu vực sự

lựa chọn rộng rãi đối với những sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao và giá cả

ngày một thấp hơn.

2. Một số quy định chung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA

Để đạt các mục tiêu nêu trên, nhất là mục tiêu tự do thương mại trong

khối, các nước đã tiến hành ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực

chung (CEPT). Đây là một thoả thuận nội bộ giữa các nước thành viên về lịch

trình cắt giảm thuế quan thương mại xuống còn tối đa là 5%, đồng thời trong

vòng từ 10 năm, từ 1993 đến 2003 phải loại bỏ tất cả các hạn chế khối lượng và

các hàng rào phi thuế quan để sau đó luồng hàng hoá được trao đổi tự do, thông

thoáng hơn giữa các nước thành viên. Trong Hiệp định CEPT các quy định của

AFTA đã được trình bày rất cụ thể, bao gồm: Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 3

2.1. Về thuế quan

Để thực hiện cắt giảm thuế quan có hiệu quả nhất, Hiệp định yêu cầu

mỗi nước phải phân loại tất cả hàng hoá của mình vào một danh mục định sẵn.

Việc hình thành các danh mục này là nhằm để giúp các nước có sự chuẩn bị

trước khi hội nhập vào AFTA một cách có lợi nhất. Đây đồng thời cũng là lịch

trình cam kết của các nước trong việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các hàng

rào bảo hộ. Xuất phát từ định hướng đó, CEPT đã đưa ra lộ trình cắt giảm thuế

quan theo 4 danh mục hàng hoá:

 Danh mục cắt giảm ngay (Inclusion List-IL)

IL bao gồm những mặt hàng sẽ phải cắt giảm thuế quan ngay lập tức,

đồng thời xoá bỏ hạn chế về số lượng và các hàng rào phi thuế quan khác. Mức

thuế cho những sản phẩm này giảm tới mức tối đa 20% vào năm 1998 và còn

0-5% vào năm 2001. Những nước thành viên mới sẽ được hưởng ân hạn thực

hiện nghĩa vụ cắt giảm này, cụ thể: Việt Nam đến năm 2006, Lào và Myanma

đến 2008, Campuchia đến năm 2010. (Đến năm 2000 đã có 82,7% số dòng thuế

của ASEAN được đưa vào danh mục này).

 Danh mục Loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List-TEL)

TEL bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế quan ngay do các

nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong

nước cho thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế đang gia tăng (có nghĩa

là kéo dài thêm việc bảo hộ trong một thời gian ngắn). Sau 3 năm kể từ khi

tham gia chương trình CEPT (bắt đầu từ 01/01/1996), các nước ASEAN phải

bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL. Quá trình chuyển từ TEL

sang IL được phép kéo dài trong 5 năm và mỗi năm phải chuyển được 20% số

mặt hàng (đến năm 2000 còn 15,04% số dòng thuế của ASEAN trong danh

mục này).

 Danh mục Loại trừ hoàn toàn (General Exceptions List-GEL)

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 4

GEL bao gồm những mặt hàng không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan.

Các nước ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở

nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người,

động vật, thực vật; bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử, khảo cổ... (Đến năm

2000 trong danh mục này còn 909 dòng thuế quan chiếm 1,61% tổng số dòng

thuế của ASEAN).

 Danh mục Nhạy cảm (Sentitive List-SL)

SL bao gồm những mặt hàng nông sản chưa chế biến mà việc cắt giảm

thuế quan đối với những mặt hàng này có thể gây tác động lớn đến sản xuất và

đời sống trong nước.

Các mặt hàng trong SL được dành một khung thời gian dài hơn trong

việc cắt giảm thuế xuống 0-5%. Việc xoá bỏ hạn chế số lượng và hàng rào phi

thuế quan khác được kéo dài đến năm 2010. Đối với những nước thành viên

mới, thời gian ân hạn được kéo dài hơn, cụ thể: Việt Nam đến năm 2013, Lào

và Myanma đến 2015, Campuchia đến 2017 (đến năm 2000 còn 0,58% số dòng

thuế của ASEAN trong danh mục này). Điều này chứng tỏ phần lớn các mặt

hàng nông sản chưa chế biến đã được các nước ASEAN đưa ngay vào Danh

mục Giảm thuế (IL) hoặc Danh mục Loại trừ tạm thời (TEL), chỉ một số ít mặt

hàng nông sản chưa chế biến có tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân

được các nước ASEAN đưa vào Danh mục Nhạy cảm (SL).

Mức thuế suất thực hiện CEPT/AFTA chỉ được duy trì tối đa trong 3

năm liên tiếp, sau đó sẽ được cắt giảm để đạt mục tiêu giảm thuế 0-5% vào

năm 2006. Mỗi bước giảm thuế không thấp hơn 5%.

2.2. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT

Theo quy định này, một sản phẩm muốn được hưởng nhượng bộ về thuế

quan khi xuất khẩu trong khối thì cần phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau:

- Phải thuộc Danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước

nhập khẩu; phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%. Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 5

- Phải có chương trình cắt giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua.

- Phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu

hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất

CÔNG THỨC: 40% HÀM LƯỢNG ASEAN = (A+B)/GIÁ FOB X 100%  60%

là 40%.

Trong đó: A: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào

nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên ASEAN (theo giá CIF tại thời

điểm nhập khẩu).

B: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào

không xác định được xuất xứ (theo giá xác định ban đầu trước khi đưa vào chế

biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN).

2.3. Loại bỏ các hạn chế về số lượng (QRs) và các hàng rào phi thuế

quan khác

Các hạn chế về số lượng sẽ phải loại bỏ ngay khi sản phẩm đưa vào cắt

giảm và được hưởng các ưu đãi của CEPT, hàng rào phi thuế quan khác sẽ

được xoá bỏ dần trong vòng 5 năm khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.

2.4. Tiến hành hợp tác trong lĩnh vực hải quan

Xây dựng một Danh mục thuế quan chung thống nhất trong khối

ASEAN, thống nhất hệ thống tính giá hải quan theo Hiệp định Trị giá hải quan

của GATT-WTO, xây dựng hệ thống luồng hải quan xanh và thống nhất thủ tục

hải quan để sản phẩm lưu thông thông suốt.

2.5. Cung cấp các thông tin về cơ chế thương mại theo yêu cầu của các

nước (hay yêu cầu về minh bạch chính sách).

3. Cam kết của Việt Nam tham gia AFTA trong lĩnh vực nông nghiệp

3.1. Những cam kết chung

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 6

Với mục tiêu nhanh chóng hội nhập thành công vào AFTA, trong thời

gian qua, Việt Nam đã tiến hành những bước đi tích cực trong việc thực hiện

các Quy định của Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực

chung (CEPT). Tháng 12/1995 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Băngcốc

(Thái Lan), Việt Nam đã đệ trình Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm 165

mặt hàng, Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): 1189 mặt hàng, Danh mục nhạy

cảm (SL): 26 mặt hàng, Danh mục cắt giảm ngay (IL): 1633 mặt hàng.

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện những cam kết đối với AFTA, đồng

thời tăng dần thực hiện danh mục IL. Năm 1996, Việt Nam đã xếp 857 mặt

hàng vào danh mục này, đến năm 1997 là 640 mặt hàng và đến năm 1998 là

1716 mặt hàng với mức thuế suất bình quân 6,1% (so với mức thuế suất nhập

khẩu bình quân của mặt hàng không thuộc CEPT là 7,2%). Năm 1999 Việt

Nam đã đưa vào danh mục IL thực hiện CEPT là 3582 mặt hàng (chiếm 41,3%

tổng số mặt hàng đánh thuế của Việt Nam).

Trong danh mục IL, bắt đầu từ 01/01/2001 mức thuế suất của những mặt

hàng chịu thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% và sẽ đạt 0-5% từ

01/01/2006. Mức thuế suất của những mặt hàng chịu thuế suất dưới 20% sẽ

được giảm xuống còn 0-5% từ năm 2003.

Trong danh mục TEL có hầu hết các mặt hàng hiện đang được sản xuất

tại Việt Nam. Những mặt hàng này sẽ được chuyển vào danh mục IL trong 5

thời điểm cách đều nhau từ 1999-2003 với thuế suất giảm xuống còn 0-5% vào

2006.

Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ được giảm thuế suất xuống còn 0-

5% vào năm 2013.

Các mặt hàng thuộc danh mục GEL do Việt Nam đệ trình tại Hội nghị

thượng đỉnh ASEAN năm 1995 là nhiều nhất so với các nước ASEAN khác

(165 sản phẩm, chiếm 5,5% tổng số các dòng thuế, trong khi đó các nước khác

chỉ có khoảng 3- 3,3% số dòng thuế thuộc danh mục này). Những mặt hàng này

chiếm tới 41% số lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN (năm 1996), Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 7

trong đó nhiều mặt hàng được bảo hộ với mục đích tăng thu Ngân sách thông

qua thuế nhập khẩu (như nhiên liệu, thu phát truyền thanh, truyền hình, xe dưới

16 chỗ, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng...). Điều này có nghĩa là Việt Nam đang

bảo hộ cho khoảng 41% mậu dịch với ASEAN khỏi sự điều chỉnh của AFTA.

3.2. Cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp

Bảng 1: Lịch trình giảm thuế theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các

sản phẩm nông, lâm nghiệp chính

Ngành hàng 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006

20% 20% 20% 20% 15% 10% 5% Gạo

Cà phê:

15% 10% 10% 10% 5% Sơ chế

35% 25% 20% 15% 15% 10% 10% 5% Thành phẩm

Chè:

15% 15% 10% 10% 5% Sơ chế

40% 30% 20% 15% 15% 10% 10% 5% Thành phẩm

3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% Cao su

Rau quả:

20% 15% 15% 10% 5% Rau, củ

20% 20% 20% 15% 15% 15% 10% 5% Quả

20% 15% 15% 15% 10% 10% 10% 5% Hạt điều

10% 10% 10% 10% 10% 5% Cây có dầu

35% 40% Đường

5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% Gỗ

15% 15% 15% 15% 15% 10% 10% 5% Thịt lợn

Nguồn: Nghị định 78/2003CP(ngày 01/07/2003) - Công báo(Ngày 22/07/2003)

Tính đến 31/12/2000, tổng số các mặt hàng nông sản có trong danh mục

Biểu thuế ưu đãi hiện hành của Việt Nam là 840 dòng thuế, trong đó: có 51

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 8

dòng thuế thuộc Danh mục SL, 17 dòng thuộc Danh mục GEL, 569 dòng thuế

đã đưa vào thực hiện cắt giảm IL và 203 dòng thuế thuộc Danh mục TEL.

Như vậy, có thể thấy phần lớn các mặt hàng nông sản của ta đã được đưa

vào thực hiện cắt giảm. Đó chủ yếu là những mặt hàng mà ta có thế mạnh xuất

khẩu như: thuỷ hải sản tươi sống, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, rau quả tươi,...

Những mặt hàng hiện chưa được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay, chủ yếu là

nông sản chế biến mà ta chưa có khả năng cạnh tranh. Việc đưa những mặt

hàng này vào Danh mục TEL để chuyển vào cắt giảm ở những năm cuối (2001-

2003) và Danh mục SL (2004-2006) là nhằm mục đích giúp các ngành sản xuất

trong nước có thời gian để chuẩn bị, nâng cấp đầu tư sản xuất và cạnh tranh với

hàng hoá ASEAN nhập khẩu khi thị trường được mở cửa hoàn toàn vào năm

2006.

II. CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU

CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG

ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP AFTA

1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế

1.1.Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là một khái niệm thường được các nhà kinh tế sử dụng

và được hiểu là một tổng thể hệ thống kinh tế gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt

chẽ với nhau, có quan hệ tương tác với nhau trong một không gian, thời gian

nhất định, trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định và được thể hiện cả ở mặt

định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng.

Khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và thực hiện các giải pháp nhằm điều

chỉnh cơ cấu kinh tế, người ta thường xét tới cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ

cấu thành phần kinh tế. Ba bộ phận cơ bản hợp thành của cơ cấu kinh tế này có

quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần chỉ có thể

chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ cả nước. Đồng thời,

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 9

việc phân bố sản xuất theo không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa

quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.

1.2. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế

Trong quá trình phát triển, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi tuỳ theo từng

thời kỳ do tính không cố định của các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số

lượng của các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các

vùng do tốc độ tăng trưởng không đều của các yếu tố cấu thành trong cơ cấu

kinh tế. Cơ cấu kinh tế thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù

hợp với môi trường phát triển tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế này không chỉ đơn thuần là chuyển dịch về vị trí mà còn là

sự thay đổi về lượng và chất của cơ cấu kinh tế. Nội dung của chuyển dịch cơ

cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để hình thành một cơ cấu tiên tiến, hoàn

thiện, phù hợp hơn với những thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội đất nước

(tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông

nghiệp trong GDP cả nước…). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá

trình liên tục và về thực chất đó là sự điều chỉnh cơ cấu thể hiện ở cả ba nội

dung là cơ cấu ngành (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ), cơ cấu thành phần

và cơ cấu vùng lãnh thổ.

2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu

sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA

2.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp

Khu vực nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sự

nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt đối với các nước đang phát triển do

nông nghiệp có đóng góp lớn vào giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế, vào

nguồn thu ngoại tệ của đất nước và vào giải quyết việc làm cho lực lượng lao

động xã hội.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 10

Vì vậy, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với đặc

điểm, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong bối cảnh mở cửa và hội nhập

vào AFTA không những là mục tiêu mà còn là yêu cầu bức bách đối với một

nước đang phát triển như Việt Nam.

Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông nghiệp, lâm

nghiệp và ngư nghiệp. Vì vậy, cơ cấu sản xuất nông nghiệp bao gồm cả cơ cấu

sản xuất theo ngành (nông - lâm - ngư nghiệp) và nội bộ ngành (trồng trọt và

chăn nuôi đối với ngành nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác đối với ngành

lâm, ngư nghiệp); cơ cấu vùng chuyên môn hoá theo lãnh thổ ở khu vực nông

thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, cơ cấu sản xuất nông nghiệp luôn

được điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu mới của điều kiện kinh tế xã hội,

khoa học, kỹ thuật, công nghệ và môi trường đất nước.

2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt

Nam trong quá trình hội nhập vào AFTA

Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất nông nghiệp luôn phải

hướng ra thị trường, phải xuất phát từ quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị

trường để định hướng chiến lược và chính sách sản xuất kinh doanh của mình.

Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của người sản xuất

nông nghiệp để thích ứng với các điều kiện mới của thị trường dẫn tới từng

bước hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp của đất

nước. Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình

Việt Nam mở cửa hội nhập AFTA là một tất yếu khách quan.

Nền nông nghiệp nước ta trong giai đoạn vừa qua tuy đã có nhiều biến

chuyển tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá, tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp

Việt Nam vẫn mang nặng tính tự phát, chưa theo quy hoạch và định hướng

thống nhất. Chính thực tế này đã tạo những nghịch lý đáng buồn: khi được mùa

thì giá nông sản xuống thấp, ngược lại khi mất mùa thì giá nông sản lên cao,

gây thiệt hại lớn cho bà con nông dân. Mặt khác, khi giá một loại nông sản trên Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 11

thị trường xuất khẩu lên cao, các hộ nông dân ồ ạt chặt các cây trồng truyền

thống, trồng các loại cây mới một cách tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu phương

phương pháp khoa học. Thực tế này dẫn tới chất lượng sản phẩm làm ra không

đạt yêu cầu, giá xuất khẩu giảm mạnh hoặc không có người mua, người nông

dân không biết làm gì với sản phẩm mình làm ra. Hệ quả tất yếu là người nông

dân một lần nữa lại chặt bỏ loại cây mới trồng, gây nên những thiệt hại lớn về

kinh tế, tạo ra bất ổn về chính trị, xã hội. Hơn thế nữa, sau khi Việt Nam cam

kết thực hiện quy định của AFTA về tự do thương mại hàng nông sản, hàng

hoá nông phẩm của nước ta lại phải đối mặt với những thách thức mới. Các

nước ASEAN do có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu gần giống với Việt

Nam với các loại nông phẩm xuất khẩu gần giống Việt Nam, nên khi

CEPT/AFTA hoàn thành vào năm 2010 sẽ trở thành các đối thủ cạnh tranh thực

sự của nông sản Việt Nam. Để có khả năng cạnh tranh, nền nông nghiệp nước

ta phải tập trung sản xuất một số loại sản phẩm chủ lực, độc đáo, phù hợp với

điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đất nước với chất lượng tốt, giá thành hợp lý

đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này chỉ có

thể có được khi nền nông nghiệp được điều chỉnh một cách hợp lý phù hợp với

quá trình tự do hoá kinh tế theo xu hướng hội nhập. Chính vì vậy, việc điều

chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà AFTA là bước đi đầu tiên.

Vấn đề này cũng đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc IX “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất

hàng hoá lớn, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh

của hàng nông sản trên thị trường”, và trong Nghị quyết 09/2000/NQ - CP ngày

15/06/2000 của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ

cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô

và chủng loại sản phẩm các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác lợi

thế của cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có

khả năng tiêu thụ được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái.” Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 12

3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của

Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường mở theo hướng hội nhập AFTA hiện nay,

cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam được hình thành dưới tác động của hàng

loạt các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó trước hết phải kể đến là:

- Sự phát triển của các loại thị trường trong nước và quốc tế, nhất là thị

trường hàng nông sản có tác động trực tiếp đến hình thành và chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp, do thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của người nông dân.

- Các nguồn lực được phân bổ và sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, việc

phát huy lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả và bền vững nhất. Dựa trên cơ

sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực được phân bổ vào sản xuất để xác

định và chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành có lợi thế và điều

kiện phát triển, tạo đà cho hội nhập và tham gia vào quá trình phân công lao

động quốc tế.

- Sự phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.

Tiến bộ khoa học công nghệ cùng với các lợi thế so sánh khác trong điều kiện

mở cửa và hội nhập có thể cho phép sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, giá

thành hạ có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Từ đó dẫn đến kết quả là làm

chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nước ta, vai

trò của khoa học công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn

phụ thuộc vào các yếu tố như chính sách khoa học công nghệ của nhà nước,

thực trạng trang bị công nghệ của các ngành và khả năng đầu tư để đổi mới kỹ

thuật công nghệ.

- Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và điều chỉnh

cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Đường lối

đối ngoại rộng mở, rõ ràng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế mà Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 13

nước ta đang thực hiện rõ ràng có tác động quan trọng tới chuyển dịch cơ cấu

sản xuất. Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển

kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể của đất nước

mà về thực chất, đó là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn

lực và đầu tư theo ngành, vùng và lãnh thổ. Nhà nước thông qua hệ thống chính

sách, luật pháp để khuyến khích hay hạn chế đối với các hoạt động sản xuất

kinh doanh theo định hướng được xác định. Như vậy, sự đồng bộ và tính ổn

định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu

ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ.

IV. KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO

ASEAN (AFTA) CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á

1. Điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân tích

Trong số 10 nước thành viên ASEAN, có 4 nước nông nghiệp phát triển

khá là Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia và Philippin. Do vậy, đề tài này sẽ tập

trung khái quát những kinh nghiệm của họ trong việc điều chỉnh cơ cấu sản

xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA để tham khảo cho trường hợp

Việt Nam, bởi mấy lý do sau:

- Thứ nhất, nền nông nghiệp những nước này vẫn còn đóng vai trò quan

trọng trong nền kinh tế đất nước và 5 nước (bao gồm cả Việt Nam) cùng đang

chiếm thị phần khá lớn trên thị trường nông sản thế giới (chiếm tới 45% tổng

lượng gạo xuất khẩu của thế giới, 80% lượng cao su xuất khẩu, chiếm thị phần

lớn trong trong xuất khẩu cà phê và dầu ăn...)

- Thứ hai, cả 5 nước ASEAN này đều có những điều kiện tự nhiên giống

nhau, nên những mặt hàng mà các nước này là khách hàng của Việt Nam thì ít,

những mặt hàng mà các nước đó là đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu với nước

ta (gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, hạt tiêu…) thì nhiều.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 14

Tuy nhiên nếu căn cứ vào tỷ trọng của nông nghiệp, thì vai trò của nông

nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước có khác nhau, cụ thể:

Trong số các nước kể trên, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng

hơn cả đối với nền kinh tế đất nước bởi tỷ lệ lao động nông nghiệp và cơ cấu

GDP nông nghiệp cao nhất. Tiếp sau Việt Nam là Thái Lan và cuối cùng là

Malaysia. Malaysia đạt trình độ công nghiệp hoá cao nhất, thể hiện ở chỉ tiêu

GDP/người lớn nhất, còn các chỉ tiêu về tỷ lệ lao động, cơ cấu nông nghiệp

trong GDP thì thấp nhất.

Bảng 2: Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế 4 nước ASEAN và

Việt Nam (năm 2001)

Nước

GDP/người %Lao động %GDP %tăng GDP

(USD) nông nghiệp nông nghiệp nông nghiệp

3.678,8 18,4 8 1.9 Malaysia

1874 48,8 10 3.6 Thái Lan

927,6 37,4 15 1.9 Philippin

680,2 45,3 16 2.8 Inđônêxia

427,8 76,8 23,6 4.2 Việt Nam

Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê,

HN 2002, tr. 12, 62

Trong khi đó, tại Việt Nam mức độ đóng góp của nông nghiệp vào GDP,

tỷ lệ lao động nông nghiệp trong lực lượng lao động xã hội vẫn rất lớn. Tại Việt

Nam và Thái Lan còn tương ứng 69% và 50% lực lượng lao động tìm kiếm

việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp (ở Malaysia, chỉ có 16% lực lượng lao

động được thu hút vào sản xuất nông nghiệp). Ngành nông nghiệp của 2 nước

Philippin và Inđônêxia cũng là khu vực giải quyết việc làm cho trên 40% lực

lượng lao động xã hội.

Bảng 3: Sản lượng một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của 4 nước

ASEAN và Việt Nam năm 2001 (Đơn vị:1000tấn)

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 15

Inđônêxia Malaysia Philippin Thái Lan Việt Nam

Lúa 50.096 2.215 12.954,9 25.200 31.970,2

Mía 23.500 1.600 28.237,9 49.070 14.325,4

Ngô 9.090 67 4.525 4.673 2.122,9

Cao su 1.650 700 73 2.380 300,7

Cà phê 376,8 12,5 129,8 90 843,9

Nguồn: Tư liệu thống kê KT – XH các nước thnàh viên ASEAN, NXB Thống

kê, HN 2002, tr. 294, 312, 352, 339, 401.

Do điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu tương đối giống nhau nên một số

mặt hàng nông sản có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp nước này cũng là

sản phẩm chủ yếu của nước kia. Chẳng hạn, gạo không chỉ là mặt hàng quan

trọng trong nông nghiệp Việt Nam mà còn đối với Thái Lan, Inđônêxia; dầu cọ

đối với Inđônêsia và Thái Lan .v.v.

2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước

ASEAN trong quá trình hội nhập AFTA

2.1. Tập trung sản xuất những nông phẩm có lợi thế cạnh tranh

Trong thương mại quốc tế, các nước đều cố gắng phát huy lợi thế so sánh

của mình để sản xuất những mặt hàng nông sản có chất lượng cao, giá thành

thấp, đủ sức cạnh tranh trên trị trường quốc tế. Sản xuất nông nghiệp của các

nước ASEAN trong điều kiện mở cửa và hội nhập AFTA cũng được điều chỉnh

theo quy luật đó.

+ Thái Lan: chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá

sản phẩm để giảm bớt rủi ro về thị trường xuất khẩu và ổn định tiêu dùng trong

nước. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Thái Lan đã phản ánh rõ nét

định hướng phát triển thương mại đa dạng hoá sản phẩm, phát huy lợi thế so

sánh. So với năm 1990, cơ cấu sản phẩm nông nghiệp Thái Lan hiện nay đã có

sự thay đổi đáng kể: số lượng các sản phẩm chăn nuôi, cao su, cây ăn quả tăng

nhanh đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước, Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 16

trong khi các sản phẩm truyền thống như lúa gạo, ngô, sắn đậu tương giảm

nhanh. Trong 10 năm qua, Thái Lan đã giảm mạnh việc xuất khẩu ngô từ trên 1

triệu tấn/năm xuống còn 100 ngàn tấn/năm, nhập khẩu đậu tương tăng mạnh từ

57 nghìn tấn lên 750 ngàn tấn để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn gia súc tăng

nhanh trong nước. Gạo - mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Thái Lan, với khối

lượng xuất khẩu tăng liên tục trong 10 năm qua, thì trong vòng 3 - 4 năm gần

đây lại có xu hướng giảm dần. Xuất khẩu đường cũng đang có xu hướng chững

lại. Trong khi đó, xuất khẩu một số mặt hàng khác lại tăng mạnh như thuỷ sản,

hạt tiêu, rau quả, hoa. Hiện nay Thái Lan đang đứng đầu thế giới về xuất khẩu

gạo, về sản xuất và xuất khẩu cao su, tôm sú, đứng thứ ba về xuất khẩu đường.

+ Khác với Thái Lan, Malaysia lại thực hiện điều chỉnh cơ cấu sản xuất

nông nghiệp theo hướng tập trung vào sản xuất cây công nghiệp phục vụ xuất

khẩu, như: cọ dầu, cao su, ca cao - những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao.

Ba loại cây này chiếm tới 77% diện tích đất nông nghiệp cả nước và đóng góp

tới 71% GDP nông nghiệp (riêng cọ dầu chiếm tỷ lệ gần 40% GDP nông

nghiệp). Ngoài ra, Malaysia còn chú trọng phát triển cây lúa nước, dừa và hoa

quả (lúa gạo và hoa quả chiếm tới 10% GDP nông nghiệp), các cây trồng khác

như: cà phê, mía đường .v.v. chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích đất nông

nghiệp. Hơn 10 năm qua, cây cọ dầu là cây phát triển mạnh nhất với lượng sản

xuất và xuất khẩu đều tăng nhanh, trong khi đó cây cao su và ca cao có xu

hướng giảm dần. Do chăn nuôi phát triển nhanh dẫn tới nhu cầu về ngô, đậu

tương làm thức ăn gia súc tăng mạnh (mặc dù sản xuất ngô và đậu tương trong

nước vẫn tăng liên tục nhưng Malaysia vẫn phải nhập khẩu nhiều với lượng

nhập khẩu tăng đều qua các năm). Malaysia chủ trương tập trung vào một số

sản phẩm có lợi thế so sánh, còn những sản phẩm khác sẽ được nhập khẩu để

đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước (nhập khẩu đường, đậu tương, gạo tăng

đều trong những năm gần đây).

Là nước có nguồn tài nguyên về lâm nghiệp lớn trên thế giới, trong thập

kỷ gần đây Malaysia đang chuyển mạnh từ xuất khẩu gỗ xẻ, gỗ ván sang xuất Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 17

khẩu đồ gia dụng, gỗ xây dựng và ván sàn. Việc làm này không những đã làm

tăng nhanh giá trị gia tăng hàng xuất khẩu của Malaysia, mà còn nâng cao được

khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Malaysia trên thị trường quốc tế.

Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Malaysia được thực hiện theo

hướng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá cao, gắn sản xuất và tiêu dùng trong

nước với thị trường quốc tế. Nông nghiệp của Malaysia tập trung vào phát triển

theo mô hình trang trại, đồn điền tư bản nông nghiệp với quy mô sản xuất lớn,

ứng dụng công nghệ cao, tập trung sản xuất một số cây công nghiệp xuất khẩu.

Các trang trại gắn bó chặt chẽ với các cơ sở nghiên cứu triển khai (R&D) để

nhanh chóng ứng dụng và hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu khoa học. Mặt khác,

Malaysia rất chú trọng đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản chế biến, nhờ

thế đã nâng cao được giá trị xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông

sản. Với các làm này, Malaysia đã tạo ra được nhiều sản phẩm hàng hoá mũi

nhọn xuất khẩu với khối lượng lớn, giá thành hạ, chất lượng cao có sức cạnh

tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay do tập trung vào một số mặt

hàng cây công nghiệp xuất khẩu, nên nông nghiệp của Malaysia luôn phải đối

phó với những thay đổi trên thị trường quốc tế về những sản phẩm mà trong

nước không sản xuất hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng.

+ Inđônêxia: là quốc đảo đông dân, nên thị thường tiêu dùng trong nước

luôn tạo ra sức ép lớn đối với kinh tế. Bởi vậy, một mặt nước này vẫn duy trì

mức độ vừa phải chiến lược đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, măt khác, vẫn

tập trung mũi nhọn vào những mặt hàng chủ lực, như: lúa gạo, cọ dầu, dừa, cao

su, cà phê, đường, ca cao, hàng lâm sản.v.v. Inđônêxia chủ trương hướng mạnh

vào sản xuất các mặt hàng có lợi thế so sánh như: lâm nghiệp, chăn nuôi và

thuỷ sản, trong khi đó các loại cây lương thực chỉ có tốc độ tăng bình quân

hàng năm khoảng trên 1,5%. Các ngành lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp,

chăn nuôi và thuỷ sản của Inđônêxia phát triển mạnh đem lại tăng trưởng khá

(gần 3%) cho nông nghiệp. Trong những năm gần đây, sản xuất cọ dầu của

Inđônêxia tăng mạnh do giá dầu cọ trên thị trường thế giới lên cao (bằng các Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 18

biện pháp như: giảm mạnh đất trồng cà phê và sắn để chuyển sang trồng cọ

dầu), trong khi hầu hết các cây trồng khác tăng trưởng không đáng kể. Bên

cạnh đó Inđônêxia còn có thế mạnh về sản xuất, xuất khẩu các nông sản khác

như: hạt tiêu, hoa quả, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tôm, đường, cá ngừ.v.v.

Inđônêxia hiện đang đứng đầu thế giới về sản xuất hạt tiêu trắng và thứ hai thế

giới về sản xuất hạt tiêu đen với sản lượng lên tới 22 ngàn tấn/năm. Trong

những năm gần đây, xuất khẩu dầu cọ và cao su của Inđônêxia tăng tương đối

ổn định, tuy nhiên nước này vẫn phải nhập khối lượng lớn lương thực (gạo,

mỳ), đường 1 triệu tấn/năm) và nguyên liệu làm thức ăn gia súc (3triệu

tấn/năm).

+ Nông nghiệp của quần đảo Philippin phát triển hướng vào khai thác thế

mạnh về chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Ngành chăn nuôi chiếm khoảng

24% giá trị sản lượng nông nghiệp và có tốc độ tăng trưởng bình quân trên

5%/năm trong hơn một thập kỷ qua. Hiện nay, Philippin đang đứng thứ 12 thế

giới về nuôi trồng thuỷ sản, và chỉ riêng ngành này đã đóng góp tới 15% GDP

nông nghiệp cả nước. Phần lớn diện tích đất nông nghiệp của nước này được

dùng để trồng lúa (chiếm 40% diện tích đất nông nghiệp và tạo ra 22% giá trị

GDP nông nghiệp). Chính phủ đã tập trung đầu tư 1/3 ngân sách nông nghiệp

cho vùng Miđanao để biến vùng này thành vùng chuyên canh lúa của đất nước,

nhưng hàng năm nước này vẵn phải nhập khẩu khối lượng khá lớn lương thực

(trên 1 triệu tấn/năm) làm thức ăn chăn nuôi. Dừa cũng là cây trồng chính trong

nông nghiệp của Philippin. 90% sản lượng dừa được chế biến thành cùi dừa

khô, trong số đó 5% để xuất khẩu, số còn lại được chế biến thành dầu ăn và dầu

công nghiệp. Mía đường cũng là cây trồng quan trọng của Philippin do nước

này được xuất khẩu theo quota ưu đãi vào thị trường Mỹ. Nhưng gần đây, cả

diện tích mía đường và dừa đều có xu hướng thu hẹp lại để mở rộng diện tích

các loại cây trồng có hiệu quả cao hơn như: cà phê, cây ăn quả (xoài, dứa.v.v.).

Sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu của Philippin là dầu dừa, đường, chuối,

dứa, cà phê, cá hồi với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4tỷ USD/năm. Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 19

2.2. Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp bám sát nhu cầu thị trường trong

nước và xuất khẩu

Xu thế phát triển và điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp chung của

các nước là: Từ độc canh sang đa canh; từ trồng cây hàng năm sang trồng cây

lâu năm, cây ăn quả, cây công nghiệp; từ sản xuất, xuất khẩu nguyên liệu thô

sang xuất khẩu nông sản đã qua chế biến; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nuôi

trồng thuỷ sản; chuyển từ tự túc lương thực sang cân đối lương thực thông qua

thương mại quốc tế. Một số cây trồng truyền thống không có thị trường tiêu thụ

cũng bị thay thế dần (ví dụ như cây sắn ở Thái Lan; mía, dừa ở Philippin; đậu

tương của Malaysia).

Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp để thích ứng với những biến

động của thị trường thế giới không phải là điều dễ dàng, nhưng trong điều kiện

mở cửa và hội nhập AFTA hiện nay, chấp nhận sản xuất một số sản phẩm mũi

nhọn mà nước mình có lợi thế trong cạnh tranh, chuyển sang nhập khẩu những

mặt hàng ít có khả năng cạnh tranh, buộc các nước ASEAN đã nêu phải có

những biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của mình một cách có

hiệu quả nhất, tạo thế ổn định sản xuất trong điều kiện thị trường luôn biến

động.

Thái Lan là một ví dụ điển hình: Trong những năm 1950 và 1960, sản

xuất nông nghiệp của nước này mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nông

nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào quảng canh do quỹ đất nông nghiệp còn lớn,

cơ sở cho sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Trong thời kỳ này, Thái Lan thực

hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu nên sản suất nông nghiệp chủ yếu

hướng vào thị trường nội địa. Đến giữa những năm 1970, chiến lược thay thế

hàng nhập khẩu được thay bằng chiến lược hướng vào xuất khẩu. Trong điều

kiện cơ sở hạ tầng đã được nâng cấp đáng kể, các tiến bộ của cuộc “cách mạng

xanh” được ứng dụng vào sản xuất nên cơ cấu cây trồng được thay đổi mạnh

mẽ. Đến thập kỷ 80 Thái Lan chủ trương thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 20

xuất nông nghiệp theo hướng giảm tỷ lệ của cây trồng truyền thống có giá trị

kinh tế thấp (lúa gạo), tăng tỷ lệ các cây trồng mới (rau, hoa quả, cây có dầu,

chăn nuôi lợn, gia cầm.v.v.) để khai thác hết nội lực về vốn và lao động, đồng

thời đối phó với hiện tượng giá cả xuống thấp và rủi ro thị trường của các nông

sản xuất khẩu truyền thống. Do vậy diện tích trồng lúa giảm mạnh từ trên 90%

(năm 1965) xuống còn 62% (năm 1988) và 50% (năm 1998). Sự đa dạng hoá

sản xuất nông nghiệp kéo theo sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu nông sản. Xuất

khẩu gạo từ chỗ chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1953) đã giảm

xuống còn 8% (năm 1992) và 3% (năm 1998). Để tăng khả năng cạnh tranh và

thích nghi trong quá trình hội nhập AFTA, tăng tính hiệu quả của sản xuất

trong điều kiện hạn chế về cơ sở hạ tầng và chi phí sản xuất gia tăng, Chính

phủ Thái Lan tăng cường khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và khu

vực nông thôn nên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 2%-

3%/năm, kể cả trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ (1997-1998).

2.3. Thực hiện cải tổ để đương đầu với thử thách

+ Inđônêxia: Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các

nước ASEAN đều trực tiếp bị tác động, trong đó Inđônêxia là nước bị thiệt hại

nặng nhất. Tình hình chính trị mất ổn định, thiên tai và cháy rừng lại liên tiếp

xảy ra làm cho nông nghiệp nước này bị thiệt hại nặng nề. Mức sống của 130

triệu trong tổng số 205 triệu dân của của nước này tụt xuống dưới mức nghèo

khổ, 38 trên tổng số 90 triệu lao động bị thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát tăng nhanh,

thu nhập bình quân/người giảm từ 1080 USD đầu những năm 90 xuống còn

480 USD vào năm 1998. Chính phủ mới của Inđônêxia đã phải thực hiện

những cải tổ sâu sắc nhằm đem lại lòng tin và tăng cường thu hút vốn đầu tư

vào sản xuất nông nghịêp đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông

dân có quy mô sản xuất nhỏ giảm tỷ lệ nghèo đói phát triển sản xuất hàng hoá,

cụ thể như:

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 21

 Xoá bỏ sự độc quyền của Cục hậu cần Quốc gia Inđônêxia (BULOG)

trong nhập khẩu lúa mỳ, bột mỳ, đậu tương, tỏi, gạo.

 Cắt giảm thuế quan đối với tất cả các hàng thực phẩm xuống mức cao

nhất là 5%.

 Loại bỏ cản trở đối với việc buôn bán, vận chuyển nông sản hàng

hoá.

 Thực hiện tự do buôn bán nông phẩm giữa các vùng.

Bên cạnh đó, Chính phủ Inđônêxia còn thực hiện cải cách trong một số

lĩnh vực khác để hỗ trợ giảm đói nghèo cho nông dân và tăng cường nguồn lực

cho khu vực nông nghiệp, như: Chính sách đảm bảo giá sàn theo từng vùng để

hỗ trợ nông dân thay cho việc bảo hộ người tiêu dùng trước đây; Nhà nước đảm

bảo thu mua sản phẩm hàng hoá của nông dân làm ra với giá sàn khi giá nông

sản xuống thấp; Cắt trợ giá cho người tiêu dùng đối với sản phẩm đường, đậu

tương, lúa mỳ, sản phẩm sữa, bột cá; trợ giá tiêu dùng đối với sản phẩm gạo

cho nhóm dân cư nghèo nhất; mở rộng tự do buôn bán thực phẩm; chuyển từ cơ

chế quản lý hành chính sang các công cụ tài chính - thị trường để quản lý lương

thực và ổn định giá cả; Cắt bỏ rào cản phi thuế quan trong thị trường hàng nông

sản để tạo điều kiện cho các hộ sản xuất quy mô nhỏ có cơ hội tăng thu nhập;

Tự do hoá thương mại phân bón, hoá chất nông nghiệp, giống; tư nhân hoá nhà

máy phân bón, chấm dứt trợ giá và bao cấp cho các nhà máy phân bón trong

nước; Đẩy mạnh công tác nghiên cứu giống, chấm dứt sự độc quyền của các

công ty giống Nhà nước để các thành phần kinh tế khác tham gia thị trường

này; Loại bỏ độc quyền phân bón và vật tư nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm

nông sản của các HTX, chuyển các HTX thành các tổ chức kinh doanh hiện đại

hoạt động trên nguyên tắc cạnh tranh; Tăng mức cho vay tín dụng đối với nông

dân từ 1,4 triệu Rp/ha lên 2 triệu Rp/ha, tăng tổng lượng tín dụng cho vay từ

1,9 nghìn tỷ Rp lên 3,4 nghìn tỷ Rp; Tăng hiệu quả công tác thuỷ lợi, nâng cao

công suất các trạm bơm.v.v.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 22

Để khắc phục tình trạng bất ổn về lương thực, bắt đầu từ tháng 7/1998

Chính phủ chủ trương hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đói theo chế độ tem

phiếu, các hộ được mua 10 kg gạo/tháng theo giá ưu đãi xấp xỉ 25% giá thị

trường (trên 3 triệu hộ với 17 triệu người nghèo được hưởng lợi từ Chương

trình này).

+ Philippin: Thay đổi chính sách đối với nông nghiệp từ bảo trợ sản xuất

trong nước sang tăng cường cạnh tranh. Trước đây, Nhà nước thực hiện trợ giá

lúa, ngô, hỗ trợ tín dụng, hạn chế nhập khẩu nông sản, tự do nhập khẩu vật tư,

bao cấp cho hệ thống khuyến nông của Chính phủ. Đến năm 1998, Nhà nước

đã ban hành Luật hiện đại hoá nông ngư nghiệp (AFMA) với nội dung chính

bao gồm: chuyển hướng sản xuất sang dựa vào tài nguyên sang dựa vào công

nghệ; đảm bảo cho mọi người tham gia sản xuất có khả năng tiếp cận công

bằng đối với các loại tài sản, tài nguyên, dịch vụ; phát triển cây trồng có giá trị

kinh tế cao, tăng cường công tác chế biến để tăng giá trị hàng hoá, phát triển

công nghiệp nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực; khuyến khích liên kết

kinh tế thông qua các tổ chức HTX, hiệp hội, công ty, trang trại...; tăng cường

phát triển tài nguyên, nguồn nhân lực thông qua các tổ chức nhân dân: HTX,

các NGO, xây dựng cơ chế nối kết giữa các tổ chức này với quá trình ra quyết

định của Chính phủ; đẩy mạnh định hướng thị trường để phát triển khả năng

cạnh tranh của nông nghiệp trên thị trường ASEAN và quốc tế. Từ tháng 3 năm

1998, Luật này có hiệu lực và đã trở thành trọng tâm chiến lược phát triển nông

nghiệp hiện nay của Philippin.

Luật hiện đại hoá nông ngư nghiệp là một tổ hợp các chính sách liên

quan đến lĩnh vực sản xuất, tiếp thị, sử dụng tài nguyên, nguồn nhân lực,

nghiên cứu chuyển giao, khuyến nông, phát triển kinh tế nông thôn, tài chính

thương mại, do Bộ nông nghiệp làm điều phối viên với sự tham gia của Bộ

khoa học công nghệ, Bộ giao thông.v.v. với các biện pháp cụ thể như:

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 23

 Xác định vùng chuyên canh để tại đó xây dựng các nhà máy chế

biến, hệ thống thuỷ lợi, thông tin, tiếp thị, giám sát chất lượng để phục

vụ sản xuất các mặt hàng nông sản chiến lược.

 Hình thành hệ thống giáo dục địa phương hoàn chỉnh từ tiểu học

đến trung học, dạy nghề gắn với mạng lưới giáo dục trung tâm quốc gia,

phục vụ nông nghiệp và ngư nghiệp của đất nước theo nhu cầu của sản

xuất.

 Tăng cường vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu,chuyển giao, áp

dụng công nghệ và khuyến nông từ 0,2% lên 1% tổng giá trị gia tăng của

toàn ngành.

 Triển khai chương trình phát triển công nghiệp nông thôn tạo ra

các ưu đãi khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bỏ vốn vào

ngành chế biến nông sản, đồng thời phân cấp cho chính quyền địa

phương thực hiện hỗ trợ đầu tư và tiếp thị.

 Giảm thuế đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu của các doanh nghiệp

nông ngư nghiệp.

 Bộ Nông nghiệp Philippin cũng thông qua nhiều chương trìnhphát

triển sản xuất và bảo quản sau thu hoạch trong chương trình lương thực,

tiến hành các dự án thuỷ lợi như đập ngăn nước, hệ thống giếng khoan

thuỷ lợi, hỗ trợ sau thu hoạch, bao gồm: xây dựng các hè phơi sấy đa

năng, phân phối máy sấy nhỏ nhằm khịp thời sấy thóc; phân phối công

cụ đo độ ẩm của ngô để kiểm soát aflatoxin; các thiết bị xay xát gạo, nhà

kho, vận tải ... cũng được cải thiện.

+ Thái Lan: Phát triển nông nghiệp theo định hướng gắn với xuất khẩu

của Thái Lan đã góp phần quan trọng trong việc tránh những tác động tiêu cực

của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đồng thời đẩy nhanh tốc độ

tăng trưởng nông nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện mở cửa và hội nhập mạnh

mẽ vào AFTA hiện nay, nông nghiệp Thái Lan đang phải đối mặt với nhiều

thách thức to lớn, đó là: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp tuy Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 24

đang diễn ra, nhưng tốc độ còn chậm, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn

(trong thập kỷ 90, giá trị gia tăng ngành trồng trọt đạt 61,3%, thuỷ sản - 11,7%,

chăn nuôi - 10,6%); năng suất nông nghiệp vẫn còn thấp, chi phí sản xuất cao;

cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ sản xuất yếu kém, lạc hậu; cơ khí hoá

nông nghiệp chỉ phát triển mạnh ở vùng trung tâm, còn ở các vùng phía Bắc và

Đông Bắc lao động thủ công có sử dụng sức trâu bò vẫn chiếm ưu thế. Các

nguồn tài nguyên bị khai thác kém hiệu quả trong khi mâu thuẫn giữa mục tiêu

thương mại và bảo vệ môi trường sinh thái đang ngày càng trở nên gay gắt; đội

ngũ cán bộ khoa học yếu kém, nhất là trong nghiên cứu cơ bản.

Vào tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã đưa ra chương trình đầu tư theo

chiều sâu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của 12 mặt hàng nông sản chủ

lực, được phân chia thành 3 nhóm như sau:

 Nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao, bao gồm: gạo, sắn, cao su,

tôm càng xanh, dứa.

 Nhóm có khả năng cạnh tranh trung bình, bao gồm: đường, dầu cọ,

ngô, cà phê.

 Nhóm đặc sản, bao gồm: nhãn, sầu riêng, hoa phong lan.

Xuất phát từ định hướng này, Chính phủ đã đề ra những giải pháp thích

hợp cho từng nhóm hàng riêng biệt, xuyên suốt từ sản xuất, chế biến đến tiêu

thụ, chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng, tăng

cường tín dụng ưu đãi trung và dài hạn, tăng cường đầu tư cho thuỷ lợi và khoa

học kỹ thuật.

Nhờ nhanh chóng điều chỉnh chính sách để đương đầu với khó khăn,

đồng thời tranh thủ thời cơ do cuộc khủng hoảng gây ra, do vậy trong lúc các

lĩnh vực khác rơi vào khủng hoảng thì nông nghiệp nước này vẫn đạt tốc độ

tăng trưởng 3%/năm. Tỷ giá đồng Bath được điều chỉnh hợp lý đã tạo điều kiện

thuận lợi cho gia tăng xuất khẩu hàng nông sản. Nhờ đó tốc độ tăng trưởng xuất

khẩu hàng nông sản đã lên tới 33,6%. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện trợ

cấp trực tiếp cho hoạt động sản xuất và tiếp thị của nông dân thông qua “Quỹ Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 25

hỗ trợ chính sách cho nông dân” (năm 1998 là 10 triệu Bath) giảm thuế xuất

khẩu nông sản và thuế nhập khẩu nguyên liệu.

Để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến

nông sản trên thị trường quốc tế, Thái Lan hướng vào nâng cao chất lượng hàng

nông sản xuất khẩu. Các nhà đầu tư phải thực hiện hoạt động sản xuất kinh

doanh theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và quản lý môi trường ISO 14000,

nhờ vậy mà nhiều mặt hàng nông sản chế biến của Thái Lan đã đạt tiêu chuẩn

quốc tế và dễ dàng vượt qua các rào cản thương mại, thâm nhập thành công vào

các thị trường "khó tính "như EU, Mỹ, Nhật...

Đầu tư tư nhân và liên doanh với nước ngoài tăng nhanh trong công

nghiệp chế biến cao su và thuỷ sản. Năm 1998 xuất khẩu nông sản đã qua chế

biến tăng 19%. Hầu hết các dự án đầu tư đều có công nghệ hiện đại, nhờ đó

chất lượng và uy tín sản phẩm đã được nâng lên rõ rệt. Thái Lan hiện nay đang

đang dẫn đầu thế giới về chế biến dứa, tôm và cá hồi đông lạnh (kim ngạch

xuất khẩu năm 1998 đạt 611 triệu USD). Nhờ chất lượng đảm bảo, có uy tín

nên Thái Lan dã dần giành được khách hàng của Inđônêxia và Malaysia. Hiệp

hội cao su Thái Lan đã ký được hợp đồng đảm bảo cung cấp sản phẩm có chất

lượng cao cho Nhật Bản. Tương tự, Thái Lan cũng đã khẩu thịt gà chế biến

sang các nước Châu Âu và Nhật Bản.

Thái Lan còn chủ trương xây dựng tỉnh Pattani thành trung tâm sản xuất

thực phẩm cho thế giới đạo Hồi, nhờ phát hiện ra tiềm năng to lớn của thị

trường 1,5 tỷ người tiêu dùng với sức mua 80 tỷ USD/năm. Dự kiến chương

trình này sẽ xuất khẩu 10 tỷ USD trong vài năm tới. Chính phủ còn cung cấp

kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích đầu tư bằng thuế và tín dụng ưu

đãi, giúp các nhà đầu tư nghiên cứu thị trường Ai Cập, Nam Phi, thống nhất với

Inđônêxia và Malaysia về nhãn hiệu sản phẩm, quy cách quản lý chất lượng

thực phẩm cho người tiêu dùng theo đạo Hồi ở các nước ASEAN. Đến nay đã

có 221 nhà máy sản xuất các sản phẩm này đi vào hoạt động.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 26

+ Malaysia: trong năm 2000, nước này đã tuyên bố Chiến lược phát triển

nông nghiệp trong 10 năm tới với mục tiêu đưa nông nghiệp phát triển thành

một lĩnh vực hiện đại, có trình độ thương mại hoá cao, thông qua việc thực hiện

đồng bộ một hệ thống các chính sách với nội dung chính như sau:

 Tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn tài nguyên, tập trung vào việc

phục hồi, và cải tạo đất hoang, mở rộng, nâng độ màu mỡ của đất trồng

cây hàng năm. Chính phủ đã xây dựng một quy hoạch sử dụng đất tổng

thể, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước nhằm tăng năng suất cây

trồng và duy trì nguồn tài nguyên cho tương lai.

 Phát triển các ngành công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông

nghiệp dựa vào tài nguyên của từng địa phương để đẩy mạnh xuất khẩu

nông sản thành phẩm.

 Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, trong đó nghiên cứu áp dụng

công nghệ hiện đại là ưu tiên hàng đầu, tập trung vào các yếu tố: quản lý

tài nguyên, phương pháp sản xuất, chế biến, đóng gói, phát triển giống

cây trồng, vật nuôi, các nguồn vốn trong và ngoài nước. Cả Nhà nước và

tư nhân được huy động để áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao

trong trồng trọt và chăn nuôi. Chính sách khuyến khích bằng vật chất

cũng được áp dụng để liên kết nghiên cứu, sản xuất và sử dụng tài

nguyên địa phương.

 Đề cao vai trò của tư nhân trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp

thành lĩnh vực thương mại hoá, có khả năng cạnh tranh trên thị trường

trong nước và quốc tế. Các kỹ năng quản lý, marketing, sử dụng nguồn

vốn, mạng lưới phân phối của tư nhân được coi trọng. Nhiều quy định và

chính sách hỗ trợ, tăng cường phát triển nông nghiệp dựa trên nguồn lực

và sự linh hoạt của khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả các tổ chức của

nông dân, ngư dân đã được ban hành. Các tổ chức này được khuyến

khích tham gia thương mại, kể cả liên doanh với các nhà đầu tư nước

ngoài.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 27

 Đổi mới công tác tiếp thị, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Theo

các nhà hoạch định chính sách Malaysia, tốc độ phát triển của ngành

nông nghiệp trong tương lai phụ thuộc và sự phát triển của công tác thâm

nhập và chiếm lĩnh thị trường: giữ vững thị trường truyền thống, mở

rộng thị trường mới, đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng

của thị trường trong nước và ngoài nước. Sản phẩm nông nghiệp của

Malaysia được định hướng vào những mặt hàng có năng lực cạnh tranh

cao, tập trung vào các thị trường chuyên biệt, bám sát thị hiếu của khách

hàng, kịp thời đáp ứng cầu thị trường. Nhà nước đề ra một loạt các biện

pháp tổng thể như: truyền bá rộng rãi thông tin về thị trường; tổ chức

nghiên cứu, phân tích, dự báo về các thị trường tiềm năng; xây dựng cơ

sở hạ tầng, tăng cường giám sát chất lượng và tiêu chuẩn, khuyến khích

các liên doanh với tư nhân trong công tác tiếp thị nông sản.

 Phát triển một ngành lương thực năng động, sẵn sàng đáp ứng

tiềm năng to lớn của thị trường nội địa về hàng lương thực đã qua chế

biến. Đó là tiềm năng về thay thế hàng nhập khẩu đáp ứng nhu cầu mới

nảy sinh khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên. Malaysia đã đề ra

một loạt các chính sách mới nhằm nâng cao chất lượng và dinh dưỡng

của các thực phẩm đang được lưu hành trên thị trường.

Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cụ

thể trong việc cải tạo giống cây trồng vật nuôi, tăng cường cơ khí hoá, cải thiện

trình độ quản lý của các trang trại, giảm hao hụt sau thu hoạch, cố gắng đáp

ứng 65% nhu cầu về lúa gạo trong nước vào năm 2010. Bên cạnh đó, Malaysia

còn đẩy mạnh đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển ngành chăn

nuôi hiện đại, chăn nuôi bò kết hợp với canh tác cọ dầu trong các hộ gia đình,

mở rộng diện tích cây trồng làm thức ăn cho gia súc. Malaysia tập trung vào

phát triển các cây trồng có lợi thế so sánh như cọ dầu, cao su. Quá trình cơ khí

hoá, tự động hoá, áp dụng giống có năng suất cao, phát triển đất mới, nâng cao

công tác quản lý... là nhằm hạ chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 28

thị trường dầu cọ và cao su thế giới. Nhằm hỗ trợ thực hiện chính sách cho

ngành nông nghiệp, Nhà nước xây dựng một chương trình đẩy mạnh các hoạt

động dịch vụ hỗ trợ như: khuyến nông, tín dụng, áp dụng công nghệ mới, tiếp

thị và phát triển các tổ chức của nông dân.

3. Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA của một số nước ASEAN

Qua kinh nghiệm và thực tiễn trong điều chỉn cơ cấu nông nghiệp của

các nước ASEAN như đã phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng

không có một mô hình phổ quát cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA. Tuy nhiên, với trường hợp của Việt

Nam, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản như sau:

3.1. Về lựa chọn chiến lược điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp

Trong quá trình xây dựng chiến lược điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp, các nước đều có tính đến phân công lao động khu vực. Nghĩa là mỗi

nước đều tập trung đầu tư cho một số mặt hàng mũi nhọn dựa trên các lợi thế

sau:

- Lợi thế về điều kiện tự nhiên.

- Lợi thế về lao động.

- Lợi thế về công nghệ sản xuất và chế biến.

- Lợi thế về nhu cầu thị trường.

- Lợi thế về các yếu tố truyền thống.

Cụ thể là, Malaysia đẩy mạnh sản xuất, chế biến dầu cọ, cao su, ca cao;

Thái Lan thì lúa gạo, đường và thuỷ sản; Inđônêxia thì lâm nghiệp, chăn nuôi,

thuỷ sản; Philippin thì chăn nuôi, thuỷ sản, lúa gạo... Rõ ràng sự khai thác lợi

thế của từng nước có tính đến phân công lao động giữa các nước trong khối đã

thúc đẩy tăng trưởng về chất, cũng như giảm chi phí, tăng năng suất lao động

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 29

và nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vốn đầu tư, giúp cho việc đầu tư

tập trung và có trọng điểm.

3.2. Phát triển sản xuất và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng

thị trường mở

Để phát huy tối đa lợi thế so sánh, các nước đều tập trung vào sản xuất

một hoặc một số sản phẩm nông nghiệp chính với khối lượng lớn, giá cả thấp,

nhằm vươn ra thị trường thế giới, đồng thời chấp nhận nhập khẩu các mặt hàng

nông nghiệp không có khả năng cạnh tranh hoặc nếu sản xuất thì giá trị gia tăng

không lớn, hiệu quả kinh tế không cao so với việc sử dụng các nguồn lực trong

nước tiến hành sản xuất các sản phẩm khác. Chẳng hạn Philippin sản xuất

nhiều gạo phẩm cấp cao, nhưng lại nhập lương thực phẩm cấp thấp làm thức ăn

cho gia súc, gia cầm. Thái Lan đang đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt

hàng nông sản đã qua chế biến nên tốc độ gia tăng xuất khẩu gạo chững lại,

đồng thời giảm xuất khẩu ngô, tăng nhập khẩu đậu tương...

3.3. Duy trì và ổn định thị trường trong nước bằng những phương

thức khác nhau

Trong khi tập trung cho các mũi nhọn sản xuất và xuất khẩu các mặt

hàng chủ lực, các nước ASEAN vẫn chú ý tới việc duy trì và ổn định thị trường

trong nước. Những nước có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ thì tập trung hơn

vào những ngành mũi nhọn để tăng cường xuất khẩu (như Malaysia). Còn

những nước khác thì lựa chọn phương thức phát triển đa ngành, đa nghề, đa

dạng hoá sản phẩm. Việc lựa chọn này, một mặt để ổn định thị trường rộng lớn,

đông dân trong nước với nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng; mặt

khác là để hạn chế rủi ro khi thị trường thế giới biến động. Điều này ta có thể

thấy rất rõ ở những nước đông dân cư, lãnh thổ rộng lớn, như: Inđônêxia,

Philippin, Thái Lan.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 30

3.4. Về trường hợp của Việt Nam

Việt Nam đã cam kết lịch trình thực hiện các quy định của AFTA bằng

việc công bố Danh mục thực hiện cắt giảm thuế, theo đó ngành nông nghiệp

Việt Nam có lịch trình hội nhập AFTA tương đối sớm hơn so với các ngành

khác. Nếu xét về vấn đề lựa chọn mô hình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp để hội nhập thành công, thì theo kinh nghiệm của các nước ASEAN đi

trước, chúng ta nên thiên về đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, có tính đến một

số mặt hàng chủ lực, ít nhất cũng vì hai lý do sau:

+ Thứ nhất, Việt Nam là một nước đông dân với sự phân bố

không đều trên nhiều loại địa hình, giao thông liên lạc chưa phát triển,

làm cho việc vận chuyển lương thực, thực phẩm giữa các vùng khó

khăn. Do vậy, chúng ta nên đa dạng hoá trồng trọt, chăn nuôi ở tất cả

các vùng miền của đất nước để đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu

của người dân mỗi vùng.

+ Thứ hai, Việt Nam còn là nước nông nghiệp nhiệt đới, có

nhiều tiểu vùng khí hậu thuận lợi cho nuôi trồng nhiều loại nông sản

quý, độc đáo, rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Đây là điều

kiện tốt cho nước ta xây dựng một số mặt hàng nông sản xuất khẩu

chủ lực có khả năng cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập khu vực

mậu dịch tự do ASEAN- AFTA.

Hy vọng rằng với những kinh nghiệm của các nước ASEAN đã nêu, việc

điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam sẽ được tiến hành một

cách đúng đắn hợp lý, tạo nên cơ sở thuận lợi cho nền nông nghiệp nước ta

vững vàng hội nhập AFTA.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 30

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

VÀ CƠ CẤU HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG

GIAI ĐOẠN VỪA QUA

Một là, nông nghiệp Việt Nam đang là một nền nông nghiệp sản xuất

nhỏ, manh mún, còn một bộ phận tự túc tự cấp.

Về cơ bản, nền nông nghiệp của Việt Nam đang chuyển dần sang sản

xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. Người nông dân hầu như vẫn đưa ra

thị trường những gì mà họ có chứ chưa phải những sản phẩm mà thị trường

cần.

Thêm vào đó sản xuất nông nghiệp hiện nay của Việt Nam được tiến

hành bởi 13,2 triệu hộ gia đình nông dân, trong đó 11 triệu hộ làm nông nghiệp

(gồm cả lâm, ngư nghiệp). Bình quân mỗi hộ có 2,5 lao động, 0,7 ha đất nông

nghiệp và có tới 7 thửa đất nhỏ manh mún. Trong điều kiện sản xuất manh mún

như vậy, với bản chất tư hữu của người nông dân thì rất khó áp dụng có hiệu

quả tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để hình thành các vùng chuyên canh

sâu, tạo ra sản phẩm có chất lượng và độ đồng đều cao.

Khó khăn chính của tình trạng manh mún, sản xuất nhỏ là chất lượng

hàng nông sản rất thấp, thị trường thu mua nhỏ lẻ, khó áp dụng các thành tựu

mới về khoa học công nghệ vào sản xuất cũng như chế biến, hạn chế đầu tư của

Nhà nước cho những vấn đề đồng bộ trong các khâu: sản xuất - thu mua - chế

biến - tiêu thụ - xuất khẩu.

Mục tiêu phấn đấu của nền nông nghiệp nước nhà là mau chóng vươn lên

sản xuất hàng hoá, có sức cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới,

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 31

góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà hội nhập thành công vào các Khu

vực mậu dịch tự do như: AFTA…

Sau 15 năm kể từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị

(05/05/1998) đến nay, nền nông nghiệp của chúng ta đã đạt được những thành

tích vượt bậc: cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng thích hợp với quá

trình hội nhập nông nghiệp đang diễn ra, tốc độ tăng trưởng của ngành luôn đạt

4,5%/năm, giá trị xuất khẩu đạt bình quân 3 tỷ USD/năm, thị trường xuất khẩu

hàng nông sản được mở rộng. Tuy vậy, nhiều vấn đề mới cũng đã nảy sinh đòi

hỏi phải có giải pháp xử lý hữu hiệu để nền nông nghiệp nước ta hội nhập

thành công vào nền nông nghiệp thế giới trong thời gian sắp tới mà AFTA là

bước khởi đầu.

Hai là, nền nông nghiệp Việt Nam vẫn đang giữ một vai trò quan trọng

trong việc ổn định kinh tế, đời sống dân cư vầ hậu thuẫn cho quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Bảng 4: Đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế (%)

Năm 1998 1999 2000 2001 2002

15,51 25,01 14,92 8,82 12,30 Nông nghiệp

46,55 54,16 50,74 54,41 48,67 Công nghiệp

37,93 20,83 34,32 34,32 38,53 Dịch vụ

Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2002, Viện quản lý kinh tế TƯ, HN 2003, tr. 11.

Nông nghiệp nước ta hiện nay đang là ngành tạo ra việc làm và thu nhập

cho khoảng 70% lực lượng lao động toàn xã hội, đồng thời cũng là ngành có

đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, với

mức đóng góp bình quân trên 10%/năm. Đây là một tỷ lệ khá cao so với các

nước trong khu vực và trên toàn thế giới.

GDP các ngành kinh tế trong 18 năm qua theo giá cố định 1994 đều tăng.

Về số tuyệt đối, GDP nông nghiệp tăng gần 2 lần từ 36, 8 nghìn tỷ đồng năm

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 32

1985 lên trên 68 nghìn tỷ đồng năm 2002 (mặc dù về tỷ trọng trong GDP lại

giảm từ 34,69% xuống 23,30% trong cùng kỳ). Mức độ đóng góp của nông

nghiệp vào GDP theo số tuyệt đối không phải là nhỏ so với mức độ đóng góp

công nghiệp và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ rằng nông nghiệp vẫn thực sự vẫn

còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của toàn nền kinh tế Việt

Nam.

Biểu đồ 1: Giá trị đóng góp của các ngành kinh tế vào GDP theo giá so

140000

120000

100000

80000

60000

40000

20000

1985

1987

1993

1999

2003

1991 1989 N«ng nghiÖp

1997 1995 C«ng nghiÖp

2001 DÞch vô

sánh năm 1994 giai đoạn 1985 - 2003* (tỷ đồng)

Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm.

*: Dự tính năm 2003

II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CỦA HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM

TRONG CẠNH TRANH VỚI CÁC SẢN PHẨM CÙNG LOẠI TỪ CÁC

NƯỚC ASEAN KHÁC KHI CEPT/AFTA HOÀN THÀNH

1. Khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam của các mặt hàng nông

sản được sản xuất tại các nước khác trong khối ASEAN

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 33

Trong việc xác định năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam,

một vấn đề rất quan trọng là phải biết các đối thủ cạnh tranh hiện tại và trong

tương lai đang có những thế mạnh nào. Đây chính là việc xác định những mặt

hàng nông sản nào của các nước ASEAN có khả năng thâm nhập thị truờng

nước ta khi CEPT/AFTA hoàn thành. (Xem phụ lục 1)

Trong cơ cấu thương mại hiện nay của ASEAN, thương mại hàng nông

sản chiếm khoảng 40%. Điều đó cho thấy trên bình diện chung, nhất là khi lịch

trình cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA hoàn thành, hàng nông sản các nước

ASEAN sẽ có mức độ thâm nhập khá cao vào thị trường Việt Nam.

Lý do hàng nông sản các nước ASEAN có khả năng thâm nhập cao vào

thị trường Việt Nam khi CEPT/AFTA hoàn thành là do:

- Thứ nhất, do cùng nằm trong vùng nhiệt đới nên các nước ASEAN đều

có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế về các mặt hàng nông sản nhiệt

đới.

- Thứ hai, trình độ phát triển của nền kinh tế các nước ASEAN, nhất là 6

nước thành viên cũ, cao hơn nên hậu thuẫn tốt hơn cho các khâu sản xuất nông

phẩm, từ công nghệ sau thu hoạch cho đến chế biến.

- Thứ ba, mặc dầu mỗi nước đều có lợi thế cạnh tranh nổi trội ở những

mặt hàng riêng biệt, như: Philippin có sản phẩm dừa; Việt Nam có điều, cà phê,

gạo; Thái Lan có gạo đường, sắn viên, gà đông lạnh; Inđônêxia có hồ tiêu...,

nhưng trên thị trường thế giới các nước ASEAN đều không có khả năng cạnh

tranh về các mặt hàng như: bông, sữa, đồ uống, thuốc lá..., nên các nước này sẽ

tìm cách tiêu thụ các sản phẩm đó ở thị trường khu vực.

Nhờ lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao

động rẻ nên Việt Nam có lợi thế tương đối cao về các mặt hàng nông sản sơ

chế chủ yếu như: thuỷ sản, gạo cà phê, điều, chè.., trong đó một số mặt hàng

như: hàng thuỷ sản, gạo, cà phê, điều, đã xác định được vị thế trên thị trường

quốc tế. Một số mặt hàng có sức cạnh tranh tương đương so với các nước trong

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 34

khối như: rau quả tươi, cao su sơ chế, hạt có dầu. Còn các mặt hàng như:

đường, thức ăn gia súc, dầu thực vật, gỗ chế biến, cám bã, thuốc lá... có sức

cạnh tranh kém hơn so với các nước trong khối do công nghiệp chế biến của

nước ta về cơ bản lạc hậu so với các nước trong khối. Vì thế, khi CEPT/ AFTA

hoàn thành các doanh nghiệp nội địa sản xuất kinh doanh các mặt hàng này sẽ

phải chịu cạnh tranh gay gắt hơn ngay trên chính thị trường trong nước.

Mức độ thâm nhập thị trường Việt Nam của hàng hoá nông sản các nước

ASEAN phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Ngoài trình độ sản xuất, công

nghệ chế biến, mức độ đa dạng hoá của sản phẩm, sản phẩm thay thế, thì yếu tố

thói quen và thị hiếu tiêu dùng, mức thu nhập của các nhóm dân cư .v.v. ở Việt

Nam cũng có một ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, xét theo mức độ cạnh tranh

của hàng nông sản trong nước khi chúng ta hoàn thành cắt giảm thuế quan theo

CEPT vào năm 2006, bước đầu có thể dự báo về khả năng thâm nhập thị trường

Việt Nam của hàng nông sản các nước các nước trong khối theo các mức độ:

thâm nhập cao, trung bình và thấp như sau:

- Nhóm có khả năng thâm nhập cao, bao gồm: đường, dầu thực vật, thực

phẩm chế biến, thức ăn gia súc, đồ gỗ chế biến.

- Nhóm có mức độ thâm nhập trung bình, bao gồm: thịt, quả tươi, hoa

tươi, đồ uống, hạt có dầu.

- Nhóm có mức độ thâm nhập thấp, bao gồm: thuỷ sản, gạo, cà phê, chè,

cao su sơ chế, sữa và sản phẩm từ sữa.

Thứ nhất, nhóm có khả năng thâm nhập cao:

Có thể thấy trong số các nhóm hàng nông sản nhập khẩu vào Việt Nam

trong thời gian qua, tỷ trọng nhập khẩu từ các nước ASEAN tương đối lớn.

Nhiều mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể như: dầu thực vật, thực

phẩm chế biến (bánh kẹo, bột gia vị tổng hợp), thức ăn chăn nuôi, thuốc lá.

Những nhóm hàng trên đã chứng minh được khả năng cạnh tranh khi thâm

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 35

nhập thị trường Việt Nam ngay cả khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan

chưa có sự ưu đãi đáng kể. Vì thế, khi CEPT/AFTA hoàn thành, khả năng cạnh

tranh của những mặt hàng này sẽ tăng thêm nhiều và là những mặt hàng có khả

năng thâm nhập cao nhất do tác động của việc giảm thuế.

Riêng mặt hàng mía đường, hiện nay tuy tỷ trọng nhập khẩu từ các nước

ASEAN không lớn, nhưng khi CEPT/AFTA hoàn thành khả năng thâm nhập sẽ

tăng cao do mía đường hiện đang là mặt hàng được bảo hộ cao nhất trong nhóm

hàng nông sản nhập khẩu của Việt Nam (tính cả bảo hộ thuế quan và phi thuế

quan lên tới khoảng 100%). Trong khi đó Thái Lan một trong 3 nước sản xuất

đường lớn nhất trên thế giới, giá thành sản xuất đường của Thái Lan chỉ bằng

54% của Việt Nam và chi phí vận chuyển từ Thái Lan về Việt Nam không lớn.

Nhóm hàng có khả thâm nhập cao của các nước trong khối vào thị

trường là những mặt hàng mà ta ít (hoạc không) có lợi thế cạnh tranh, trình độ

sản xuất, công nghệ chế biến còn nhiều yếu kém, mới được phát triển trong thời

gian gần đây để thay thế nhập khẩu. Khi tham gia AFTA khó khăn lớn nhất sẽ

tập trung vào nhóm hàng này do đa số chúng vẫn đang được bảo hộ bằng nhiều

biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp cụ thể để

hỗ trợ, khắc phục khó khăn từ phía Nhà nước, các hộ nông dân, các doanh

nghiệp cũng cần chủ động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sãn sàng

chấp nhận cạnh tranh ngay trên sân nhà, góp phần duy trì và ổn định thị trường

trong nước.

Thứ hai, nhóm có mức độ thâm nhập trung bình:

Những mặt hàng nông sản của ASEAN có khả năng cạnh tranh thâm

nhập trung bình là những mặt hàng mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh tương

đương hoặc không thua kém nhiều so với các nước ASEAN khác. Đối với

nhóm hàng này, Việt Nam có được mặt mạnh nhờ vào các lợi thế về điều kiện

tự nhiên, nguồn lao động rẻ nhưng lại thể hiện yếu kém trên các mặt: nguyên

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 36

liệu sản xuất không ổn định, chất lượng sản phẩm chưa cao, độ đồng đều kém,

công nghệ chế biến lạc hậu nên giá thành còn cao và chưa tạo dựng được

thương hiệu riêng.

Trong tương lai khi hoàn thành CEPT/AFTA, khả năng cạnh tranh của

nhóm hàng này trên thị trường trong nước sẽ tăng mạnh, nhất là các mặt hàng

nông sản chế biến như: thịt gia cầm, rau quả, đồ uống.v.v. Khâu yếu kém nhất

của các mặt hàng này chính là khâu chế biến. Vì vậy, chúng ta cần có giải pháp

tổng hợp bên cạnh việc ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần

đặc biệt chú ý đến việc nâng cấp, đưa công nghệ mới vào khâu chế biến, nhằm

đa dạng hoá sản phẩm, có chiến lược duy trì và giữ vững thị trường trong nước,

xây dựng và mở rộng mạng lưới tiêu thụ trên toàn quốc.v.v. để hạn chế khả

năng thâm nhập của hàng các nước ASEAN vào thị trường trong nước, đồng

thời khai thác được lợi thế cạnh tranh của sản phẩm để thâm nhập thị trường

trong khối và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Hiện tại, cần có thêm một thời gian nhất định để các ngành hàng thuộc

nhóm này (ví dụ: rau quả, thực phẩm chế biến, các sản phẩm sữa, chè, cao su,

lâm sản, hoa, thịt gia cầm) có thể củng cố thêm sức cạnh tranh bằng cách đổi

mới công nghệ chế biến, quy trình sản xuất, cơ cấu giống, cơ cấu sản phẩm. Do

vậy, giải pháp tốt nhất để Việt Nam không bị thua thiệt trong giai đoạn đầu hội

nhập CEPT/AFTA là đưa chúng vào Danh mục loại trừ tạm thời trong một

khoảng thời gian ngắn.

Thứ ba, nhóm có khả năng thâm nhập thấp:

Đây là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu và đã xác

định được vị thế trên thị trường quốc tế (như: gạo, cà phê, điều, thuỷ sản...) nên

các mặt hàng này từ các nước ASEAN sẽ gặp khó khăn khi thâm nhập thị

trường Việt Nam. Tuy nhiên, lượng nhập khẩu vào Việt Nam của một số sản

phẩm từ các nước ASEAN trong nhóm này có thể sẽ tăng lên do tính đa dạng

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 37

về chủng loại mặt hàng và thị hiếu tiêu dùng (ví dụ: gạo chất lượng cao của

Thái Lan sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của

một số thị dân có mức thu nhập khá.v.v. ).

2. Khả năng thâm nhập thị trường các nước trong khối ASEAN của mặt

hàng nông sản Việt Nam

Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang các nước

ASEAN tăng 52% so với năm 1997 (trong khi mức tăng xuất khẩu hàng nông

sản chung là 15%); nhập khẩu giảm 4% (trong khi nhập khẩu hàng nông sản

chung tăng 20%). Điều đó cho thấy hàng nông sản của Việt Nam đang ngày

càng thâm nhập sâu hơn vào thị trường ASEAN.

Hiện nay, các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang các nước

ASEAN khác có thể phân làm 3 nhóm theo mức độ thâm nhập thị trường như

sau:

- Nhóm có khả năng cạnh tranh thâm nhập tốt thị trường ASEAN, bao

gồm: lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều.v.v.

- Nhóm có khả năng thâm nhập trung bình, bao gồm: rau, hoa quả, cao

su, chè, tơ tằm, lạc.v.v.

- Nhóm có khả năng thâm nhập thấp hoặc bị các mặt hàng được sản xuất

tại các nước ASEAN đe doạ chiếm mất ngay cả thị phần trong nước, bao gồm:

dầu thực vật, thực phẩm chế biến, thức ăn chăn nuôi, gỗ ván nhân tạo.v.v.

Thứ nhất, nhóm sản phẩm có khả năng thâm nhập mạnh vào thị trường

ASEAN:

Đây là những nông phẩm mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không chỉ

trong khối mà còn xác lập được vị thế trên trường quốc tế. Cụ thể như:

- Đối với mặt hàng lúa gạo:

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 38

Trong những năm qua, sản phẩm gạo của Việt Nam đã được xuất khẩu

với khối lượng đáng kể vào thị trường ASEAN. Thị trường nhập khẩu gạo chủ

yếu của Việt Nam trong khối ASEAN bao gồm các nước: Inđônêxia, Philippin,

Malaysia, Xingapo và Lào, nhưng lúa gạo lại thuộc Danh mục nhạy cảm của

các nước này (trừ Xingapo), nên lợi ích của việc giảm thuế nhập khẩu theo

CEPT/AFTA của mặt hàng này chỉ phát huy tác dụng mạnh sau năm 2010, khi

các mặt hàng thuộc Danh mục nhạy cảm được đưa vào cắt giảm. Mặt khác, gạo

xuất khẩu của Việt Nam cũng phải cạnh tranh gay gắt với gạo của của Thái Lan

và Myanma trên thị trường ASEAN, trong khi các nước nhập khẩu gạo khối

lượng lớn cũng đang có xu hướng khuyến khích sản xuất trong nước vì mục

tiêu an ninh lương thực. Thêm vào đó, hầu hết gạo của nước ta được xuất khẩu

sang ASEAN đều thông qua các hợp đồng Chính phủ nên việc xuất khẩu sẽ gặp

khó khăn nếu không có sự tham gia của Chính phủ. Vì thế khi CEPT/AFTA

hoàn thành thị trường gạo của Việt Nam được mở rộng không nhiều nếu không

có được những điều chỉnh hợp lý. Để khắc phục tình trạng trên, mặt hàng lúa

gạo cần có kế hoạch nâng cao chất lượng, đổi mới và đa dạng hoá mặt hàng để

giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu ngoài ASEAN, đẩy mạnh và nâng

cao chất lượng xúc tiến đàm phán thương mại đối với mặt hàng gạo.

Bảng 5: Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước ASEAN

Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK gạo

964.010 273.572 32,0 1996

962.404 238.621 27,3 1997

2.050.963 562.224 54,9 1778

2.557.500 569.600 55,6 1999

1.331.300 233.870 35,3 2000

1.657.855 262.484 43,0 2001

1.466.214 327.204 45,1 2002

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 39

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

- Đối với mặt hàng cà phê:

Các nước ASEAN nhập khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam bao gồm:

Xingapo, Thái Lan và Inđônêxia dưới dạng thô, sơ chế (nhưng từ năm 1996 trở

lại đây, tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang ASEAN liên tục giảm).

Các nước này nhập khẩu cà phê của Việt Nam về chủ yếu để gia công chế biến

và tái xuất khẩu, nên khi thị trường cà phê thế giới có biến động lượng nhập

khẩu cà phê từ Việt Nam luôn giảm mạnh. Đối với các nước này, mặt hàng cà

phê thô, sơ chế hiện đã thuộc Danh mục cắt giảm thuế với mức thuế suất 0%, vì

vậy thuế suất nhập khẩu không còn là yếu tố tác động quyết định tới khả năng

xuất khẩu cà phê của nước ta vào thị trường này, mà yếu tố quan trọng cần chú

ý là chất lượng sản phẩm, giá cả và nhu cầu thị trường đối với từng chủng loại

cà phê cụ thể. Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào các nước

ASEAN trong thời gian tới, ngành sản xuất cà phê nước ta cần phải có những

chuyển đổi mạnh mẽ về giống, chất lượng, chủng loại hàng cà phê xuất khẩu

(tăng lượng xuất khẩu cà phê chè, giảm lượng xuất khẩu cà phê vối), chú trọng

phát triển công nghiệp chế biến mới có thể tăng khả năng cạnh tranh với sản

phẩm cùng loại của các nước khác, từ đó chiếm lĩnh và mở rộng được thị

trường xuất khẩu tăng thu ngoại tệ về cho đất nước.

Bảng 6: Xuất khẩu cà phê Việt Nam sang các nước ASEAN

Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK cà phê

1996 89.168 120.337 30,1

116.688 146.944 29,8 1997

76.109 118.800 20,0 1778

79.699 62.293 16,5 1999

81.700 58.886 11,7 2000

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 40

2001 56.509 23.587 6,0

46.703 20.930 6,5 2002

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

- Đối với hạt tiêu:

Xuất khẩu hạt tiêu của Việt nam mới nổi lên từ giữa những năm 90. Từ

đó đến nay, diện tích trồng hồ tiêu không ngừng được mở rộng và đạt 28.000

ha năm 2001. Sản phẩm hồ tiêu của chúng ta được sản xuất ra chủ yếu dành

cho xuất khẩu (95%), tiêu dùng nội địa chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể (khoảng

5%).

Hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam (chủ yếu là dưới dạng thô hoặc sơ chế)

đang chiếm lĩnh thị trường hồ tiêu thế giới với sản lượng xuất khẩu tăng từ

10.000 tấn lên 56.000 tấn trong thời kỳ 1990-2001, đạt kim ngạch khoảng 90

triệu USD. Hiện nay, tuy không phải là nước sản xuất hồ tiêu lớn nhất, nhưng

Việt Nam lại là nước xuất khẩu hàng đầu trên thế giới về mặt hàng này.

Bảng 7: Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang các nước ASEAN

Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK hạt tiêu

0 0 0 1998

21.444 83.400 60,9 1999

14.500 57.489 39,4 2000

17.891 28.153 29,0 2001

16.170 22.680 21,0 2002

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Từ năm 1999, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu hồ tiêu sang các nước

ASEAN, chủ yếu là sang Xingapo, Lào, Malaysia, Thái Lan nhờ có giá xuất

khẩu thấp hơn so với hồ tiêu Ấn Độ. Nhưng điều đáng lưu ý hiện nay là sản

lượng hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đang giảm dần

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 41

do nhu cầu về mặt hàng điều ở các thị trường này tăng chậm, dẫn đến mức

cung tăng lên làm cho giá cả sụt giảm nghiêm trọng. Mặt khác, trong số các

nước nhập khẩu hồ tiêu chủ yếu của Việt Nam thì hầu hết đã giảm thuế nhập

khẩu xuống còn 0%-5% (trừ Thái Lan vẫn còn duy trì thuế MFN 30% đối với

hồ tiêu Việt Nam), do đó hy vọng tăng xuất khẩu nhờ giảm thuế heo

CEPT/AFTA là không nhiều. Để khắc phục tình trạng trên, một mặt chúng ta

phải tăng cường công tác chế biến thành phẩm, nâng cao chất lượng hàng xuất

khẩu để giữ vững thị phần đã xác lập được; mặt khác chúng ta cũng phải quy

hoạch lại diện tích gieo trồng loại cây này, chuyển đổi những diện tích không

hiệu quả sang canh tác các loại cây trồng có giá trị gia tăng và khả năng xuất

khẩu cao hơn.

- Đối với hạt điều:

Việt Nam có nhiều thế mạnh và điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất

khẩu hạt điều, và thực sự cây điều đã xác định được vị thế của mình trong sản

xuất nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản của đất nước nói riêng.

Hiện nay thị trường xuất khẩu điều chủ yếu của Việt Nam là: Châu Âu, Châu

Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản. Một số nước ASEAN như: Lào, Xingapo,

Malaysia có nhập điều của nước ta nhưng với khối lượng không nhiều.

Bảng 8: Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang các nước ASEAN

Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK hạt điều

9.617 2.173 12,7 1996

1.729 463 1,3 1997

381 87 0,3 1778

300 64 0,3 1999

895 200 0,5 2000

580 218 0,41 2001

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 42

2002 238 801 0,38

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Hiện nay các nước ASEAN đang áp dụng mức thuế suất nhập khẩu điều

của Việt Nam từ 5%-15%, do đó trong tương lai khi CEPT/AFTA hoàn thành,

khả năng xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng lên. Để tăng giá trị xuất khẩu của sản

phẩm điều trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt chú ý tới việc đổi mới cơ

cấu giống cây trồng, tập trung trồng điều thâm canh đi đôi với nâng cao chất

lượng điều tinh chế, cải tiến mẫu mã, bao bì, đa dạng hoá các sản phẩm từ điều

để góp phần mở rộng thị phần của sản phẩm điều xuất khẩu nước ta trên thị

trường khu vực ASEAN và quốc tế.

Thứ hai, nhóm có khả năng thâm nhập trung bình vào thị trường các

nước ASEAN:

- Đối với cao su:

Trên thị trường cao su thế giới thị phần của các nước Thái Lan,

Inđônêxia, Malaysia chiếm tới 80%, trong khi thị phần của Việt Nam mới đạt

khoảng 5%. Sản xuất cao su trong nước của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn,

năng suất thấp, chất lượng, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, khả năng tiếp

cận trực tiếp khách hàng còn yếu, do đó giá cao su xuất khẩu của Việt Nam

thường thấp hơn so với các nước trong khu vực. Trong khối ASEAN cao su của

Việt Nam nhìn chung chỉ xuất được sang các nước Campuchia, Lào, Malaysia

và Xingapo, nhưng với kim ngạch không ổn định.

Bảng 9: Xuất khẩu cao su của Việt Nam sang các nước ASEAN

Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK cao su

24.691 18.456 9,4 1996

37.504 44.464 19,7 1997

14.578 27.951 11,4 1778

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 43

1999 71.367 38.500 26,2

43.800 21.576 13,0 2000

59.891 28.264 17,7 2001

25.120 49.970 19,0 2002

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Các nước nhập khẩu cao su của Việt Nam hiện đang áp dụng thuế suất

0%, trong khi xu hướng xuất khẩu cao su các nước ASEAN không ổn định cho

thấy nước ta khó có khả năng xuất khẩu cao su sang thị trường này nếu không

thay đổi về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu mặt hàng này.

- Đối với sản phẩm chè:

Việt Nam tuy không phải là nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới (chỉ

chiếm khoảng 2-3% khối lượng chè buôn bán trên thế giới, trong khi các nước

Sri-Lanka, Kênia, Trung Quốc, Ấn Độ chiếm tới 2/3 thị trường chè xuất khẩu

của thế giới), nhưng lại có lợi thế về chè xanh. Do đó, trong thời gian qua khối

lượng chè xuất khẩu của nước ta tăng nhanh từ 20 nghìn tấn (năm 1990) lên 56

nghìn tấn (năm 2000) và 58 nghìn tấn (năm 2001), đạt kim ngạch 66 triệu USD.

Trong thị trường ASEAN, chè của Việt Nam đang bị cạnh tranh gay gắt

bởi chè của Inđônêxia cả về giá cả lẫn chất lượng (năng suất chè của Việt Nam

đạt 1 tấn chè chế biến/ha, bằng 50% năng suất của Inđônêxia, trong khi chè của

Inđônêxia đã xác lập được tên tuổi trên nhiều thị trường, đặc biệt là Nga và

Trung Đông).

Bảng 10: Xuất khẩu chè của Việt Nam sang ASEAN

Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK chè

1.161 1.422 4,9 1996

434 599 1,2 1997

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 44

1778 666 598 1,2

1.810 1.700 3,8 1999

3.500 2.866 4,1 2000

3.600 2.871 4,5 2001

2.820 3.149 4,7 2002

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Các nước ASEAN nhập khẩu chè chính của Việt Nam gồm có: Xingapo,

Inđônêxia, Malaysia với thuế nhập khẩu là 0-5% (của Xingapo và Inđônêxia)

và 15-60% (với các nước khác). Một điều đáng lưu ý là các nước ASEAN

nhập khẩu chè của Việt Nam không phải để tiêu dùng trong nước mà để chế

biến sâu, đóng gói nhãn mác các nước này để xuất khẩu sang nước thứ ba nên

lượng nhập khẩu không ổn định mà thay đổi theo nhu cầu thị trường các nước

đối tác của họ. Các nước có thuế nhập khẩu cao (Thái Lan và Myanma) lại

không nhập chè của nước ta do chất lượng và chủng loại chè của ta không đáp

ứng được thị hiếu tiêu dùng trong các nước này. Chính vì thế, khả năng mở

rộng xuất khẩu chè sang các nước ASEAN để hưởng lợi từ CEPT/AFTA là rất

ít, trừ khi chúng ta nâng cao được chất lượng, đáp ứng đúng, đủ về chủng loại

và thị hiếu tiêu dùng chè của bạn.

- Đối với mặt hàng rau quả:

Rau quả của Việt Nam sản xuất hàng năm với khối lượng lớn (khoảng 5

triệu tấn rau và 6 triệu tấn quả), chủ yếu được tiêu dùng dưới dạng tươi. Số

lượng xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15% sản lượng sản xuất hàng năm. Năm

2001, Việt Nam xuất khẩu một số sản phẩm chủ yếu gồm: dứa, chuối, xoài,

dưa hấu, nhãn, thanh long, chôm chôm, bắp cải, dưa chuột, cà chua, đậu, xúp

lơ, ớt ..., đạt kim ngạch 330 triệu USD.

Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay là các nước Trung

Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Xingapo, Inđônêxia, Campuchia, Lào.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 45

Bảng 11: Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang các nước ASEAN

Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK rau quả Năm

26.393 29,3 1996

4.907,6 6,9 1997

8.551,9 16,0 1778

21.110,2 20,0 1999

7.600,8 3,6 2000

10.049 3,3 2001

5.628 2,8 2002

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Mặc dù hiện nay các nước ASEAN nhập khẩu rau quả của Việt Nam

vẫn chưa nhiều, số lượng không ổn định và chưa đúng với nhu cầu tiềm năng

trong các nước này, nhưng thị trường ASEAN thực sự là một thị trường hứa

hẹn đối với rau quả nước ta nếu chúng ta biết khai thác triệt để lợi thế so sánh

về sự đa dạng của khí hậu của đất nước.

Thứ ba, nhóm có khả năng thâm nhập thấp hoặc bị đe doạ mất thị phần

do các sản phẩm nhập khẩu từ các nước ASEAN khác:

Điểm yếu nhất của nhóm hàng này là công nghệ chế biến lạc hậu, mà

bản thân việc chuyển đổi cơ cấu trong ngành nông nghiệp không thể giải quyết

triệt để vấn đề. Muốn khắc phục tình trạng trên, khâu chốt yếu là phải đẩy

nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo ưu đãi thoả đáng cho

các nhà đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông phẩm hàng hoá. Công việc này sẽ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 46

có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ thị trường nội địa bằng chính năng lực

cạnh tranh của hàng nông sản chế biến trong nước.

3. Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông

sản chính của Việt Nam trên thị trường ASEAN

Theo các phân tích đã trình bày ở trên về khả năng cạnh tranh và thâm

nhập thị trường của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt

Nam so với các mặt hàng tương tự từ các nước ASEAN khác, chúng ta có thể

nhận định một cách tổng quát rằng: nhìn chung, khi CEPT/AFTA hoàn thành

(đồng nghĩa với hàng rào bảo hộ bằng các công cụ thuế quan sẽ được hạ xuống

rất thấp (bình quân là 5%), hàng rào phi thuế quan cũng được giảm dần xuống

mức có thể chấp nhận được trong các nước thành viên ASEAN) các nông

phẩm xuất khẩu chính của nước ta như: gạo, cao su, cà phê, điều...sẽ có thêm

những thuận lợi mới, thời cơ mới để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu

trong khu vực, gia tăng cả về khối lượng lẫn giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Mặc dù, hàng nông sản của chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với không ít

thách thức, trở ngại không dễ vượt qua, đặc biệt là đối với những mặt hàng đã

qua chế biến do nhiều nguyên nhân như: trình độ công nghệ chế biến lạc hậu,

mức độ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi còn rất

thấp, công tác quy hoạch thiếu khoa học, đồng bộ, cơ cấu ngành nông lâm ngư

nghiệp cũng như cơ cấu nội bộ ngành (cơ cấu cây trồng, vật nuôi), cơ cấu vùng

còn chưa hợp lý, thiếu các chiến lược, sách lược hiệu quả để phát triển ngành

nông nghiệp cho phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh

vực nông nghiệp. Để khắc phục những tồn tại kể trên, đáp ứng yêu cầu phát

triển cân đối, vững chắc, đẩy mạnh xuất khẩu và hội nhập của ngành nông

nghiệp trong giai đoạn tới, một vấn đề quan trọng, cấp thiết cần sớm được giải

quyết đó là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho hợp lý, tập trung

phát huy lợi thế so sánh của đất nước căn cứ trên nhu cầu của thị trường, tạo ra

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 47

các sản phẩm xuất khẩu chủ lực làm đầu tầu kéo nền nông nghiệp nước nhà

vững bước phát triển theo xu hướng hội nhập và mở cửa trong tương lai gần.

Nói một cách cụ thể hơn, trong thời gian tới chúng ta phải có sự điều chỉnh

hợp lý cơ cấu sản xuất ngành nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng tăng tỷ

trọng giá trị và sản lượng các ngành lâm sản và thuỷ sản cho tương xứng với

tiềm năng của một đất nước với hơn 3.200 km bờ biển và sông ngòi dầy đặc,

một đất nước với 2/3 diện tích rừng núi nhiệt đới và bán nhiệt đới. Trong nội

bộ ngành nông nghiệp tỷ trọng ngành chăn nuôi phải tăng lên 20-25% trong

vòng 10 năm tới đồng thời với việc giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Tuy nhiên

một số hàng hoá xuất khẩu chủ lực đang có ưu thế vẫn nên tiếp tục được chú

trong nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra, đặc biệt là công tác chế biến

để nâng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể với từng mặt hàng

xuất khẩu chủ lực hiện nay sẽ được trình bày trong Phụ lục 2.

III. THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA

1. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp (theo

nghĩa rộng)

Giá trị sản lượng của ngành nông lâm ngư nghiệp trong hơn một thập kỷ

qua đã tăng gấp đôi, trong đó ngành ngư nghiệp có tốc độ tăng nhanh nhất

(hơn 3 lần), ngành nông nghiệp tăng 1,8 lần và ngành lâm nghiệp có tốc độ

tăng chậm nhất (đạt 1,3 lần).

Trong nội bộ ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm: nông - lâm -

ngư nghiệp), tỷ trọng của ngành ngư nghiệp (hay ngành thuỷ sản) tăng nhanh

từ 10,86% năm 1990 lên 18,77% năm 2002. Điều này cho thấy ngành ngư

nghiệp đang phát huy được thế mạnh của mình, khai thác được tiềm năng cả

về nuôi trồng cũng như đánh bắt để sản xuất ra các hàng hoá đáp ứng nhu cầu

ngày càng tăng nhất là của thị trường xuất khẩu.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 48

Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (gần 5%) và có

xu hướng giảm dần, cho thấy ngành lâm nghiệp chưa vươn lên ngang tầm của

một đất nước với 2/3 lãnh thổ là rừng núi.

Tỷ trọng của ngành nông nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn còn lớn (gần

80%). Điều này cho thấy, việc chuyển dịch cơ cấu nông - lâm - ngư thời gian

qua còn chậm, sản xuất nông nghiệp thuần vẫn còn khá phổ biến trên cả nước.

Bảng 12: Cơ cấu giá trị ngành nông - lâm - ngư nghiệp (%)

Năm 1990 1995 1999 2000 2001 2002

82,51 81,60 81,17 80,70 77,96 76,90 Nông nghiệp

6,63 4,99 4,43 4,22 4,64 4,33 Lâm nghiệp

10,86 13,41 14,39 15,08 17,40 18,77 Ngư nghiệp

100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Toàn ngành NLN

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -

TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr.206

Đi sâu phân tích cơ cấu sản xuất của từng ngành riêng biệt cho thấy:

1.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp

Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi đã có sự

điều chỉnh theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành

chăn nuôi. Tuy nhiên quá trình này diễn ra rất chậm chạp, trồng trọt vẫn là

ngành sản xuất quan trọng, chiếm tới 80% giá trị sản lượng của ngành. Chăn

nuôi vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình.

Trong nội bộ ngành nông nghiệp, năm 2002 sản lượng thóc sản xuất ra

đạt gần 34 triệu tấn, tăng thêm 1,5 triệu tấn so với năm 2001 và gấp đôi so với

năm 1986. Sản lượng lương thực có hạt đạt gần 33,6 triệu tấn, tăng 4,6% so

với năm 2001. Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi tăng 5,4% so với năm

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 49

trước, trong đó giá trị chăn nuôi gia súc và gia cầm tăng 7%, sản phẩm chăn

nuôi không qua giết mổ tăng 8,2%, sản lượng sữa tươi tăng gần 40%.

Bảng 13: Cơ cấu ngành nông nghiệp (%)

Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

80,51 80,18 80,04 81,75 81,05 80,19 79,93 78,50 Trồng trọt

19,49 19,82 19,96 18,85 18,95 19,81 20,27 21,50 Chăn nuôi

100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -

TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr.201

Trong chăn nuôi đại gia súc, năm 2002 có trên 2,8 triệu con trâu, 41

triệu con bò (tăng nhẹ so với năm 2001). Đàn lợn tăng 6,4% so với năm 2001,

đạt 23,2 triệu con. Đàn gia cầm tăng 6% đạt 233 triệu con so với 216 triệu con

của năm 2001. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 2,2 triệu tấn, tăng 8,9%

so với năm trước. Sản lượng trứng đạt 4,7 tỷ quả, tăng 1,34% so với năm 2001.

Trong ngành trồng trọt, mặc dù giá trị sản xuất của ngành kỳ 1995-2002

tăng gần 40% từ 66.183,4 tỷ đồng lên 96.933,1 tỷ đồng, nhưng cơ cấu giá trị

ngành này trong 7 năm qua vẫn chậm được điều chỉnh. Lương thực vẫn là cây

trồng chính, chiếm tỷ trọng lớn, tuy có giảm nhẹ. Tỷ trọng giá trị cây công

nghiệp tăng đều, đạt 1/4 tổng giá trị ngành trồng trọt, cho thấy cây công nghiệp

đang dần xác định được vị thế của mình trong ngành này. Như vậy, chuyển đổi

cơ cấu cây trồng tuy đã đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng còn khá

chậm so với yêu cầu đề ra và vẫn chưa thích ứng với nhu cầu của thị trường.

Bảng 14: Cơ cấu giá trị ngành trồng trọt (%)

Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 50

Lương thực 63,63 64,13 62,55 63,47 63,58 63,35 59,62 59,61

7,53 7,31 7,30 7,35 7,17 6,78 7,40 7,41 Rau đậu

Cây công nghiệp 18,36 18,39 19,53 19,46 20,47 20,53 24,69 24,46

8,43 8,17 8,23 7,88 7,47 7,64 6,76 6,94, Cây ăn quả

2,06 2,00 2,38 1,84 1,32 1,96 1,63 1,58 Cây khác

100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng số

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -

TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 659

Trong hơn một thập kỷ qua, tổng diện tích đất nông nghiệp nước ta đã

tăng từ 9,04 triệu ha năm 1990 lên 12,66 triệu ha năm 2002 (với tốc độ tăng

bình quân 3%/năm). Trong đó diện tích cây hàng năm mà chủ yếu là cây lương

thực tăng chậm (2%/năm) (Xem phụ lục 3) là do trong những năm qua, bà con

nông dân đã ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là giống mới năng

suất cao vào sản xuất, nên vẫn duy trì được tốc độ tăng sản lượng lương thực,

không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tăng được khối

lượng xuất khẩu. Một nguyên nhân khác khiến diện tích cây lương thực tăng

chậm là do giá cả lương thực trên thị trường biến động thất thường, gây bất lợi

cho người sản xuất.

Diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng lên nhanh chóng với tốc độ bình

quân 8%/năm, đưa diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng gấp đôi từ 657 ngàn

ha (năm 1990) lên 1504 ngàn ha (năm 2002). Nguyên nhân chính dẫn đến diện

tích cây lâu năm nhất là cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả tăng nhanh

trong thời kỳ 1990-2002 là do có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, do

việc phát triển diện tích một số loại cây công nghiệp ồ ạt, không tính đến nhu

cầu thị trường nên đã dẫn đến cung vượt cầu làm giá nông phẩm giảm nhanh

chóng, nhiều diện tích đầu tư trồng mới không được chăm sóc, gây lãng phí rất

lớn về vốn, nhân lực và chi phí cơ hội.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 51

Sự thay đổi về cơ cấu diện tích đất dành cho các loại cây trồng cũng cho

thấy xu hướng giảm tỷ trọng diện tích dành cho cây hàng năm từ 90% (năm

1990) xuống 83% (năm 2002), trong khi tỷ trọng diện tích cây lâu năm tăng từ

10% lên 17% trong cùng kỳ. Đồng thời với đó là xu hướng tăng tỷ trọng của

ngành cây công nghiệp, giảm tỷ trọng của ngành cây lương thực. (Xem phụ lục

số 4)

Đây là xu hướng mà nhiều nước trong khu vực ASEAN đã trải qua khi

chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của họ trong quá trình hội nhập vào

AFTA.

Cụ thể, tỷ trọng của ngành cây lương thực giảm nhanh từ 67,11% (năm

1990) xuống 59,52% (năm 2002). Tỷ trọng giá trị sản xuất rau, đậu không tăng

và vẫn giữ ở mức 7%. Tỷ trọng giá trị cây ăn quả giảm dần từ 10,14% xuống

6,76% trong cùng kỳ, cho thấy chưa có sự quan tâm đúng mức đối với hai loại

cây trồng này trong thời gian qua.

Giá trị thu hoạch bình quân/ha đất nông nghiệp (theo giá cố định 1994)

trong hơn một thập kỷ qua tăng trên 30% (từ 7,12 triệu đồng lên 9,87 triệu

đồng) cho thấy kết quả trực tiếp của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang

những cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn. Điều này thể hiện khá rõ trong

ngành cây lương thực với giá trị thu hoạch/ha đất trồng cây lương thực tăng

gần 60%, từ 8,1 triệu đồng/ha lên 13,29 triệu đồng/ha nhờ năng suất cây trồng

tăng mạnh. Điều này cho thấy nguồn lực đất đai đang trong quá trình đi vào

phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn.

Ngành chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng bình quân 6%/năm trong thời kỳ

1990 - 2002, đưa giá trị sản xuất ngành chăn nuôi theo giá cố định 1994 tăng

gấp đôi (từ 10283,2 tỷ đồng năm 1990 lên 20316,5 tỷ đồng năm 2002). Trong

đó đàn gia súc, gia cầm có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt tương

ứng 6% và 5% trong cùng kỳ. Riêng sản phẩm không qua giết mổ có tốc độ

tăng trưởng cao nhất, đạt bình quân 8%/năm.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 52

Bảng 15: Cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi (%)

Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

64,92 64,83 64,16 64,59 64,50 64,41 64,06 62,38 Gia súc

17,50 17,47 17,40 17,50 17,84 17,81 17,90 18,77 Gia cầm

14,19 14,53 15,45 15,05 14,93 15,14 15,39 16,40 SP không

qua giết mổ

3,39 3,17 2,99 2,86 2,73 2,63 2,64 2,45 SP khác

100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng số

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -

TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 201

Cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi thời kỳ 1990-2002 chuyển đổi rất chậm.

Ngành chăn nuôi gia súc vẫn chiếm tỷ trọng lớn, ngành chăn nuôi gia cầm và

các sản phẩm không qua giết mổ tuy có tăng nhưng tốc độ vẫn còn chậm. Sự

chậm chuyển đổi cơ cấu trong nội bộ ngành trồng trọt, chăn nuôi đã ảnh hưởng

lớn đến việc điều chỉnh cơ cấu chung của cả ngành nông nghiệp.

1.2. Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp

Giá trị sản xuất lâm nghiệp trong thời kỳ 1990-2002 tăng bình quân với

tốc độ 2%/năm, từ 4960 tỷ đồng năm 1990 lên 6175 tỷ đồng năm 2002 (theo

giá cố định 1994) (Xem phụ lục số5). Có thể nói, giá trị sản lượng của ngành

lâm nghiệp còn lệ thuộc quá nhiều vào khai thác lâm sản (chiếm 70 - 80% giá

trị toàn ngành). Giá trị của trồng rừng và nuôi rừng tăng chậm từ 15 - 20%

trong hơn một thập kỷ qua, trong khi trồng và nuôi rừng là là điều kiện tiên

quyết đảm bảo cho ngành ngành lâm nghiệp phát triển bền vững. Mặt khác, tỷ

lệ che phủ hiện nay mới đạt 35,1%, diện tích đất trống đồi trọc còn nhiều, do

vậy ngành lâm nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc trồng mới và bảo vệ rừng,

đảm bảo cải thiện môi trường sinh thái để phát triển bền vững.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 53

Trong thời gian qua giá trị sản lượng lâm nghiệp tăng không đều giữa

các vùng. Vùng Đông Bắc có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (9%/năm), vùng

đồng bằng sông Cửu Long và Tây Bắc là 6%, còn các địa phương khác đều có

tốc độ tăng trưởng âm (từ -1 đến -2%), thấp nhất là vùng Tây Nguyên (-4%).

Điều này cho thấy sự phát triển thiếu bền vững của ngành lâm nghiệp. Cụ thể,

Tây Nguyên là vùng có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất (1/3 diện tích rừng cả

nước) cũng là vùng có tốc độ tăng trưởng âm cao nhất. Vùng có tỷ lệ diện tích

diện tích rừng trồng cao nhất (vùng Đông Bắc chiếm 31,4%) cũng là vùng có

tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 5 năm trở lại đây. Tại nhiều vùng, rừng đã

bị khai thác cạn kiệt, nhất là rừng tự nhiên. Điều này càng khẳng định muốn

phát triển bền vững thì phải tăng cường trồng và bảo vệ rừng, đi đôi với việc sử

dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến tăng giá trị gia tăng của các sản phẩm từ

rừng.

Trong 5 năm lại đây (1997-2002), diện tích rừng toàn quốc đã tăng từ

10,17 triệu ha (năm 1997) lên 11,36 triệu ha (năm 2002), trong đó diện tích

rừng tự nhiên đã tăng tương ứng từ 8,97 triệu ha lên 9,59 triệu ha, diện tích

rừng trồng tăng từ 1,38 triệu ha lên 1,96 triệu ha. Đây là kết quả của việc thực

hiện hàng loạt các cố gắng về trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc,

khoanh nuôi, bảo vệ và tái sinh rừng. Mặc dù về số tuyệt đối cả diện tích rừng

trồng và rừng tự nhiên đều tăng, nhưng cơ cấu rừng trồng và rừng tự nhiên thời

gian qua hầu như không có sự thay đổi, rừng tự nhiên vẫn chiếm tỷ trọng lớn

(86,43 % năm 1997 và 84,41% năm 2001). Điều này cho thấy chúng ta cần tập

trung đẩy mạnh hơn nữa việc trồng mới rừng trong thời gian tới.

Hiện nay lâm sản (ngoài gỗ) là lợi thế của rừng nhiệt đới chưa được chú

trọng khai thác hợp lý. Trong khi đó công nghiệp chế biến để tăng giá trị sản

phẩm, tận dụng các phế liệu để chế biến thành các lâm phẩm có giá trị còn yếu

làm cho các sản phẩm lâm nghiệp của Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp

không đáp ứng được đúng và đủ nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 54

nước và quốc tế. Điều này càng chứng tỏ sự thiếu hợp lý trong cơ cấu ngành

lâm nghiệp, cả về nuôi trồng lẫn khai thác và chế biến, vẫn còn rất lớn đòi hỏi

phải sớm có sự điều chỉnh trong thời gian tới, nhất là khi thời hạn hội nhập đầy

đủ của nền nông nghiệp nước ta vào AFTA đang đến gần.

1.3. Cơ cấu giá trị ngành ngư nghiệp

Trong hơn một thập kỷ qua ngành ngư nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá

nhanh (đạt bình quân 11%/năm) đưa giá trị sản lượng thuỷ sản từ 81325,2 tỷ

(năm 1990) lên 28100,1 tỷ (năm 2002), theo giá cố định 1994. Tốc độ tăng

trưởng bình quân của ngành khai thác thuỷ sản đạt 9%/năm và của ngành nuôi

trồng là 14%/năm trong cùng thời kỳ 1990-2002. Cơ cấu sản lượng ngành thuỷ

sản đang phát triển theo xu hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, giảm tỷ trọng đánh

bắt. Xu hướng này càng được thể hiện rõ nét trong những năm gần đây.(Xem

phụ lục số 6)

Do là ngành đặc thù, nên sản xuất thuỷ sản phân bố không đều giữa các

vùng tự nhiên trong cả nước, chủ yếu phát triển mạnh ở những tỉnh ven biển (cả

nuôi trồng và đánh bắt). Các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ

và Bắc Trung Bộ chiếm tới trên 85% giá trị sản lượng thuỷ sản cả nước. Vùng

Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng chiếm tỷ lệ 5-6% (chủ yếu phát triển ở

các tỉnh ven biển). Các tỉnh xa biển thuộc vùng Trung du miền núi phía Bắc và

Tây Nguyên chiếm tỷ trọng rất nhỏ về sản lượng thuỷ sản (chiếm trên dưới

1%).

Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh ở hai vùng đồng bằng lớn của cả

nước, trong đó đồng bằng sông Cửu Long chiếm tới 60% về sản lượng và

67,6% về giá trị hàng thuỷ sản sản xuất ra của cả nước, các vùng còn lại đều

chiếm tỷ trọng nhỏ. Vùng ven biển miền Trung tuy có lợi thế về phát triển kinh

tế nuôi trồng thuỷ hải sản ven biển nhưng cũng chỉ mới chiếm khoảng 8% sản

lượng và sản xuất của cả nước.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 55

Có thể thấy giá trị sản phẩm của thuỷ sản nuôi trồng ở miền Nam cao hơn

so với miền Bắc. Điều này thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ cấu sản lượng và cơ

cấu giá trị sản lượng thuỷ sản nuôi trồng. Về cơ cấu sản lượng thuỷ sản nuôi

trồng trong những năm gần đẩy hai miền tương ứng là 70,61% và 29,39%, cơ

cấu giá trị tương ứng là 80,8% và 19,2%.

2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng nông sản

Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dầu tỷ trọng hàng nông - lâm - thuỷ sản

xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của cả nước

giảm từ 46,3% xuống 32,5% (thời kỳ 1995-2002), nhưng về giá trị tuyệt đối,

giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng gấp hơn 2 lần (từ

2521,1 triệu USD năm 1995 lên 3425 triệu USD năm 2002), góp phần đưa tỷ

trọng kim ngạch hàng nông sản xuất khẩu trong tổng GDP nông nghiệp lên trên

50%. Nhiều mặt hàng có: tỷ suất xuất khẩu/giá trị sản xuất ra rất cao như: cà

phê, điều (trên 90%). Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đã vươn lên xác

định được vị thế của mình trên thị trường khu vực ASEAN và thế giới như: lúa

gạo, cà phê, điều, hàng thuỷ sản, cao su .v.v. (Xem Phụ lục 5). Đây là xu hướng

phát triển nông theo hướng phục vụ xuất khẩu và cũng phù hợp với xu thế hội

nhập kinh tế khu vực ASEAN/AFTA và quốc tế của Việt Nam.

Trong cơ cấu hàng nông - lâm - thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam những

năm qua, hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn (bình quân thời kỳ 1995-2002

chiếm tới 62,42% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành), trong đó các

sản phẩm xuất khẩu quan trọng là gạo (24%), cà phê (13,5%), điều (4,4%).v.v.

Điều đáng lưu ý là giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi còn rất

khiêm tốn, các sản phẩm rau quả - là ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới - cũng

chỉ chiếm 2,35% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Điều này cho thấy

những bất cập trong chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng như

trong các giải pháp để đi vào khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 56

của đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu nông phẩm và chủ động hội nhập vào nền

nông nghiệp khu vực và thế giới, mà trước mắt đó là vào AFTA/ASEAN.

Trong cùng thời kỳ trên, giá trị xuất khẩu của hàng thuỷ sản đã tăng gấp

3 lần, từ 621,4 triệu USD năm 1995 lên gần 1 tỷ USD năm 1999, và đặc biệt

tăng nhanh trong những năm gần đây (đạt 202,4 triệu USD và năm 2002), nhờ

đó đã đẩy nhanh tỷ trọng giá trị hàng thuỷ sản trong cơ cấu giá trị xuất khẩu

hàng nông - lâm - ngư nghiệp. Thuỷ sản đang khẳng định được vai trò và vị trí

của mình không chỉ trên thị trưòng trong nước mà cả trên thị trường khu vực

ASEAN và quốc tế.

Hàng lâm sản xuất khẩu mới chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong cơ cấu xuất

khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản (dưới 6%) và có xu hứóng giảm. Điều này cho

thấy hàng lâm sản nói riêng và ngành lâm nghiệp nói chung còn gặp nhiều khó

khăn trong phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác lợi thế so sánh và mở rộng

thị trường.

Những biến động trong cơ cấu xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản thời

gian qua cho thấy Việt Nam cần thiết phải xây dựng một chiến lược kinh doanh

phù hợp để một mặt vừa giữ vững thị phần của những mặt hàng đã xác định

được vị thế trên thị trường thế giới, đồng thời đẩy mạnh các biện pháp nâng cao

chất lượng mẫu mã sản phẩm, xúc tiến thương mại để tăng khả năng thâm nhập

và mở rộng thị trường cho các mặt hàng nông - lâm - thuỷ hải sản khác, nâng

cao sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu chủ lực đối với các mặt hàng

cùng loại từ các nước ASEAN khác, đặc biệt khi CEPT/AFTA hoàn thành

trong một vài năm sắp tới.

3. Một số chính sách liên quan đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất và mở

rộng xuất khẩu mặt hàng nông sản ở Việt Nam trong thời gian qua

Sự điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam phụ thuộc vào rất

nhiều nhân tố như: điều kiện về đất đai, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 57

thống cở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi .v.v.), khả năng nắm bắt nhu cầu và

những thay đổi của thị trường trong và ngoài nước, sự năng động của bà con

nông dân .v.v. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách của Nhà nước và cơ chế vận

hành của nó trên thực tế có ý nghĩa quyết định đến việc định hướng cũng như

thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, từ

khi thực hiện chính sách “Đổi mới” đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều

chính sách quan trọng đối với việc phát triển nông nghiệp, trực tiếp hay gián

tiếp thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp đất nước. Một

số chính sách có vai trò quan trọng trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp trong thời gian qua là:

3.1. Chính sách đất đai

Chính sách đất đai có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình

chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam là do: Một là, đất đai là địa

bàn diễn ra quá trình điều chỉnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp

theo hướng khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng. Điều này càng

có ý nghĩa đối với Việt Nam - một nước mà tại đó sản xuất nông nghiệp vẫn

giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, số người phụ thuộc vào nông nghiệp còn nhiều,trong khi bình quân đất canh tác lại rất thấp (1034 m2/người và 1938 m2/lao động nông nghiệp), sự phân bổ giữa các vùng rất không đều. Hai là,

chính sách đất đai là yếu tố quyết định nhằm phát huy vai trò tự chủ, tự chịu

trách nhiệm của kinh tế hộ, vừa là động lực chủ yếu của tăng trưởng nông

nghiệp trong suốt hơn một thập kỷ rưỡi qua.

Do chính sách đất đai có ý nghĩa quan trọng với điều chỉnh cơ cấu sản

xuất nông nghiệp như vậy, nên đã giành được rất nhiều sự quan tâm của Đảng

và Nhà nước. Nhiều chính sách về đất đai đã được ban hành, trong đó quan

trọng nhất phải kể đến Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều

của Luật đất đai năm 1998 và Luật sửa đổi một số điều của Luật đất đai năm

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 58

2001. Chính phủ cũng ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn thi hành các Luật

này. Theo đó, đất đai được giao tới tận hộ để sử dụng ổn định lâu dài, tạo điều

kiện để nông dân thực sự tự chủ trên mảnh đất được giao. Mức huy động đóng

góp theo Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng được hạ thấp dần (so với

Pháp lệnh cũ giảm 3%), diện được miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp

cũng được mở rộng. Bên cạnh đó, người nông dân còn được hưởng các quyền

chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn

kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nhờ mở rộng thêm quyền hạn cho

người sử dụng đất nên đã tạo ra được nhiều ảnh hưởng tích cực tới nông dân và

sản xuất nông nghiệp, khuyến khích nông dân sử dụng có hiệu quả diện tích đất

đai hiện có.

Bên cạnh những thuận lợi, chính sách đất đai cũng đồng thời làm nảy

sinh nhiều khó khăn ảnh hưởng tới quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông

nghiệp, cụ thể:

 Tại nhiều vùng, đất đai vẫn bị sử dụng kém hiệu quả, công tác quy

hoạch vùng chưa sát thực tế, một số nơi nông dân tự phát chuyển đổi cơ

cấu cây trồng nên đã xảy ra hiện tượng trồng rồi chặt gây lãng phí.

 Việc trao các quyền về chuyển đổi, chuyển nhượng là tiền đề để

thực hiện tích tụ, tập trung ruộng đất, khuyến khích phát triển nông nghiệp

hàng hoá theo hướng khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng điạ phương.

Tuy nhiên trên thực tế, quá trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra chậm

chạp do có những khó khăn về sử dụng Giấy chứng nhận QSD đất sau

chuyển đổi, do tâm lý không muốn có sự thay đổi của người nông dân .v.v.

 Diện tích đất giao khoán manh mún, gây khó khăn cho việc quy

hoạch, chuyển đổi cơ cấu sản xuất hộ gia đình. Các hộ tuy đã tiến hành

chuyển đổi ruộng đất cho nhau để tiện canh tác, nhưng quá trình này còn

diễn ra tự phát, chưa có sự hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất giữa

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 59

các địa phương, nhiều nơi nông dân tự chuyển đổi “ngầm” cho nhau gây

nên tình trạng biến động về đất đai rất khó quản lý.

 Mặc dù người sử dụng đất được hưởng 7 quyền theo quy định của

Luật đất đai, các văn bản hướng dẫn dưới Luật cũng đã có, nhưng người

nông dân cần có hướng dẫn cụ thể hơn mới có thể thực sự thực hiện được

các quyền lợi này.

 Việc đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo hạng đất lúa là

không công bằng giữa người trồng cây lương thực với trồng cây công

nghiệp và giữa những người trồng cây công nghiệp với nhau.

 Để sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, có giá trị kinh tế cao có

độ đồng đều về chất lượng, chủng loại và mẫu mã đòi hỏi phải có một quy

mô diện tích nhất định. Nhưng hiện nay hầu hết các hộ sản nông nghiệp

nước ta hiện nay đều có quy mô diện tích đất không lớn, trong khi quá

trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra rất chậm chạp.

 Chưa có quy hoạch rõ ràng về đất đai dành cho phát triển công

nghiệp nông thôn, xây dựng cở hạ tầng và phúc lợi ở địa phương. Điều này

gây khó khăn cho phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn,

làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ

cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng.

 Ở vùng miền núi, các doanh nghiệp lâm nghiệp Nhà nước còn bao

chiếm nhiều diện tích, nhưng sử dụng kém hiệu quả, chậm chuyển giao

cho hộ nông dân nên gây ảnh hưởng tiêu cực tới chuyển đổi cơ cấu sản

xuất.

Tất cả những tồn tại trên phải được nhanh chóng khắc phục triệt để mới

có thể làm cho chính sách đất đai thực sự phát huy được vai trò chủ đạo của nó

trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng, cũng như toàn

ngành nông nghiệp nói chung cho phù hợp với quá trình mở cửa và hội nhập

nền kinh tế của đất nước hiện nay.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 60

3.2. Chính sách giá cả

Trong cơ chế thị trường, tín hiệu của giá cả giúp hướng các nguồn tài

nguyên của đất nước vào việc sử dụng có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, Chính phủ

nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, can thiệp vào giá cả nhằm tăng

sản lượng nông sản hàng hoá, ổn định giá cả, đảm bảo an ninh lương thực, cung

cấp lương thực thực phẩm, nguyên liệu với giá rẻ cho công nghiệp để thực hiện

tích luỹ cho công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam, Chính phủ ta tuy không can

thiệp trực tiếp vào giá cả hàng hoá như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,

nhưng vẫn duy trì cơ chế điều chỉnh giá cả thị trường trong nước và chính sách

xuất nhập khẩu để giữ giá có lợi cho sản xuất lương thực, thực phẩm và các cây

trồng khác.

Nhờ thực hiện cải cách kinh tế nói chung và tự do hoá giá cả nói riêng

trong những năm vừa qua, giá cả hàng nông sản (nhất là các mặt hàng thực

phẩm) đã tăng lên làm giảm dần giá cánh kéo so với mặt bằng giá chung trên

thị trường. Các chính sách về giá của Nhà nước đã tạo ra sự khích lệ, khuyến

khích sản xuất phát triển. Kết quả là từ một nước nhập khẩu, Việt Nam đã trở

thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Gần đây trong xu thế tự do hoá

thương mại và hội nhập kinh tế khu vực ASEAN và quốc tế, Chính phủ đã loại

bỏ dần những biện pháp can thiệp phi thuế quan, như: quota, kiểm soát số

lượng, đầu mối xuất nhập khẩu .v.v. Ví dụ, đối với xuất khẩu gạo, trong năm

1998, Chính phủ đã sửa đổi chính sách cho phép số lượng các doanh nghiệp

được trực tiếp xuất nhập khẩu nhiều hơn (kể cả doanh nghiệp tư nhân cũng

được phép xuất khẩu gạo), tăng khối lượng quota xuất khẩu.v.v. Những thay

đổi này đã góp phần cải thiện giá cả, giảm dần khoảng cách về giá xuất khẩu so

với sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực.

3.3. Chính sách đầu tư

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 61

Trong thập kỷ qua, chính sách đầu tư của Việt Nam đang chuyển dần vào

phát huy và khai thác lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nhằm hình thành

các vùng sản xuất hàng hoá, tạo ra các nông phẩm chất lượng cao, giá thành hạ,

có sức cạnh tranh cao trên thị trường; đồng thời hình thành cơ chế khuyến

khích mọi thành phần kinh tế cùng bỏ vốn đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực

nông nghiệp, kể cả việc kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài.

Bảng 16: Chỉ số đầu tư của NSNN cho nông nghiệp

1990 1998 1999 2000 2001 2002

38.7 25.8 25.4 24.3 23.2 23.0 Năm % nông nghiệp trong GDP (1)

17.1 10.2 11.5 12.6 12.2 11.4

0.44 0.39 0.45 0.53 0.53 0.49 % đầu tư NSNN cho nông nghiệp (2) Chỉ số đầu tư nông nghiệp (%) (3)

Nguồn: Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Chú thích: (3) = (2)/(1) (%)

Đầu tư cho phát triển nông nghiệp của Nhà nước trong thời gian qua tập

trung vào xây dựng và củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, khoa học kỹ

thuật cho các vùng sản xuất hàng hoá, ưu tiên cho các chương trình khai hoang

vùng Đồng tháp Mười – Tứ giác Long Xuyên, Tây Nguyên và các vùng nông

nghiệp trọng điểm khác. Ngoài ra đầu tư của Nhà nước còn dành phần đáng kể

cho các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 327 phủ xanh đất

trống đồi núi trọc, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, chương trình 773,

chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình định canh định cư, chương trình xoá

đói giảm nghèo .v.v. Đầu tư của Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp trong

những năm qua tuy về số tuyệt đối đều tăng (tuy mới chiếm khoảng 5% tổng

vốn đầu tư Ngân sách), nhưng đồng thời cũng đang diễn ra xu hướng giảm thu

thuế từ nông nghiệp cho Ngân sách Nhà nước (năm 1993: 4,90%; năm 1997:

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 62

3,2%) thể hiện rõ chủ trương “khoan thư sức dân”của Nhà nước ta, qua đó tạo

động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển nông

nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.

Tỷ trọng đầu tư của Ngân sách Nhà nước trực tiếp cho nông nghiệp trong

thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của nông nghiệp trong

nền kinh tế quốc dân. Chỉ số đầu tư nông nghiệp tuy có tăng lên nhưng vẫn còn

thấp xa so với nhiều nước trong khu vực (Thái Lan: 0,62; Inđônêxia: 0,67).

Đầu tư của Nhà nước vào hệ thống nghiên cứu triển khai cho nông nghiệp cũng

còn thấp xa so với yêu cầu: khoảng 70% đầu tư của Nhà nước vào hệ thống

nghiên cứu là để trả lương. Bên cạnh đó, đầu tư của Nhà nước cho nông

nghiệp lại chủ yếu tập trung cho doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư cho doanh

nghiệp dân doanh mới chiếm khoảng 10% tổng đầu tư cho các doanh nghiệp

quốc doanh. Khu vực nông nghiệp cũng chưa thực sự hấp dẫn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (mới thu hút được khoảng 7% tổng vốn FDI cả nước).

3.4. Chính sách tín dụng

Cùng với đầu tư của Nhà nước, hệ thống tín dụng cũng đã đóng góp ngày

càng nhiều vào việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp

và sản xuất nông nghiệp phát triển. Hệ thống ngân hàng một cấp trước đây đã

được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp với sự hình thành của nhiều

ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, cung cấp tài chính chính thức cho nông

nghiệp Việt Nam, như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân

hàng phục vụ người nghèo và Quỹ tín dụng nhân dân.

Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang mở rộng việc cho

vay tới tận hộ nông dân, giúp người nông dân có vốn đầu tư thâm canh và điều

chỉnh cơ cấu sản xuất của mình. Dư nợ của Ngân hàng tăng nhanh từ 225 tỷ

năm 1991 lên 6038 tỷ năm 1997, và đặc biệt là tỷ lệ dư nợ cho vay tới tận hộ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 63

nông dân đã tăng từ 10% lên trên 73% trong cùng kỳ, điều đó chứng tỏ nông

dân đang ngày càng được tiếp cận nhiều hơn với nguồn tín dụng chính thức.

Ngân hàng Phục vụ người nghèo tuy mới được thành lập năm 1995 và là

ngân hàng chính sách, nhưng cũng đã cho vay được trên 400 tỷ đồng, góp phần

quan trọng vào việc giúp đỡ nông dân nhất là những hộ nghèo phát triển sản

xuất. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo còn hạn chế, mặc

dù Ngân hàng người nghèo cho vay vốn với những điều kiện ưu đãi như: lãi

suất thấp, không thế chấp, nhưng do thủ tục còn phức tạp hay do chính bản thân

người nghèo sợ không trả được nợ nên không dám vay. Theo dự tính của Ngân

hàng thế giới, thì chỉ khoảng 33% hộ nông dân trong cả nước tiếp cận được

nguồn vốn tín dụng chính thức của Nhà nước. Mặt khác, cả Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo đều có các chi nhánh

trên khắp đất nước nhưng do hoạt động của Ngân hàng liên quan chặt chẽ tới

hệ thống thông tin liên lạc và trụ sở thường đặt tại trung tâm huyện nên nông

dân vùng sâu, vùng xa vẫn gặp khó khăn khi tiếp cận với nguồn tín dụng này.

4. Một số nhận xét về việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại

Việt Nam giai đoạn vừa qua

Từ thực tế điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta thời gian

qua, có thể rút ra một số nhận xét sau:

4.1. Thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong

chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nhưng yếu tố chất lượng của cơ

cấu chưa thể hiện rõ, đặc biệt là chưa hướng tới nhu cầu của thị trường tiêu

thụ và ổn định sản xuất

Mục tiêu điều chỉnh cơ cấu hợp lý trong nội bộ ngành nông nghiệp (theo

nghĩa rộng bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp) là phải làm sao để kết quả

tổng hợp trên 1 ha diện tích và trên 1 lao động nông nghiệp phải không ngừng

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 64

tăng lên. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, chỉ tiêu này có tăng lên, nhưng

mấy năm cuối lại có chiều hướng giảm sút do 2 nguyên nhân chính:

Thứ nhất , do giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm trên bình diện

chung ; Thứ hai, giá trị kinh tế của nông nghiệp thuần vẫn chiếm tỷ trọng lớn

và dao động ở mức 80%. Điều này cho thấy nông nghiệp vẫn giữ vị trí độc tôn,

lâm, ngư nghiệp chưa vươn lên ngang tầm với những lợi thế hiện có.

Hơn thế nữa, tỷ trọng của ngành lâm nghiệp đang giảm (cả về giá trị sản

lượng và giá trị xuất khẩu) cho thấy hậu quả của việc khai thác tài nguyên lâm

nghiệp theo kiểu “bóc lột tài nguyên” đến mức cạn kiệt đang gây ra sự mất cân

bằng sinh thái, thể hiện rõ nhất là lũ lụt, nạn hạn hán xảy ra thường xuyên hơn

và không còn theo chu kỳ như trước kia ở nhiều vùng trong cả nước thời gian

vừa qua.

Tỷ trọng của ngành ngư nghiệp tuy có tăng lên (cả về giá trị sản xuất và

giá trị xuất khẩu) nhưng vẫn chưa thực sự khai thác hết tiềm năng vốn có của

ngành. Hơn nữa, do việc đầu tư khai thác nhưng không tính đến tác động của

môi trường nuôi trồng, nên nhiều dự án đã không mang lại hiệu quả, mức độ rủi

ro rất lớn.

Trong nội bộ ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp (gồm trồng trọt và chăn

nuôi), tuy tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi có tăng lên,

nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt đến một tỷ lệ hợp lý (chăn nuôi chiếm tỷ trọng

25%, trồng trọt - 75%). Còn trong cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt, cây lương

thực vẫn là loại cây được trồng khá phổ biến, trong khi các loại cây công

nghiệp, cây ăn quả và những loại cây có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu vẫn

chưa được chú trọng phát triển mạnh.

Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp theo cả nghĩa rộng

lẫn nghĩa hẹp trong thời gian qua là rất chậm chạp, chưa đạt yêu cầu và vẫn

chưa tương xứng với tiềm năng về tài nguyên và sinh thái của đất nước.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 65

4.2. Cơ cấu ngành nông nghiệp đang trong quá trình chuyển dần từ

nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá. Bước đầu

đã có một số loại sản phẩm chủ lực trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của

mỗi vùng

Nhiều vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh đã được hình thành, như:

vùng sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, vùng cây công nghiệp dài ngày

ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, khai thác, nuôi trồng thuỷ sản ở Nam

Trung Bộ và Nam Bộ.v.v. Người nông dân ngày nay đã chú trọng đến không

chỉ khối lượng sản phẩm sản xuất ra, mà còn quan tâm nhiều hơn đến giá trị thu

hoạch được. Điều đó thể hiện, các thông tin về nhu cầu thị trường đã có tác

động đến việc bố trí và sử dụng các nguồn lực của kinh tế hộ nông dân. Nhiều

tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào sản xuất, hình thành nên

nhiều mô hình sản xuất hàng hoá trên khắp các vùng trong cả nước. Trong cơ

cấu thu nhập của hộ gia đình đã thể hiện sự đa dạng hoá, tỷ trọng thu nhập từ

làm ruộng giảm, tỷ trọng thu nhập từ làm vườn, trồng cây công nghiệp và chăn

nuôi tăng lên rõ rệt.

4.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn chưa gắn chặt với quá trình hội

nhập khu vực ASEAN và quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp

Hiện tại, các mối liên kết giữa người sản xuất với người xuất khẩu còn

rời rạc và mang nặng tính phi vụ. Các quan hệ hợp đồng sản xuất - tiêu thụ

chưa được phát triển rộng, còn tồn tại nhiều đầu mối trung gian, môi giới. Do

đó, tình trạng chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thu mua còn khá lớn làm

người sản xuất vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp hỗ

trợ của Nhà nước không đến được với người sản xuất.v.v. Đây chính là những

nguyên nhân kìm hãm sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng

tích cực, có tính đến yếu tố thị trường xuất nhập khẩu trong khu vực ASEAN

và thế giới.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 66

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay vẫn chưa thể hiện là

một cơ cấu có hiệu quả. Điều này thể hiện rất rõ qua cơ cấu phân bổ và sử dụng

đất đai: đất dành cho công nghiệp và cây ăn quả mới chiếm tương ứng là

11,21% và 4,34%; giá trị sản lượng cây công nghiệp mới chiếm 20,6%, cây ăn

quả chiếm 7,64%. So với các nước khác trong khu vực ASEAN, thì tỷ lệ này là

rất thấp. (Chỉ số tương tự ở Inđônêxia, Malaysia, Philippin,và Thái Lan là 40%

và 70%). Không những thế, giá trị xuất khẩu của các mặt hàng nông sản nước

ta như: gạo, cà phê, hạt điều, tiêu.v.v. thường thấp hơn so với giá của các sản

phẩm cùng loại từ các nước trong khu vực ASEAN và thấp hơn giá xuất khẩu

bình quân trên thế giới do chất lượng hàng xuất không cao. Điều này cho thấy

ngành công nghiệp chế biến và bảo quản sau thu hạch, cũng như công tác nhân

giống cây, con vẫ chưa có những chuyển biến ngang tầm với yêu cầu để nâng

cao giá trị các mặt hàng nông phẩm xuất khẩu của đất nước.

4.4. Các bộ phận trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa thể hiện rõ sự

phân công lao động và khai thác lợi thế vùng

Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta vẫn chưa đạt được hiệu

quả do việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất khai thác lợi thế so sánh của

từng địa phương. Chẳng hạn, nhân tố đất đai – tư liệu sản xuất quan trọng nhất,

không thể thiếu được trong sản xuất nông nghiệp – vốn là đại lượng có hạn,

nhưng lại được sử dụng chưa hiệu quả, đồng thời nhiều địa phương cũng chưa

tận dụng, khai thác các lợi thế về tiểu vùng khí hậu để sản xuất những giống

cây, con có tính độc đáo và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị

trường xất khẩu khu vực và quốc tế.

Ngoài việc gắn kết giữa hai bộ phận trồng trọt và chăn nuôi trong sản

xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp, các bộ phận còn lại trong cơ cấu nông

nghiệp theo nghĩa rộng như giữa sản xuất lương thực và phát triển lâm nghiệp,

giữa nuôi trồng thuỷ sản và phát triển sản xuất nông nghiệp chưa gắn kết chặt

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 67

chẽ với nhau. Cơ cấu chưa thể hiện sự phân công lao động theo chiều thuận,

nghĩa là thiếu quy hoạch và mất cân đối giữa sản xuất và chế biến, cung ứng

vật tư nông nghiệp ..., nhằm huy động sức mạnh tổng hợp trên cơ sở khai thác

tối đa nguồn lực của từng ngành, từng địa phương và từng vùng sinh thái.

4.5. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa theo một quy hoạch

tổng thể hợp lý

Trong thời gian qua, người nông dân khi thấy thị trường có nhu cầu thì ồ

ạt chạy theo, trồng cây mới nuôi con mới mang nặng tính chất phong trào, tự

phát, trong khi công tác quy hoạch chưa thực sự làm cơ sở cho việc hoạch định

các chính sách khuyến khích hay hạn chế người sản xuất đối với từng mặt hàng

cụ thể. Trên thực tế cả người làm công tác quy hoạch lẫn người nông dân chưa

đánh giá đúng nhu cầu thị trường, nhất là chưa lường trước được những thay

đổi bất thường, rủi ro có thể xảy ra để có các chính sách ứng phó từ trước. Do

đó, nhiều sản phẩm nông nghiệp của chúng ta không tiêu thụ được, hoặc phải

bán với giá thấp, nên không khuyến khích người nông dân tích cực chuyển đổi

cơ cấu cây trồng, vật nôi.

4.6. Tác động của những nhân tố kích thích sản xuất trong những

năm đầu của thập kỷ đã đến mức tới hạn, trong khi chưa tìm thêm được các

nhân tố mới để kích thích sản xuất phát triển

Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung Ương Đảng về công tác khoán sản

phẩm đến tận người lao động. Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị về đổi mới quản

lý kinh tế nông nghiệp trong việc giải phóng sức sản xuất, Luật đất đai mới

được bổ sung trao thêm các quyền cho người sử dụng đất... đã có tác động tích

cực, biến chúng thành động lực phát triển một thời, thì đến nay đã đã bắt đầu

cạn kiệt. Nếu không có sự đổi mới cơ chế quản lý, tìm ra động lực mới trong

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 68

giai đoạn tới thì sự phát triển của sản xuất nông nghiệp sẽ có nguy cơ chững

lại.

Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp để hội nhập thành công đòi

hỏi phải có những biện pháp đồng bộ, bao gồm cả việc lựa chọn cơ cấu cây

trồng, vật nuôi hợp lý, vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa thích hợp với điều kiện

tự nhiên, môi trường sinh thái của từng vùng, từng địa phương, trong đó có việc

chuyển đổi ruộng đất theo hướng “đổi điền, dồn thửa” cho quy mô sản xuất ít

manh mún hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải phát triển hệ thống giao thông

nông thôn, hệ thống thuỷ lợi.. để thâm canh tăng năng suất, giúp nền nông

nghiệp nước nhà phát triển mạnh, đủ khả năng hội nhập thành công và có lợi

nhất vào nền nông nghiệp ASEAN cũng như của toàn thế giới.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 67

CHƯƠNG III

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP

TỤC HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NÔNG

NGHIỆP VIỆT NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA

I. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG

NGHIỆP

Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về một số

chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông

nghiệp đã khẳng định: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô và chủng loại sản phẩm

các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác được lợi thế của cả nước

và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có khả năng tiêu thụ

được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái”. Bởi vậy, chúng ta

có thể hình dung mục tiêu tổng quát chuyển đổi chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp trong những năm tới là: Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh,

đa dạng, có chất lượng cao, hiệu quả cao và bền vững dựa trên cơ sở phát huy

các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu đa

dạng trong nước và khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế; năng

cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn, nâng cao thu nhập và đời

sống của người nông dân. Thông qua việc chuyển đổi này đến năm 2005,

chúng ta phấn đấu đạt được:

- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp 4 - 4,5%/năm.

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn 7,5 - 8%/năm.

- Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng đủ nhu cầu

đa dạng của nhân dân về các loại lương thực thực phẩm, bao gồm cho cả đồng

bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

- Giá trị sản lượng trên 1 ha đất nông nghiệp đạt trên 30 triệu đồng/ha.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 68

- Tận dụng khả năng sẵn có, kết hợp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật

để phát triển các loại cây trồng, vật nuôi, ngành nghề thay thế nhập

khẩu, nâng cao hợp lý mức độ tự túc, khai thác thị trường trong nước đối

với các sản phẩm: bông, thuốc lá, dầu ăn, nguyên liệu giấy, sữa…

- Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thuỷ hải sản đạt 7 tỷ USD (tăng

12%/năm).

- GDP bình quân đầu người ở nông thôn tăng 1,4 lần so với năm 2000.

Xét một cách cụ thể, mục tiêu quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp nước ta cho phù hợp với quá trình hội nhập vào AFTA bao gồm:

1. Mục tiêu hiệu quả kinh tế

Mục tiêu này có thể hiểu là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp

phải đi vào thực hiện phân bổ và sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực (đất

đai, lao động, vốn, công nghệ...) của đất nước vào sản xuất nông- lâm - ngư -

nghiệp.

Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp không những phải hướng vào

phát triển sản xuất để làm ra nhiều nông sản đảm bảo chất lượng và vệ sinh an

toàn thực phẩm mà cơ cấu chủng loại hàng nông sản sản xuất ra còn phải đáp

ứng đúng lúc nhu cầu thị trường, để tiêu thụ được với giá cả có lợi nhất, tăng

giá trị sản phẩm sản xuất ra cũng như năng suất lao động, năng suất đất đai và

thu nhập của người lao động.

Đối với đất đai, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải hướng tới tối đa hoá

giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện, tích đồng thời tạo thêm được việc làm để

giải quyết vấn đề lao động thất nghiệp trong nông nghiệp hiện nay. Do đó, việc

bố trí cây trồng trên từng đơn vị diện tích ở từng vùng cụ thể phải tính đến yếu

tố năng suất: chỉ quyết định tiếp tục duy trì loại cây trồng đó nếu cho năng suất

trong điều kiện bình thường cao hơn ngưỡng năng suất hiệu quả của cây trồng

đó, nếu không phải tìm cách chuyển sang cây trồng, vật nuôi khác. Như vậy

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 69

việc chuyển đổi và nâng cấp cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là việc

làm thường xuyên, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa và hội

nhập vào khu vực ASEAN và quốc tế hiện nay. Để làm tốt điều này, một mặt

chúng ta phải xác định được những lợi thế về đất đai, khí hậu, lao động của đất

nước để lựa chọn trồng cây gì, nuôi con gì, mặt khác sản phẩm được làm ra

phải đáp ứng đủ và đúng nhu cầu thay đổi liên tục của thị trường.

2. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải phù hợp và đáp ứng tốt

hơn những thách thức của quá trình hội nhập vào nền nông nghiệp

khu vực ASEAN và thế giới

Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN và quốc tế là xu thế tất yếu của nền

nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác

định rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy

tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ

và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ

gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.

Ngày 27/11/2001 Bộ Chính Trị cũng đã ban hành Nghị quyết 07/NQ-TƯ

về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đề ra mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc

tế là “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ

thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ

nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2010 và Kế hoạch 5

năm 2001-2005”.

Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế vừa là quá trình hợp tác vừa là quá

trình đấu tranh, vừa có cơ hội vừa có những thách thức mới. Vì vậy, điều chỉnh

cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế nói chung và hội

nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN nói riêng, cần phải đảm bảo tính linh

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 70

hoạt để vừa giải quyết tính được hai mặt của hội nhập, đó là tận dụng cơ hội,

vượt qua thách thức, với nhận thức đầy đủ về đặc điểm, lợi thế của nông nghiệp

Việt Nam nói chung cũng như của từng ngành hàng nông sản nói riêng tại từng

thời điểm cụ thể. Từ đó có kế hoạch và lộ trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ

phát triển, điều kiện sản xuất của ngành nông nghiệp trong nước vừa đáp ứng

được các quy định của AFTA về vấn đề thương mại hàng nông sản.

3. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất phải nhằm vào khai thác tối đa lợi thế so

sánh của từng địa phương, từng vùng và tiểu vùng, tạo ra lợi thế cạnh

tranh cho nông phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế

Trong sản xuất nông nghiệp, việc khai thác và phát huy tối đa lợi thế so

sánh của tiểu vùng sinh thái, thổ nhưỡng, khí hậu... có ý nghĩa quan trọng đối

với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, nhất là đối với những nông phẩm

đặc sản, để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp, giá thành

hạ, hình thành những ngành, những sản phẩm hàng hoá mũi nhọn, có khả năng

chiếm lĩnh thị phần lớn và tạo lập được vị thế trên thị trường. Bên cạnh các lợi

thế về điều kiện tự nhiên, các lợi thế khác về kinh tế - xã hội; tập quán canh tác,

tính cần cù, năng động sáng tạo của nông dân... cũng là những yếu tố cần phải

tính đến khi xây dựng quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập trung theo hướng

nâng cao lợi thế cạnh tranh cho nông sản hàng hoá của Việt Nam.

4. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải nằm trong định hướng

quy hoạch tổng thể chung gắn với phát triển công nghiệp, nhất là

công nghiệp chế biến

Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch

tổng thể chung của cả nước cũng như quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp đối

với những hàng hoá nông sản nhất định, tránh tình trạng chuyển dịch cơ cấu

cây trồng vật nuôi tự phát, khi giá cả cao thì trồng ồ ạt và đến khi giá thành hạ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 71

thì đồng loạt chặt bỏ gây thiệt hại và lãng phí lớn về vốn đầu tư, nhân lực và

các chi phí cơ hội có giá trị.

Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn phải gắn với quá trình từng

bước hình thành và phát triển vùng sản xuất hàng hoá, vùng nguyên liệu tập

trung cho công nghiệp chế biến nông sản, hình thành mối liên kết nông nghiệp

- công nghiệp, dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn cũng như trên

phạm vi cả nước, tạo ra sự phân công lao động mới trong nông thôn, giải quyết

việc làm cho người lao động, tăng giá trị gia tăng cho hàng hoá và tăng thu

nhập cho người lao động nông nghiệp.

5. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải được thực hiện trên cơ

sở dự báo đúng đắn nhu cầu thị trường

Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, thị trường là căn cứ quan trọng để

xây dựng chiến lược kinh doanh đối với từng ngành hàng nông sản. Bám sát

nhu cầu thị trường là một việc khó đối với sản xuất nông nghiệp do tính mùa vụ

và đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi. Do đó nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu

của khách hàng để dự báo chính xác nhu cầu thị trường và cơ cấu thị phần đối

với từng loại hàng hoá nông sản nhất định, nhu cầu và thị hiếu của khách hàng

và khách hàng cuối cùng, dung lượng trao đổi và tính ổn định của thị trường

trong trung và dài hạn... sẽ quyết định việc lựa chọn cũng như định hướng quy

hoạch sản xuất nông nghiệp một cách đồng bộ, bao gồm cả các yếu tố sản xuất

và thị trường trong các vùng sản xuất hàng hoá nông phẩm.

6. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở ưu

tiên cho ứng dụng kịp thời tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất,

đảm bảo phát triển bền vững

Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp một mặt cần đặc biệt chú ý

đến quá trình ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhất là

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 72

công tác sản xuất và lai tạo giống đồng thời với việc đổi mới công nghệ và thiết

bị công nghiệp chế biến, bảo quản để đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng

suất và giá trị gia tăng của nông sản. Mặt khác chúng ta cũng cần chú ý đến vấn

đề môi trường để vừa tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm

vừa đảm bảo cho nền nông nghiệp nước ta phát triển bền vững.

7. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nền kinh tế trên cơ sở huy

động tối đa các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế phục vụ cho

quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp

Các nguồn lực về tài chính, lao động và sức sáng tạo của các thành phần

kinh tế ngoài thành phần kinh tế Nhà nước là rất lớn. Do đó muốn làm cho quá

trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng và hiệu quả

cao, chúng ta cần phải tạo ra môi trường thông thoáng và thuận lợi để khuyến

khích mọi thành phần kinh tế tham gia đóng góp công sức, tài năng, quản lý

cũng như vốn đầu tư của họ vào quá trình này.

II. ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI

Dựa trên các quan điểm, mục tiêu và dự kiến về khả năng hội nhập vào

nền nông nghiệp khu vực ASEAN và quốc tế của hàng nông sản Việt Nam như

đã nêu ở trên, đề tài xin kiến nghị một số định hướng điều chỉnh cơ cấu sản

xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian tới như sau:

1. Định hướng chung về công tác điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp nước ta trong thời gian tới

Trong thời gian tới, chúng ta cần phát triển sản xuất và chế biến các loại

nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng với quy mô thích hợp,

trong đó tập trung vào nâng cao chất lượng, giá trị xuất khẩu và khả năng cạnh

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 73

tranh trên thị trường quốc tế và khu vực cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực

của Việt Nam như lúa gạo, cà phê, điều, tiêu, chè, cao su, hàng thuỷ sản, rau

quả, thịt lợn… Đối với những mặt hàng hiện nay Việt Nam còn đang nhập khẩu

nhưng có điều kiện phát triển như ngô, đậu tương, thuốc lá lá, dầu ăn, bột

giấy... chúng ta cần bố trí nhân lực, vật lực phát triển sản xuất các mặt hàng đó

với quy mô hợp lý ở mỗi vùng với phương châm coi trọng hiệu quả kinh tế bền

vững.

2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất đối với từng nhóm sản phẩm

nông sản cụ thể trong thời gian tới

Trước những đòi hỏi mới của quá trình hội nhập vào ASEAN/AFTA,

trong một vài năm tới, chúng ta phải có những điều chỉnh hợp lý trong cơ cấu

sản xuất của ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) bằng cách tăng tỷ trọng của

ngành ngư, lâm nghiệp và giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp thuần tuý.

Trong ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp, chúng ta cần giảm tỷ trọng của nhóm

cây lương thực xuống, tăng tỷ trọng của nhóm cây công nghiệp và ăn quả lên.

Việc điều chỉnh cụ thể với từng nhóm sẽ được thực hiện như sau:

- Đối với sản xuất lương thực: Nâng cao hiệu quả của sản xuất lúa gạo

trên cơ sở xây dựng các vùng sản xuất tập trung để có điều kiện đầu tư thâm

canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất như tiến bộ về giống

mới vào sản xuất (ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long), hình

thành các vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giá thành thấp gắn với chế biến và

tiêu thụ. Chuyển một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại

sản phẩm cây, con khác có giá trị kinh tế cao hơn như: đất khô hạn chuyển sang

trồng cây màu, cây ăn quả, cây công nghiệp hoặc cây rừng, đất trũng ở đồng

bằng không thuận tiện tưới tiêu, trồng lúa cho năng suất bấp bênh, cải tạo để

chuyển sang nuôi thả thuỷ sản kết hợp trồng cây ăn quả; đất ven biển, vùng cát

ven biển cải tạo để chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản; đất ven đô thị chuyển sang

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 74

trồng các loại rau, hoa, cây cảnh, cây ăn quả phục vụ nhu cầu tiêu dùng của

chính người dân đô thị... Chúng ta không nên sản xuất lúa bằng mọi giá ở

những vùng miền núi có điều kiện sản xuất khó khăn, không thuận tiện cho

trồng lúa, đồng thời cũng cần sớm giải quyết dứt điểm, có hiệu quả tình trạng

đốt rừng làm nương rẫy và du canh du cư của đồng bào dân tộc thiểu số, để bảo

vệ các cánh rừng phòng hộ, từ đó gián tiếp bảo vệ các vùng đất canh tác nông

nghiệp ở vùng trung du và đồng bằng chống lại các thiên tai nguy hại cho sản

xuất nông nghiệp như nạn sụt lở đất, lũ lụt, xói mòn đất canh tác, giảm lượng

nước ngầm trong đất…, góp phần vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc

gia cũng như vào sự phát triển một nền nông nghiệp bền vững cho đất nước.

- Đối với sản xuất cây công nghiệp: Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh

của từng vùng sinh thái, hình thành vùng sản xuất tập trung các loại cây công

nghiệp làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản. Chú trọng đặc biệt

đến công tác giống cây trồng, ứng dụng công nghệ sinh học, biện pháp canh tác

tiên tiến vào sản xuất, từng bước thực hiện cơ giới hoá sản xuất, trước hết là

các khâu nặng nhọc, độc hại... Cụ thể là: đối với cây cà phê, không phát triển

thêm diện tích cà phê vối, giữ lại diện tích cà phê có điều kiện thâm canh, nhất

là về nước tưới, tập trung phát triển diện tích cà phê chè ở những nơi có điều

kiện thuận lợi. Đối với cây điều, có thể mở rộng thêm diện tích trồng mới

nhưng đặc biệt chú ý đến việc nâng cao chất lượng giống điều do diện tích điều

trồng trước đây, chủ yếu là sử dụng giống cũ năng suất thấp. Đối với cây chè

thực hiện thâm canh vườn chè nhất là các loại chè cao cấp trồng vùng cao. Đối

với cao su, tập trung thâm canh diện tích cao su hiện có, phát triển cao su ở

những nơi có điều kiện thích hợp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh

đạt hiệu quả cao...

- Đối với sản xuất rau màu và hoa quả: Đưa ngành rau quả trở thành một

trong những ngành xuất khẩu chủ lực, trong đó: Phát triển mạnh cây ăn quả

bằng giống có chất lượng cao, sạch bệnh, chú trọng phát triển các loại cây ăn

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 75

quả nhiệt đới (nhãn, vải, xoài, dừa, chuối…). Hướng dẫn nông dân áp dụng các

biện pháp nâng cao chất lượng rau, giảm dư lượng thuốc trừ sâu, tăng dần diện

tích trồng rau theo quy trình rau sạch. Đầu tư công nghệ bảo quả rau tươi, đóng

gói bao bì phù hợp để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu nội tiêu. Hỗ trợ nâng cấp

cải tạo các nhà máy cũ hiện có và lắp mới các dây chuyền chế biến đồng bộ,

hiện đại, phục vụ cho công tác xuất khẩu mặt hàng này.

- Đối với phát triển chăn nuôi: Thực hiện khuyến khích phát triển chăn

nuôi theo hướng công nghiệp nhất là dưới hình thức trang trại với quy mô thích

hợp ở từng vùng, trên cơ sở đó quy hoạch hình thành các vùng chăn nuôi hàng

hoá tập trung an toàn dịch bệnh gắn với đầu tư, nâng cấp các cơ sở giết mổ chế

biến sản phẩm chăn nuôi đạt tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm không chỉ đáp ứng

nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Khuyến khích áp

dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất giống vật nuôi, thức ăn công nghiệp,

đáp ứng đủ cho nhu cầu chăn nuôi, kết hợp với tăng cường công tác thú y và

kiểm tra chất lượng sản phẩm đầu ra. Cụ thể là:

+ Chăn nuôi lợn: Đẩy mạnh chăn nuôi lợn phục vụ tiêu dùng trong nước

và xuất khẩu trên cơ sở phát triển hình thức chăn nuôi hộ trang trại với quy mô

lớn, sử dụng các giống lợn có chất lượng cao và quy trình chăn nuôi phù hợp

với yêu cầu của thị trường, gắn với việc xây dựng mới các cơ sở chế biến đạt

trình độ quốc tế, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, xuất khẩu trên 80 nghìn tấn

thịt, trước hết là lợn sữa, lợn choai. Cải tạo nâng cấp các cơ sở chế biến cũ, đầu

tư xây dựng các cơ sở chế biến thịt với tổng công suất 85 ngàn tấn/năm.

+ Chăn nuôi bò: Tiếp tục đẩy mạnh Sind hoá đàn bò để nâng cao chất

lượng thịt, tạo đàn bò nền để phát triển đàn bò lai hướng sữa, phấn đấu năm

2005 có đàn bò thịt 4,4 triệu con, đàn bò sữa trên 100 nghìn con, sản lượng sữa

150 nghìn tấn, đáp ứng 25% nhu cầu trong nước. Từ 2001-2005 tiếp tục đầu tư

phát triển thêm năng lực chế biến sữa các vùng có chăn nuôi bò sữa và thị

trường tiêu thụ lớn.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 76

+ Chăn nuôi gia cầm: Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gà lấy thịt và trứng.

Đặc biệt chú trọng phát triển chăn nuôi gà thả vườn chất lượng cao ở các vùng

trung du. Phát triển chăn nuôi vịt ở đồng bằng sông Cửu Long và các vùng ven

biển bằng các giốn mới có năng suất cao.

+ Phát triển chăn nuôi dê, ong động vật quý để tiêu thụ trong nước và

xuất khẩu.

- Đối với lâm nghiệp: Thực hiện tiếp tục việc bảo vệ có hiệu quả và phát

triển diện tích rừng hiện có, nâng cao trữ lượng và chất lượng rừng nhất là đối

với rừng phòng hộ xung yếu, rất xung yếu, rừng đặc dụng. Quy hoạch và thực

hiện tốt quy hoạch để phát triển vùng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp

chế biến nhất là chế biến bột giấy, ván nhân tạo, ván dăm, ván ép và làm hàng

thủ công mỹ nghệ. Phát triển chế biến các loai sản phẩm đồ gỗ đáp ứng nhu cầu

trong nước và xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu lâm sản lên 600 triệu USD

vào năm 2005. Chuẩn bị và triển khai thực hiện thực hiện chương trình sản xuất

giấy và bột giấy với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Đẩy mạnh trồng rừng, thực hiện đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới vào

trồng và phát triển rừng, tập trung phát triển công nghệ giống nhằm đảm bảo

cung cấp đủ giống chất lượng cao cho công tác trồng rừng. Khuyến khích và

thực hiện xã hội hoá trồng rừng, giao rừng cho người dân và cộng đồng chăm

sóc, bảo vệ, hạn chế và dần dần đi đến chấm dứt phá rừng làm nương rẫy. Thực

hiện đổi mới quản lý đối với lâm trường quốc doanh, rà soát và giao lại những

diện tích rừng, đất rừng mà lâm trường đã bao chiếm, sử dụng kém hiệu quả để

chuyển lại cho chính quyền địa phương giao cho dân và cộng đồng để thực hiện

đầu tư trồng rừng mới. Tiếp tục việc giao đất khoán rừng, khoán quản lý bảo vệ

11 triệu ha rừng, làm giàu 555 nghìn ha rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết

hợp trồng bổ sung 800 nghìn ha, trồng rừng nguyên liệu chủ lực 1,6 triệu ha.

- Đối với thuỷ sản: Thực hiện đồng bộ chương trình nuôi trồng và đánh

bắt thuỷ hải sản kết hợp với đầu tư phát triển quy trình chế biến hiện đại, đảm

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 77

bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm với mục tiêu đạt tổng sản lượng

2,55 triệu tấn vào năm 2005 (trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm 50%), kim

ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD.

Trong nuôi trồng thuỷ sản, chú trọng nuôi trồng theo phương thức công

nghiệp và bán công nghiệp, nuôi sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên ở

vùng nước biển, nước lợ và nước ngọt. Quy hoạch và hướng dẫn ngư dân thực

hiện khai thác và sử dụng có hiệu quả diện tích mặt nước có khả năng nuôi thả

thuỷ sản, bao gồm cả số diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang nuôi trồng

thuỷ sản. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, lai tạo và tuyển chọn để sản xuất ra

con giống có chất lượng tốt, không bị bệnh; hướng dẫn người nuôi trồng thuỷ

sản kỹ thuật tiên tiến nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.

3. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo vùng

Các vùng thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên cơ sở

tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng, xuất phát từ như cầu hiện tại và tương lai

của thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Hướng chuyển đổi chính của mỗi

vùng như sau:

 Trung du và miền núi phía Bắc

Tiếp tục thâm canh tăng sản lượng lúa, mở rộng diện tích ngô, đỗ tương

và thuốc lá. Mở rộng diện tích chè, cà phê chè, cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt

đới. Phát triển chăn nuôi hàng hoá: Bò thịt, bò sữa (đặc biệt là vùng Mộc Châu

– Sơn La); trồng mới và khoanh nuôi 1,8 triệu ha rừng.

 Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)

Thâm canh lúa nước trên diện tích khoảng 1 triệu ha, tăng diện tích trồng

ngô, trồng rau chất lượng cao, đỗ tương, phát triển cây ăn quả (nhãn, vải,

chuối… ). Phát triển chăn nuôi lợn theo hình thức trang trại. Khai thác hợp lý

dải ven biển trong vùng, phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.

 Khu 4 cũ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 78

Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu mùa vụ gieo trồng lúa để né tránh thiên tai,

tăng diện tích trồng ngô, đỗ tương, cà phê, chè, cao su, lạc, cây ăn quả, phát

triển chăn nuôi trâu bò ở những nơi có điều kiện. Trồng mới 330 nghìn ha rừng

phòng hộ, 500 nghìn ha nguyên liệu giấy, tre, trúc, thông nhựa. Phát triển nuôi

trồng và đánh bắt thuỷ sản.

 Duyên hải miền trung

Đẩy mạnh thâm canh cây lương thực để đáp ứng nhu cầu tại chỗ, mở

rộng trồng ngô, cây ăn quả, mía đường, bông, điều, cao su tiểu điền. Phát riển

chăn nuôi bò thịt, bò sữa; sản xuất muối công nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt

thuỷ sản.

 Tây Nguyên

Không trồng thêm cà phê vối, chuyển một phần diện tích cà phê trồng

trên đất xấu không có nước tưới, hiệu quả thấp sang trồng cây khác có có hiệu

quả cao hơn như: ngô, cao su, dứa, ca cao. Mở rộng diện tích cao su, điều. Đẩy

mạnh thâm canh lúa, mở rộng diện tích trồng ngô, bông; phát triển rau, hoa quả

xuất khẩu (ở Lâm Đồng), dứa (ở Đắc Lắc, Gia Lai); chăn nuôi bò thịt và bò

sữa. Phát triển công nghiệp chế biến cà phê, cao su, mía đường. Bảo vệ diện

tích rừng hiện có, trồng mới 200 nghìn ha rừng kinh tế.

 Đông Nam Bộ

Tiếp tục thâm canh 270 nghìn ha cao su hiện có, mở rộng diện tích điều;

cây ăn quả, mía, ngô, lạc, đậu tương, rau, phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, bò

sữa, bò thịt theo hình thức kinh tế trang trại. Vùng ven biển phát triển nuôi

trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.

 Đồng bằng sông Cửu Long

Hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao 1 triệu ha. Phát triển trồng

bông, ngô, đậu tương, cây ăn quả; xây dựng vùng mía nguyên liệu 90 nghìn ha.

Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế trên các vùng đất phèn. Phát triển nuôi trồng thuỷ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 79

sản với mục tiêu đến năm 2005 diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn vùng đạt trên

700 nghìn ha. Phát triển các ngành dịch vụ chế biến nông lâm thuỷ hải sản.

III. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH NHẰM TIẾP TỤC

HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NGÀNH NÔNG

NGHIỆP VIỆT NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA

Để thực hiện định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta

trong thời gian tới cho phù hợp với bối cảnh hội nhập khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - AFTA, đề tài xin kiến nghị một số giải pháp sau:

1. Thực hiện phù hợp một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình điều

chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hội nhập

1.1. Chính sách đất đai

Do đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, có vai trò quan trọng trong sản

xuất nông nghiệp nhất là trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nên

yêu cầu đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn lực đất đai một cách đạt hiệu

quả nhất, khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng hay nói cách

khác cần thực hiện bố trí cơ cấu cây trồng sao cho tối đa hoá giá trị thu hoạch

trên một đơn vị diện tích đất ở từng vùng. Với tinh thần đó, đề tài xin kiến nghị

một số giải pháp khắc phục, bao gồm:

- Tiến hành rà soát lại diện tích đất nông nghiệp hiện có, xác định những

diện tích đang sử dụng không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp để có phương án

chuyển đổi sang cây trồng, con nuôi khác, cụ thể:

+ Trên cơ sở cân đối cho mục tiêu an toàn lương thực, đảm bảo xuất

khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm, chuyển một số diện tích đất trồng lúa ở

những nơi không thích hợp sang các cây trồng khác, hoặc chuyển sang nuôi thả

thuỷ sản. Trước mắt, rà soát lại diện tích những vùng đất trồng lúa cho năng

suất bấp bênh, thuỷ lợi không thuận tiện ở các vùng trên cả nước để thực hiện

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 80

công khai phương án cắt giảm diện tích trồng lúa giúp người dân được biết và

có kế hoạch chuyển sang nuôi trồng các loại cây, con khác:

+ Đối với diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, trên cơ sở quy hoạch

vùng cây công nghiệp dài ngày tập trung, Nhà nước thực hiện đầu tư vào cơ sở

hạ tầng cho các vùng đã quy hoạch, đồng thời hạn chế nông dân trồng phát

triển sản xuất ngoài vùng quy hoạch.

- Tiến hành rà soát lại quỹ đất của các lâm trường quốc doanh. Những

diện tích đất bao chiếm của các doanh nghiệp nông lâm nghiệp Nhà nước đang

sử dụng kém hiệu quả sẽ được chuyển lại cho địa phương quản lý để giao cho

người dân sử dụng, cụ thể:

+ Đối với đất của các lâm trường quốc doanh: thực hiện chuyển đổi theo

Quyết định 187/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, thực hiện giao khoán

tới tận hộ gia đình công nhân viên nông trường. Những diện tích đất còn lại sẽ

giao cho địa phương quản lý để chuyển cho các hộ gia đình canh tác.

+ Đối với Ban quản lý rừng phòng hộ: một mặt, thực hiện giao khoán

khoanh nuôi bảo vệ rừng, cho phép kinh doanh tận thu lâm sản dưới tán rừng

để người dân có thêm thu nhập, yên tâm bảo vệ rừng, mặt khác phải nghiên cứu

tìm ra các nguồn thu để tăng chế độ thù lao cho người bảo vệ rừng.

- Đất nông nghiệp đang sử dụng hiện nay quá manh mún (với hơn 80

triệu mảnh cho hơn 12 triệu hộ gia đình nông dân), đã ảnh hưởng tiêu cực đến

bố trí quy hoạch sản xuất nông nghiệp hàng hoá và gây ra lãng phí trong tổ

chức sản xuất của hộ gia đình. Mặc dù thực tế ở một số địa phương nông dân

đã tự phát thực hiện chuyển đổi ruộng đất “ngầm” cho nhau nhưng chưa mang

lại hiệu quả toàn diện. Vì vậy, cần tiến hành công tác“đổi điền, dồn thửa” một

cách toàn diện, công khai phương án để người dân bàn bạc, thấy rõ lợi ích của

việc dồn đổi ruộng đất, từ đó đi đến thống nhất trong phương án và hành động.

- Hoàn thành việc giao đất và cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất

cho người sử dụng, quy hoạch hướng dẫn cụ thể để người sử dụng đất thực hiện

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 81

được 7 quyền đối với đất đai theo Luật định. Khuyến khích tích tụ, tập trung

ruộng đất để phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn.

1.2. Chính sách thuế

Đối với bà con nông dân, Nhà nước cần nghiên cứu thực hiện việc miễn,

giảm thuế sử dụng đất nông nghiêp để người nông dân có thêm nguồn lực để

đầu tư phát triển sản xuất và thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Đối với

doanh nghiệp, cần rà soát lại và điều chỉnh bổ sung chính sách thuế theo hướng

khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chế biến

nông lâm thuỷ sản, cụ thể:

- Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân trong thời gian

kiến thiết cơ bản. Miễn thuế sử dụng đất ít nhất trong 5 năm đối với

những diện tích đất chuyển sang trồng các cây mới, nuôi con mới.

- Miễn thuế thu nhập đối với kinh tế trang trại sử dụng lãi thu được

để tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá.

- Không tính thuế buôn chuyến đối với hàng hoá nông sản tiêu thụ

ngoài tỉnh, miễn phí kiểm dịch cho hàng nông sản xuất khẩu.

- Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất đối với các cơ sở kinh

doanh phi nông nghiệp ở nông thôn và các doanh nghiệp đầu tư nhà máy

tại các vùng nông thôn (miễn thuế sử dụng đất trong 5 năm), để thúc đẩy

công nghiệp chế biến hàng nông sản, khuyến khích công tác nghiên cứu

khoa học phục vụ quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói

riêng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói chung.

1.3. Chính sách đầu tư, tín dụng

Đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 82

nói chung trong thời gian tới, cần được hoàn thiện bằng các biện pháp cụ thể

như sau:

- Thực hiện đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thiết

yếu cho các vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung trên nguyên tắc xây

dựng và quản lý sử dụng công trình phải có sự tham gia của người dân mới có

thể tăng hiệu quả sử dụng công trình.

- Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản, các chợ đầu mối giới

thiệu và tiêu thụ hàng nông sản tại các vùng sản xuất hàng hoá tập trung và khu

kinh tế cửa khẩu.

- Tập trung đầu tư cho công tác đào tạo, nhằm xây dựng một đội ngũ cán

bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và cán bộ quản lý có trình độ, góp phần đưa

nền nông nghiệp nước nhà tiến kịp với đà phát triển và xu thế hội nhập chung

của khu vực ASEAN và thế giới.

- Khuyến khích các hình thức tín dụng đa dạng, đơn giản hoá các thủ tục

cho người nông dân vay của các tổ chức tín dụng thương mại quốc doanh.

Dành cho các doanh nghiệp chế biến, xuất nhập khẩu nông sản hàng hoá các

khoản vay ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc

chuyển mặt hàng kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu thị trường.

- Cho phép các hộ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi được

lập dự án vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển hoặc từ các nguồn vốn ưu đãi

của các chương trình mục tiêu của Chính phủ.

- Sửa đổi các chính sách về đất đai tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu

tư nước ngoài về đất đai; bổ sung các ưu đãi cao hơn cho các dự án chế chế

biến nông, lâm thuỷ sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn khó khăn, các dự

án phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết để hình

thành các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế

biến xuất khẩu; giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các

doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chuyên sâu, mở

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 83

rộng sản xuất; có biện pháp hỗ trợ dự án mới bắt đầu triển khai hoặc đang xây

dựng cơ bản để có thể thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI vào quá trình điều

chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp nước nhà (trong 5 năm tới cần huy động 660

triệu USD, tương đương 6% tổng nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông

nghiệp).

2. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết và lịch trình thực hiện

CEPT/AFTA của Việt Nam không chỉ trong đội ngũ cán bộ công

chức, doanh nghiệp mà còn tới tận người nông dân

Công tác tuyên truyền, phổ biến những nội dung về hội nhập kinh tế nói

chung và tham gia CEPT-AFTA nói riêng thời gian qua chúng ta làm chưa tốt,

chưa tạo ra nhận thức nhất quán về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập AFTA,

nên sự tham gia của các ngành các cấp, các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ.

Không ít địa phương coi hội nhập là công việc của cấp trên, không liên quan gì

đến mình nên chưa thực sự xây dựng và triển khai kế hoạch cụ thể về sản xuất

kinh doanh có tính đến việc thực hiện lộ trình mà nhà nước ta đã cam kết.

Vì vậy khi thời hạn thực hiện CEPT/AFTA càng đến gần, chúng ta càng

phải khẩn trương tổ chức tuyên truyền để các địa phương, doanh nghiệp, người

sản xuất kinh doanh và nông dân có nhận thức đầy đủ về thời cơ và nhất là các

thách thức mà họ sẽ phải đương đầu nếu muốn tồn tại và phát triển, để từ đó

từng ngành nghề, từng người sản xuất kinh doanh - những tác nhân tham gia

vào các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng nông sản - tự xây dựng

cho mình kế hoạch, phương án và lộ trình hội nhập cụ thể với hiệu quả cao

nhất.

3. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất trên cơ sở quy hoạch hợp lý và đúng đắn

Công tác quy hoạch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp cần được đặc

biệt quan tâm và phải được đặt trong tổng thể chung của cả nước trong bối cảnh

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 84

hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển nhanh nhạy của tiến bộ khoa học công

nghệ. Công tác quy hoạch được tiến hành căn cứ trên lợi thế so sánh và nhu cầu

của thị trường, khả năng cạnh tranh, sự phân công lao động khu vực và quốc tế,

để có thể được điều chỉnh kịp thời trước những biến đổi của các nhân tố bên

trong cũng như bên ngoài đất nước. Quy hoạch phát triển nông nghiệp dài hạn

cũng cần phải tính kỹ đến các cam kết quốc tế để tránh đầu tư vào những

ngành, lĩnh vực không có khả năng cạnh tranh, nhờ vậy rút ngắn thời gian cần

Nhà nước bảo hộ. Trên cơ sở đó, trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông

nghiệp, chúng ta cần chú trọng làm tốt quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập

trung, quy hoạch hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho vùng sản xuất

hàng hoá, quy hoạch lại dân cư gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển

sản xuất nông nghiệp bền vững.

Một vấn đề chúng ta cũng cần quan tâm đối với công tác quy hoạch phát

triển trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp là việc xây dựng cơ chế gắn

trách nhiệm của người phê duyệt kế hoạch với hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ

đó mở rộng cơ chế ký kết hợp đồng với nông dân - người trực tiếp sản xuất - về

việc tiêu thụ sản phẩm, trong đó chính quyền các cấp là người giám sát về mặt

pháp luật đối với các hợp đồng kinh tế đó.

4. Tập trung sản xuất những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh

Trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền nông nghiệp ASEAN và

quốc tế, mức độ cạnh tranh của hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng

kể cả hàng nông sản chế biến và những mặt hàng truyền thống có thị trường

trong nước tương đối ổn định, hoặc chưa chế biến sẽ càng trở nên gay gắt,

không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường trong nước, do

hàng hoá cùng loại được nước ngoài sản xuất ra với chi phí thấp hơn, chất

lượng cao hơn. Chẳng hạn, gạo phẩm cấp cao của Việt Nam phải tính đến có

khả năng cạnh tranh được với gạo cùng loại của Thái lan hay không, hoa quả

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 85

sản xuất trong nước có thể cạnh tranh với hoa quả nhập từ các nước ASEAN

vào hay không...

Khi CEPT/AFTA được đưa vào thực hiện, Chính phủ sẽ không thể can

thiệp để bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp như chế hạn định

lượng hay tăng thuế suất nhập khẩu hoặc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi

thuế quan khác được nữa. Điều này có nghĩa là những ngành sản xuất nông

nghiệp mà không có lợi thế so sánh, không cạnh tranh được ngay cả trên thị

trường trong nước thì hầu như không còn cơ hội để giữ vững và mở rộng thị

phần. Cách tồn tại và phát triển tốt nhất, cách phân bổ và sử dụng nguồn lực có

hiệu quả nhất là phát triển những ngành có lợi thế so sánh ngay từ bây giờ, còn

các ngành có sức cạnh tranh trung bình cũng như sức cạnh tranh yếu cũng cần

tranh thủ thời gian tìm cách xác định vị thế của mình trên thị trường để tồn tại

và phát triển. Các ngành, các địa phương, trong công tác quy hoạch của mình

cần phải xem xét cẩn trọng những lợi thế so sánh của địa phương mình đồng

thời phải tính đến các cam kết quốc tế của Việt Nam để tránh đầu tư vào những

ngành, những lĩnh vực không đem lại hy vọng về nâng cao khả năng cạnh

tranh.

Rà soát lại quy mô, lộ trình phát triển của từng ngành hàng đặt trong bối

cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trước hết tập trung phát triển các

ngành sản xuất chính như: lúa gạo, cà phê, chè, điều, hồ tiêu, cây ăn quả nhiệt

đới, lợn, trâu bò, gia cầm, muối... Dựa trên tín hiệu thị trường để xác định khối

lượng mỗi loại sản phẩm cần sản xuất trong mỗi thời kỳ, để bố trí sản xuất ở

những địa bàn thuận lợi nhất trong 7 vùng tự nhiên của cả nước, để áp dụng

những tiến bộ khoa học tiên tiến, xếp theo thứ tự ưu tiên ở mỗi vùng.

5. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất gắn liền với tổ chức thị trường và tổ chức

lại sản xuất

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 86

- Khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, khuyến khích

nông dân nhận đất, nhận rừng phát triển kinh tế hàng hoá; phát triển kinh tế

trang trại, khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt các doanh nghiệp vừa

và nhỏ tham gia dịch vụ chế biến phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Xây

dựng củng cố các tập đoàn mạnh (Tổng công ty lương thực, Tổng công ty Cà

phê, Tổng công ty chè) đủ sức vươn lên chiếm lĩnh thị trường thế giới, trở

thành chỗ dựa cho nông dân sản xuất hàng hoá.

- Mở rộng liên kết doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân với

nông dân để sản xuất ra hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, tạo lập mối liên

kết hộ nông dân – doanh nghiệp – thị trường, coi đây là biện pháp quan trọng

nhất để tạo ra sự ổn định về thị trường cho nông dân, hạn chế yếu tố tự phát

trong sản xuất nông nghiệp.

- Khuyến khích hình thành mối liên doanh liên kết da dạng giữa người

sản xuất nguyên liệu với các cơ sở chế biến nông sản thông qua mối liên hệ về

lợi ích kinh tế. Thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến nông sản của

Nhà nước để người nông dân có thể tham gia mua cổ phần, qua đó gắn được

quyền lợi và trách nhiệm của cơ sở chế biến với người sản xuất nguyên liệu.

- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào tiêu thụ hàng nông

sản kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Hình thành các chợ đấu giá hàng nông sản, các trung tâm thương mại

để giới thiệu sản phẩm ở các vùng, khu kinh tế cửa khẩu giúp đẩy mạnh giao

lưu buôn bán hàng hoá nông phẩm dưới nhiều hình thức đa dạng.

- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nói chung và thương mại hàng

nông sản nói riêng. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu hàng nông sản tham gia hội chợ trong nước và quốc tế để tìm kiếm

cơ hội và bạn hàng. Nhà nước cũng cần tăng cường thực hiện hợp tác cấp

Chính phủ về trao đổi và xuất nhập khẩu hàng hoá nông sản bằng cách ký kết

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 87

các hợp đồng cấp Chính phủ về xuất khẩu các mặt hàng nông sản, ví dụ: ký kết

các hợp đồng cấp Chính phủ về xuất khẩu các mặt hàng gạo, chè, rau quả...

- Tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo thị trường, cung cấp và xử

lý thông tin thị trường một cách chính xác, cập nhật để người sản xuất quyết

định đầu tư mở rộng hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh đúng đắn, kịp thời.

6. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản

Hiện nay hàng năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 3 tỷ USD hàng

nông sản sơ chế nhưng đồng thời cũng nhập khẩu về khoảng trên 1 tỷ USD

hàng nông sản chế biến. Trong khi đó, nếu phát triển công nghiệp chế biến

chúng ta sẽ vừa tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn, tạo nhiều việc làm hơn, vừa

tạo nên đầu ra ổn định cho ngành trồng trọt và chăn nuôi. Qua chế biến, hàng

nông sản Việt Nam có thể thâm nhập sâu hơn, trên phạm vi rộng hơn vào thị

trường quốc tế và nhất là ít chịu ảnh hưởng của sự biến động trong giá xuất

khẩu như đối với hàng nông sản thô xuất khẩu. Khi phát triển mạnh công

nghiệp chế biến nông sản gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu, nhà sản

xuất sẽ yên tâm hơn về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất do có thể lựa chọn

nguyên liệu trong nước với giá thấp, chất lượng cao. Như vậy một mặt chúng ta

vừa khai thác được lợi thế so sánh trong sản xuất hàng nông sản thô/sơ chế, mặt

khác lại vừa khuyến khích người nông dân trong nước phát triển sản xuất hàng

hoá, hạ giá thành sản phẩm. Chính vì những lợi ích đó mà việc phát triển mạnh

công nghiệp chế biến nông sản ở một nước sản xuất nông nghiệp như Việt Nam

cần phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải chú ý một

số vấn đề sau:

- Tiếp cận ngay với công nghệ chế biến tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm

nông nghiệp đạt tiêu chuẩn yêu cầu về vệ sinh và an toàn thực phẩm có sức

cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại từ các nước khác trong khu vực;

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 88

- Ưu tiên cho việc áp dụng các công nghệ sử dụng nhiều lao động trong

công nghiệp chế biến nông sản để giảm sức ép về vấn đề lao động và việc làm

đang còn rất lớn nhất là ở khu vực nông thôn;

- Thiết lập cơ chế liên kết về lợi ích giữa nhà máy chế biến với người

nông dân sản xuất nguyên liệu nông sản.

- Đối với các cơ sở chế biến và xuất nhập khẩu hàng nông sản, bên cạnh

việc đổi mới công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá

chủng loại và mẫu mã sản phẩm theo nhu cầu thị trường, cần có biện pháp kiên

quyết tiết kiệm chi tiêu để hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.

7. Xây dựng mối liên kết “4 nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh

nghiệp và Nhà nước) trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp

Nhằm thúc đẩy sự phát của nền nông nghiệp hàng hóa hiện tại, tạo điều

kiện cho người sản xuất yên tâm đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây

trồng vật nuôi, tăng chất lượng và năng suất sản phẩm, hạ giá thành hàng hóa,

nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường trong quá

trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm

2002 về chính sách “khuyến khích tiêu thụ hàng nông sản thông qua hợp

đồng”. Tiếp sau đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam và Bộ thủy sản đã ban hành các Thông tư hướng dẫn quy định

việc thực hiện Quyết định này. Thực hiện chính sách này, nhiều doanh nghiệp

đã thành công trong việc ký kết hợp đồng sản xuất nông lâm thủy sản với nông

dân, mang lại hiệu quả đáng ghi nhận. Tuy vậy ở nhiều nơi, nông nghiệp vẫn

chưa thực hiện được chính sách trên, vẫn chưa chuyển mạnh sang sản xuất

hàng hóa, chưa thực sự lấy thị trường làm điểm xuất phát của quy hoạch và kế

hoạch sản xuất. Bên cạnh đó, một số nơi tuy đã chuyển sang sản xuất hàng hóa

nhưng vẫn tiếp tục gặp phải khó khăn trong chế biến, bao tiêu và tiêu thụ sản

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 89

phẩm, thiếu vốn đầu tư để chuyển đổi cơ cấu sản xuất của mình theo hướng đáp

ứng nhu cầu của thị trường, trong khi việc áp dụng phương thức hợp đồng giữa

các doanh nghiệp và người sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Hiện

tượng phá vỡ hay lạm dụng hợp đồng vẫn xảy ra. Các bên tham gia hợp đồng

thiếu sự hỗ trợ của các nghành liên quan như: viện nghiên cứu, trung tâm

khuyến nông ngân hàng, các ngành Tài chính, Hải quan, Thương mại… Do vậy

hiệu quả của hình thức hợp đồng này còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, muốn

điều chỉnh cơ cấu sản xuất để nông nghiệp Việt Nam thực sự trở thành nền

nông nghiệp hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đáp ứng tốt

nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế đòi hỏi phải có mối liên kết chặt

chẽ và có hiệu quả của các bên: Nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp,

Nhà nước và ngân hàng trong các hoạt động chuyển đổi cơ cấu sản xuất và

trong chế biến và tiêu thụ nông phẩm. Những liên kết nay thể hiện như sau:

 Nhà khoa học bao gồm các cán bộ nghiên cứu của các viện

trường, các cán bộ khuyến nông của hệ thống khuyến nông Nhà nước và

khuyến nông tự nguyện. Liên kết nhà khoa học với nhà nhà nông được

thể hiện ở sự hợp tác trong việc xác định các ưu tiên nghiên cứu, chuyển

giao có hiệu quả và chịu trách nhiệm về các kỹ thuật tiến bộ được áp

dụng vào sản xuất, giúp nhà nông nâng cao năng suất, chất lượng sản

phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản. Mặt khác,

các nhà khoa học có thị trường để bán các sản phẩm khoa học – công

nghệ và có “đất” để áp dụng các kết quả nghiên cứu của họ.

 Nhà doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp chế biến, bao tiêu

nông sản phẩm. Liên kết giữa nhà doanh nghiệp với nhà nông thể hiện ở

việc hướng dẫn giúp đỡ nhà nông trong việc áp dụng kỹ thuật khoa học

tiến bộ vào sản xuất, thực hiện bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận,

đảm bảo lợi ích của cả hai bên, giúp cho người nông dân yên tâm sản

xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng đáp ứng tốt nhất

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 90

nhu cầu của thị trường, nâng cao năng suất thu nhập cho người sản xuất

và người cung tiêu nông phẩm.

Ngân hàng bao gồm các Ngân hàng thương mại và các tổ chức Tín

dụng, thuộc sự quản lý của Nhà nước. Liên kết giữa ngân hàng và nhà

nông thể hiện ở việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của nhà nông về huy

động vốn và cho vay tín dụng để đảm bảo cho nhà nông có đủ vốn để

đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thâm canh, tăng năng suất

và chất lượng sản phẩm, hạn chế rủi ro và thất thoát vốn.

 Nhà nông là những người trực tiếp làm ra sản phẩm nông

nghiệp, bao gồm các hộ nông dân, các trang trại, các doanh nghiệp sản

xuất nông nghiệp và HTX. Liên kết nhà nông với nhà khoa học, nhà

doanh nghiệp, ngân hàng và Nhà nước thể hiện ở 4 mặt sau:

- Cùng với nhà khoa học, xác định các ưu tiên nghiên cứu,

thẩm định các kết quả, tiếp nhận và chuyển giao các kỹ thuật tiến bộ đã

được khẳng định đồng thời thực hiện việc chi trả chi phí cho các sản

phẩm khoa học đã được ứng dụng.

Thực hiện các cam kết trong hợp đồng đã ký với nhà doanh -

nghiệp về bao tiêu, chế biến nông sản phẩm.

Thực hiện các cam kết với ngân hàng trong thanh toán tiền -

vay và tiền lãi đúng kỳ hạn.

Thực hiện tốt các quy định pháp lý về sản xuất chế biến và -

tiêu thụ sản phẩm do Nhà nước quy định.

Tất cả các việc làm trên sẽ góp phần vào việc thúc đẩy sự phát

triển của các ngành khoa học , kinh doanh từ đó giúp chúng tiếp tục tạo

ra các điều kiện thuận lợi hơn về khoa học công nghệ, vốn đầu tư cho

quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất tiếp theo trong nghành nông

nghiệp.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 91

 Nhà nước bao gồm các Bộ, ngành mà trọng tâm là Bộ Nông

nghịêp và Phát triển nông thôn, Bộ thủy sản, Bộ Thương mại, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng

cục Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp… Mối liên hệ giữa Nhà nước với

nhà nông, giữa Nhà nước với các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, ngân

hàng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp thể hiện

chủ yếu ở 3 mặt sau:

- Xây dựng hành lang pháp lý cho các bên nói trên để thực hiện liên

kết có hiệu quả trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đổi

mới giống cây trồng, vật nuôi, thâm canh, tăng năng suất, trong chế biến

và tiêu thụ sản phẩm.

- Hướng dẫn và giám sát các bên tham gia thực hiện có hiệu quả

quá trình liên kết.

- Cung cấp kịp thời các thông tin về cung cầu, giá cả sản phẩm giúp

cho nhà nông, nhà doanh nghiệp và các bên liên quan có những quyết

định điêù chỉnh cơ cấu sản xuất – kinh doanh kịp thời và phù hợp với nhu

cầu, thị hiếu của thị trường.

Các mối liên kết trên (được thể hiện ở Phụ lục 6) nếu được thực hiện tốt

sẽ là điều điều kiện đảm bảo cho khoa học thực sự trở thành lực lượng sản xuất

chủ yếu, gắn với thực tiễn sản xuất, công tác chuyển giao kỹ thuật tiến bộ sẽ có

hiệu quả, doanh nghiệp sẽ có nguồn cung cấp nông sản nông sản ổn định cho

chế biến xuất khẩu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, người nông dân yên

tâm đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất vì được tiếp cận đến khoa học, công

nghệ tiên tiến và vốn, còn ngân hàng sẽ thực hiện tốt hơn chức năng kinh doanh

tiền tệ. Tất cả các điều trên đảm bảo cho nền nông nghiệp nước nhà phát triển

theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.

Với những ưu điểm đã phân tích, nếu các mối liên kết giữa nhà nông với

nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, ngân hàng và Nhà nước được tăng cường,

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 92

phát triển đúng hướng và hiệu quả, chắc chắn sẽ tạo đà cho nông nghiệp nước

ta phát triển ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa dựa trên nhu cầu của thị

trường để vững vàng hội nhập vào nền nông nghiệp ASEAN và quốc tế trong

thời gian tới.

8. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thụât vào quá trình chuyển

đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp

Khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng, được coi là khâu đột phá

quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hoá, vì vậy Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến vấn

đề này, cụ thể:

- Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng và triển khai, đổi mới cơ chế quản lý

khoa học nhất là cơ chế quản lý về tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu quả

của nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tới người nông dân. Nhà nước nên

dành kinh phí thoả đáng để nhập những công nghệ tiên tiến của nước ngoài

nhất là về giống và máy móc thiết bị, không vì rẻ mà nhập khẩu công nghệ lạc

hậu.

- Hỗ trợ thoả đáng cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp để đáp ứng tốt

hơn yêu cầu của sản xuất hàng hoá, đầu tư đồng bộ cho các cơ sở nghiên cứu,

tuyển chọn và lai tạo giống cây trồng, con nuôi cho phù hợp với từng vùng sinh

thái nhằm cung cấp cho nông dân giống cây, con có chất lượng để sản xuất ra

sản phẩm có độ đồng đều cao thuận lợi cho công nghiệp chế biến và nâng cao

giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của thị trường.

- Tập trung phát triển công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sau

thu hoạch với quy mô vừa và nhỏ cho nông dân trong các vùng sản xuất hàng

hoá tập trung theo quy hoạch để nông dân tiến hành sơ chế ngay sau khi thu

hoạch, giảm thiểu tỷ lệ sản phẩm nông sản hư hỏng, nâng cao chất lượng hàng

nông sản chế biến.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 93

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư

để đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất, đồng thời gắn

trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với

sản xuất của nông dân thông qua cơ chế thưởng và phạt thích hợp. Khuyến

khích cán bộ khuyến nông lâm ngư đến với nông dân kể cả tại các vùng sâu,

vùng xa. Mở rộng các hình thức đào tạo, tập huấn kỹ thuât, xây dựng mô hình

trình diễn khuyến nông, lâm, ngư tại các vùng để nông dân nhanh chóng tiếp

cận và hưởng lợi từ các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, tập huấn cho người

nông dân phương thức canh tác theo đúng quy trình.

- Tập huấn cho nông dân về các phương thức quản lý dịch hại tổng hợp

IPM và quản lý cây trồng tổng hợp ICM.

- Chú trọng đến công tác nghiên cứu và ứng dụng giống mới vào quá

trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp bằng các biện pháp:

+ Hoàn chỉnh các văn bản pháp quy, các cơ chế chính sách để khuyến

khích các thành phần phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển giống, từng bước

tiến tới xã hội hoá về công tác giống, tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà

nước về giống nông lâm ngư nghiệp.

+ Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương, cùng

các chương trình hợp tác quốc tế để tăng các nguồn vốn và phát huy hiệu quả

của quá trình đầu tư cho chương trình giống.

+ Với các dự án giống thuộc Bộ quản lý: tiếp tục chọn đào tạo và bổ

sung thêm cho tập đoàn giống gốc hiện có, đẩy mạnh sản xuất giống gốc, xây

dựng mạng lưới nhân giống và chuyển giao công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ

thuật tiên tiến về sản xuất chế biến giống xuống các địa phương, các vùng sản

xuất nông nghiệp trọng điểm.

Gắn các nội dung của chương trình giống với chương trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, Chương trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 94

hoá nông nghiệp… để hình thành các trung tâm sản xuất giống công nghệ cao

theo vùng sinh thái và vùng kinh tế.

+ Ở các địa phương: tiếp tục đầu tư nâng cấp các nhà lưới, vườn ươm,

nuôi cấy mô, giâm hom…, củng cố hệ thống nhân giống và cung ứng giống

theo hướng xã hội hoá để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát huy thế

mạnh các cây, con, có lợi thế so sánh phục vụ chương trình chuyển đổi cơ cấu

sản xuất và cơ cấu sản phẩm địa phương.

Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, trên cơ sở các doanh nghiệp, các

hợp tác xã, các tổ đội, các hộ trang trại chuyên sản xuất và cung ứng giống để

đảm bảo mục tiêu 80% diện tích cây trồng và đàn gia súc được thay thế bằng

các giống mới, tiên tiến, năng suất, chất lượng cao, giá thành hợp lý.

Quảng bá chủ trương, chính sách định hướng về quy hoạch, kế hoạch và

dự báo nhu cầu giống trong sản xuất của địa phương, giúp các cơ sở làm giống

chủ động được kế hoạch và quy mô đàu tư.

Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giống trên từng địa bàn, các

cơ quan quản lý cần quan tâm hơn đến việc kiẻm tra, đánh giá, tổng kết, kịp

thời biểu dương các tổ chức, cá nhân có thành tích tốt trong thực hiện chương

trình giống.

- Xây dựng trung tâm khoa học công nghệ cao phục vụ quá trình chuyển

đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp:

Do ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, mà điển

hình là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin, cùng với toàn cầu hoá kinh

tế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Mục

tiêu hiện đại hoá nông nghiệp là chuyển nền nông nghiệp truyền thống thành

nông nghiệp hiện đại về thực chất là hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông

nghiệp, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh

doanh và trí thức hoá nông thôn. Để thực hiện mục tiêu này, con đường tất yếu

và duy nhất là phải dựa vào sức mạnh của đòn bẩy khoa học công nghệ. Trung

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 95

tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao ra đời đã tạo môi trường thuận lợi

cho việc sáng tạo khoa học công nghệ và chuyển giao nhanh thành quả của

nghiên cứu khoa học công nghệ vào sản xuất mang lại hiệu quả cao.

Trung tâm khoa học công nghệ cao là cầu nối quan trọng giữa công tác

nghiên cứu với việc mở rộng sản xuất, giữa việc trình diễn và nhân ra diện

rộng. Trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao là con đường kết hợp

chặt chẽ giữa áp dụng nhanh chóng các thành quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật

nông nghiệp, làm cho kinh tế nông thôn gắn kết với khoa học kỹ thuật nông

nghiệp, thông qua việc xây dựng khu nông nghiệp khoa học công nghệ để trình

diễn các kỹ thuật nông nghiệp mới thích hợp với địa phương, để nông dân tận

mắt có thể nhìn thấy kết quả và khả năng áp dụng các công nghệ cao, mới, từ

đó họ sẽ làm theo. Đó là phương pháp nhanh nhất để đưa tiến bộ khoa học kỹ

thuật vào áp dụng trong chuyển đổi sản xuất nông nghiệp.

Trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao là cơ sở để kết hợp chặt

chẽ, có hiệu quả giữa nền nông nghiệp sử dụng thiết bị công nghệ cao tiên tiến

của thế giới với những kinh nghiệm sản xuất của nền nông nghiệp truyền

thống.

Sự phát triển của trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao là sự

lựa chọn hiện thực nhất để đưa sản phẩm nông nghiệp vào thị trường nông sản

của thế giới có hiệu quả do tiêu chuẩn, phẩm chất sản phẩm nông nghiệp của

các nước chậm phát triển như Việt Nam còn có khoảng cách xa so với tiêu

chuẩn, phẩm chất của thị trường nông sản thế giới.

Để hình thành khu khoa học công nghệ nông nghiệp cao, các biện pháp

phải thực hiện là:

- Coi khoa học công nghệ là đòn bẩy, lấy đội ngũ cán bộ khoa học kỹ

thuật làm gốc.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng của trung tâm hiện đại, thuận tiện, đồng bộ: Hệ

thống thuỷ lợi, giao thông, điện, thông tin phải được xây dựng theo tiêu chuẩn

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 96

hiện đại, phù hợp với chức năng của trung tâm (kinh nghiệm của Trung Quốc là

4 thông 1 bằng: Giao thông tốt, Thông cấp thoát nước, thông điện, thông tin và

mặt bằng khu thuận lợi).

- Có chính sách ưu đãi, thông thoáng, mở rộng để thu hút nhân tài, thu

hút phát minh, sáng chế mới, công nghệ tiên tiến, phương tiện hiện đại đầu tư

vào trung tâm khoa học nông nghiệp cao. Chính phủ phải đầu tư vốn và áp

dụng các chính sách liên quan khác, khuyến khích nghiên cứu khoa học, tạo

điều kiện thuận lợi cho sáng tạo.

- Khuyến khích và ưu đãi các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham

gia đầu tư vào trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao.

- Mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu thành

quả nghiên cứu khoa học công nghệ, sản phẩm của trung tâm với các cơ sở,

trung tâm khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới.

9. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản

xuất nông nghiệp đất nước

Chúng ta cần thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách khuyến khích

mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh, kể cả quốc doanh

công nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp cùng với kinh tế hợp tác vươn lên

giữ vai trò nòng cốt, bằng các biện pháp:

 Phát triển thành phần kinh tế hộ gia đình

- Hướng dẫn các hộ nông dân, khuyến khích tâm canh, xây dựng phong

trào nông dân sản xuất giỏi thúc đẩy sản xuất hàng hoá, từng bước phát triển

sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại gia đình.

- Khuyến khích những hộ có kinh nghiệm, có năng lực kinh doanh giỏi,

có vốn, có lao động, kể cả lao động thuê mướn phát triển sản xuất kinh doanh

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 97

làm giàu, trở thành những hộ sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại, tạo

điều kiện cho hộ nông dân tăng quy mô trang trại, mở rộng các hoạt động phi

nông nghiệp để tăng thu nhập.

- Nhà nước có chính sách giao đất, cho vay vốn, chuyển giao kỹ thuật, tổ

chức thị trường, khuyến khích đại bộ phận hộ nông dân chuyển sang sản xuất

hàng hoá, để có nền nông nghiệp với tỷ suất hàng hoá cao, tạo thành đòn bẩy

cho tăng trưởng kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới. Phát triển kinh tế hộ

sản xuất hàng hoá còn là cơ sở để phát triển kinh tế hợp tác, hợp quy luật, hợp

lòng dân và chắc chắn sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho người nông dân và xã

hội.

- Đồng thời, Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để những hộ nông dân

nghèo, thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức dạy

nghề... để những hộ này có điều kiện hoạt động được trong nền kinh tế thị

trường, vươn lên sản xuất đủ tiêu dùng và từng bước làm giàu.

Với những hộ quá nghèo đói, Nhà nước mở rộng chương trình xoá đói

giảm nghèo, thông qua việc trợ giúp vật tư sản xuất (giống, phân bón) và

hướng dẫn quy trình sản xuất, để họ tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Với

những hộ nông dân nghèo túng ở các vùng núi và vùng thường xuyên bị thiên

tai, Nhà nước giúp đỡ xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, thông qua

các mô hình trình diễn để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tăng thêm

nguồn vốn vay ưu đãi và các nguồn tài trợ khác để ổn định và phát triển sản

xuất.

 Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã

Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, hợp

tác xã (HTX) có vai trò quan trọng, vừa có tác dụng hỗ trợ để kinh tế hộ phát

triển, vừa góp phần phát huy hiệu quả đầu tư của Nhà nước trên từng địa bàn

(nhất là về thuỷ lợi, khoa học kỹ thuật...), đồng thời bảo vệ lợi ích kinh tế hộ

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 98

nhằm khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường. Do đó, trong những năm tới cần

tập trung thực hiện các nội dung sau:

- Đẩy mạnh thực hiện Luật Hợp tác xã, thúc đẩy kinh tế tập thể phát

triển theo hướng đa dạng, trên cơ sở tự nguyện của hộ nông dân và sự hỗ trợ

của Nhà nước. Hướng HTX vào phát triển dịch vụ cung ứng các yếu tố đầu vào

cho sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá; từng bước phát triển công nghiệp ,

đặc biệt là phát triển công nghiệp ché biến nông sản. Tăng cường công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ cho kinh tế hợp tác và hợp tác xã.

- Tiến hành phân loại những HTX đã có nhưng chưa chuyển đổi phương

thức hoạt động theo Luật HTX, để xử lý: đối với những HTX yếu kém, tuy đã

thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nhưng vẫn không khắc phục được, thì giải

thể, hướng dẫn và giúp đỡ nông dân hình thành tổ chức kinh tế hợp tác phù

hợp. Số HTX cũ còn lại, hướng dẫn thực hiện các chính sách hỗ trợ của Chính

phủ, tuyên truyền để chuyển đổi theo Luật HTX, tạo điều kiện thuận lợi về thủ

tục đăng ký kinh doanh.

- Thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động thành lập các HTX mới.

Khuyến khích phát triển các loại hình HTX đa dạng hướng vào dịch vụ sản

xuất và đời sống, kể cả dịch vụ tín dụng nội bộ HTX.

- Tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp phát triển, Nhà

nước cần có chính sách xoá nợ đối với những khoản vay trước đây của các

HTX không có khả năng trả nợ. Cho các HTX thuê đất với giá ưu đãi để làm

trụ sở, xây dựng kho tàng, nhà xưởng chế biến nông - lâm - thuỷ sản... Chính

sách miễn các khoản thuế thu nhập sau 5 năm đầu đối với những tổ hợp tác và

HTX mới thành lập, có chính sách cho vay vốn với số lượng phù hợp với quy

mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thời gian trung hạn, dài hạn. Nhà nước xây

dựng kế hoạch và hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ HTX.

 Củng cố thành phần kinh tế Nhà nước

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 99

- Trước mắt cũng như lâu dài, cần tập trung xây dựng kinh tế Nhà nước

trong nông nghiệp (bao gồm: các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông lâm

ngư nghiệp, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến và dịch vụ, lưu thông) đủ

mạnh để nắm vai trò chủ đạo, đảm bảo cho nông nghiệp nước ta đi vào sản xuất

sản xuất quy mô lớn, tạo điều kiện giúp nông dân thoát khỏi đói nghèo, đưa

nông nghiệp nước ta phát triển theo định hướng XHCN.

- Kinh tế Nhà nước tập trung chủ yếu vào các khâu: quy hoạch sản xuất -

đô thị hoá nông thôn, phát triển thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng; phát triển khoa học

công nghệ; kinh doanh xuất nhập nhập khẩu những mặt hàng chiến lược có ý

nghĩa lớn về kinh tế - xã hội; liên kết các thành phần kinh tế, thúc đẩy nông

nghiệp, nông thôn phát triển toàn diện.

- Đối với nông, lâm trường:

+ Nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiền vốn và

sức lao động hiện có của nông, lâm trường, tạo việc làm và tăng thu nhập cho

hộ gia đình công nhân viên. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý đất đai và lao

động của các nông, lâm trường theo hướng: thực hiện rộng rãi cơ chế khoán đất

đai, vườn cây, gia súc theo Nghị định 01/CP của Chính phủ; giao và khoán

rừng, chuyển mạnh sang làm dịch vụ. Giao đất cho các hộ gia đình, cán bộ

công nhân viên để phát triển kinh tế.

+ Tổ chức lại ban quản lý nông, lâm trường để làm tốt chức năng, nhiệm

vụ dịch vụ và công nghiệp chế biến phát triển thị trường, hướng dẫn và hỗ trợ

các gia đình nhận khoán và phát triển sản xuất kinh doanh đa dạng. Tổng kết,

đưa ra bài học kinh nghiệm mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh của Công ty

mía đường Lam Sơn, Nông trường Sông Hậu, để phổ biến và nhân ra diện

rộng, biến các nông trường trở thành Trung tâm công nghiệp , dịch vụ và

chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá trong vùng, nhất là vùng sâu, vùng

xa, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 100

 Khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân tham gia chuyển đổi cơ

cấu sản xuất nông nghiệp

- Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiệncho tư nhân đầu tư vào các địa

bàn trung du, miền núi, ven biển đẻ khai thác, sử dụng có hiệu quả các loại đất

trồng, đồi núi trọc, đất hoang hoá và làm công nghiệp chế biến, các ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp..., nhưng phải theo từng dự án.

Riêng với vùng đồng bằng, hướng tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất

kinh doanh công nghiệp chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng, chăn nuôi quy mô

lớn và công nghiệp khác ít sử dụng đất canh tác.

Tóm lại, để chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phát triển một nền nông

nghiệp bền vững, mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế cần được huy

động và phát huy một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất.

10. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y,

bảo vệ thực vật ngang với trình độ trong khu vực, tạo điều kiện để

thực hiện việc điều chỉnh và hội nhập của nông nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và nền kinh tế tri

thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế

và phương thức sản xuất kinh doanh .v.v. thì vấn đề đào tạo và phát triển nguồn

nhân lực ngày càng trở nên quan trọng. Kinh nghiệm nhiều nước ASEAN cho

thấy công tác đào tạo có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung

và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Chính sách đào tạo nguồn

nhân lực cho CNH - HĐH nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ

cấu kinh tế nông nghiệp cần chú ý vào cả hai đối tượng là:

- Tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất

là cán bộ nghiên cứu triển khai để nhanh chóng chuyển giao và áp dụng những

tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 101

- Tăng cường trang bị kiến thức cho người nông dân: do bà con nông

dân là người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá nông sản, trực tiếp ứng dụng những

kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trực tiếp chịu hậu quả của

những biến động thị trường hàng nông sản trong và ngoài nước với sản phẩm

của mình (gạo, cà phê .v.v. ) bằng các biện pháp cụ thể như:

+ Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y,

bảo vệ thực vật cơ sở ngang với trình độ trong khu vực để tạo điều kiện thực

hịên việc điều chỉnh và hội nhập của ngành nông nghiệp.

+ Cần thực hiện cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm để tăng cường

đầu tư cho giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá cho bà con nông dân ở các vùng

nông thôn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long.

+ Điều chỉnh mạng lưới cơ sở đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy

hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng vùng sản xuất nông nghiệp. Xây dựng

các trạm, trại hoặc cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trong các vùng

nông nghiệp trọng điểm nhằm kết hợp khuyến nông với đẩy mạnh hoạt động

phổ biến chuyển giao công nghệ tiên tiến về kỹ thuật cho người nông dân.

+ Nghiên cứu thêm về cơ cấu trình độ lao động nông nghiệp, phát triển

hệ cao đẳng và trung học chuyên nghiệp về nông nghiệp cho người nông dân.

+ Miễn, giảm học phí cho con em nông dân vào học trong các trường đào

tạo nông nghiệp; thực hiện chế độ nghĩa vụ công tác có thời hạn tại các vùng

nông thôn, vùng sâu, vùng xa đối với các cán bộ, sinh viên ngành nông nghiệp

và khoa học nông nghịêp. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng cho khoa học

nông nghiệp, phát triển các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.

Thực tế sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua đã cho thấy: người

sản xuất nông nghiệp trong cơ chế thị trường cũng cần phải được trang bị kiến

thức khoa học kỹ thuật tiến bộ chứ không chỉ làm theo kinh nghiệm như trước

kia. Người nông dân được đào tạo sẽ biết cách nắm bắt, xử lý thông tin thị

trường trước khi đưa ra quyết định đầu tư sản xuất; chọn giống cây trồng, vật

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 102

nuôi thích hợp; biết cách phòng trừ dịch hại; biết cách áp dụng tiến bộ kỹ thuật

canh tác mới vào sản xuất, tác động đúng lúc, đúng liều lượng để sản phẩm làm

ra đạt chất lượng cao nhất; đồng thời biết cách bảo quản, sơ chế sau thu hoạch

để vẫn giữ được chất lượng hàng hoá của mình khi đưa ra thị trường; biết cách

không lạm dụng hoá chất nông dược vì sẽ ảnh hưởng đến môi trường và sản

phẩm khó hoặc không tiêu thụ được. Người nông dân cũng cần thấm nhuần và

tuân thủ chặt chẽ các quy định về tiêu chuẩn chất lượng vì nếu không sản phẩm

làm ra sẽ không bán được sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của bản thân và

gia đình họ./.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN: Association of South East Asian nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AFTA: Asean free trade area

Khu vực thương mại tự do ASEAN

FAO: Food agriculture organization

Tổ chức nông lương thế giới

ODA: Official development assistance

Viện trợ phát triển chính thức

WTO: World trade organization

Tổ chức thương mại thế giới

FDI: Foreign direct investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

ICO: International coffee organization

Tổ chức cà phê thế giới

BCT: Bộ Chính trị

HTX: Hợp tác xã

NSNN: Ngân sách Nhà nước

DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

KNXK: Kim ngạch xuất khẩu

CNH - HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Khãa luËn tèt nghiÖp

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phân tích sơ bộ Khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối

cảnh ASEAN và AFTA, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 10/2000.

2. Hội nhập với AFTA: Cơ hội và thách thức, Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế-

Trường Đại học KTQD, NXB Thống kê, HN 1997.

3. Báo cáo khoa học đề tài Nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy lợi

thế, nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản

trong thời gian tới, Viện kinh tế nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, 2/2001.

4. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế

giới, Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, HN 1999.

5. Số liệu thống kê nông – lâm nghiệp – thủy sản Việt Nam 1975-2000, Vụ nông –

lâm nghiệp – Thủy sản, Tổng cục thống kê, NXB Thống kê, HN 2001.

6. Thông tin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng thời kỳ 1990 – 2000, Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ, tháng 4/2000.

7. Niên giám thống kê các năm 1990 – 2002.

8. Kinh tế xã hội Việt Nam 2002, kế hoạch 2003 tăng trưởng và hội nhập, NXB

Thống kê, HN 2003.

9. Kinh tế Việt Nam 2002, Viện nghiên cứu QLKTTƯ, NXB CTQG, HN 2003.

10. Đông Nam Á chặng đường dài phía trước, Lim Chong Yah- GS KT Đại học

công nghệ Nanyang, Xingapo, NXB Thế giới, HN 2003.

11. Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS.TS. Nguyễn

Sinh Cúc, NXB Thống kê, HN 2003.

12. Kinh tế thế giới 2002-2003 Đặc điểm và triển vọng, PGS.TS. Kim Ngọc, Viện

kinh tế thế giới, NXB Chính trị quốc gia, HN 2003.

13. Số liệu thống kê dân số và KT- XH Việt Nam 1975-2002, NXB TK, HN 2003.

Cao Nam H¶i – Líp Nga K38

Khãa luËn tèt nghiÖp

14. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, HN 2003.

15. CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam và Chương trình đẩy mạnh xuất

khẩu nông sản, TS. Nguyễn Hữu Khải, NXB Thống kê, HN 2003.

16. Chính sách cơ cấu vùng, Viện QLKTTƯ, NXB Chính trị quốc gia, HN 2003.

17. Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban CHTƯ Khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, 2002.

18. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, 2001.

19. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Số 1/2002; Số 1- 7/2003.

20. Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 1, 2, 3, 4, 7, 8, 9, 10/2003.

21. Tạp chí Thông tin kinh tế- xã hội, Số 3, 9, 10, 11,13, 15/2003.

22. Thông tin phục vụ lãnh đạo, Bộ Tài chính, Học viện Tài chính - Viện kế hoạch tài

chính, Số 12, 14, 17, 18/2003.

23. Điểm tin kinh tế (Thông tin phục vụ lãnh đạo), Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất

lượng, Số 440-520/2003.

24. Tạp chí Thương mại, Bộ Thương mại, Số 1- 41/2003.

25. Tạp chí Ngoại thương, Bộ Thương mại, Số 1- 33/2003.

26. Thời báo kinh tế Việt Nam, Các số năm 2003.

27. Công báo, Các số năm 2003.

28. Tạp chí doanh nghiệp và thương mại, Các số năm 2003.

29. Tạp chí kinh tế Sài Gòn, Các số năm 2003.

30. Báo Đầu tư, Các số năm 2003.

31. Thông tin từ Internet:

www. mot. gov. vn (Bộ Thương mại)

www. cpv. org. vn (Đảng Cộng sản Việt Nam)

www. agroviet.gov.vn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

www. mofi.gov.vn (Bộ thủy sản)

www. mof.gov.vn (Bộ ngoại giao)

www. mof. gov.vn (Bộ Tài chính)

www. aseansec.com

Cao Nam H¶i – Líp Nga K38

Khãa luËn tèt nghiÖp

www. asean.com

Cao Nam H¶i – Líp Nga K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

KẾT LUẬN

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và điều chỉnh

cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng trong bối cảnh mở cửa và hội nhập khu vực

và quốc tế là chủ trương lớn đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ nhiều năm

nay. Vấn đề này càng trở nên bức xúc hơn khi thời hạn thực hiện các cam kết về

tự do hoá thương mại hàng nông sản theo CEPT/AFTA đang đến gần.

Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu sản xuất do cơ cấu nhu cầu quyết định,

vì vậy việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp là yêu cầu đặt ra thường xuyên

trước những biến động của thị trường hàng nông sản trong và ngoài nước. Điều

chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cần phải được tính toán dựa trên cơ sở nghiên

cứu, đánh giá và dự báo nhu cầu thị trường của từng sản phẩm trên thị trường và

dựa trên chiến lược hội nhập của từng ngành sản phẩm với những bước đi phù hợp

trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành sản phẩm đó.

Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cần phải hướng vào khai thác tối đa

các lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của từng vùng, tiểu vùng sinh thái để

tham gia có hiệu quả nhất vào phân công lao động khu vực và quốc tế. Nói cách

khác, đó là khai thác và phát huy được khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên

thị trường. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong từng giai đoạn

nhất định là góp phần vào thực hiện phân bổ và sử dụng một cách có hiệu quả các

nguồn lực sản xuất. Trên thực tế, lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của từng

mặt hàng nông sản nhất định lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách

quan, nên việc xem xét lợi thế so sánh của từng sản phẩm cụ thể không phải là bất

biến mà cần phải được xem xét ở trạng thái động để có thể theo dõi và có các giải

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất kịp thời khi lợi thế so sánh cũ mất đi, lợi thế so

sánh mới xuất hiện.

Để có thể đánh giá đúng khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm cũng như

dự báo sát như cầu thị trường đối với mặt hàng nông sản đó, đòi hỏi phải tính toán

nhiều chỉ tiêu định tính và định lượng dựa trên một hệ thống cơ sở dữ liệu được

cập nhật thường xuyên. Đây là việc làm đòi hỏi sự tỷ mỷ, kiên trì, với khối lượng

công việc tính toán rất lớn do số lượng hàng nông sản nhiều và rất đa dạng. Do đó,

đề tài không có tham vọng đi vào nghiên cứu vấn đề điều chỉnh hướng sản xuất

toàn ngành nông nghiệp mà chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất của một

số mặt hàng xuất khẩu chính trong bối cảnh hội nhập khu vực mậu dịch tự do

ASEAN, để từ đó đưa ra các kiến nghị về định hướng và giải pháp chính sách lớn

trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất các mặt hàng trên.

Kết quả nghiên cứu của đề tài mới chỉ là bước đầu và mang tính định

hướng, tuy nhiên đề tài cũng hy vọng những phân tích kiến nghị và giải pháp đã

được trình bày trong các Chương I, II và III sẽ đóng góp được một phần nào đó

vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nói riêng và vào công cuộc công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp Việt Nam nói chung, nhằm đưa nền nông

nghiệp nước ta vững vàng hội nhập vào nền nông nghiệp khu vực ASEAN nói

riêng và nền nông nghiệp thế giới nói chung trong một tương lai không xa.

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

PHỤ LỤC 2 TỔNG HỢP NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHÍNH VÀ HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU TRONG THỜI GIAN TỚI

Biện pháp hạn chế tiêu cực Mục tiêu điều chỉnh cơ cấu

Ngành hàng chính

Khả năng cạnh tranh Cao

Chiều hướng tác động của việc thực hiện CEPT/AFTA Tích cực nhiều hơn tiêu cực

Lúa gạo

- Ổn định diện tích. - Lựa chọn giống tốt để thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đa dạng hoá. - Quy hoạch vùng nguyên liệu trên cơ sở đánh giá đúng lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu.

Cà phê

Tích cực nhiều hơn tiêu cực

- Quy hoạch vùng lúa gạo xuất khẩu. - Đổi mới giống. - Chú trọng chất lượng sau thu hoạch. - Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản. - Tăng cường liên kết giữa người trồng lúa và các tổ chức xuất khẩu. - Ổn định vùng. - Cắt giảm diện tích khôn hiệu quả. - Tăng chất lượng chế biến.

Cao

Tích cực nhiều hơn tiêu cực

Hạt điều

- Thay đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng diện tích cà phê chè. - Áp dụng các biện pháp canh tác linh hoạt để ứng phó với biến động của thị trường. - Mở rộng thêm diện tích. - Đổi mới giống. - Quy hoạch vùng nguyên liệu.

- Nâng cao chất lượng. - Phát triển công nghệ chế biến. - Hỗ trợ vốn vay dài hạn, lấy ngắn nuôi dài. - Tăng cường các biện pháp thâm canh.

Chè

Trung bình khá

Tích cực và tiêu cực ngang nhau

- Ổn định diện tích. - Trồng mới những nơi có lợi thế về tiểu khí hậu và đất đai.

Tích cực ít hơn tiêu cực

Cao su Trung bình yếu

- Giữ diện tích như quy hoạch. - Kết hợp trồng xen các cây khác để cải thiện đời sống người nông dân ở những nơi có điều kiện.

Cao

Tích cực nhiều hơn tiêu cực

Rau quả

- Đa dạng hoá chủng loại rau quả. - Quy hoạch vùng nguyên liệu. - Đẩy mạnh trồng rau vụ đông xuất khẩu ở vùng có nhiều điều kiện thuân lợi.

Yếu

Tiêu cực chính

Mía đường

- Không đẩy mạnh quảng canh, không tăng thêm diện tích. - Quy hoạch các vùng mía nguyên liệu. - Đổi mới giống mía.

- Tăng cường khâu chế biến. - Đẩy mạnh vay tín dụng để đổi mới các vườn chègià cỗi. - Tìm các bạn hàng ổn định. - Nâng cao chất lượng và chủng loại đa dạng tuỳ theo các thị trường khác nhau. - Giải quyết các ách tắc về tín dụng, thuế để người trồng cao su có điều kiện tiếp cận giống mới cho năng suất cao. - Chú trọng thay đổi cơ cấu sản phẩm chế biến phù hợp nhu cầu thị trường. - Tăng sử dụng cao su nguyên liệu trong nước. - Đẩy mạnh đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản. - Tiếp cận các thị trường mới. - Đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ trồng rau sạch. - Liên kết người trồng rau với các nhà xuất khẩu. - Cân nhắc các biện pháp bảo hộ có hiệu quả, tránh bảo hộ tràn lan. - Tìm hướng giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành. - Tìm các hình thức quản lý phù hợp đối với các công ty, cơ sở chế biến mía đường.

Cao

Tích cực nhiều hơn tiêu cực

Thuỷ sản

- Đa dạng hoá sản phẩm. - Chú trọng khâu chế biến, bảo quản, vệ sinh. - Củng cố và phát triển các thương hiệu mặt hàng thuỷ sản Việt Nam. - Tăng cường các biện pháp thâm canh đi đôi với bảo vệ môi trường.

Tích cực ít hơn tiêu cực

Lâm sản

Trung bình yếu

- Quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản. - Đổi mới cơ cấu tàu thuyền theo hướng giảm tàu thuyền nhỏ đánh bắt xa bờ. - Tăng cường các biện pháp bảo vệ nguồn cá. - Đẩy mạnh nuôi trồng để bù đắp vào sự giảm sản lượng do áp dụng các biện pháp bảo vệ nguồ lợi thuỷ hải sản. - Lấy lợi ích lâu dài là chính để phát triển rừng, tăng diện tích phủ xanh đất. - Đẩy nhanh việc giao đất, giao rừng. - Tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn.

- Chú trọng khâu chế biến, mẫu mã, chủng loại phù hợp nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. - Tập trung vào các mặt hàng cao cấp, hàm lượng khoa học công nghệ cao. - Tận dụng tối đa nguồn lợi thuỷ sản, áp dụng các công nghệ chế biến tiết kiệm gỗ.

PHỤ LỤC 1 SO SÁNH VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN CÁC NƯỚC ASEAN

Thứ hai

Thứ năm

Thứ nhất Malaysia

Myanma

Thứ ba Thái Lan

Thứ tư Inđônêxia

Philippin

Thứ sáu Việt Nam

Thái Lan

Vị trí 1.Động vật sống 2.Thịt và sản phẩm từ thịt

Việt Nam

Thái Lan

Việt Nam

Việt Nam Inđônêxia Inđônêxia Malaysia Myanma

Malaysia Myanma Philippin Philippin Myanma Thái Lan

Philippin

Inđônêxia Malaysia

Việt Nam

Malaysia

Myanma

Thái Lan Myanma Philippin

Thái Lan

ViệtNam

Inđônêxia Philippin Inđônêxia Malaysia

Philippin

Việt Nam

3.Sản phẩm sữa và trứng 4.Cá và sản phẩm từ cá 5.Ngũ cốc và sản phẩm 6.Rau quả tươi 7.Đường, mật Thái Lan

Inđônêxia Myanma Philippin

Malaysia Inđônêxia Myanma Malaysia Thái Lan Inđônêxia Malaysia

Philippin Việt Nam

8.Cà phê, chè Việt Nam Thái Lan 9.Thức ăn gia súc 10.Đồ uống

Inđônêxia Myanma

Philippin

11.Thuốc lá

Malaysia Philippin Thái Lan Việt Nam Thái Lan Inđônêxia

Việt Nam

Myanma

Philippin

Myanma

Việt Nam

Philippin

12.Da, lông thú thô 13.Hạt có dầu, lạc

Thái Lan Myanma Việt Nam

Inđônêxia Malaysia ViệtNam Malaysia Thái Lan Myanma

Philippin Việt Nam Thái Lan Philippin Inđônêxia Malaysia

Malaysia

Inđônêxia

Philippin

14.Cao su 15.Gỗ xẻ 16.Chế phẩm từ động vật 17.Dầu, mỡ động vật

Malaysia

Philippin

Inđônêxia

TháI Lan

Myanma

Malaysia Việt Nam Myanma Inđônêxia Malaysia Thái Lan Malaysia Inđônêxia Myanma Inđônêxia Myanma Philippin TháiLan Myanma Việt Nam Việt Nam

Malaysia

Philippin

Inđônêxia

Thái Lan

Inđônêxia Malaysia

Philippin

Myanma

Việt Nam Myanma

18.Dầu, mỡ thực vật 19.Dầu động vật chế biến 20.Gỗ chế biến

Việt Nam Thái Lan

Nguồn: Bộ Tài chính.

PHỤ LỤC 3

DIỆN TÍCH CÁC LOẠI CÂY TRỒNG (NGHÌN HA)

Năm

Tổng

Trong đó

Cây hàng năm

Cây lâu năm

Tổng

Trong đó

Tổng

Trong đó

Lương

Cây CN

Cây

Cây ăn

thực có

hàng

CN lâu

quả

hạt

năm

năm

9040,0

8101,5

6474,6

542,0

938,5

657,3

281,2

1990

9410,0

8475,3

6750,4

578,7

934,7

662,7

271,9

1991

9752,9

8754,4

6953,3

584,3

998,5

697,8

260,9

1992

10028,3

8893,0

7055,9

598,9

1135,3

758,5

296,0

1993

10381,4

9000,6

7133,2

655,8

1380,8 809,,9

320,1

1994

10496.9

9224,2

7322,4

716,7

1272,7

902,3

346,4

1995

10928.9

9486,1

7619,0

694,3

1442,8 1015,3

375,5

1996

11316.4

9680,9

7762,6

728,2

1635,5 1153,4

426,1

1997

11740.4

10011,3

8012,4

808,2

1729,1 1202,7

447,0

1998

12320.3

10468,9

8345,4

889,4

1851,4 1257,8

512,8

1999

12644.3

10540,3

8396,5

778,1

2104,0 1451,3

565,0

2000

12447.5

10311,8

8211,5

789,9

2135,7 1476,7

589,4

2001

12662.3

10447,1

8245,0

832,1

2215,2 1504,2

643,2

2002

3%

2%

2%

3%

8%

8%

7%

Tốc độ

tăng bq

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS

Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, trang 661.

PHỤ LỤC 4

GIÁ TRỊ THU HOẠCH/HA ĐẤT NÔNG NGHIỆP (THEO GIÁ NĂM 1994)

Năm

1990

1995

1997

1998

1999

2000

2001

2002

49604

66183,4

75745,5

80291,7

86380,6

90858,2

92584,5

96840,4

GT ngành trồng trọt (tỷ đồng)

6963,2

7357,5

7681,2

7843,1

8080,2

9345,4

9382,5

10662,3

Diện tích đất NN (nghìn ha)

7,12

9,00

9,86

10,24

10,69

9,72

9,87

9,11

Giá trị thu hoạch/ha đất NN (tr đồng)

33289

42110,4

46952,9

49059,6

52719,7

55163,1

55108,2

57781,4

Giá trị thu hoạch ngành lương thực (tỷ đồng)

4108,9

4203,5

4387,6

4199,5

4213,4

4267,9

4147,7

4245

DT đất lương thực (nghìn ha)

8,10

10,02

10,70

11,68

12,51

12,93

13,29

13,61

Gía trị thu hoạch/ha cây LT (tr. đồng)

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003.

PHỤ LỤC 5

CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH LÂM NGHIỆP (%)

Năm Tổng Trong đó

số Trồng và nuôi rừng Khai thác lâm sản Lâm nghiệp khác

16,5 100 78,7 4,8 1986

15,0 100 83,2 1,8 1987

15,1 100 84,2 0,7 1988

12,9 100 81,0 3,1 1989

13,1 100 85,8 1,1 1990

17,0 100 81,1 1,9 1991

23,0 100 75,0 2,0 1992

18,0 100 79,0 3,0 1993

22,0 100 75,1 2,9 1994

22,0 100 72,0 6,0 1995

20,2 100 74,9 4,9 1996

19,4 100 68,3 12,3 1997

18,5 100 61,9 19,6 1998

20,2 100 72,1 7,7 1999

24,6 100 71,7 3,7 2000

23,2 100 72,8 4,0 2001

24,3 100 70,8 4,9 2002

Nguồn : Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

PHỤ LỤC 6

CƠ CẤU GIÁ TRỊ NGÀNH THUỶ SẢN (%)

Năm Toàn ngành thuỷ sản Khai thác Nuôi trồng

100,00 68,34 31,66 1990

100,00 70,44 29,56 1991

100,00 71,05 28,95 1992

100,00 70,30 29,70 1993

100,00 70,01 29,99 1994

100,00 68,13 61,87 1995

100,00 70,25 29,75 1996

100,00 70,87 29,13 1997

100,00 69,87 30,13 1998

100,00 69,27 30,73 1999

100,00 63,84 36,16 2000

100,00 56,28 43,72 2001

100,00 57,86 47,84 2002

Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -

TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 210

PHỤ LỤC 7 KẾT QUẢ XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THUỶ SẢN NĂM 2002 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2003

Chỉ tiêu

Thực hiện 2001

Thực hiện 2002

Dự kiến 2003

Thực hiện 2000

Giá XKBQ (USD/T)

Giá XKBQ (USD/T)

Giá XKBQ (USD/T)

Lượn g (1000 tấn)

Lượn g (1000 tấn)

Lượn g (1000 tấn)

Lượn g (1000 tấn)

Giá trị (tr. USD) 2.800 501 734 166 273 667 3.477 70 56 167 34 146 37 41 76 16 11 214 188 1.479

Giá trị (tr. USD) 2.690 304 705 258 446 723 3.207 87 76 211 63 118 80 54 110 20 15 190 410 2.024

Giá trị (tr. USD) 2.628 391 166 625 78 152 91 38 36 330 391

420 539 168 1.149 3.47 4 1600 488 1.353

931 308 3.729 68 44 57 78 26

431 378 225 1.145 3.349 1.475 491 1.333

500 579 229 1.125 3.333 1.474 500 1.400

Tổng kim ngạch XK 1. Nông sản - Cà phê - Cao su - Gạo - Chè - Hạt điều - Hạt tiêu - Lạc - Thịt lợn - Rau quả 2. Lâm sản 3. Thuỷ sản

Giá trị (tr. USD) 3.000 300 600 220 380 800 3.500 90 80 200 60 115 78 65 130 42 30 350 450 2.300 Nguồn: Kinh tế xã hội Việt Nam 2002 - kế hoạch 2003 - tăng trưởng và hội nhập, trang 113.

PHỤ LỤC 8 MỐI LIÊN KẾT GIỮA NHÀ NÔNG VỚI NHÀ KHOA HỌC, NHÀ DOANH NGHIỆP, NGÂN HÀNG VÀ NHÀ NƯỚC.

NHÀ NƯỚC:

NHÀ KHOA HỌC: - Gồm các nhà nghiên cứuvà khuyến nông.

- Nghiên cứu và giải quyết những khó khăn

của nhà nông về khoa học công nghệ.

Xây

dựng

- Chuyển giao kỹ thuật tiến bộ cho sản xuất và

điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp.

NHÀ DOANH NGHIỆP: - Gồm các doanh nghiệp, các ngân hàng

thương mại.

- Hợp đồng, sản xuất, chế biến bao tiêu sản

NHÀ NÔNG: - Gồm các hộ nông dân, trng trại, HTX. - Liên kết với nhà khoa học, doanh nghiệp, ngân hàng để sản xuất, bao tiêu sản phẩm.

phẩm của nhà nông.

- Huy động và cung cấp vốn cho nhà nông,

hướng dẫn cách đảm bảo an toàn vốn.

cấp liên

tin

- Gồm các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp. - hành lang pháp lý. - Hướng dãn chỉ đạo thực hiện. - Kiểm tra và sát việc giám thực hiện liên kết giữa nông dân với nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, ngân hàng và các bên liên quankhác. - Cung thông quan.

KẾT QUẢ: - Cơ cấu nông nghiệp được chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở nhu cầu thị trường. - Sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa tăng. - Chủ động nguyên liêu cho cơ sở chế biến và bao tiêu. - Thu nhập của nhà nông ổn định. - Tăng sức cạnh tranh của nền nông nghiệp. - Có tiền đề vững chắc để hội nhập thành công vào nền nông nghiệp khu vực và thế giới.