TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN-AFTA
Sinh viên thực hiện: Cao Nam Hải
Lớp : Nga k38 E
Giáo viên hướng dẫn: Cô Vũ Thị Hiền
HÀ NỘI 12/2003
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam trở thành viên chính thức của ASEAN từ ngày 28 tháng 7 năm
1995, và đã tham gia các chương trình hợp tác về kinh tế với các nước trong khối.
Trong những chương trình đó có việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) với cam kết thực hiện đầy đủ việc cắt giảm thuế quan theo chương trình
CEPT/AFTA. Cam kết này đã mang tới cho Việt Nam cả cơ hội cũng như những
thách thức trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực ASEAN.
Trong nông nghiệp nói riêng, khi Việt Nam cam kết thực hiện các quy định
về nông nghiệp đã được ký kết của Hiệp hội, ngành nông nghiệp nước ta phải thực
hiện cạnh tranh theo quy chế mậu dịch tự do của ASEAN, CEPT/AFTA. Nói cách
khác, nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới: làm thế nào
để vừa mở cửa ra thị trường khu vực, vừa củng cố được thị trường trong nước;
khai thác tối đa thời cơ mới của hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời có giải pháp
hạn chế và khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình ấy. Điều này chỉ có
thể đạt được khi chúng ta tạo được những mặt hàng nông sản phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước, với năng suất cao, chất lượng tốt, giá
bán hợp lý, có khả năng cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại của các
nước ASEAN khác. Giải pháp tối ưu hiện nay cho nền nông nghiệp nước ta là
phải có có những thay đổi trong việc lựa chọn cơ cấu sản xuất cho phù hợp với
nhu cầu của thị trường, đồng thời phát huy được tối đa lợi thế so sánh của nền
nông nghiệp nước nhà.
Đối với Việt Nam, đây là một nhiệm vụ khó vì: một mặt, xuất phát điểm
của nền nông nghiệp nước ta còn thấp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng đáng
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
kể trong GDP, và nhất là có ảnh hưởng lớn đến đại bộ phận dân cư. Mặt khác, khả
năng cạnh tranh và tận dụng, phát huy được những cơ hội do AFTA đem lại đòi
hỏi phải có những hiểu biết sâu sắc về phân tích ngành hàng, đa dạng hoá sản xuất
theo yêu cầu của thị trường, xúc tiến thương mại và giành cơ hội thâm nhập, mở
rộng thị trường. Do vậy, việc lựa chọn những bước đi phù hợp để điều chỉnh một
cách có cơ sở khoa học cơ cấu sản xuất nông nghiệp của đất nước là rất cần thiết
nhằm đảm bảo cho quá trình hội nhập vào AFTA thành công. Nắm bắt nhu cầu
thực tế bức xúc đó, Khoá luận: “Một số giải pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-AFTA” đã được lựa chọn nhằm đóng góp một phần vào việc đáp ứng nhu
cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
Mục đích nghiên cứu của Khoá luận là:
- Làm rõ khuôn khổ pháp lý và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất
đối với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong quá trình hội nhập
AFTA/ASEAN.
- Đánh giá cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay, trong đó tập
trung vào nghiên cứu sự tham gia vào quá trình hội nhập của một số mặt hàng
nông sản xuất khẩu chính như: gạo, chè, cao su, cà phê...
- Đề xuất một số giải pháp về tổ chức và chính sách liên quan tới điều chỉnh
cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới nhằm đảm bảo
cho việc hội nhập AFTA thành công.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu một số văn bản pháp luật của một số nước ASEAN liên quan
đến quá trình hội nhập vào AFTA của mặt hàng nông sản.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
- Đánh giá khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản xuất khẩu
của Việt Nam.
- Nghiên cứu trên phạm vi cả nước và các vùng lãnh thổ.
Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp thống kê so sánh, dựa trên phân tích các số
liệu, phân tích thông tin và các tư liệu hiện có và phương pháp chuyên gia.
Bố cục Khoá luận: gồm 3 Chương:
Chương I: trình bày khái quát những đặc điểm và yêu cầu của khu vực mậu
dịch tự do ASEAN/AFTA, những cam kết của Việt Nam tham gia khu vực này, sự
cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, đồng thời
trình bày kinh nghiệm của một số nước ASEAN về thực hiện điều chỉnh cơ cấu
sản xuất nông nghiệp khi tham gia AFTA, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
Chương II: nêu khái quát tình hình phát triển nông nghiệp Việt Nam, phân
tích, đánh giá khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu của một số
mặt hàng nông sản chính của Việt Nam thời gian qua (theo nhóm sản phẩm), đồng
thời phân tích cơ sở khoa học của việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, cũng
như phân tích thực trạng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam hơn một thập kỷ qua từ đó rút ra những nhận xét cần thiết về quá
trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta thời gian vừa qua.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Chương III: đề xuất một số kiến nghị về quan điểm, định hướng và giải
pháp chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp nước ta trong những năm tới, góp phần giúp cho nền nông nghiệp Việt
Nam vững vàng hội nhập ASEAN/AFTA.
Đây là một vấn đề mới, lại đề cập tới một nội dung rộng gồm nhiều mặt
hàng, diễn biến thị trường rất mau lẹ, phức tạp và khó lường trong khi khả năng
điều tra thu thập số liệu còn gặp nhiều hạn chế trong khuôn khổ của một Khoá
luận tốt nghiệp, nên đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Do vậy, em rất mong
nhận được các ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn, để tiếp tục hoàn thiện vấn
đề nghiên cứu trong Khóa luận này.
Qua Khoá luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và
chỉ bảo tận tình của cô giáo Vũ Thị Hiền - Giảng viên khoa Kinh tế ngoại thương
cùng tất cả các thày, cô giáo trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã trang bị cho
em những kiến thức quý báu giúp em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Cao Nam Hải
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA AFTA VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU
DỊCH TỰ DO ASEAN/AFTA
I. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và những quy định của AFTA về
thương mại các mặt hàng nông sản........................................................................1
1.
Sự
ra
đời
của
ASEAN
và
AFTA.............................................................................1
2. Một số quy định chung của khu vực mậu dịch tự do ASEAN và
AFTA................2
3. Cam kết
tham gia AFTA
trong
lĩnh vực nông nghiệp của Việt
Nam.....................5
II. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA.............................8
1. Khái niệm
cơ
cấu kinh
tế và điều
chỉnh
cơ
cấu kinh
tế.........................................8
2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết điều phải chỉnh cơ cấu sản xuất
nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA...................................9
3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt
Nam....11
II. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội
nhập
AFTA
của
một
số
nước
Đông
Nam
Á.........................................................13
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
1. Điểm
tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân
tích............................13
2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước Đông Nam
Á trong quá trình hội nhập AFTA......................................................................15
3. Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của
một số nước Đông Nam Á..................................................................................27
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ CƠ CẤU HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN VỪA QUA
I. Khái quát chung về ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua..........................................................................................................................30
II. Thực trạng năng lực của hàng nông sản Việt Nam trong cạnh tranh với các
sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN khác khi CEPT/AFTA hoàn
thành.......................................................................................................................32
1. Khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam của các mặt hàng nông sản được sản
xuất tại các nước khác trong khối ASEAN..........................................................32
2. Khả năng thâm nhập thị trường các nước trong khối ASEAN của mặt hàng nông
sản Việt Nam.......................................................................................................36
3. Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản chính của
Việt
Nam
trên
thị
trường
ASEAN........................................................................45
III. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn vừa qua........................................................................................................47
1. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp (theo nghĩa
rộng)...................................................................................................................47
2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng nông sản........................54
3. Một số chính sách liên quan đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất và mở rộng xuất
khẩu mặt
hàng
nông
sản
ở Việt Nam
trong
thời
gian
qua......................................................................................................................55
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
4. Một số nhận xét về việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam
giai đoạn vừa qua................................................................................................62
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP
TỤC HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA
I. Quan điểm và mục tiêu điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp.....................67
II. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian
tới cho phù hợp với quá trình hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do
ASEAN/AFTA.......................................................................................................72
1. Định hướng chung về công tác điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta
trong thời gian tới..............................................................................................72
2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất đối với từng nhóm sản phẩm nông sản
cụ
thể
trong
thời
gian
tới.........................................................................................73
3.
Định
hướng
điều
chỉnh
cơ
cấu
sản
xuất
theo
vùng..............................................77
III. Kiến nghị một số giải pháp, chính sách nhằm tiếp tục hoàn chỉnh điều chỉnh
cơ cấu sản xuất để ngành nông nghiệp Việt nam vững vàng hội nhập
AFTA....................................................................................................................78
1. Thực hiện phù hợp một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ
cấu
sản
xuất
nông
nghiệp
theo
hướng
hội
nhập..................................................79
1.1. Chính sách đất đai.........................................................................................79
1.2.
Chính
sách
thuế.
...........................................................................................80
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
1.3. Chính sách đầu tư, tín dụng..........................................................................81
2. Tuyên truyền và phổ biến rộng rãi các cam kết và lịch trình thực hiện
CEPT/AFTA không chỉ trong đội ngũ cán bộ công chức, doanh nghiệp mà còn
tới tận người nông dân........................................................................................82
3. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất phải trên cơ sở quy hoạch hợp lý và đúng đắn.......83
4. Tập
trung sản xuất những mặt hàng Việt Nam có
lợi
thế so
sánh.......................84
5. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất gắn liền với tổ chức thị trường và tổ chức lại sản
xuất.....................................................................................................................85
6. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản..........................................86
7. Xây dựng mối liên kết "4 nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và
Nhà
nước)
trong
điều
chỉnh
cơ
cấu
sản
xuất
nông
nghiệp..................................87
8. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp…………………………….......................................…...91
9. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp
đất
nước...................................................................................................95
10. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y, bảo vệ
thực vật ngang với trình độ trong khu vực tạo, điều kiện để thực hịên việc điều
chỉnh và hội nhập của nông nghiệp…….....………….......................................99
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
PHỤ LỤC 5
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
PHU LỤC 6
PHU LỤC 7
PHU LỤC 8
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 1
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA AFTA VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN
XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN/AFTA
I. KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH
CỦA AFTA VỀ THƯƠNG MẠI CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN
1. Sự ra đời của ASEAN và AFTA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một tổ chức hợp tác
khu vực được thành lập ngày 08/08/1967 theo Tuyên bố Băng Cốc với năm
nước thành viên sáng lập gồm: Inđônêxia, Malaysia, Xingapo, Philippin và
Thái Lan. Năm 1984, ASEAN kết nạp thêm Brunei, sau đó kết nạp thêm 4
thành viên mới là Việt Nam (28/07/1995), Lào, Myanma (23/07/1997),
Campuchia (30/04/1999). Đến nay, tổng số thành viên ASEAN là 10 nước khu
vực Đông Nam Á.
Ngay sau khi thành lập, các nước ASEAN đã đưa ra nhiều kế hoạch hợp
tác kinh tế như: Thoả thuận thương mại ưu đãi, các dự án công nghiệp ASEAN;
kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN và kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp
cùng nhãn mác; liên doanh công nghiệp ASEAN. Tuy nhiên, kết quả thực hiện
các mục tiêu của kế hoạch hợp tác kinh tế này đã không được như mong đợi.
Trong khi đó, vào đầu những năm 90, chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, môi trường chính trị, kinh tế quốc
tế và khu vực đã có những thay đổi lớn. Trên thế giới xuất hiện các khối thương
mại khép kín như: EU, NAFTA... làm cho vị thế của ASEAN trên trường quốc
tế bị hạ thấp, hàng hoá của ASEAN vấp phải trở ngại khi thâm nhập vào các thị
trường trên. Mặt khác, nếu vào những năm cuối của thập kỷ 80, ASEAN là địa
bàn đầu tư hấp dẫn nhất ở Châu Á, thì đến đầu những năm 90, với chính sách Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 2
mở cửa và ưu đãi rộng rãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng lợi thế so
sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của nhiều nước đang phát
triển khác, ASEAN đã dần dần trở thành một thị trường đầu tư kém hấp dẫn.
Trước những yêu cầu, thách thức mới, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế
ASEAN lần thứ 23 (tháng 10/1992), các nước ASEAN đã đi đến quyết định
thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) nhằm mục tiêu:
- Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ
hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế
quan;
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một
khối thị trường thống nhất;
- Giúp ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới.
Như vậy, mục tiêu cơ bản của AFTA là tăng cường lợi thế cạnh tranh
trong khu vực thông qua việc thiết lập một thị trường thông thoáng, xoá bỏ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên, tăng hiệu quả và
tính cạnh tranh lâu dài, đồng thời đem lại cho người tiêu dùng trong khu vực sự
lựa chọn rộng rãi đối với những sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao và giá cả
ngày một thấp hơn.
2. Một số quy định chung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA
Để đạt các mục tiêu nêu trên, nhất là mục tiêu tự do thương mại trong
khối, các nước đã tiến hành ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (CEPT). Đây là một thoả thuận nội bộ giữa các nước thành viên về lịch
trình cắt giảm thuế quan thương mại xuống còn tối đa là 5%, đồng thời trong
vòng từ 10 năm, từ 1993 đến 2003 phải loại bỏ tất cả các hạn chế khối lượng và
các hàng rào phi thuế quan để sau đó luồng hàng hoá được trao đổi tự do, thông
thoáng hơn giữa các nước thành viên. Trong Hiệp định CEPT các quy định của
AFTA đã được trình bày rất cụ thể, bao gồm: Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 3
2.1. Về thuế quan
Để thực hiện cắt giảm thuế quan có hiệu quả nhất, Hiệp định yêu cầu
mỗi nước phải phân loại tất cả hàng hoá của mình vào một danh mục định sẵn.
Việc hình thành các danh mục này là nhằm để giúp các nước có sự chuẩn bị
trước khi hội nhập vào AFTA một cách có lợi nhất. Đây đồng thời cũng là lịch
trình cam kết của các nước trong việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các hàng
rào bảo hộ. Xuất phát từ định hướng đó, CEPT đã đưa ra lộ trình cắt giảm thuế
quan theo 4 danh mục hàng hoá:
Danh mục cắt giảm ngay (Inclusion List-IL)
IL bao gồm những mặt hàng sẽ phải cắt giảm thuế quan ngay lập tức,
đồng thời xoá bỏ hạn chế về số lượng và các hàng rào phi thuế quan khác. Mức
thuế cho những sản phẩm này giảm tới mức tối đa 20% vào năm 1998 và còn
0-5% vào năm 2001. Những nước thành viên mới sẽ được hưởng ân hạn thực
hiện nghĩa vụ cắt giảm này, cụ thể: Việt Nam đến năm 2006, Lào và Myanma
đến 2008, Campuchia đến năm 2010. (Đến năm 2000 đã có 82,7% số dòng thuế
của ASEAN được đưa vào danh mục này).
Danh mục Loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List-TEL)
TEL bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế quan ngay do các
nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong
nước cho thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế đang gia tăng (có nghĩa
là kéo dài thêm việc bảo hộ trong một thời gian ngắn). Sau 3 năm kể từ khi
tham gia chương trình CEPT (bắt đầu từ 01/01/1996), các nước ASEAN phải
bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL. Quá trình chuyển từ TEL
sang IL được phép kéo dài trong 5 năm và mỗi năm phải chuyển được 20% số
mặt hàng (đến năm 2000 còn 15,04% số dòng thuế của ASEAN trong danh
mục này).
Danh mục Loại trừ hoàn toàn (General Exceptions List-GEL)
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 4
GEL bao gồm những mặt hàng không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan.
Các nước ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở
nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người,
động vật, thực vật; bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử, khảo cổ... (Đến năm
2000 trong danh mục này còn 909 dòng thuế quan chiếm 1,61% tổng số dòng
thuế của ASEAN).
Danh mục Nhạy cảm (Sentitive List-SL)
SL bao gồm những mặt hàng nông sản chưa chế biến mà việc cắt giảm
thuế quan đối với những mặt hàng này có thể gây tác động lớn đến sản xuất và
đời sống trong nước.
Các mặt hàng trong SL được dành một khung thời gian dài hơn trong
việc cắt giảm thuế xuống 0-5%. Việc xoá bỏ hạn chế số lượng và hàng rào phi
thuế quan khác được kéo dài đến năm 2010. Đối với những nước thành viên
mới, thời gian ân hạn được kéo dài hơn, cụ thể: Việt Nam đến năm 2013, Lào
và Myanma đến 2015, Campuchia đến 2017 (đến năm 2000 còn 0,58% số dòng
thuế của ASEAN trong danh mục này). Điều này chứng tỏ phần lớn các mặt
hàng nông sản chưa chế biến đã được các nước ASEAN đưa ngay vào Danh
mục Giảm thuế (IL) hoặc Danh mục Loại trừ tạm thời (TEL), chỉ một số ít mặt
hàng nông sản chưa chế biến có tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân
được các nước ASEAN đưa vào Danh mục Nhạy cảm (SL).
Mức thuế suất thực hiện CEPT/AFTA chỉ được duy trì tối đa trong 3
năm liên tiếp, sau đó sẽ được cắt giảm để đạt mục tiêu giảm thuế 0-5% vào
năm 2006. Mỗi bước giảm thuế không thấp hơn 5%.
2.2. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT
Theo quy định này, một sản phẩm muốn được hưởng nhượng bộ về thuế
quan khi xuất khẩu trong khối thì cần phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau:
- Phải thuộc Danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu; phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%. Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 5
- Phải có chương trình cắt giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua.
- Phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu
hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất
CÔNG THỨC: 40% HÀM LƯỢNG ASEAN = (A+B)/GIÁ FOB X 100% 60%
là 40%.
Trong đó: A: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào
nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên ASEAN (theo giá CIF tại thời
điểm nhập khẩu).
B: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào
không xác định được xuất xứ (theo giá xác định ban đầu trước khi đưa vào chế
biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN).
2.3. Loại bỏ các hạn chế về số lượng (QRs) và các hàng rào phi thuế
quan khác
Các hạn chế về số lượng sẽ phải loại bỏ ngay khi sản phẩm đưa vào cắt
giảm và được hưởng các ưu đãi của CEPT, hàng rào phi thuế quan khác sẽ
được xoá bỏ dần trong vòng 5 năm khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.
2.4. Tiến hành hợp tác trong lĩnh vực hải quan
Xây dựng một Danh mục thuế quan chung thống nhất trong khối
ASEAN, thống nhất hệ thống tính giá hải quan theo Hiệp định Trị giá hải quan
của GATT-WTO, xây dựng hệ thống luồng hải quan xanh và thống nhất thủ tục
hải quan để sản phẩm lưu thông thông suốt.
2.5. Cung cấp các thông tin về cơ chế thương mại theo yêu cầu của các
nước (hay yêu cầu về minh bạch chính sách).
3. Cam kết của Việt Nam tham gia AFTA trong lĩnh vực nông nghiệp
3.1. Những cam kết chung
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 6
Với mục tiêu nhanh chóng hội nhập thành công vào AFTA, trong thời
gian qua, Việt Nam đã tiến hành những bước đi tích cực trong việc thực hiện
các Quy định của Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung (CEPT). Tháng 12/1995 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Băngcốc
(Thái Lan), Việt Nam đã đệ trình Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm 165
mặt hàng, Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): 1189 mặt hàng, Danh mục nhạy
cảm (SL): 26 mặt hàng, Danh mục cắt giảm ngay (IL): 1633 mặt hàng.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện những cam kết đối với AFTA, đồng
thời tăng dần thực hiện danh mục IL. Năm 1996, Việt Nam đã xếp 857 mặt
hàng vào danh mục này, đến năm 1997 là 640 mặt hàng và đến năm 1998 là
1716 mặt hàng với mức thuế suất bình quân 6,1% (so với mức thuế suất nhập
khẩu bình quân của mặt hàng không thuộc CEPT là 7,2%). Năm 1999 Việt
Nam đã đưa vào danh mục IL thực hiện CEPT là 3582 mặt hàng (chiếm 41,3%
tổng số mặt hàng đánh thuế của Việt Nam).
Trong danh mục IL, bắt đầu từ 01/01/2001 mức thuế suất của những mặt
hàng chịu thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% và sẽ đạt 0-5% từ
01/01/2006. Mức thuế suất của những mặt hàng chịu thuế suất dưới 20% sẽ
được giảm xuống còn 0-5% từ năm 2003.
Trong danh mục TEL có hầu hết các mặt hàng hiện đang được sản xuất
tại Việt Nam. Những mặt hàng này sẽ được chuyển vào danh mục IL trong 5
thời điểm cách đều nhau từ 1999-2003 với thuế suất giảm xuống còn 0-5% vào
2006.
Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ được giảm thuế suất xuống còn 0-
5% vào năm 2013.
Các mặt hàng thuộc danh mục GEL do Việt Nam đệ trình tại Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN năm 1995 là nhiều nhất so với các nước ASEAN khác
(165 sản phẩm, chiếm 5,5% tổng số các dòng thuế, trong khi đó các nước khác
chỉ có khoảng 3- 3,3% số dòng thuế thuộc danh mục này). Những mặt hàng này
chiếm tới 41% số lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN (năm 1996), Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 7
trong đó nhiều mặt hàng được bảo hộ với mục đích tăng thu Ngân sách thông
qua thuế nhập khẩu (như nhiên liệu, thu phát truyền thanh, truyền hình, xe dưới
16 chỗ, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng...). Điều này có nghĩa là Việt Nam đang
bảo hộ cho khoảng 41% mậu dịch với ASEAN khỏi sự điều chỉnh của AFTA.
3.2. Cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp
Bảng 1: Lịch trình giảm thuế theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các
sản phẩm nông, lâm nghiệp chính
Ngành hàng 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
20% 20% 20% 20% 15% 10% 5% Gạo
Cà phê:
15% 10% 10% 10% 5% Sơ chế
35% 25% 20% 15% 15% 10% 10% 5% Thành phẩm
Chè:
15% 15% 10% 10% 5% Sơ chế
40% 30% 20% 15% 15% 10% 10% 5% Thành phẩm
3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% Cao su
Rau quả:
20% 15% 15% 10% 5% Rau, củ
20% 20% 20% 15% 15% 15% 10% 5% Quả
20% 15% 15% 15% 10% 10% 10% 5% Hạt điều
10% 10% 10% 10% 10% 5% Cây có dầu
35% 40% Đường
5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% Gỗ
15% 15% 15% 15% 15% 10% 10% 5% Thịt lợn
Nguồn: Nghị định 78/2003CP(ngày 01/07/2003) - Công báo(Ngày 22/07/2003)
Tính đến 31/12/2000, tổng số các mặt hàng nông sản có trong danh mục
Biểu thuế ưu đãi hiện hành của Việt Nam là 840 dòng thuế, trong đó: có 51
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 8
dòng thuế thuộc Danh mục SL, 17 dòng thuộc Danh mục GEL, 569 dòng thuế
đã đưa vào thực hiện cắt giảm IL và 203 dòng thuế thuộc Danh mục TEL.
Như vậy, có thể thấy phần lớn các mặt hàng nông sản của ta đã được đưa
vào thực hiện cắt giảm. Đó chủ yếu là những mặt hàng mà ta có thế mạnh xuất
khẩu như: thuỷ hải sản tươi sống, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, rau quả tươi,...
Những mặt hàng hiện chưa được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay, chủ yếu là
nông sản chế biến mà ta chưa có khả năng cạnh tranh. Việc đưa những mặt
hàng này vào Danh mục TEL để chuyển vào cắt giảm ở những năm cuối (2001-
2003) và Danh mục SL (2004-2006) là nhằm mục đích giúp các ngành sản xuất
trong nước có thời gian để chuẩn bị, nâng cấp đầu tư sản xuất và cạnh tranh với
hàng hoá ASEAN nhập khẩu khi thị trường được mở cửa hoàn toàn vào năm
2006.
II. CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU
CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP AFTA
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế
1.1.Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là một khái niệm thường được các nhà kinh tế sử dụng
và được hiểu là một tổng thể hệ thống kinh tế gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với nhau, có quan hệ tương tác với nhau trong một không gian, thời gian
nhất định, trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định và được thể hiện cả ở mặt
định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng.
Khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và thực hiện các giải pháp nhằm điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, người ta thường xét tới cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ
cấu thành phần kinh tế. Ba bộ phận cơ bản hợp thành của cơ cấu kinh tế này có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần chỉ có thể
chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ cả nước. Đồng thời,
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 9
việc phân bố sản xuất theo không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa
quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.
1.2. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Trong quá trình phát triển, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi tuỳ theo từng
thời kỳ do tính không cố định của các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số
lượng của các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các
vùng do tốc độ tăng trưởng không đều của các yếu tố cấu thành trong cơ cấu
kinh tế. Cơ cấu kinh tế thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù
hợp với môi trường phát triển tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế này không chỉ đơn thuần là chuyển dịch về vị trí mà còn là
sự thay đổi về lượng và chất của cơ cấu kinh tế. Nội dung của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để hình thành một cơ cấu tiên tiến, hoàn
thiện, phù hợp hơn với những thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội đất nước
(tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông
nghiệp trong GDP cả nước…). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá
trình liên tục và về thực chất đó là sự điều chỉnh cơ cấu thể hiện ở cả ba nội
dung là cơ cấu ngành (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ), cơ cấu thành phần
và cơ cấu vùng lãnh thổ.
2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu
sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA
2.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Khu vực nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt đối với các nước đang phát triển do
nông nghiệp có đóng góp lớn vào giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế, vào
nguồn thu ngoại tệ của đất nước và vào giải quyết việc làm cho lực lượng lao
động xã hội.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 10
Vì vậy, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với đặc
điểm, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong bối cảnh mở cửa và hội nhập
vào AFTA không những là mục tiêu mà còn là yêu cầu bức bách đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam.
Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp. Vì vậy, cơ cấu sản xuất nông nghiệp bao gồm cả cơ cấu
sản xuất theo ngành (nông - lâm - ngư nghiệp) và nội bộ ngành (trồng trọt và
chăn nuôi đối với ngành nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác đối với ngành
lâm, ngư nghiệp); cơ cấu vùng chuyên môn hoá theo lãnh thổ ở khu vực nông
thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, cơ cấu sản xuất nông nghiệp luôn
được điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu mới của điều kiện kinh tế xã hội,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ và môi trường đất nước.
2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt
Nam trong quá trình hội nhập vào AFTA
Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất nông nghiệp luôn phải
hướng ra thị trường, phải xuất phát từ quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị
trường để định hướng chiến lược và chính sách sản xuất kinh doanh của mình.
Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của người sản xuất
nông nghiệp để thích ứng với các điều kiện mới của thị trường dẫn tới từng
bước hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp của đất
nước. Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình
Việt Nam mở cửa hội nhập AFTA là một tất yếu khách quan.
Nền nông nghiệp nước ta trong giai đoạn vừa qua tuy đã có nhiều biến
chuyển tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá, tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp
Việt Nam vẫn mang nặng tính tự phát, chưa theo quy hoạch và định hướng
thống nhất. Chính thực tế này đã tạo những nghịch lý đáng buồn: khi được mùa
thì giá nông sản xuống thấp, ngược lại khi mất mùa thì giá nông sản lên cao,
gây thiệt hại lớn cho bà con nông dân. Mặt khác, khi giá một loại nông sản trên Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 11
thị trường xuất khẩu lên cao, các hộ nông dân ồ ạt chặt các cây trồng truyền
thống, trồng các loại cây mới một cách tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu phương
phương pháp khoa học. Thực tế này dẫn tới chất lượng sản phẩm làm ra không
đạt yêu cầu, giá xuất khẩu giảm mạnh hoặc không có người mua, người nông
dân không biết làm gì với sản phẩm mình làm ra. Hệ quả tất yếu là người nông
dân một lần nữa lại chặt bỏ loại cây mới trồng, gây nên những thiệt hại lớn về
kinh tế, tạo ra bất ổn về chính trị, xã hội. Hơn thế nữa, sau khi Việt Nam cam
kết thực hiện quy định của AFTA về tự do thương mại hàng nông sản, hàng
hoá nông phẩm của nước ta lại phải đối mặt với những thách thức mới. Các
nước ASEAN do có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu gần giống với Việt
Nam với các loại nông phẩm xuất khẩu gần giống Việt Nam, nên khi
CEPT/AFTA hoàn thành vào năm 2010 sẽ trở thành các đối thủ cạnh tranh thực
sự của nông sản Việt Nam. Để có khả năng cạnh tranh, nền nông nghiệp nước
ta phải tập trung sản xuất một số loại sản phẩm chủ lực, độc đáo, phù hợp với
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đất nước với chất lượng tốt, giá thành hợp lý
đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này chỉ có
thể có được khi nền nông nghiệp được điều chỉnh một cách hợp lý phù hợp với
quá trình tự do hoá kinh tế theo xu hướng hội nhập. Chính vì vậy, việc điều
chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà AFTA là bước đi đầu tiên.
Vấn đề này cũng đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc IX “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của hàng nông sản trên thị trường”, và trong Nghị quyết 09/2000/NQ - CP ngày
15/06/2000 của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô
và chủng loại sản phẩm các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác lợi
thế của cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có
khả năng tiêu thụ được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái.” Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 12
3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường mở theo hướng hội nhập AFTA hiện nay,
cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam được hình thành dưới tác động của hàng
loạt các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó trước hết phải kể đến là:
- Sự phát triển của các loại thị trường trong nước và quốc tế, nhất là thị
trường hàng nông sản có tác động trực tiếp đến hình thành và chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp, do thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của người nông dân.
- Các nguồn lực được phân bổ và sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, việc
phát huy lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả và bền vững nhất. Dựa trên cơ
sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực được phân bổ vào sản xuất để xác
định và chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành có lợi thế và điều
kiện phát triển, tạo đà cho hội nhập và tham gia vào quá trình phân công lao
động quốc tế.
- Sự phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.
Tiến bộ khoa học công nghệ cùng với các lợi thế so sánh khác trong điều kiện
mở cửa và hội nhập có thể cho phép sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, giá
thành hạ có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Từ đó dẫn đến kết quả là làm
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nước ta, vai
trò của khoa học công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn
phụ thuộc vào các yếu tố như chính sách khoa học công nghệ của nhà nước,
thực trạng trang bị công nghệ của các ngành và khả năng đầu tư để đổi mới kỹ
thuật công nghệ.
- Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và điều chỉnh
cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Đường lối
đối ngoại rộng mở, rõ ràng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế mà Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 13
nước ta đang thực hiện rõ ràng có tác động quan trọng tới chuyển dịch cơ cấu
sản xuất. Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể của đất nước
mà về thực chất, đó là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn
lực và đầu tư theo ngành, vùng và lãnh thổ. Nhà nước thông qua hệ thống chính
sách, luật pháp để khuyến khích hay hạn chế đối với các hoạt động sản xuất
kinh doanh theo định hướng được xác định. Như vậy, sự đồng bộ và tính ổn
định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu
ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ.
IV. KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN (AFTA) CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á
1. Điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân tích
Trong số 10 nước thành viên ASEAN, có 4 nước nông nghiệp phát triển
khá là Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia và Philippin. Do vậy, đề tài này sẽ tập
trung khái quát những kinh nghiệm của họ trong việc điều chỉnh cơ cấu sản
xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA để tham khảo cho trường hợp
Việt Nam, bởi mấy lý do sau:
- Thứ nhất, nền nông nghiệp những nước này vẫn còn đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế đất nước và 5 nước (bao gồm cả Việt Nam) cùng đang
chiếm thị phần khá lớn trên thị trường nông sản thế giới (chiếm tới 45% tổng
lượng gạo xuất khẩu của thế giới, 80% lượng cao su xuất khẩu, chiếm thị phần
lớn trong trong xuất khẩu cà phê và dầu ăn...)
- Thứ hai, cả 5 nước ASEAN này đều có những điều kiện tự nhiên giống
nhau, nên những mặt hàng mà các nước này là khách hàng của Việt Nam thì ít,
những mặt hàng mà các nước đó là đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu với nước
ta (gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, hạt tiêu…) thì nhiều.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 14
Tuy nhiên nếu căn cứ vào tỷ trọng của nông nghiệp, thì vai trò của nông
nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước có khác nhau, cụ thể:
Trong số các nước kể trên, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng
hơn cả đối với nền kinh tế đất nước bởi tỷ lệ lao động nông nghiệp và cơ cấu
GDP nông nghiệp cao nhất. Tiếp sau Việt Nam là Thái Lan và cuối cùng là
Malaysia. Malaysia đạt trình độ công nghiệp hoá cao nhất, thể hiện ở chỉ tiêu
GDP/người lớn nhất, còn các chỉ tiêu về tỷ lệ lao động, cơ cấu nông nghiệp
trong GDP thì thấp nhất.
Bảng 2: Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế 4 nước ASEAN và
Việt Nam (năm 2001)
Nước
GDP/người %Lao động %GDP %tăng GDP
(USD) nông nghiệp nông nghiệp nông nghiệp
3.678,8 18,4 8 1.9 Malaysia
1874 48,8 10 3.6 Thái Lan
927,6 37,4 15 1.9 Philippin
680,2 45,3 16 2.8 Inđônêxia
427,8 76,8 23,6 4.2 Việt Nam
Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê,
HN 2002, tr. 12, 62
Trong khi đó, tại Việt Nam mức độ đóng góp của nông nghiệp vào GDP,
tỷ lệ lao động nông nghiệp trong lực lượng lao động xã hội vẫn rất lớn. Tại Việt
Nam và Thái Lan còn tương ứng 69% và 50% lực lượng lao động tìm kiếm
việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp (ở Malaysia, chỉ có 16% lực lượng lao
động được thu hút vào sản xuất nông nghiệp). Ngành nông nghiệp của 2 nước
Philippin và Inđônêxia cũng là khu vực giải quyết việc làm cho trên 40% lực
lượng lao động xã hội.
Bảng 3: Sản lượng một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của 4 nước
ASEAN và Việt Nam năm 2001 (Đơn vị:1000tấn)
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 15
Inđônêxia Malaysia Philippin Thái Lan Việt Nam
Lúa 50.096 2.215 12.954,9 25.200 31.970,2
Mía 23.500 1.600 28.237,9 49.070 14.325,4
Ngô 9.090 67 4.525 4.673 2.122,9
Cao su 1.650 700 73 2.380 300,7
Cà phê 376,8 12,5 129,8 90 843,9
Nguồn: Tư liệu thống kê KT – XH các nước thnàh viên ASEAN, NXB Thống
kê, HN 2002, tr. 294, 312, 352, 339, 401.
Do điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu tương đối giống nhau nên một số
mặt hàng nông sản có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp nước này cũng là
sản phẩm chủ yếu của nước kia. Chẳng hạn, gạo không chỉ là mặt hàng quan
trọng trong nông nghiệp Việt Nam mà còn đối với Thái Lan, Inđônêxia; dầu cọ
đối với Inđônêsia và Thái Lan .v.v.
2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước
ASEAN trong quá trình hội nhập AFTA
2.1. Tập trung sản xuất những nông phẩm có lợi thế cạnh tranh
Trong thương mại quốc tế, các nước đều cố gắng phát huy lợi thế so sánh
của mình để sản xuất những mặt hàng nông sản có chất lượng cao, giá thành
thấp, đủ sức cạnh tranh trên trị trường quốc tế. Sản xuất nông nghiệp của các
nước ASEAN trong điều kiện mở cửa và hội nhập AFTA cũng được điều chỉnh
theo quy luật đó.
+ Thái Lan: chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá
sản phẩm để giảm bớt rủi ro về thị trường xuất khẩu và ổn định tiêu dùng trong
nước. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Thái Lan đã phản ánh rõ nét
định hướng phát triển thương mại đa dạng hoá sản phẩm, phát huy lợi thế so
sánh. So với năm 1990, cơ cấu sản phẩm nông nghiệp Thái Lan hiện nay đã có
sự thay đổi đáng kể: số lượng các sản phẩm chăn nuôi, cao su, cây ăn quả tăng
nhanh đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước, Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 16
trong khi các sản phẩm truyền thống như lúa gạo, ngô, sắn đậu tương giảm
nhanh. Trong 10 năm qua, Thái Lan đã giảm mạnh việc xuất khẩu ngô từ trên 1
triệu tấn/năm xuống còn 100 ngàn tấn/năm, nhập khẩu đậu tương tăng mạnh từ
57 nghìn tấn lên 750 ngàn tấn để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn gia súc tăng
nhanh trong nước. Gạo - mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Thái Lan, với khối
lượng xuất khẩu tăng liên tục trong 10 năm qua, thì trong vòng 3 - 4 năm gần
đây lại có xu hướng giảm dần. Xuất khẩu đường cũng đang có xu hướng chững
lại. Trong khi đó, xuất khẩu một số mặt hàng khác lại tăng mạnh như thuỷ sản,
hạt tiêu, rau quả, hoa. Hiện nay Thái Lan đang đứng đầu thế giới về xuất khẩu
gạo, về sản xuất và xuất khẩu cao su, tôm sú, đứng thứ ba về xuất khẩu đường.
+ Khác với Thái Lan, Malaysia lại thực hiện điều chỉnh cơ cấu sản xuất
nông nghiệp theo hướng tập trung vào sản xuất cây công nghiệp phục vụ xuất
khẩu, như: cọ dầu, cao su, ca cao - những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao.
Ba loại cây này chiếm tới 77% diện tích đất nông nghiệp cả nước và đóng góp
tới 71% GDP nông nghiệp (riêng cọ dầu chiếm tỷ lệ gần 40% GDP nông
nghiệp). Ngoài ra, Malaysia còn chú trọng phát triển cây lúa nước, dừa và hoa
quả (lúa gạo và hoa quả chiếm tới 10% GDP nông nghiệp), các cây trồng khác
như: cà phê, mía đường .v.v. chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích đất nông
nghiệp. Hơn 10 năm qua, cây cọ dầu là cây phát triển mạnh nhất với lượng sản
xuất và xuất khẩu đều tăng nhanh, trong khi đó cây cao su và ca cao có xu
hướng giảm dần. Do chăn nuôi phát triển nhanh dẫn tới nhu cầu về ngô, đậu
tương làm thức ăn gia súc tăng mạnh (mặc dù sản xuất ngô và đậu tương trong
nước vẫn tăng liên tục nhưng Malaysia vẫn phải nhập khẩu nhiều với lượng
nhập khẩu tăng đều qua các năm). Malaysia chủ trương tập trung vào một số
sản phẩm có lợi thế so sánh, còn những sản phẩm khác sẽ được nhập khẩu để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước (nhập khẩu đường, đậu tương, gạo tăng
đều trong những năm gần đây).
Là nước có nguồn tài nguyên về lâm nghiệp lớn trên thế giới, trong thập
kỷ gần đây Malaysia đang chuyển mạnh từ xuất khẩu gỗ xẻ, gỗ ván sang xuất Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 17
khẩu đồ gia dụng, gỗ xây dựng và ván sàn. Việc làm này không những đã làm
tăng nhanh giá trị gia tăng hàng xuất khẩu của Malaysia, mà còn nâng cao được
khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Malaysia trên thị trường quốc tế.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Malaysia được thực hiện theo
hướng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá cao, gắn sản xuất và tiêu dùng trong
nước với thị trường quốc tế. Nông nghiệp của Malaysia tập trung vào phát triển
theo mô hình trang trại, đồn điền tư bản nông nghiệp với quy mô sản xuất lớn,
ứng dụng công nghệ cao, tập trung sản xuất một số cây công nghiệp xuất khẩu.
Các trang trại gắn bó chặt chẽ với các cơ sở nghiên cứu triển khai (R&D) để
nhanh chóng ứng dụng và hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu khoa học. Mặt khác,
Malaysia rất chú trọng đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản chế biến, nhờ
thế đã nâng cao được giá trị xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông
sản. Với các làm này, Malaysia đã tạo ra được nhiều sản phẩm hàng hoá mũi
nhọn xuất khẩu với khối lượng lớn, giá thành hạ, chất lượng cao có sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay do tập trung vào một số mặt
hàng cây công nghiệp xuất khẩu, nên nông nghiệp của Malaysia luôn phải đối
phó với những thay đổi trên thị trường quốc tế về những sản phẩm mà trong
nước không sản xuất hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng.
+ Inđônêxia: là quốc đảo đông dân, nên thị thường tiêu dùng trong nước
luôn tạo ra sức ép lớn đối với kinh tế. Bởi vậy, một mặt nước này vẫn duy trì
mức độ vừa phải chiến lược đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, măt khác, vẫn
tập trung mũi nhọn vào những mặt hàng chủ lực, như: lúa gạo, cọ dầu, dừa, cao
su, cà phê, đường, ca cao, hàng lâm sản.v.v. Inđônêxia chủ trương hướng mạnh
vào sản xuất các mặt hàng có lợi thế so sánh như: lâm nghiệp, chăn nuôi và
thuỷ sản, trong khi đó các loại cây lương thực chỉ có tốc độ tăng bình quân
hàng năm khoảng trên 1,5%. Các ngành lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp,
chăn nuôi và thuỷ sản của Inđônêxia phát triển mạnh đem lại tăng trưởng khá
(gần 3%) cho nông nghiệp. Trong những năm gần đây, sản xuất cọ dầu của
Inđônêxia tăng mạnh do giá dầu cọ trên thị trường thế giới lên cao (bằng các Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 18
biện pháp như: giảm mạnh đất trồng cà phê và sắn để chuyển sang trồng cọ
dầu), trong khi hầu hết các cây trồng khác tăng trưởng không đáng kể. Bên
cạnh đó Inđônêxia còn có thế mạnh về sản xuất, xuất khẩu các nông sản khác
như: hạt tiêu, hoa quả, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tôm, đường, cá ngừ.v.v.
Inđônêxia hiện đang đứng đầu thế giới về sản xuất hạt tiêu trắng và thứ hai thế
giới về sản xuất hạt tiêu đen với sản lượng lên tới 22 ngàn tấn/năm. Trong
những năm gần đây, xuất khẩu dầu cọ và cao su của Inđônêxia tăng tương đối
ổn định, tuy nhiên nước này vẫn phải nhập khối lượng lớn lương thực (gạo,
mỳ), đường 1 triệu tấn/năm) và nguyên liệu làm thức ăn gia súc (3triệu
tấn/năm).
+ Nông nghiệp của quần đảo Philippin phát triển hướng vào khai thác thế
mạnh về chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Ngành chăn nuôi chiếm khoảng
24% giá trị sản lượng nông nghiệp và có tốc độ tăng trưởng bình quân trên
5%/năm trong hơn một thập kỷ qua. Hiện nay, Philippin đang đứng thứ 12 thế
giới về nuôi trồng thuỷ sản, và chỉ riêng ngành này đã đóng góp tới 15% GDP
nông nghiệp cả nước. Phần lớn diện tích đất nông nghiệp của nước này được
dùng để trồng lúa (chiếm 40% diện tích đất nông nghiệp và tạo ra 22% giá trị
GDP nông nghiệp). Chính phủ đã tập trung đầu tư 1/3 ngân sách nông nghiệp
cho vùng Miđanao để biến vùng này thành vùng chuyên canh lúa của đất nước,
nhưng hàng năm nước này vẵn phải nhập khẩu khối lượng khá lớn lương thực
(trên 1 triệu tấn/năm) làm thức ăn chăn nuôi. Dừa cũng là cây trồng chính trong
nông nghiệp của Philippin. 90% sản lượng dừa được chế biến thành cùi dừa
khô, trong số đó 5% để xuất khẩu, số còn lại được chế biến thành dầu ăn và dầu
công nghiệp. Mía đường cũng là cây trồng quan trọng của Philippin do nước
này được xuất khẩu theo quota ưu đãi vào thị trường Mỹ. Nhưng gần đây, cả
diện tích mía đường và dừa đều có xu hướng thu hẹp lại để mở rộng diện tích
các loại cây trồng có hiệu quả cao hơn như: cà phê, cây ăn quả (xoài, dứa.v.v.).
Sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu của Philippin là dầu dừa, đường, chuối,
dứa, cà phê, cá hồi với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4tỷ USD/năm. Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 19
2.2. Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp bám sát nhu cầu thị trường trong
nước và xuất khẩu
Xu thế phát triển và điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp chung của
các nước là: Từ độc canh sang đa canh; từ trồng cây hàng năm sang trồng cây
lâu năm, cây ăn quả, cây công nghiệp; từ sản xuất, xuất khẩu nguyên liệu thô
sang xuất khẩu nông sản đã qua chế biến; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nuôi
trồng thuỷ sản; chuyển từ tự túc lương thực sang cân đối lương thực thông qua
thương mại quốc tế. Một số cây trồng truyền thống không có thị trường tiêu thụ
cũng bị thay thế dần (ví dụ như cây sắn ở Thái Lan; mía, dừa ở Philippin; đậu
tương của Malaysia).
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp để thích ứng với những biến
động của thị trường thế giới không phải là điều dễ dàng, nhưng trong điều kiện
mở cửa và hội nhập AFTA hiện nay, chấp nhận sản xuất một số sản phẩm mũi
nhọn mà nước mình có lợi thế trong cạnh tranh, chuyển sang nhập khẩu những
mặt hàng ít có khả năng cạnh tranh, buộc các nước ASEAN đã nêu phải có
những biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của mình một cách có
hiệu quả nhất, tạo thế ổn định sản xuất trong điều kiện thị trường luôn biến
động.
Thái Lan là một ví dụ điển hình: Trong những năm 1950 và 1960, sản
xuất nông nghiệp của nước này mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nông
nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào quảng canh do quỹ đất nông nghiệp còn lớn,
cơ sở cho sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Trong thời kỳ này, Thái Lan thực
hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu nên sản suất nông nghiệp chủ yếu
hướng vào thị trường nội địa. Đến giữa những năm 1970, chiến lược thay thế
hàng nhập khẩu được thay bằng chiến lược hướng vào xuất khẩu. Trong điều
kiện cơ sở hạ tầng đã được nâng cấp đáng kể, các tiến bộ của cuộc “cách mạng
xanh” được ứng dụng vào sản xuất nên cơ cấu cây trồng được thay đổi mạnh
mẽ. Đến thập kỷ 80 Thái Lan chủ trương thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 20
xuất nông nghiệp theo hướng giảm tỷ lệ của cây trồng truyền thống có giá trị
kinh tế thấp (lúa gạo), tăng tỷ lệ các cây trồng mới (rau, hoa quả, cây có dầu,
chăn nuôi lợn, gia cầm.v.v.) để khai thác hết nội lực về vốn và lao động, đồng
thời đối phó với hiện tượng giá cả xuống thấp và rủi ro thị trường của các nông
sản xuất khẩu truyền thống. Do vậy diện tích trồng lúa giảm mạnh từ trên 90%
(năm 1965) xuống còn 62% (năm 1988) và 50% (năm 1998). Sự đa dạng hoá
sản xuất nông nghiệp kéo theo sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu nông sản. Xuất
khẩu gạo từ chỗ chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1953) đã giảm
xuống còn 8% (năm 1992) và 3% (năm 1998). Để tăng khả năng cạnh tranh và
thích nghi trong quá trình hội nhập AFTA, tăng tính hiệu quả của sản xuất
trong điều kiện hạn chế về cơ sở hạ tầng và chi phí sản xuất gia tăng, Chính
phủ Thái Lan tăng cường khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và khu
vực nông thôn nên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 2%-
3%/năm, kể cả trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ (1997-1998).
2.3. Thực hiện cải tổ để đương đầu với thử thách
+ Inđônêxia: Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các
nước ASEAN đều trực tiếp bị tác động, trong đó Inđônêxia là nước bị thiệt hại
nặng nhất. Tình hình chính trị mất ổn định, thiên tai và cháy rừng lại liên tiếp
xảy ra làm cho nông nghiệp nước này bị thiệt hại nặng nề. Mức sống của 130
triệu trong tổng số 205 triệu dân của của nước này tụt xuống dưới mức nghèo
khổ, 38 trên tổng số 90 triệu lao động bị thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát tăng nhanh,
thu nhập bình quân/người giảm từ 1080 USD đầu những năm 90 xuống còn
480 USD vào năm 1998. Chính phủ mới của Inđônêxia đã phải thực hiện
những cải tổ sâu sắc nhằm đem lại lòng tin và tăng cường thu hút vốn đầu tư
vào sản xuất nông nghịêp đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông
dân có quy mô sản xuất nhỏ giảm tỷ lệ nghèo đói phát triển sản xuất hàng hoá,
cụ thể như:
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 21
Xoá bỏ sự độc quyền của Cục hậu cần Quốc gia Inđônêxia (BULOG)
trong nhập khẩu lúa mỳ, bột mỳ, đậu tương, tỏi, gạo.
Cắt giảm thuế quan đối với tất cả các hàng thực phẩm xuống mức cao
nhất là 5%.
Loại bỏ cản trở đối với việc buôn bán, vận chuyển nông sản hàng
hoá.
Thực hiện tự do buôn bán nông phẩm giữa các vùng.
Bên cạnh đó, Chính phủ Inđônêxia còn thực hiện cải cách trong một số
lĩnh vực khác để hỗ trợ giảm đói nghèo cho nông dân và tăng cường nguồn lực
cho khu vực nông nghiệp, như: Chính sách đảm bảo giá sàn theo từng vùng để
hỗ trợ nông dân thay cho việc bảo hộ người tiêu dùng trước đây; Nhà nước đảm
bảo thu mua sản phẩm hàng hoá của nông dân làm ra với giá sàn khi giá nông
sản xuống thấp; Cắt trợ giá cho người tiêu dùng đối với sản phẩm đường, đậu
tương, lúa mỳ, sản phẩm sữa, bột cá; trợ giá tiêu dùng đối với sản phẩm gạo
cho nhóm dân cư nghèo nhất; mở rộng tự do buôn bán thực phẩm; chuyển từ cơ
chế quản lý hành chính sang các công cụ tài chính - thị trường để quản lý lương
thực và ổn định giá cả; Cắt bỏ rào cản phi thuế quan trong thị trường hàng nông
sản để tạo điều kiện cho các hộ sản xuất quy mô nhỏ có cơ hội tăng thu nhập;
Tự do hoá thương mại phân bón, hoá chất nông nghiệp, giống; tư nhân hoá nhà
máy phân bón, chấm dứt trợ giá và bao cấp cho các nhà máy phân bón trong
nước; Đẩy mạnh công tác nghiên cứu giống, chấm dứt sự độc quyền của các
công ty giống Nhà nước để các thành phần kinh tế khác tham gia thị trường
này; Loại bỏ độc quyền phân bón và vật tư nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm
nông sản của các HTX, chuyển các HTX thành các tổ chức kinh doanh hiện đại
hoạt động trên nguyên tắc cạnh tranh; Tăng mức cho vay tín dụng đối với nông
dân từ 1,4 triệu Rp/ha lên 2 triệu Rp/ha, tăng tổng lượng tín dụng cho vay từ
1,9 nghìn tỷ Rp lên 3,4 nghìn tỷ Rp; Tăng hiệu quả công tác thuỷ lợi, nâng cao
công suất các trạm bơm.v.v.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 22
Để khắc phục tình trạng bất ổn về lương thực, bắt đầu từ tháng 7/1998
Chính phủ chủ trương hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đói theo chế độ tem
phiếu, các hộ được mua 10 kg gạo/tháng theo giá ưu đãi xấp xỉ 25% giá thị
trường (trên 3 triệu hộ với 17 triệu người nghèo được hưởng lợi từ Chương
trình này).
+ Philippin: Thay đổi chính sách đối với nông nghiệp từ bảo trợ sản xuất
trong nước sang tăng cường cạnh tranh. Trước đây, Nhà nước thực hiện trợ giá
lúa, ngô, hỗ trợ tín dụng, hạn chế nhập khẩu nông sản, tự do nhập khẩu vật tư,
bao cấp cho hệ thống khuyến nông của Chính phủ. Đến năm 1998, Nhà nước
đã ban hành Luật hiện đại hoá nông ngư nghiệp (AFMA) với nội dung chính
bao gồm: chuyển hướng sản xuất sang dựa vào tài nguyên sang dựa vào công
nghệ; đảm bảo cho mọi người tham gia sản xuất có khả năng tiếp cận công
bằng đối với các loại tài sản, tài nguyên, dịch vụ; phát triển cây trồng có giá trị
kinh tế cao, tăng cường công tác chế biến để tăng giá trị hàng hoá, phát triển
công nghiệp nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực; khuyến khích liên kết
kinh tế thông qua các tổ chức HTX, hiệp hội, công ty, trang trại...; tăng cường
phát triển tài nguyên, nguồn nhân lực thông qua các tổ chức nhân dân: HTX,
các NGO, xây dựng cơ chế nối kết giữa các tổ chức này với quá trình ra quyết
định của Chính phủ; đẩy mạnh định hướng thị trường để phát triển khả năng
cạnh tranh của nông nghiệp trên thị trường ASEAN và quốc tế. Từ tháng 3 năm
1998, Luật này có hiệu lực và đã trở thành trọng tâm chiến lược phát triển nông
nghiệp hiện nay của Philippin.
Luật hiện đại hoá nông ngư nghiệp là một tổ hợp các chính sách liên
quan đến lĩnh vực sản xuất, tiếp thị, sử dụng tài nguyên, nguồn nhân lực,
nghiên cứu chuyển giao, khuyến nông, phát triển kinh tế nông thôn, tài chính
thương mại, do Bộ nông nghiệp làm điều phối viên với sự tham gia của Bộ
khoa học công nghệ, Bộ giao thông.v.v. với các biện pháp cụ thể như:
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 23
Xác định vùng chuyên canh để tại đó xây dựng các nhà máy chế
biến, hệ thống thuỷ lợi, thông tin, tiếp thị, giám sát chất lượng để phục
vụ sản xuất các mặt hàng nông sản chiến lược.
Hình thành hệ thống giáo dục địa phương hoàn chỉnh từ tiểu học
đến trung học, dạy nghề gắn với mạng lưới giáo dục trung tâm quốc gia,
phục vụ nông nghiệp và ngư nghiệp của đất nước theo nhu cầu của sản
xuất.
Tăng cường vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu,chuyển giao, áp
dụng công nghệ và khuyến nông từ 0,2% lên 1% tổng giá trị gia tăng của
toàn ngành.
Triển khai chương trình phát triển công nghiệp nông thôn tạo ra
các ưu đãi khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bỏ vốn vào
ngành chế biến nông sản, đồng thời phân cấp cho chính quyền địa
phương thực hiện hỗ trợ đầu tư và tiếp thị.
Giảm thuế đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu của các doanh nghiệp
nông ngư nghiệp.
Bộ Nông nghiệp Philippin cũng thông qua nhiều chương trìnhphát
triển sản xuất và bảo quản sau thu hoạch trong chương trình lương thực,
tiến hành các dự án thuỷ lợi như đập ngăn nước, hệ thống giếng khoan
thuỷ lợi, hỗ trợ sau thu hoạch, bao gồm: xây dựng các hè phơi sấy đa
năng, phân phối máy sấy nhỏ nhằm khịp thời sấy thóc; phân phối công
cụ đo độ ẩm của ngô để kiểm soát aflatoxin; các thiết bị xay xát gạo, nhà
kho, vận tải ... cũng được cải thiện.
+ Thái Lan: Phát triển nông nghiệp theo định hướng gắn với xuất khẩu
của Thái Lan đã góp phần quan trọng trong việc tránh những tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đồng thời đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng nông nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện mở cửa và hội nhập mạnh
mẽ vào AFTA hiện nay, nông nghiệp Thái Lan đang phải đối mặt với nhiều
thách thức to lớn, đó là: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp tuy Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 24
đang diễn ra, nhưng tốc độ còn chậm, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn
(trong thập kỷ 90, giá trị gia tăng ngành trồng trọt đạt 61,3%, thuỷ sản - 11,7%,
chăn nuôi - 10,6%); năng suất nông nghiệp vẫn còn thấp, chi phí sản xuất cao;
cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ sản xuất yếu kém, lạc hậu; cơ khí hoá
nông nghiệp chỉ phát triển mạnh ở vùng trung tâm, còn ở các vùng phía Bắc và
Đông Bắc lao động thủ công có sử dụng sức trâu bò vẫn chiếm ưu thế. Các
nguồn tài nguyên bị khai thác kém hiệu quả trong khi mâu thuẫn giữa mục tiêu
thương mại và bảo vệ môi trường sinh thái đang ngày càng trở nên gay gắt; đội
ngũ cán bộ khoa học yếu kém, nhất là trong nghiên cứu cơ bản.
Vào tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã đưa ra chương trình đầu tư theo
chiều sâu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của 12 mặt hàng nông sản chủ
lực, được phân chia thành 3 nhóm như sau:
Nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao, bao gồm: gạo, sắn, cao su,
tôm càng xanh, dứa.
Nhóm có khả năng cạnh tranh trung bình, bao gồm: đường, dầu cọ,
ngô, cà phê.
Nhóm đặc sản, bao gồm: nhãn, sầu riêng, hoa phong lan.
Xuất phát từ định hướng này, Chính phủ đã đề ra những giải pháp thích
hợp cho từng nhóm hàng riêng biệt, xuyên suốt từ sản xuất, chế biến đến tiêu
thụ, chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng, tăng
cường tín dụng ưu đãi trung và dài hạn, tăng cường đầu tư cho thuỷ lợi và khoa
học kỹ thuật.
Nhờ nhanh chóng điều chỉnh chính sách để đương đầu với khó khăn,
đồng thời tranh thủ thời cơ do cuộc khủng hoảng gây ra, do vậy trong lúc các
lĩnh vực khác rơi vào khủng hoảng thì nông nghiệp nước này vẫn đạt tốc độ
tăng trưởng 3%/năm. Tỷ giá đồng Bath được điều chỉnh hợp lý đã tạo điều kiện
thuận lợi cho gia tăng xuất khẩu hàng nông sản. Nhờ đó tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu hàng nông sản đã lên tới 33,6%. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện trợ
cấp trực tiếp cho hoạt động sản xuất và tiếp thị của nông dân thông qua “Quỹ Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 25
hỗ trợ chính sách cho nông dân” (năm 1998 là 10 triệu Bath) giảm thuế xuất
khẩu nông sản và thuế nhập khẩu nguyên liệu.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến
nông sản trên thị trường quốc tế, Thái Lan hướng vào nâng cao chất lượng hàng
nông sản xuất khẩu. Các nhà đầu tư phải thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và quản lý môi trường ISO 14000,
nhờ vậy mà nhiều mặt hàng nông sản chế biến của Thái Lan đã đạt tiêu chuẩn
quốc tế và dễ dàng vượt qua các rào cản thương mại, thâm nhập thành công vào
các thị trường "khó tính "như EU, Mỹ, Nhật...
Đầu tư tư nhân và liên doanh với nước ngoài tăng nhanh trong công
nghiệp chế biến cao su và thuỷ sản. Năm 1998 xuất khẩu nông sản đã qua chế
biến tăng 19%. Hầu hết các dự án đầu tư đều có công nghệ hiện đại, nhờ đó
chất lượng và uy tín sản phẩm đã được nâng lên rõ rệt. Thái Lan hiện nay đang
đang dẫn đầu thế giới về chế biến dứa, tôm và cá hồi đông lạnh (kim ngạch
xuất khẩu năm 1998 đạt 611 triệu USD). Nhờ chất lượng đảm bảo, có uy tín
nên Thái Lan dã dần giành được khách hàng của Inđônêxia và Malaysia. Hiệp
hội cao su Thái Lan đã ký được hợp đồng đảm bảo cung cấp sản phẩm có chất
lượng cao cho Nhật Bản. Tương tự, Thái Lan cũng đã khẩu thịt gà chế biến
sang các nước Châu Âu và Nhật Bản.
Thái Lan còn chủ trương xây dựng tỉnh Pattani thành trung tâm sản xuất
thực phẩm cho thế giới đạo Hồi, nhờ phát hiện ra tiềm năng to lớn của thị
trường 1,5 tỷ người tiêu dùng với sức mua 80 tỷ USD/năm. Dự kiến chương
trình này sẽ xuất khẩu 10 tỷ USD trong vài năm tới. Chính phủ còn cung cấp
kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích đầu tư bằng thuế và tín dụng ưu
đãi, giúp các nhà đầu tư nghiên cứu thị trường Ai Cập, Nam Phi, thống nhất với
Inđônêxia và Malaysia về nhãn hiệu sản phẩm, quy cách quản lý chất lượng
thực phẩm cho người tiêu dùng theo đạo Hồi ở các nước ASEAN. Đến nay đã
có 221 nhà máy sản xuất các sản phẩm này đi vào hoạt động.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 26
+ Malaysia: trong năm 2000, nước này đã tuyên bố Chiến lược phát triển
nông nghiệp trong 10 năm tới với mục tiêu đưa nông nghiệp phát triển thành
một lĩnh vực hiện đại, có trình độ thương mại hoá cao, thông qua việc thực hiện
đồng bộ một hệ thống các chính sách với nội dung chính như sau:
Tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn tài nguyên, tập trung vào việc
phục hồi, và cải tạo đất hoang, mở rộng, nâng độ màu mỡ của đất trồng
cây hàng năm. Chính phủ đã xây dựng một quy hoạch sử dụng đất tổng
thể, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước nhằm tăng năng suất cây
trồng và duy trì nguồn tài nguyên cho tương lai.
Phát triển các ngành công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông
nghiệp dựa vào tài nguyên của từng địa phương để đẩy mạnh xuất khẩu
nông sản thành phẩm.
Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, trong đó nghiên cứu áp dụng
công nghệ hiện đại là ưu tiên hàng đầu, tập trung vào các yếu tố: quản lý
tài nguyên, phương pháp sản xuất, chế biến, đóng gói, phát triển giống
cây trồng, vật nuôi, các nguồn vốn trong và ngoài nước. Cả Nhà nước và
tư nhân được huy động để áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao
trong trồng trọt và chăn nuôi. Chính sách khuyến khích bằng vật chất
cũng được áp dụng để liên kết nghiên cứu, sản xuất và sử dụng tài
nguyên địa phương.
Đề cao vai trò của tư nhân trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp
thành lĩnh vực thương mại hoá, có khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước và quốc tế. Các kỹ năng quản lý, marketing, sử dụng nguồn
vốn, mạng lưới phân phối của tư nhân được coi trọng. Nhiều quy định và
chính sách hỗ trợ, tăng cường phát triển nông nghiệp dựa trên nguồn lực
và sự linh hoạt của khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả các tổ chức của
nông dân, ngư dân đã được ban hành. Các tổ chức này được khuyến
khích tham gia thương mại, kể cả liên doanh với các nhà đầu tư nước
ngoài.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 27
Đổi mới công tác tiếp thị, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Theo
các nhà hoạch định chính sách Malaysia, tốc độ phát triển của ngành
nông nghiệp trong tương lai phụ thuộc và sự phát triển của công tác thâm
nhập và chiếm lĩnh thị trường: giữ vững thị trường truyền thống, mở
rộng thị trường mới, đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng
của thị trường trong nước và ngoài nước. Sản phẩm nông nghiệp của
Malaysia được định hướng vào những mặt hàng có năng lực cạnh tranh
cao, tập trung vào các thị trường chuyên biệt, bám sát thị hiếu của khách
hàng, kịp thời đáp ứng cầu thị trường. Nhà nước đề ra một loạt các biện
pháp tổng thể như: truyền bá rộng rãi thông tin về thị trường; tổ chức
nghiên cứu, phân tích, dự báo về các thị trường tiềm năng; xây dựng cơ
sở hạ tầng, tăng cường giám sát chất lượng và tiêu chuẩn, khuyến khích
các liên doanh với tư nhân trong công tác tiếp thị nông sản.
Phát triển một ngành lương thực năng động, sẵn sàng đáp ứng
tiềm năng to lớn của thị trường nội địa về hàng lương thực đã qua chế
biến. Đó là tiềm năng về thay thế hàng nhập khẩu đáp ứng nhu cầu mới
nảy sinh khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên. Malaysia đã đề ra
một loạt các chính sách mới nhằm nâng cao chất lượng và dinh dưỡng
của các thực phẩm đang được lưu hành trên thị trường.
Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cụ
thể trong việc cải tạo giống cây trồng vật nuôi, tăng cường cơ khí hoá, cải thiện
trình độ quản lý của các trang trại, giảm hao hụt sau thu hoạch, cố gắng đáp
ứng 65% nhu cầu về lúa gạo trong nước vào năm 2010. Bên cạnh đó, Malaysia
còn đẩy mạnh đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển ngành chăn
nuôi hiện đại, chăn nuôi bò kết hợp với canh tác cọ dầu trong các hộ gia đình,
mở rộng diện tích cây trồng làm thức ăn cho gia súc. Malaysia tập trung vào
phát triển các cây trồng có lợi thế so sánh như cọ dầu, cao su. Quá trình cơ khí
hoá, tự động hoá, áp dụng giống có năng suất cao, phát triển đất mới, nâng cao
công tác quản lý... là nhằm hạ chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 28
thị trường dầu cọ và cao su thế giới. Nhằm hỗ trợ thực hiện chính sách cho
ngành nông nghiệp, Nhà nước xây dựng một chương trình đẩy mạnh các hoạt
động dịch vụ hỗ trợ như: khuyến nông, tín dụng, áp dụng công nghệ mới, tiếp
thị và phát triển các tổ chức của nông dân.
3. Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA của một số nước ASEAN
Qua kinh nghiệm và thực tiễn trong điều chỉn cơ cấu nông nghiệp của
các nước ASEAN như đã phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng
không có một mô hình phổ quát cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA. Tuy nhiên, với trường hợp của Việt
Nam, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản như sau:
3.1. Về lựa chọn chiến lược điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Trong quá trình xây dựng chiến lược điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, các nước đều có tính đến phân công lao động khu vực. Nghĩa là mỗi
nước đều tập trung đầu tư cho một số mặt hàng mũi nhọn dựa trên các lợi thế
sau:
- Lợi thế về điều kiện tự nhiên.
- Lợi thế về lao động.
- Lợi thế về công nghệ sản xuất và chế biến.
- Lợi thế về nhu cầu thị trường.
- Lợi thế về các yếu tố truyền thống.
Cụ thể là, Malaysia đẩy mạnh sản xuất, chế biến dầu cọ, cao su, ca cao;
Thái Lan thì lúa gạo, đường và thuỷ sản; Inđônêxia thì lâm nghiệp, chăn nuôi,
thuỷ sản; Philippin thì chăn nuôi, thuỷ sản, lúa gạo... Rõ ràng sự khai thác lợi
thế của từng nước có tính đến phân công lao động giữa các nước trong khối đã
thúc đẩy tăng trưởng về chất, cũng như giảm chi phí, tăng năng suất lao động
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 29
và nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vốn đầu tư, giúp cho việc đầu tư
tập trung và có trọng điểm.
3.2. Phát triển sản xuất và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng
thị trường mở
Để phát huy tối đa lợi thế so sánh, các nước đều tập trung vào sản xuất
một hoặc một số sản phẩm nông nghiệp chính với khối lượng lớn, giá cả thấp,
nhằm vươn ra thị trường thế giới, đồng thời chấp nhận nhập khẩu các mặt hàng
nông nghiệp không có khả năng cạnh tranh hoặc nếu sản xuất thì giá trị gia tăng
không lớn, hiệu quả kinh tế không cao so với việc sử dụng các nguồn lực trong
nước tiến hành sản xuất các sản phẩm khác. Chẳng hạn Philippin sản xuất
nhiều gạo phẩm cấp cao, nhưng lại nhập lương thực phẩm cấp thấp làm thức ăn
cho gia súc, gia cầm. Thái Lan đang đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt
hàng nông sản đã qua chế biến nên tốc độ gia tăng xuất khẩu gạo chững lại,
đồng thời giảm xuất khẩu ngô, tăng nhập khẩu đậu tương...
3.3. Duy trì và ổn định thị trường trong nước bằng những phương
thức khác nhau
Trong khi tập trung cho các mũi nhọn sản xuất và xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực, các nước ASEAN vẫn chú ý tới việc duy trì và ổn định thị trường
trong nước. Những nước có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ thì tập trung hơn
vào những ngành mũi nhọn để tăng cường xuất khẩu (như Malaysia). Còn
những nước khác thì lựa chọn phương thức phát triển đa ngành, đa nghề, đa
dạng hoá sản phẩm. Việc lựa chọn này, một mặt để ổn định thị trường rộng lớn,
đông dân trong nước với nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng; mặt
khác là để hạn chế rủi ro khi thị trường thế giới biến động. Điều này ta có thể
thấy rất rõ ở những nước đông dân cư, lãnh thổ rộng lớn, như: Inđônêxia,
Philippin, Thái Lan.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 30
3.4. Về trường hợp của Việt Nam
Việt Nam đã cam kết lịch trình thực hiện các quy định của AFTA bằng
việc công bố Danh mục thực hiện cắt giảm thuế, theo đó ngành nông nghiệp
Việt Nam có lịch trình hội nhập AFTA tương đối sớm hơn so với các ngành
khác. Nếu xét về vấn đề lựa chọn mô hình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp để hội nhập thành công, thì theo kinh nghiệm của các nước ASEAN đi
trước, chúng ta nên thiên về đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, có tính đến một
số mặt hàng chủ lực, ít nhất cũng vì hai lý do sau:
+ Thứ nhất, Việt Nam là một nước đông dân với sự phân bố
không đều trên nhiều loại địa hình, giao thông liên lạc chưa phát triển,
làm cho việc vận chuyển lương thực, thực phẩm giữa các vùng khó
khăn. Do vậy, chúng ta nên đa dạng hoá trồng trọt, chăn nuôi ở tất cả
các vùng miền của đất nước để đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu
của người dân mỗi vùng.
+ Thứ hai, Việt Nam còn là nước nông nghiệp nhiệt đới, có
nhiều tiểu vùng khí hậu thuận lợi cho nuôi trồng nhiều loại nông sản
quý, độc đáo, rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Đây là điều
kiện tốt cho nước ta xây dựng một số mặt hàng nông sản xuất khẩu
chủ lực có khả năng cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN- AFTA.
Hy vọng rằng với những kinh nghiệm của các nước ASEAN đã nêu, việc
điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam sẽ được tiến hành một
cách đúng đắn hợp lý, tạo nên cơ sở thuận lợi cho nền nông nghiệp nước ta
vững vàng hội nhập AFTA.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 30
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ CƠ CẤU HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN VỪA QUA
Một là, nông nghiệp Việt Nam đang là một nền nông nghiệp sản xuất
nhỏ, manh mún, còn một bộ phận tự túc tự cấp.
Về cơ bản, nền nông nghiệp của Việt Nam đang chuyển dần sang sản
xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. Người nông dân hầu như vẫn đưa ra
thị trường những gì mà họ có chứ chưa phải những sản phẩm mà thị trường
cần.
Thêm vào đó sản xuất nông nghiệp hiện nay của Việt Nam được tiến
hành bởi 13,2 triệu hộ gia đình nông dân, trong đó 11 triệu hộ làm nông nghiệp
(gồm cả lâm, ngư nghiệp). Bình quân mỗi hộ có 2,5 lao động, 0,7 ha đất nông
nghiệp và có tới 7 thửa đất nhỏ manh mún. Trong điều kiện sản xuất manh mún
như vậy, với bản chất tư hữu của người nông dân thì rất khó áp dụng có hiệu
quả tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để hình thành các vùng chuyên canh
sâu, tạo ra sản phẩm có chất lượng và độ đồng đều cao.
Khó khăn chính của tình trạng manh mún, sản xuất nhỏ là chất lượng
hàng nông sản rất thấp, thị trường thu mua nhỏ lẻ, khó áp dụng các thành tựu
mới về khoa học công nghệ vào sản xuất cũng như chế biến, hạn chế đầu tư của
Nhà nước cho những vấn đề đồng bộ trong các khâu: sản xuất - thu mua - chế
biến - tiêu thụ - xuất khẩu.
Mục tiêu phấn đấu của nền nông nghiệp nước nhà là mau chóng vươn lên
sản xuất hàng hoá, có sức cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới,
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 31
góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà hội nhập thành công vào các Khu
vực mậu dịch tự do như: AFTA…
Sau 15 năm kể từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
(05/05/1998) đến nay, nền nông nghiệp của chúng ta đã đạt được những thành
tích vượt bậc: cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng thích hợp với quá
trình hội nhập nông nghiệp đang diễn ra, tốc độ tăng trưởng của ngành luôn đạt
4,5%/năm, giá trị xuất khẩu đạt bình quân 3 tỷ USD/năm, thị trường xuất khẩu
hàng nông sản được mở rộng. Tuy vậy, nhiều vấn đề mới cũng đã nảy sinh đòi
hỏi phải có giải pháp xử lý hữu hiệu để nền nông nghiệp nước ta hội nhập
thành công vào nền nông nghiệp thế giới trong thời gian sắp tới mà AFTA là
bước khởi đầu.
Hai là, nền nông nghiệp Việt Nam vẫn đang giữ một vai trò quan trọng
trong việc ổn định kinh tế, đời sống dân cư vầ hậu thuẫn cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bảng 4: Đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế (%)
Năm 1998 1999 2000 2001 2002
15,51 25,01 14,92 8,82 12,30 Nông nghiệp
46,55 54,16 50,74 54,41 48,67 Công nghiệp
37,93 20,83 34,32 34,32 38,53 Dịch vụ
Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2002, Viện quản lý kinh tế TƯ, HN 2003, tr. 11.
Nông nghiệp nước ta hiện nay đang là ngành tạo ra việc làm và thu nhập
cho khoảng 70% lực lượng lao động toàn xã hội, đồng thời cũng là ngành có
đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, với
mức đóng góp bình quân trên 10%/năm. Đây là một tỷ lệ khá cao so với các
nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
GDP các ngành kinh tế trong 18 năm qua theo giá cố định 1994 đều tăng.
Về số tuyệt đối, GDP nông nghiệp tăng gần 2 lần từ 36, 8 nghìn tỷ đồng năm
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 32
1985 lên trên 68 nghìn tỷ đồng năm 2002 (mặc dù về tỷ trọng trong GDP lại
giảm từ 34,69% xuống 23,30% trong cùng kỳ). Mức độ đóng góp của nông
nghiệp vào GDP theo số tuyệt đối không phải là nhỏ so với mức độ đóng góp
công nghiệp và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ rằng nông nghiệp vẫn thực sự vẫn
còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của toàn nền kinh tế Việt
Nam.
Biểu đồ 1: Giá trị đóng góp của các ngành kinh tế vào GDP theo giá so
140000
120000
100000
80000
60000
40000
20000
1985
1987
1993
1999
2003
1991 1989 N«ng nghiÖp
1997 1995 C«ng nghiÖp
2001 DÞch vô
sánh năm 1994 giai đoạn 1985 - 2003* (tỷ đồng)
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm.
*: Dự tính năm 2003
II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CỦA HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CẠNH TRANH VỚI CÁC SẢN PHẨM CÙNG LOẠI TỪ CÁC
NƯỚC ASEAN KHÁC KHI CEPT/AFTA HOÀN THÀNH
1. Khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam của các mặt hàng nông
sản được sản xuất tại các nước khác trong khối ASEAN
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 33
Trong việc xác định năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam,
một vấn đề rất quan trọng là phải biết các đối thủ cạnh tranh hiện tại và trong
tương lai đang có những thế mạnh nào. Đây chính là việc xác định những mặt
hàng nông sản nào của các nước ASEAN có khả năng thâm nhập thị truờng
nước ta khi CEPT/AFTA hoàn thành. (Xem phụ lục 1)
Trong cơ cấu thương mại hiện nay của ASEAN, thương mại hàng nông
sản chiếm khoảng 40%. Điều đó cho thấy trên bình diện chung, nhất là khi lịch
trình cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA hoàn thành, hàng nông sản các nước
ASEAN sẽ có mức độ thâm nhập khá cao vào thị trường Việt Nam.
Lý do hàng nông sản các nước ASEAN có khả năng thâm nhập cao vào
thị trường Việt Nam khi CEPT/AFTA hoàn thành là do:
- Thứ nhất, do cùng nằm trong vùng nhiệt đới nên các nước ASEAN đều
có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế về các mặt hàng nông sản nhiệt
đới.
- Thứ hai, trình độ phát triển của nền kinh tế các nước ASEAN, nhất là 6
nước thành viên cũ, cao hơn nên hậu thuẫn tốt hơn cho các khâu sản xuất nông
phẩm, từ công nghệ sau thu hoạch cho đến chế biến.
- Thứ ba, mặc dầu mỗi nước đều có lợi thế cạnh tranh nổi trội ở những
mặt hàng riêng biệt, như: Philippin có sản phẩm dừa; Việt Nam có điều, cà phê,
gạo; Thái Lan có gạo đường, sắn viên, gà đông lạnh; Inđônêxia có hồ tiêu...,
nhưng trên thị trường thế giới các nước ASEAN đều không có khả năng cạnh
tranh về các mặt hàng như: bông, sữa, đồ uống, thuốc lá..., nên các nước này sẽ
tìm cách tiêu thụ các sản phẩm đó ở thị trường khu vực.
Nhờ lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao
động rẻ nên Việt Nam có lợi thế tương đối cao về các mặt hàng nông sản sơ
chế chủ yếu như: thuỷ sản, gạo cà phê, điều, chè.., trong đó một số mặt hàng
như: hàng thuỷ sản, gạo, cà phê, điều, đã xác định được vị thế trên thị trường
quốc tế. Một số mặt hàng có sức cạnh tranh tương đương so với các nước trong
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 34
khối như: rau quả tươi, cao su sơ chế, hạt có dầu. Còn các mặt hàng như:
đường, thức ăn gia súc, dầu thực vật, gỗ chế biến, cám bã, thuốc lá... có sức
cạnh tranh kém hơn so với các nước trong khối do công nghiệp chế biến của
nước ta về cơ bản lạc hậu so với các nước trong khối. Vì thế, khi CEPT/ AFTA
hoàn thành các doanh nghiệp nội địa sản xuất kinh doanh các mặt hàng này sẽ
phải chịu cạnh tranh gay gắt hơn ngay trên chính thị trường trong nước.
Mức độ thâm nhập thị trường Việt Nam của hàng hoá nông sản các nước
ASEAN phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Ngoài trình độ sản xuất, công
nghệ chế biến, mức độ đa dạng hoá của sản phẩm, sản phẩm thay thế, thì yếu tố
thói quen và thị hiếu tiêu dùng, mức thu nhập của các nhóm dân cư .v.v. ở Việt
Nam cũng có một ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, xét theo mức độ cạnh tranh
của hàng nông sản trong nước khi chúng ta hoàn thành cắt giảm thuế quan theo
CEPT vào năm 2006, bước đầu có thể dự báo về khả năng thâm nhập thị trường
Việt Nam của hàng nông sản các nước các nước trong khối theo các mức độ:
thâm nhập cao, trung bình và thấp như sau:
- Nhóm có khả năng thâm nhập cao, bao gồm: đường, dầu thực vật, thực
phẩm chế biến, thức ăn gia súc, đồ gỗ chế biến.
- Nhóm có mức độ thâm nhập trung bình, bao gồm: thịt, quả tươi, hoa
tươi, đồ uống, hạt có dầu.
- Nhóm có mức độ thâm nhập thấp, bao gồm: thuỷ sản, gạo, cà phê, chè,
cao su sơ chế, sữa và sản phẩm từ sữa.
Thứ nhất, nhóm có khả năng thâm nhập cao:
Có thể thấy trong số các nhóm hàng nông sản nhập khẩu vào Việt Nam
trong thời gian qua, tỷ trọng nhập khẩu từ các nước ASEAN tương đối lớn.
Nhiều mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể như: dầu thực vật, thực
phẩm chế biến (bánh kẹo, bột gia vị tổng hợp), thức ăn chăn nuôi, thuốc lá.
Những nhóm hàng trên đã chứng minh được khả năng cạnh tranh khi thâm
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 35
nhập thị trường Việt Nam ngay cả khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan
chưa có sự ưu đãi đáng kể. Vì thế, khi CEPT/AFTA hoàn thành, khả năng cạnh
tranh của những mặt hàng này sẽ tăng thêm nhiều và là những mặt hàng có khả
năng thâm nhập cao nhất do tác động của việc giảm thuế.
Riêng mặt hàng mía đường, hiện nay tuy tỷ trọng nhập khẩu từ các nước
ASEAN không lớn, nhưng khi CEPT/AFTA hoàn thành khả năng thâm nhập sẽ
tăng cao do mía đường hiện đang là mặt hàng được bảo hộ cao nhất trong nhóm
hàng nông sản nhập khẩu của Việt Nam (tính cả bảo hộ thuế quan và phi thuế
quan lên tới khoảng 100%). Trong khi đó Thái Lan một trong 3 nước sản xuất
đường lớn nhất trên thế giới, giá thành sản xuất đường của Thái Lan chỉ bằng
54% của Việt Nam và chi phí vận chuyển từ Thái Lan về Việt Nam không lớn.
Nhóm hàng có khả thâm nhập cao của các nước trong khối vào thị
trường là những mặt hàng mà ta ít (hoạc không) có lợi thế cạnh tranh, trình độ
sản xuất, công nghệ chế biến còn nhiều yếu kém, mới được phát triển trong thời
gian gần đây để thay thế nhập khẩu. Khi tham gia AFTA khó khăn lớn nhất sẽ
tập trung vào nhóm hàng này do đa số chúng vẫn đang được bảo hộ bằng nhiều
biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp cụ thể để
hỗ trợ, khắc phục khó khăn từ phía Nhà nước, các hộ nông dân, các doanh
nghiệp cũng cần chủ động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sãn sàng
chấp nhận cạnh tranh ngay trên sân nhà, góp phần duy trì và ổn định thị trường
trong nước.
Thứ hai, nhóm có mức độ thâm nhập trung bình:
Những mặt hàng nông sản của ASEAN có khả năng cạnh tranh thâm
nhập trung bình là những mặt hàng mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh tương
đương hoặc không thua kém nhiều so với các nước ASEAN khác. Đối với
nhóm hàng này, Việt Nam có được mặt mạnh nhờ vào các lợi thế về điều kiện
tự nhiên, nguồn lao động rẻ nhưng lại thể hiện yếu kém trên các mặt: nguyên
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 36
liệu sản xuất không ổn định, chất lượng sản phẩm chưa cao, độ đồng đều kém,
công nghệ chế biến lạc hậu nên giá thành còn cao và chưa tạo dựng được
thương hiệu riêng.
Trong tương lai khi hoàn thành CEPT/AFTA, khả năng cạnh tranh của
nhóm hàng này trên thị trường trong nước sẽ tăng mạnh, nhất là các mặt hàng
nông sản chế biến như: thịt gia cầm, rau quả, đồ uống.v.v. Khâu yếu kém nhất
của các mặt hàng này chính là khâu chế biến. Vì vậy, chúng ta cần có giải pháp
tổng hợp bên cạnh việc ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần
đặc biệt chú ý đến việc nâng cấp, đưa công nghệ mới vào khâu chế biến, nhằm
đa dạng hoá sản phẩm, có chiến lược duy trì và giữ vững thị trường trong nước,
xây dựng và mở rộng mạng lưới tiêu thụ trên toàn quốc.v.v. để hạn chế khả
năng thâm nhập của hàng các nước ASEAN vào thị trường trong nước, đồng
thời khai thác được lợi thế cạnh tranh của sản phẩm để thâm nhập thị trường
trong khối và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hiện tại, cần có thêm một thời gian nhất định để các ngành hàng thuộc
nhóm này (ví dụ: rau quả, thực phẩm chế biến, các sản phẩm sữa, chè, cao su,
lâm sản, hoa, thịt gia cầm) có thể củng cố thêm sức cạnh tranh bằng cách đổi
mới công nghệ chế biến, quy trình sản xuất, cơ cấu giống, cơ cấu sản phẩm. Do
vậy, giải pháp tốt nhất để Việt Nam không bị thua thiệt trong giai đoạn đầu hội
nhập CEPT/AFTA là đưa chúng vào Danh mục loại trừ tạm thời trong một
khoảng thời gian ngắn.
Thứ ba, nhóm có khả năng thâm nhập thấp:
Đây là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu và đã xác
định được vị thế trên thị trường quốc tế (như: gạo, cà phê, điều, thuỷ sản...) nên
các mặt hàng này từ các nước ASEAN sẽ gặp khó khăn khi thâm nhập thị
trường Việt Nam. Tuy nhiên, lượng nhập khẩu vào Việt Nam của một số sản
phẩm từ các nước ASEAN trong nhóm này có thể sẽ tăng lên do tính đa dạng
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 37
về chủng loại mặt hàng và thị hiếu tiêu dùng (ví dụ: gạo chất lượng cao của
Thái Lan sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của
một số thị dân có mức thu nhập khá.v.v. ).
2. Khả năng thâm nhập thị trường các nước trong khối ASEAN của mặt
hàng nông sản Việt Nam
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang các nước
ASEAN tăng 52% so với năm 1997 (trong khi mức tăng xuất khẩu hàng nông
sản chung là 15%); nhập khẩu giảm 4% (trong khi nhập khẩu hàng nông sản
chung tăng 20%). Điều đó cho thấy hàng nông sản của Việt Nam đang ngày
càng thâm nhập sâu hơn vào thị trường ASEAN.
Hiện nay, các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang các nước
ASEAN khác có thể phân làm 3 nhóm theo mức độ thâm nhập thị trường như
sau:
- Nhóm có khả năng cạnh tranh thâm nhập tốt thị trường ASEAN, bao
gồm: lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều.v.v.
- Nhóm có khả năng thâm nhập trung bình, bao gồm: rau, hoa quả, cao
su, chè, tơ tằm, lạc.v.v.
- Nhóm có khả năng thâm nhập thấp hoặc bị các mặt hàng được sản xuất
tại các nước ASEAN đe doạ chiếm mất ngay cả thị phần trong nước, bao gồm:
dầu thực vật, thực phẩm chế biến, thức ăn chăn nuôi, gỗ ván nhân tạo.v.v.
Thứ nhất, nhóm sản phẩm có khả năng thâm nhập mạnh vào thị trường
ASEAN:
Đây là những nông phẩm mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không chỉ
trong khối mà còn xác lập được vị thế trên trường quốc tế. Cụ thể như:
- Đối với mặt hàng lúa gạo:
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 38
Trong những năm qua, sản phẩm gạo của Việt Nam đã được xuất khẩu
với khối lượng đáng kể vào thị trường ASEAN. Thị trường nhập khẩu gạo chủ
yếu của Việt Nam trong khối ASEAN bao gồm các nước: Inđônêxia, Philippin,
Malaysia, Xingapo và Lào, nhưng lúa gạo lại thuộc Danh mục nhạy cảm của
các nước này (trừ Xingapo), nên lợi ích của việc giảm thuế nhập khẩu theo
CEPT/AFTA của mặt hàng này chỉ phát huy tác dụng mạnh sau năm 2010, khi
các mặt hàng thuộc Danh mục nhạy cảm được đưa vào cắt giảm. Mặt khác, gạo
xuất khẩu của Việt Nam cũng phải cạnh tranh gay gắt với gạo của của Thái Lan
và Myanma trên thị trường ASEAN, trong khi các nước nhập khẩu gạo khối
lượng lớn cũng đang có xu hướng khuyến khích sản xuất trong nước vì mục
tiêu an ninh lương thực. Thêm vào đó, hầu hết gạo của nước ta được xuất khẩu
sang ASEAN đều thông qua các hợp đồng Chính phủ nên việc xuất khẩu sẽ gặp
khó khăn nếu không có sự tham gia của Chính phủ. Vì thế khi CEPT/AFTA
hoàn thành thị trường gạo của Việt Nam được mở rộng không nhiều nếu không
có được những điều chỉnh hợp lý. Để khắc phục tình trạng trên, mặt hàng lúa
gạo cần có kế hoạch nâng cao chất lượng, đổi mới và đa dạng hoá mặt hàng để
giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu ngoài ASEAN, đẩy mạnh và nâng
cao chất lượng xúc tiến đàm phán thương mại đối với mặt hàng gạo.
Bảng 5: Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK gạo
964.010 273.572 32,0 1996
962.404 238.621 27,3 1997
2.050.963 562.224 54,9 1778
2.557.500 569.600 55,6 1999
1.331.300 233.870 35,3 2000
1.657.855 262.484 43,0 2001
1.466.214 327.204 45,1 2002
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 39
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
- Đối với mặt hàng cà phê:
Các nước ASEAN nhập khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam bao gồm:
Xingapo, Thái Lan và Inđônêxia dưới dạng thô, sơ chế (nhưng từ năm 1996 trở
lại đây, tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang ASEAN liên tục giảm).
Các nước này nhập khẩu cà phê của Việt Nam về chủ yếu để gia công chế biến
và tái xuất khẩu, nên khi thị trường cà phê thế giới có biến động lượng nhập
khẩu cà phê từ Việt Nam luôn giảm mạnh. Đối với các nước này, mặt hàng cà
phê thô, sơ chế hiện đã thuộc Danh mục cắt giảm thuế với mức thuế suất 0%, vì
vậy thuế suất nhập khẩu không còn là yếu tố tác động quyết định tới khả năng
xuất khẩu cà phê của nước ta vào thị trường này, mà yếu tố quan trọng cần chú
ý là chất lượng sản phẩm, giá cả và nhu cầu thị trường đối với từng chủng loại
cà phê cụ thể. Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào các nước
ASEAN trong thời gian tới, ngành sản xuất cà phê nước ta cần phải có những
chuyển đổi mạnh mẽ về giống, chất lượng, chủng loại hàng cà phê xuất khẩu
(tăng lượng xuất khẩu cà phê chè, giảm lượng xuất khẩu cà phê vối), chú trọng
phát triển công nghiệp chế biến mới có thể tăng khả năng cạnh tranh với sản
phẩm cùng loại của các nước khác, từ đó chiếm lĩnh và mở rộng được thị
trường xuất khẩu tăng thu ngoại tệ về cho đất nước.
Bảng 6: Xuất khẩu cà phê Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK cà phê
1996 89.168 120.337 30,1
116.688 146.944 29,8 1997
76.109 118.800 20,0 1778
79.699 62.293 16,5 1999
81.700 58.886 11,7 2000
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 40
2001 56.509 23.587 6,0
46.703 20.930 6,5 2002
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
- Đối với hạt tiêu:
Xuất khẩu hạt tiêu của Việt nam mới nổi lên từ giữa những năm 90. Từ
đó đến nay, diện tích trồng hồ tiêu không ngừng được mở rộng và đạt 28.000
ha năm 2001. Sản phẩm hồ tiêu của chúng ta được sản xuất ra chủ yếu dành
cho xuất khẩu (95%), tiêu dùng nội địa chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể (khoảng
5%).
Hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam (chủ yếu là dưới dạng thô hoặc sơ chế)
đang chiếm lĩnh thị trường hồ tiêu thế giới với sản lượng xuất khẩu tăng từ
10.000 tấn lên 56.000 tấn trong thời kỳ 1990-2001, đạt kim ngạch khoảng 90
triệu USD. Hiện nay, tuy không phải là nước sản xuất hồ tiêu lớn nhất, nhưng
Việt Nam lại là nước xuất khẩu hàng đầu trên thế giới về mặt hàng này.
Bảng 7: Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK hạt tiêu
0 0 0 1998
21.444 83.400 60,9 1999
14.500 57.489 39,4 2000
17.891 28.153 29,0 2001
16.170 22.680 21,0 2002
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Từ năm 1999, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu hồ tiêu sang các nước
ASEAN, chủ yếu là sang Xingapo, Lào, Malaysia, Thái Lan nhờ có giá xuất
khẩu thấp hơn so với hồ tiêu Ấn Độ. Nhưng điều đáng lưu ý hiện nay là sản
lượng hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đang giảm dần
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 41
do nhu cầu về mặt hàng điều ở các thị trường này tăng chậm, dẫn đến mức
cung tăng lên làm cho giá cả sụt giảm nghiêm trọng. Mặt khác, trong số các
nước nhập khẩu hồ tiêu chủ yếu của Việt Nam thì hầu hết đã giảm thuế nhập
khẩu xuống còn 0%-5% (trừ Thái Lan vẫn còn duy trì thuế MFN 30% đối với
hồ tiêu Việt Nam), do đó hy vọng tăng xuất khẩu nhờ giảm thuế heo
CEPT/AFTA là không nhiều. Để khắc phục tình trạng trên, một mặt chúng ta
phải tăng cường công tác chế biến thành phẩm, nâng cao chất lượng hàng xuất
khẩu để giữ vững thị phần đã xác lập được; mặt khác chúng ta cũng phải quy
hoạch lại diện tích gieo trồng loại cây này, chuyển đổi những diện tích không
hiệu quả sang canh tác các loại cây trồng có giá trị gia tăng và khả năng xuất
khẩu cao hơn.
- Đối với hạt điều:
Việt Nam có nhiều thế mạnh và điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất
khẩu hạt điều, và thực sự cây điều đã xác định được vị thế của mình trong sản
xuất nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản của đất nước nói riêng.
Hiện nay thị trường xuất khẩu điều chủ yếu của Việt Nam là: Châu Âu, Châu
Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản. Một số nước ASEAN như: Lào, Xingapo,
Malaysia có nhập điều của nước ta nhưng với khối lượng không nhiều.
Bảng 8: Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK hạt điều
9.617 2.173 12,7 1996
1.729 463 1,3 1997
381 87 0,3 1778
300 64 0,3 1999
895 200 0,5 2000
580 218 0,41 2001
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 42
2002 238 801 0,38
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Hiện nay các nước ASEAN đang áp dụng mức thuế suất nhập khẩu điều
của Việt Nam từ 5%-15%, do đó trong tương lai khi CEPT/AFTA hoàn thành,
khả năng xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng lên. Để tăng giá trị xuất khẩu của sản
phẩm điều trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt chú ý tới việc đổi mới cơ
cấu giống cây trồng, tập trung trồng điều thâm canh đi đôi với nâng cao chất
lượng điều tinh chế, cải tiến mẫu mã, bao bì, đa dạng hoá các sản phẩm từ điều
để góp phần mở rộng thị phần của sản phẩm điều xuất khẩu nước ta trên thị
trường khu vực ASEAN và quốc tế.
Thứ hai, nhóm có khả năng thâm nhập trung bình vào thị trường các
nước ASEAN:
- Đối với cao su:
Trên thị trường cao su thế giới thị phần của các nước Thái Lan,
Inđônêxia, Malaysia chiếm tới 80%, trong khi thị phần của Việt Nam mới đạt
khoảng 5%. Sản xuất cao su trong nước của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn,
năng suất thấp, chất lượng, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, khả năng tiếp
cận trực tiếp khách hàng còn yếu, do đó giá cao su xuất khẩu của Việt Nam
thường thấp hơn so với các nước trong khu vực. Trong khối ASEAN cao su của
Việt Nam nhìn chung chỉ xuất được sang các nước Campuchia, Lào, Malaysia
và Xingapo, nhưng với kim ngạch không ổn định.
Bảng 9: Xuất khẩu cao su của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK cao su
24.691 18.456 9,4 1996
37.504 44.464 19,7 1997
14.578 27.951 11,4 1778
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 43
1999 71.367 38.500 26,2
43.800 21.576 13,0 2000
59.891 28.264 17,7 2001
25.120 49.970 19,0 2002
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Các nước nhập khẩu cao su của Việt Nam hiện đang áp dụng thuế suất
0%, trong khi xu hướng xuất khẩu cao su các nước ASEAN không ổn định cho
thấy nước ta khó có khả năng xuất khẩu cao su sang thị trường này nếu không
thay đổi về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu mặt hàng này.
- Đối với sản phẩm chè:
Việt Nam tuy không phải là nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới (chỉ
chiếm khoảng 2-3% khối lượng chè buôn bán trên thế giới, trong khi các nước
Sri-Lanka, Kênia, Trung Quốc, Ấn Độ chiếm tới 2/3 thị trường chè xuất khẩu
của thế giới), nhưng lại có lợi thế về chè xanh. Do đó, trong thời gian qua khối
lượng chè xuất khẩu của nước ta tăng nhanh từ 20 nghìn tấn (năm 1990) lên 56
nghìn tấn (năm 2000) và 58 nghìn tấn (năm 2001), đạt kim ngạch 66 triệu USD.
Trong thị trường ASEAN, chè của Việt Nam đang bị cạnh tranh gay gắt
bởi chè của Inđônêxia cả về giá cả lẫn chất lượng (năng suất chè của Việt Nam
đạt 1 tấn chè chế biến/ha, bằng 50% năng suất của Inđônêxia, trong khi chè của
Inđônêxia đã xác lập được tên tuổi trên nhiều thị trường, đặc biệt là Nga và
Trung Đông).
Bảng 10: Xuất khẩu chè của Việt Nam sang ASEAN
Năm Lượng (tấn) Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK chè
1.161 1.422 4,9 1996
434 599 1,2 1997
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 44
1778 666 598 1,2
1.810 1.700 3,8 1999
3.500 2.866 4,1 2000
3.600 2.871 4,5 2001
2.820 3.149 4,7 2002
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Các nước ASEAN nhập khẩu chè chính của Việt Nam gồm có: Xingapo,
Inđônêxia, Malaysia với thuế nhập khẩu là 0-5% (của Xingapo và Inđônêxia)
và 15-60% (với các nước khác). Một điều đáng lưu ý là các nước ASEAN
nhập khẩu chè của Việt Nam không phải để tiêu dùng trong nước mà để chế
biến sâu, đóng gói nhãn mác các nước này để xuất khẩu sang nước thứ ba nên
lượng nhập khẩu không ổn định mà thay đổi theo nhu cầu thị trường các nước
đối tác của họ. Các nước có thuế nhập khẩu cao (Thái Lan và Myanma) lại
không nhập chè của nước ta do chất lượng và chủng loại chè của ta không đáp
ứng được thị hiếu tiêu dùng trong các nước này. Chính vì thế, khả năng mở
rộng xuất khẩu chè sang các nước ASEAN để hưởng lợi từ CEPT/AFTA là rất
ít, trừ khi chúng ta nâng cao được chất lượng, đáp ứng đúng, đủ về chủng loại
và thị hiếu tiêu dùng chè của bạn.
- Đối với mặt hàng rau quả:
Rau quả của Việt Nam sản xuất hàng năm với khối lượng lớn (khoảng 5
triệu tấn rau và 6 triệu tấn quả), chủ yếu được tiêu dùng dưới dạng tươi. Số
lượng xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15% sản lượng sản xuất hàng năm. Năm
2001, Việt Nam xuất khẩu một số sản phẩm chủ yếu gồm: dứa, chuối, xoài,
dưa hấu, nhãn, thanh long, chôm chôm, bắp cải, dưa chuột, cà chua, đậu, xúp
lơ, ớt ..., đạt kim ngạch 330 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay là các nước Trung
Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Xingapo, Inđônêxia, Campuchia, Lào.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 45
Bảng 11: Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang các nước ASEAN
Giá trị (1000 USD) % trong tổng KNXK rau quả Năm
26.393 29,3 1996
4.907,6 6,9 1997
8.551,9 16,0 1778
21.110,2 20,0 1999
7.600,8 3,6 2000
10.049 3,3 2001
5.628 2,8 2002
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Mặc dù hiện nay các nước ASEAN nhập khẩu rau quả của Việt Nam
vẫn chưa nhiều, số lượng không ổn định và chưa đúng với nhu cầu tiềm năng
trong các nước này, nhưng thị trường ASEAN thực sự là một thị trường hứa
hẹn đối với rau quả nước ta nếu chúng ta biết khai thác triệt để lợi thế so sánh
về sự đa dạng của khí hậu của đất nước.
Thứ ba, nhóm có khả năng thâm nhập thấp hoặc bị đe doạ mất thị phần
do các sản phẩm nhập khẩu từ các nước ASEAN khác:
Điểm yếu nhất của nhóm hàng này là công nghệ chế biến lạc hậu, mà
bản thân việc chuyển đổi cơ cấu trong ngành nông nghiệp không thể giải quyết
triệt để vấn đề. Muốn khắc phục tình trạng trên, khâu chốt yếu là phải đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo ưu đãi thoả đáng cho
các nhà đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông phẩm hàng hoá. Công việc này sẽ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 46
có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ thị trường nội địa bằng chính năng lực
cạnh tranh của hàng nông sản chế biến trong nước.
3. Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông
sản chính của Việt Nam trên thị trường ASEAN
Theo các phân tích đã trình bày ở trên về khả năng cạnh tranh và thâm
nhập thị trường của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt
Nam so với các mặt hàng tương tự từ các nước ASEAN khác, chúng ta có thể
nhận định một cách tổng quát rằng: nhìn chung, khi CEPT/AFTA hoàn thành
(đồng nghĩa với hàng rào bảo hộ bằng các công cụ thuế quan sẽ được hạ xuống
rất thấp (bình quân là 5%), hàng rào phi thuế quan cũng được giảm dần xuống
mức có thể chấp nhận được trong các nước thành viên ASEAN) các nông
phẩm xuất khẩu chính của nước ta như: gạo, cao su, cà phê, điều...sẽ có thêm
những thuận lợi mới, thời cơ mới để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu
trong khu vực, gia tăng cả về khối lượng lẫn giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Mặc dù, hàng nông sản của chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với không ít
thách thức, trở ngại không dễ vượt qua, đặc biệt là đối với những mặt hàng đã
qua chế biến do nhiều nguyên nhân như: trình độ công nghệ chế biến lạc hậu,
mức độ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi còn rất
thấp, công tác quy hoạch thiếu khoa học, đồng bộ, cơ cấu ngành nông lâm ngư
nghiệp cũng như cơ cấu nội bộ ngành (cơ cấu cây trồng, vật nuôi), cơ cấu vùng
còn chưa hợp lý, thiếu các chiến lược, sách lược hiệu quả để phát triển ngành
nông nghiệp cho phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh
vực nông nghiệp. Để khắc phục những tồn tại kể trên, đáp ứng yêu cầu phát
triển cân đối, vững chắc, đẩy mạnh xuất khẩu và hội nhập của ngành nông
nghiệp trong giai đoạn tới, một vấn đề quan trọng, cấp thiết cần sớm được giải
quyết đó là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho hợp lý, tập trung
phát huy lợi thế so sánh của đất nước căn cứ trên nhu cầu của thị trường, tạo ra
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 47
các sản phẩm xuất khẩu chủ lực làm đầu tầu kéo nền nông nghiệp nước nhà
vững bước phát triển theo xu hướng hội nhập và mở cửa trong tương lai gần.
Nói một cách cụ thể hơn, trong thời gian tới chúng ta phải có sự điều chỉnh
hợp lý cơ cấu sản xuất ngành nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng tăng tỷ
trọng giá trị và sản lượng các ngành lâm sản và thuỷ sản cho tương xứng với
tiềm năng của một đất nước với hơn 3.200 km bờ biển và sông ngòi dầy đặc,
một đất nước với 2/3 diện tích rừng núi nhiệt đới và bán nhiệt đới. Trong nội
bộ ngành nông nghiệp tỷ trọng ngành chăn nuôi phải tăng lên 20-25% trong
vòng 10 năm tới đồng thời với việc giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Tuy nhiên
một số hàng hoá xuất khẩu chủ lực đang có ưu thế vẫn nên tiếp tục được chú
trong nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra, đặc biệt là công tác chế biến
để nâng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể với từng mặt hàng
xuất khẩu chủ lực hiện nay sẽ được trình bày trong Phụ lục 2.
III. THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA
1. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp (theo
nghĩa rộng)
Giá trị sản lượng của ngành nông lâm ngư nghiệp trong hơn một thập kỷ
qua đã tăng gấp đôi, trong đó ngành ngư nghiệp có tốc độ tăng nhanh nhất
(hơn 3 lần), ngành nông nghiệp tăng 1,8 lần và ngành lâm nghiệp có tốc độ
tăng chậm nhất (đạt 1,3 lần).
Trong nội bộ ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm: nông - lâm -
ngư nghiệp), tỷ trọng của ngành ngư nghiệp (hay ngành thuỷ sản) tăng nhanh
từ 10,86% năm 1990 lên 18,77% năm 2002. Điều này cho thấy ngành ngư
nghiệp đang phát huy được thế mạnh của mình, khai thác được tiềm năng cả
về nuôi trồng cũng như đánh bắt để sản xuất ra các hàng hoá đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng nhất là của thị trường xuất khẩu.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 48
Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (gần 5%) và có
xu hướng giảm dần, cho thấy ngành lâm nghiệp chưa vươn lên ngang tầm của
một đất nước với 2/3 lãnh thổ là rừng núi.
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn còn lớn (gần
80%). Điều này cho thấy, việc chuyển dịch cơ cấu nông - lâm - ngư thời gian
qua còn chậm, sản xuất nông nghiệp thuần vẫn còn khá phổ biến trên cả nước.
Bảng 12: Cơ cấu giá trị ngành nông - lâm - ngư nghiệp (%)
Năm 1990 1995 1999 2000 2001 2002
82,51 81,60 81,17 80,70 77,96 76,90 Nông nghiệp
6,63 4,99 4,43 4,22 4,64 4,33 Lâm nghiệp
10,86 13,41 14,39 15,08 17,40 18,77 Ngư nghiệp
100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Toàn ngành NLN
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -
TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr.206
Đi sâu phân tích cơ cấu sản xuất của từng ngành riêng biệt cho thấy:
1.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi đã có sự
điều chỉnh theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành
chăn nuôi. Tuy nhiên quá trình này diễn ra rất chậm chạp, trồng trọt vẫn là
ngành sản xuất quan trọng, chiếm tới 80% giá trị sản lượng của ngành. Chăn
nuôi vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, năm 2002 sản lượng thóc sản xuất ra
đạt gần 34 triệu tấn, tăng thêm 1,5 triệu tấn so với năm 2001 và gấp đôi so với
năm 1986. Sản lượng lương thực có hạt đạt gần 33,6 triệu tấn, tăng 4,6% so
với năm 2001. Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi tăng 5,4% so với năm
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 49
trước, trong đó giá trị chăn nuôi gia súc và gia cầm tăng 7%, sản phẩm chăn
nuôi không qua giết mổ tăng 8,2%, sản lượng sữa tươi tăng gần 40%.
Bảng 13: Cơ cấu ngành nông nghiệp (%)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
80,51 80,18 80,04 81,75 81,05 80,19 79,93 78,50 Trồng trọt
19,49 19,82 19,96 18,85 18,95 19,81 20,27 21,50 Chăn nuôi
100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -
TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr.201
Trong chăn nuôi đại gia súc, năm 2002 có trên 2,8 triệu con trâu, 41
triệu con bò (tăng nhẹ so với năm 2001). Đàn lợn tăng 6,4% so với năm 2001,
đạt 23,2 triệu con. Đàn gia cầm tăng 6% đạt 233 triệu con so với 216 triệu con
của năm 2001. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 2,2 triệu tấn, tăng 8,9%
so với năm trước. Sản lượng trứng đạt 4,7 tỷ quả, tăng 1,34% so với năm 2001.
Trong ngành trồng trọt, mặc dù giá trị sản xuất của ngành kỳ 1995-2002
tăng gần 40% từ 66.183,4 tỷ đồng lên 96.933,1 tỷ đồng, nhưng cơ cấu giá trị
ngành này trong 7 năm qua vẫn chậm được điều chỉnh. Lương thực vẫn là cây
trồng chính, chiếm tỷ trọng lớn, tuy có giảm nhẹ. Tỷ trọng giá trị cây công
nghiệp tăng đều, đạt 1/4 tổng giá trị ngành trồng trọt, cho thấy cây công nghiệp
đang dần xác định được vị thế của mình trong ngành này. Như vậy, chuyển đổi
cơ cấu cây trồng tuy đã đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng còn khá
chậm so với yêu cầu đề ra và vẫn chưa thích ứng với nhu cầu của thị trường.
Bảng 14: Cơ cấu giá trị ngành trồng trọt (%)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 50
Lương thực 63,63 64,13 62,55 63,47 63,58 63,35 59,62 59,61
7,53 7,31 7,30 7,35 7,17 6,78 7,40 7,41 Rau đậu
Cây công nghiệp 18,36 18,39 19,53 19,46 20,47 20,53 24,69 24,46
8,43 8,17 8,23 7,88 7,47 7,64 6,76 6,94, Cây ăn quả
2,06 2,00 2,38 1,84 1,32 1,96 1,63 1,58 Cây khác
100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng số
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -
TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 659
Trong hơn một thập kỷ qua, tổng diện tích đất nông nghiệp nước ta đã
tăng từ 9,04 triệu ha năm 1990 lên 12,66 triệu ha năm 2002 (với tốc độ tăng
bình quân 3%/năm). Trong đó diện tích cây hàng năm mà chủ yếu là cây lương
thực tăng chậm (2%/năm) (Xem phụ lục 3) là do trong những năm qua, bà con
nông dân đã ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là giống mới năng
suất cao vào sản xuất, nên vẫn duy trì được tốc độ tăng sản lượng lương thực,
không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tăng được khối
lượng xuất khẩu. Một nguyên nhân khác khiến diện tích cây lương thực tăng
chậm là do giá cả lương thực trên thị trường biến động thất thường, gây bất lợi
cho người sản xuất.
Diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng lên nhanh chóng với tốc độ bình
quân 8%/năm, đưa diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng gấp đôi từ 657 ngàn
ha (năm 1990) lên 1504 ngàn ha (năm 2002). Nguyên nhân chính dẫn đến diện
tích cây lâu năm nhất là cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả tăng nhanh
trong thời kỳ 1990-2002 là do có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, do
việc phát triển diện tích một số loại cây công nghiệp ồ ạt, không tính đến nhu
cầu thị trường nên đã dẫn đến cung vượt cầu làm giá nông phẩm giảm nhanh
chóng, nhiều diện tích đầu tư trồng mới không được chăm sóc, gây lãng phí rất
lớn về vốn, nhân lực và chi phí cơ hội.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 51
Sự thay đổi về cơ cấu diện tích đất dành cho các loại cây trồng cũng cho
thấy xu hướng giảm tỷ trọng diện tích dành cho cây hàng năm từ 90% (năm
1990) xuống 83% (năm 2002), trong khi tỷ trọng diện tích cây lâu năm tăng từ
10% lên 17% trong cùng kỳ. Đồng thời với đó là xu hướng tăng tỷ trọng của
ngành cây công nghiệp, giảm tỷ trọng của ngành cây lương thực. (Xem phụ lục
số 4)
Đây là xu hướng mà nhiều nước trong khu vực ASEAN đã trải qua khi
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của họ trong quá trình hội nhập vào
AFTA.
Cụ thể, tỷ trọng của ngành cây lương thực giảm nhanh từ 67,11% (năm
1990) xuống 59,52% (năm 2002). Tỷ trọng giá trị sản xuất rau, đậu không tăng
và vẫn giữ ở mức 7%. Tỷ trọng giá trị cây ăn quả giảm dần từ 10,14% xuống
6,76% trong cùng kỳ, cho thấy chưa có sự quan tâm đúng mức đối với hai loại
cây trồng này trong thời gian qua.
Giá trị thu hoạch bình quân/ha đất nông nghiệp (theo giá cố định 1994)
trong hơn một thập kỷ qua tăng trên 30% (từ 7,12 triệu đồng lên 9,87 triệu
đồng) cho thấy kết quả trực tiếp của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang
những cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn. Điều này thể hiện khá rõ trong
ngành cây lương thực với giá trị thu hoạch/ha đất trồng cây lương thực tăng
gần 60%, từ 8,1 triệu đồng/ha lên 13,29 triệu đồng/ha nhờ năng suất cây trồng
tăng mạnh. Điều này cho thấy nguồn lực đất đai đang trong quá trình đi vào
phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn.
Ngành chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng bình quân 6%/năm trong thời kỳ
1990 - 2002, đưa giá trị sản xuất ngành chăn nuôi theo giá cố định 1994 tăng
gấp đôi (từ 10283,2 tỷ đồng năm 1990 lên 20316,5 tỷ đồng năm 2002). Trong
đó đàn gia súc, gia cầm có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt tương
ứng 6% và 5% trong cùng kỳ. Riêng sản phẩm không qua giết mổ có tốc độ
tăng trưởng cao nhất, đạt bình quân 8%/năm.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 52
Bảng 15: Cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi (%)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
64,92 64,83 64,16 64,59 64,50 64,41 64,06 62,38 Gia súc
17,50 17,47 17,40 17,50 17,84 17,81 17,90 18,77 Gia cầm
14,19 14,53 15,45 15,05 14,93 15,14 15,39 16,40 SP không
qua giết mổ
3,39 3,17 2,99 2,86 2,73 2,63 2,64 2,45 SP khác
100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng số
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -
TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 201
Cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi thời kỳ 1990-2002 chuyển đổi rất chậm.
Ngành chăn nuôi gia súc vẫn chiếm tỷ trọng lớn, ngành chăn nuôi gia cầm và
các sản phẩm không qua giết mổ tuy có tăng nhưng tốc độ vẫn còn chậm. Sự
chậm chuyển đổi cơ cấu trong nội bộ ngành trồng trọt, chăn nuôi đã ảnh hưởng
lớn đến việc điều chỉnh cơ cấu chung của cả ngành nông nghiệp.
1.2. Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp
Giá trị sản xuất lâm nghiệp trong thời kỳ 1990-2002 tăng bình quân với
tốc độ 2%/năm, từ 4960 tỷ đồng năm 1990 lên 6175 tỷ đồng năm 2002 (theo
giá cố định 1994) (Xem phụ lục số5). Có thể nói, giá trị sản lượng của ngành
lâm nghiệp còn lệ thuộc quá nhiều vào khai thác lâm sản (chiếm 70 - 80% giá
trị toàn ngành). Giá trị của trồng rừng và nuôi rừng tăng chậm từ 15 - 20%
trong hơn một thập kỷ qua, trong khi trồng và nuôi rừng là là điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho ngành ngành lâm nghiệp phát triển bền vững. Mặt khác, tỷ
lệ che phủ hiện nay mới đạt 35,1%, diện tích đất trống đồi trọc còn nhiều, do
vậy ngành lâm nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc trồng mới và bảo vệ rừng,
đảm bảo cải thiện môi trường sinh thái để phát triển bền vững.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 53
Trong thời gian qua giá trị sản lượng lâm nghiệp tăng không đều giữa
các vùng. Vùng Đông Bắc có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (9%/năm), vùng
đồng bằng sông Cửu Long và Tây Bắc là 6%, còn các địa phương khác đều có
tốc độ tăng trưởng âm (từ -1 đến -2%), thấp nhất là vùng Tây Nguyên (-4%).
Điều này cho thấy sự phát triển thiếu bền vững của ngành lâm nghiệp. Cụ thể,
Tây Nguyên là vùng có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất (1/3 diện tích rừng cả
nước) cũng là vùng có tốc độ tăng trưởng âm cao nhất. Vùng có tỷ lệ diện tích
diện tích rừng trồng cao nhất (vùng Đông Bắc chiếm 31,4%) cũng là vùng có
tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 5 năm trở lại đây. Tại nhiều vùng, rừng đã
bị khai thác cạn kiệt, nhất là rừng tự nhiên. Điều này càng khẳng định muốn
phát triển bền vững thì phải tăng cường trồng và bảo vệ rừng, đi đôi với việc sử
dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến tăng giá trị gia tăng của các sản phẩm từ
rừng.
Trong 5 năm lại đây (1997-2002), diện tích rừng toàn quốc đã tăng từ
10,17 triệu ha (năm 1997) lên 11,36 triệu ha (năm 2002), trong đó diện tích
rừng tự nhiên đã tăng tương ứng từ 8,97 triệu ha lên 9,59 triệu ha, diện tích
rừng trồng tăng từ 1,38 triệu ha lên 1,96 triệu ha. Đây là kết quả của việc thực
hiện hàng loạt các cố gắng về trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc,
khoanh nuôi, bảo vệ và tái sinh rừng. Mặc dù về số tuyệt đối cả diện tích rừng
trồng và rừng tự nhiên đều tăng, nhưng cơ cấu rừng trồng và rừng tự nhiên thời
gian qua hầu như không có sự thay đổi, rừng tự nhiên vẫn chiếm tỷ trọng lớn
(86,43 % năm 1997 và 84,41% năm 2001). Điều này cho thấy chúng ta cần tập
trung đẩy mạnh hơn nữa việc trồng mới rừng trong thời gian tới.
Hiện nay lâm sản (ngoài gỗ) là lợi thế của rừng nhiệt đới chưa được chú
trọng khai thác hợp lý. Trong khi đó công nghiệp chế biến để tăng giá trị sản
phẩm, tận dụng các phế liệu để chế biến thành các lâm phẩm có giá trị còn yếu
làm cho các sản phẩm lâm nghiệp của Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp
không đáp ứng được đúng và đủ nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 54
nước và quốc tế. Điều này càng chứng tỏ sự thiếu hợp lý trong cơ cấu ngành
lâm nghiệp, cả về nuôi trồng lẫn khai thác và chế biến, vẫn còn rất lớn đòi hỏi
phải sớm có sự điều chỉnh trong thời gian tới, nhất là khi thời hạn hội nhập đầy
đủ của nền nông nghiệp nước ta vào AFTA đang đến gần.
1.3. Cơ cấu giá trị ngành ngư nghiệp
Trong hơn một thập kỷ qua ngành ngư nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá
nhanh (đạt bình quân 11%/năm) đưa giá trị sản lượng thuỷ sản từ 81325,2 tỷ
(năm 1990) lên 28100,1 tỷ (năm 2002), theo giá cố định 1994. Tốc độ tăng
trưởng bình quân của ngành khai thác thuỷ sản đạt 9%/năm và của ngành nuôi
trồng là 14%/năm trong cùng thời kỳ 1990-2002. Cơ cấu sản lượng ngành thuỷ
sản đang phát triển theo xu hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, giảm tỷ trọng đánh
bắt. Xu hướng này càng được thể hiện rõ nét trong những năm gần đây.(Xem
phụ lục số 6)
Do là ngành đặc thù, nên sản xuất thuỷ sản phân bố không đều giữa các
vùng tự nhiên trong cả nước, chủ yếu phát triển mạnh ở những tỉnh ven biển (cả
nuôi trồng và đánh bắt). Các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ
và Bắc Trung Bộ chiếm tới trên 85% giá trị sản lượng thuỷ sản cả nước. Vùng
Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng chiếm tỷ lệ 5-6% (chủ yếu phát triển ở
các tỉnh ven biển). Các tỉnh xa biển thuộc vùng Trung du miền núi phía Bắc và
Tây Nguyên chiếm tỷ trọng rất nhỏ về sản lượng thuỷ sản (chiếm trên dưới
1%).
Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh ở hai vùng đồng bằng lớn của cả
nước, trong đó đồng bằng sông Cửu Long chiếm tới 60% về sản lượng và
67,6% về giá trị hàng thuỷ sản sản xuất ra của cả nước, các vùng còn lại đều
chiếm tỷ trọng nhỏ. Vùng ven biển miền Trung tuy có lợi thế về phát triển kinh
tế nuôi trồng thuỷ hải sản ven biển nhưng cũng chỉ mới chiếm khoảng 8% sản
lượng và sản xuất của cả nước.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 55
Có thể thấy giá trị sản phẩm của thuỷ sản nuôi trồng ở miền Nam cao hơn
so với miền Bắc. Điều này thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ cấu sản lượng và cơ
cấu giá trị sản lượng thuỷ sản nuôi trồng. Về cơ cấu sản lượng thuỷ sản nuôi
trồng trong những năm gần đẩy hai miền tương ứng là 70,61% và 29,39%, cơ
cấu giá trị tương ứng là 80,8% và 19,2%.
2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dầu tỷ trọng hàng nông - lâm - thuỷ sản
xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của cả nước
giảm từ 46,3% xuống 32,5% (thời kỳ 1995-2002), nhưng về giá trị tuyệt đối,
giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng gấp hơn 2 lần (từ
2521,1 triệu USD năm 1995 lên 3425 triệu USD năm 2002), góp phần đưa tỷ
trọng kim ngạch hàng nông sản xuất khẩu trong tổng GDP nông nghiệp lên trên
50%. Nhiều mặt hàng có: tỷ suất xuất khẩu/giá trị sản xuất ra rất cao như: cà
phê, điều (trên 90%). Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đã vươn lên xác
định được vị thế của mình trên thị trường khu vực ASEAN và thế giới như: lúa
gạo, cà phê, điều, hàng thuỷ sản, cao su .v.v. (Xem Phụ lục 5). Đây là xu hướng
phát triển nông theo hướng phục vụ xuất khẩu và cũng phù hợp với xu thế hội
nhập kinh tế khu vực ASEAN/AFTA và quốc tế của Việt Nam.
Trong cơ cấu hàng nông - lâm - thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam những
năm qua, hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn (bình quân thời kỳ 1995-2002
chiếm tới 62,42% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành), trong đó các
sản phẩm xuất khẩu quan trọng là gạo (24%), cà phê (13,5%), điều (4,4%).v.v.
Điều đáng lưu ý là giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi còn rất
khiêm tốn, các sản phẩm rau quả - là ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới - cũng
chỉ chiếm 2,35% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Điều này cho thấy
những bất cập trong chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng như
trong các giải pháp để đi vào khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 56
của đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu nông phẩm và chủ động hội nhập vào nền
nông nghiệp khu vực và thế giới, mà trước mắt đó là vào AFTA/ASEAN.
Trong cùng thời kỳ trên, giá trị xuất khẩu của hàng thuỷ sản đã tăng gấp
3 lần, từ 621,4 triệu USD năm 1995 lên gần 1 tỷ USD năm 1999, và đặc biệt
tăng nhanh trong những năm gần đây (đạt 202,4 triệu USD và năm 2002), nhờ
đó đã đẩy nhanh tỷ trọng giá trị hàng thuỷ sản trong cơ cấu giá trị xuất khẩu
hàng nông - lâm - ngư nghiệp. Thuỷ sản đang khẳng định được vai trò và vị trí
của mình không chỉ trên thị trưòng trong nước mà cả trên thị trường khu vực
ASEAN và quốc tế.
Hàng lâm sản xuất khẩu mới chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong cơ cấu xuất
khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản (dưới 6%) và có xu hứóng giảm. Điều này cho
thấy hàng lâm sản nói riêng và ngành lâm nghiệp nói chung còn gặp nhiều khó
khăn trong phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác lợi thế so sánh và mở rộng
thị trường.
Những biến động trong cơ cấu xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản thời
gian qua cho thấy Việt Nam cần thiết phải xây dựng một chiến lược kinh doanh
phù hợp để một mặt vừa giữ vững thị phần của những mặt hàng đã xác định
được vị thế trên thị trường thế giới, đồng thời đẩy mạnh các biện pháp nâng cao
chất lượng mẫu mã sản phẩm, xúc tiến thương mại để tăng khả năng thâm nhập
và mở rộng thị trường cho các mặt hàng nông - lâm - thuỷ hải sản khác, nâng
cao sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu chủ lực đối với các mặt hàng
cùng loại từ các nước ASEAN khác, đặc biệt khi CEPT/AFTA hoàn thành
trong một vài năm sắp tới.
3. Một số chính sách liên quan đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất và mở
rộng xuất khẩu mặt hàng nông sản ở Việt Nam trong thời gian qua
Sự điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam phụ thuộc vào rất
nhiều nhân tố như: điều kiện về đất đai, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 57
thống cở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi .v.v.), khả năng nắm bắt nhu cầu và
những thay đổi của thị trường trong và ngoài nước, sự năng động của bà con
nông dân .v.v. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách của Nhà nước và cơ chế vận
hành của nó trên thực tế có ý nghĩa quyết định đến việc định hướng cũng như
thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, từ
khi thực hiện chính sách “Đổi mới” đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều
chính sách quan trọng đối với việc phát triển nông nghiệp, trực tiếp hay gián
tiếp thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp đất nước. Một
số chính sách có vai trò quan trọng trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp trong thời gian qua là:
3.1. Chính sách đất đai
Chính sách đất đai có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam là do: Một là, đất đai là địa
bàn diễn ra quá trình điều chỉnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp
theo hướng khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng. Điều này càng
có ý nghĩa đối với Việt Nam - một nước mà tại đó sản xuất nông nghiệp vẫn
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, số người phụ thuộc vào nông nghiệp còn nhiều,trong khi bình quân đất canh tác lại rất thấp (1034 m2/người và 1938 m2/lao động nông nghiệp), sự phân bổ giữa các vùng rất không đều. Hai là,
chính sách đất đai là yếu tố quyết định nhằm phát huy vai trò tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của kinh tế hộ, vừa là động lực chủ yếu của tăng trưởng nông
nghiệp trong suốt hơn một thập kỷ rưỡi qua.
Do chính sách đất đai có ý nghĩa quan trọng với điều chỉnh cơ cấu sản
xuất nông nghiệp như vậy, nên đã giành được rất nhiều sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước. Nhiều chính sách về đất đai đã được ban hành, trong đó quan
trọng nhất phải kể đến Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật đất đai năm 1998 và Luật sửa đổi một số điều của Luật đất đai năm
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 58
2001. Chính phủ cũng ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn thi hành các Luật
này. Theo đó, đất đai được giao tới tận hộ để sử dụng ổn định lâu dài, tạo điều
kiện để nông dân thực sự tự chủ trên mảnh đất được giao. Mức huy động đóng
góp theo Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng được hạ thấp dần (so với
Pháp lệnh cũ giảm 3%), diện được miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
cũng được mở rộng. Bên cạnh đó, người nông dân còn được hưởng các quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn
kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nhờ mở rộng thêm quyền hạn cho
người sử dụng đất nên đã tạo ra được nhiều ảnh hưởng tích cực tới nông dân và
sản xuất nông nghiệp, khuyến khích nông dân sử dụng có hiệu quả diện tích đất
đai hiện có.
Bên cạnh những thuận lợi, chính sách đất đai cũng đồng thời làm nảy
sinh nhiều khó khăn ảnh hưởng tới quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, cụ thể:
Tại nhiều vùng, đất đai vẫn bị sử dụng kém hiệu quả, công tác quy
hoạch vùng chưa sát thực tế, một số nơi nông dân tự phát chuyển đổi cơ
cấu cây trồng nên đã xảy ra hiện tượng trồng rồi chặt gây lãng phí.
Việc trao các quyền về chuyển đổi, chuyển nhượng là tiền đề để
thực hiện tích tụ, tập trung ruộng đất, khuyến khích phát triển nông nghiệp
hàng hoá theo hướng khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng điạ phương.
Tuy nhiên trên thực tế, quá trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra chậm
chạp do có những khó khăn về sử dụng Giấy chứng nhận QSD đất sau
chuyển đổi, do tâm lý không muốn có sự thay đổi của người nông dân .v.v.
Diện tích đất giao khoán manh mún, gây khó khăn cho việc quy
hoạch, chuyển đổi cơ cấu sản xuất hộ gia đình. Các hộ tuy đã tiến hành
chuyển đổi ruộng đất cho nhau để tiện canh tác, nhưng quá trình này còn
diễn ra tự phát, chưa có sự hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất giữa
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 59
các địa phương, nhiều nơi nông dân tự chuyển đổi “ngầm” cho nhau gây
nên tình trạng biến động về đất đai rất khó quản lý.
Mặc dù người sử dụng đất được hưởng 7 quyền theo quy định của
Luật đất đai, các văn bản hướng dẫn dưới Luật cũng đã có, nhưng người
nông dân cần có hướng dẫn cụ thể hơn mới có thể thực sự thực hiện được
các quyền lợi này.
Việc đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo hạng đất lúa là
không công bằng giữa người trồng cây lương thực với trồng cây công
nghiệp và giữa những người trồng cây công nghiệp với nhau.
Để sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, có giá trị kinh tế cao có
độ đồng đều về chất lượng, chủng loại và mẫu mã đòi hỏi phải có một quy
mô diện tích nhất định. Nhưng hiện nay hầu hết các hộ sản nông nghiệp
nước ta hiện nay đều có quy mô diện tích đất không lớn, trong khi quá
trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra rất chậm chạp.
Chưa có quy hoạch rõ ràng về đất đai dành cho phát triển công
nghiệp nông thôn, xây dựng cở hạ tầng và phúc lợi ở địa phương. Điều này
gây khó khăn cho phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn,
làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ
cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng.
Ở vùng miền núi, các doanh nghiệp lâm nghiệp Nhà nước còn bao
chiếm nhiều diện tích, nhưng sử dụng kém hiệu quả, chậm chuyển giao
cho hộ nông dân nên gây ảnh hưởng tiêu cực tới chuyển đổi cơ cấu sản
xuất.
Tất cả những tồn tại trên phải được nhanh chóng khắc phục triệt để mới
có thể làm cho chính sách đất đai thực sự phát huy được vai trò chủ đạo của nó
trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng, cũng như toàn
ngành nông nghiệp nói chung cho phù hợp với quá trình mở cửa và hội nhập
nền kinh tế của đất nước hiện nay.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 60
3.2. Chính sách giá cả
Trong cơ chế thị trường, tín hiệu của giá cả giúp hướng các nguồn tài
nguyên của đất nước vào việc sử dụng có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, Chính phủ
nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, can thiệp vào giá cả nhằm tăng
sản lượng nông sản hàng hoá, ổn định giá cả, đảm bảo an ninh lương thực, cung
cấp lương thực thực phẩm, nguyên liệu với giá rẻ cho công nghiệp để thực hiện
tích luỹ cho công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam, Chính phủ ta tuy không can
thiệp trực tiếp vào giá cả hàng hoá như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
nhưng vẫn duy trì cơ chế điều chỉnh giá cả thị trường trong nước và chính sách
xuất nhập khẩu để giữ giá có lợi cho sản xuất lương thực, thực phẩm và các cây
trồng khác.
Nhờ thực hiện cải cách kinh tế nói chung và tự do hoá giá cả nói riêng
trong những năm vừa qua, giá cả hàng nông sản (nhất là các mặt hàng thực
phẩm) đã tăng lên làm giảm dần giá cánh kéo so với mặt bằng giá chung trên
thị trường. Các chính sách về giá của Nhà nước đã tạo ra sự khích lệ, khuyến
khích sản xuất phát triển. Kết quả là từ một nước nhập khẩu, Việt Nam đã trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Gần đây trong xu thế tự do hoá
thương mại và hội nhập kinh tế khu vực ASEAN và quốc tế, Chính phủ đã loại
bỏ dần những biện pháp can thiệp phi thuế quan, như: quota, kiểm soát số
lượng, đầu mối xuất nhập khẩu .v.v. Ví dụ, đối với xuất khẩu gạo, trong năm
1998, Chính phủ đã sửa đổi chính sách cho phép số lượng các doanh nghiệp
được trực tiếp xuất nhập khẩu nhiều hơn (kể cả doanh nghiệp tư nhân cũng
được phép xuất khẩu gạo), tăng khối lượng quota xuất khẩu.v.v. Những thay
đổi này đã góp phần cải thiện giá cả, giảm dần khoảng cách về giá xuất khẩu so
với sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực.
3.3. Chính sách đầu tư
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 61
Trong thập kỷ qua, chính sách đầu tư của Việt Nam đang chuyển dần vào
phát huy và khai thác lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nhằm hình thành
các vùng sản xuất hàng hoá, tạo ra các nông phẩm chất lượng cao, giá thành hạ,
có sức cạnh tranh cao trên thị trường; đồng thời hình thành cơ chế khuyến
khích mọi thành phần kinh tế cùng bỏ vốn đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
nông nghiệp, kể cả việc kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 16: Chỉ số đầu tư của NSNN cho nông nghiệp
1990 1998 1999 2000 2001 2002
38.7 25.8 25.4 24.3 23.2 23.0 Năm % nông nghiệp trong GDP (1)
17.1 10.2 11.5 12.6 12.2 11.4
0.44 0.39 0.45 0.53 0.53 0.49 % đầu tư NSNN cho nông nghiệp (2) Chỉ số đầu tư nông nghiệp (%) (3)
Nguồn: Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Chú thích: (3) = (2)/(1) (%)
Đầu tư cho phát triển nông nghiệp của Nhà nước trong thời gian qua tập
trung vào xây dựng và củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, khoa học kỹ
thuật cho các vùng sản xuất hàng hoá, ưu tiên cho các chương trình khai hoang
vùng Đồng tháp Mười – Tứ giác Long Xuyên, Tây Nguyên và các vùng nông
nghiệp trọng điểm khác. Ngoài ra đầu tư của Nhà nước còn dành phần đáng kể
cho các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 327 phủ xanh đất
trống đồi núi trọc, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, chương trình 773,
chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình định canh định cư, chương trình xoá
đói giảm nghèo .v.v. Đầu tư của Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp trong
những năm qua tuy về số tuyệt đối đều tăng (tuy mới chiếm khoảng 5% tổng
vốn đầu tư Ngân sách), nhưng đồng thời cũng đang diễn ra xu hướng giảm thu
thuế từ nông nghiệp cho Ngân sách Nhà nước (năm 1993: 4,90%; năm 1997:
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 62
3,2%) thể hiện rõ chủ trương “khoan thư sức dân”của Nhà nước ta, qua đó tạo
động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển nông
nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
Tỷ trọng đầu tư của Ngân sách Nhà nước trực tiếp cho nông nghiệp trong
thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của nông nghiệp trong
nền kinh tế quốc dân. Chỉ số đầu tư nông nghiệp tuy có tăng lên nhưng vẫn còn
thấp xa so với nhiều nước trong khu vực (Thái Lan: 0,62; Inđônêxia: 0,67).
Đầu tư của Nhà nước vào hệ thống nghiên cứu triển khai cho nông nghiệp cũng
còn thấp xa so với yêu cầu: khoảng 70% đầu tư của Nhà nước vào hệ thống
nghiên cứu là để trả lương. Bên cạnh đó, đầu tư của Nhà nước cho nông
nghiệp lại chủ yếu tập trung cho doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư cho doanh
nghiệp dân doanh mới chiếm khoảng 10% tổng đầu tư cho các doanh nghiệp
quốc doanh. Khu vực nông nghiệp cũng chưa thực sự hấp dẫn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (mới thu hút được khoảng 7% tổng vốn FDI cả nước).
3.4. Chính sách tín dụng
Cùng với đầu tư của Nhà nước, hệ thống tín dụng cũng đã đóng góp ngày
càng nhiều vào việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp
và sản xuất nông nghiệp phát triển. Hệ thống ngân hàng một cấp trước đây đã
được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp với sự hình thành của nhiều
ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, cung cấp tài chính chính thức cho nông
nghiệp Việt Nam, như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
hàng phục vụ người nghèo và Quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang mở rộng việc cho
vay tới tận hộ nông dân, giúp người nông dân có vốn đầu tư thâm canh và điều
chỉnh cơ cấu sản xuất của mình. Dư nợ của Ngân hàng tăng nhanh từ 225 tỷ
năm 1991 lên 6038 tỷ năm 1997, và đặc biệt là tỷ lệ dư nợ cho vay tới tận hộ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 63
nông dân đã tăng từ 10% lên trên 73% trong cùng kỳ, điều đó chứng tỏ nông
dân đang ngày càng được tiếp cận nhiều hơn với nguồn tín dụng chính thức.
Ngân hàng Phục vụ người nghèo tuy mới được thành lập năm 1995 và là
ngân hàng chính sách, nhưng cũng đã cho vay được trên 400 tỷ đồng, góp phần
quan trọng vào việc giúp đỡ nông dân nhất là những hộ nghèo phát triển sản
xuất. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo còn hạn chế, mặc
dù Ngân hàng người nghèo cho vay vốn với những điều kiện ưu đãi như: lãi
suất thấp, không thế chấp, nhưng do thủ tục còn phức tạp hay do chính bản thân
người nghèo sợ không trả được nợ nên không dám vay. Theo dự tính của Ngân
hàng thế giới, thì chỉ khoảng 33% hộ nông dân trong cả nước tiếp cận được
nguồn vốn tín dụng chính thức của Nhà nước. Mặt khác, cả Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo đều có các chi nhánh
trên khắp đất nước nhưng do hoạt động của Ngân hàng liên quan chặt chẽ tới
hệ thống thông tin liên lạc và trụ sở thường đặt tại trung tâm huyện nên nông
dân vùng sâu, vùng xa vẫn gặp khó khăn khi tiếp cận với nguồn tín dụng này.
4. Một số nhận xét về việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại
Việt Nam giai đoạn vừa qua
Từ thực tế điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta thời gian
qua, có thể rút ra một số nhận xét sau:
4.1. Thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nhưng yếu tố chất lượng của cơ
cấu chưa thể hiện rõ, đặc biệt là chưa hướng tới nhu cầu của thị trường tiêu
thụ và ổn định sản xuất
Mục tiêu điều chỉnh cơ cấu hợp lý trong nội bộ ngành nông nghiệp (theo
nghĩa rộng bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp) là phải làm sao để kết quả
tổng hợp trên 1 ha diện tích và trên 1 lao động nông nghiệp phải không ngừng
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 64
tăng lên. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, chỉ tiêu này có tăng lên, nhưng
mấy năm cuối lại có chiều hướng giảm sút do 2 nguyên nhân chính:
Thứ nhất , do giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm trên bình diện
chung ; Thứ hai, giá trị kinh tế của nông nghiệp thuần vẫn chiếm tỷ trọng lớn
và dao động ở mức 80%. Điều này cho thấy nông nghiệp vẫn giữ vị trí độc tôn,
lâm, ngư nghiệp chưa vươn lên ngang tầm với những lợi thế hiện có.
Hơn thế nữa, tỷ trọng của ngành lâm nghiệp đang giảm (cả về giá trị sản
lượng và giá trị xuất khẩu) cho thấy hậu quả của việc khai thác tài nguyên lâm
nghiệp theo kiểu “bóc lột tài nguyên” đến mức cạn kiệt đang gây ra sự mất cân
bằng sinh thái, thể hiện rõ nhất là lũ lụt, nạn hạn hán xảy ra thường xuyên hơn
và không còn theo chu kỳ như trước kia ở nhiều vùng trong cả nước thời gian
vừa qua.
Tỷ trọng của ngành ngư nghiệp tuy có tăng lên (cả về giá trị sản xuất và
giá trị xuất khẩu) nhưng vẫn chưa thực sự khai thác hết tiềm năng vốn có của
ngành. Hơn nữa, do việc đầu tư khai thác nhưng không tính đến tác động của
môi trường nuôi trồng, nên nhiều dự án đã không mang lại hiệu quả, mức độ rủi
ro rất lớn.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp (gồm trồng trọt và chăn
nuôi), tuy tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi có tăng lên,
nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt đến một tỷ lệ hợp lý (chăn nuôi chiếm tỷ trọng
25%, trồng trọt - 75%). Còn trong cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt, cây lương
thực vẫn là loại cây được trồng khá phổ biến, trong khi các loại cây công
nghiệp, cây ăn quả và những loại cây có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu vẫn
chưa được chú trọng phát triển mạnh.
Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp theo cả nghĩa rộng
lẫn nghĩa hẹp trong thời gian qua là rất chậm chạp, chưa đạt yêu cầu và vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng về tài nguyên và sinh thái của đất nước.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 65
4.2. Cơ cấu ngành nông nghiệp đang trong quá trình chuyển dần từ
nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá. Bước đầu
đã có một số loại sản phẩm chủ lực trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của
mỗi vùng
Nhiều vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh đã được hình thành, như:
vùng sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, vùng cây công nghiệp dài ngày
ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, khai thác, nuôi trồng thuỷ sản ở Nam
Trung Bộ và Nam Bộ.v.v. Người nông dân ngày nay đã chú trọng đến không
chỉ khối lượng sản phẩm sản xuất ra, mà còn quan tâm nhiều hơn đến giá trị thu
hoạch được. Điều đó thể hiện, các thông tin về nhu cầu thị trường đã có tác
động đến việc bố trí và sử dụng các nguồn lực của kinh tế hộ nông dân. Nhiều
tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào sản xuất, hình thành nên
nhiều mô hình sản xuất hàng hoá trên khắp các vùng trong cả nước. Trong cơ
cấu thu nhập của hộ gia đình đã thể hiện sự đa dạng hoá, tỷ trọng thu nhập từ
làm ruộng giảm, tỷ trọng thu nhập từ làm vườn, trồng cây công nghiệp và chăn
nuôi tăng lên rõ rệt.
4.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn chưa gắn chặt với quá trình hội
nhập khu vực ASEAN và quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp
Hiện tại, các mối liên kết giữa người sản xuất với người xuất khẩu còn
rời rạc và mang nặng tính phi vụ. Các quan hệ hợp đồng sản xuất - tiêu thụ
chưa được phát triển rộng, còn tồn tại nhiều đầu mối trung gian, môi giới. Do
đó, tình trạng chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thu mua còn khá lớn làm
người sản xuất vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp hỗ
trợ của Nhà nước không đến được với người sản xuất.v.v. Đây chính là những
nguyên nhân kìm hãm sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng
tích cực, có tính đến yếu tố thị trường xuất nhập khẩu trong khu vực ASEAN
và thế giới.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 66
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay vẫn chưa thể hiện là
một cơ cấu có hiệu quả. Điều này thể hiện rất rõ qua cơ cấu phân bổ và sử dụng
đất đai: đất dành cho công nghiệp và cây ăn quả mới chiếm tương ứng là
11,21% và 4,34%; giá trị sản lượng cây công nghiệp mới chiếm 20,6%, cây ăn
quả chiếm 7,64%. So với các nước khác trong khu vực ASEAN, thì tỷ lệ này là
rất thấp. (Chỉ số tương tự ở Inđônêxia, Malaysia, Philippin,và Thái Lan là 40%
và 70%). Không những thế, giá trị xuất khẩu của các mặt hàng nông sản nước
ta như: gạo, cà phê, hạt điều, tiêu.v.v. thường thấp hơn so với giá của các sản
phẩm cùng loại từ các nước trong khu vực ASEAN và thấp hơn giá xuất khẩu
bình quân trên thế giới do chất lượng hàng xuất không cao. Điều này cho thấy
ngành công nghiệp chế biến và bảo quản sau thu hạch, cũng như công tác nhân
giống cây, con vẫ chưa có những chuyển biến ngang tầm với yêu cầu để nâng
cao giá trị các mặt hàng nông phẩm xuất khẩu của đất nước.
4.4. Các bộ phận trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa thể hiện rõ sự
phân công lao động và khai thác lợi thế vùng
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta vẫn chưa đạt được hiệu
quả do việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất khai thác lợi thế so sánh của
từng địa phương. Chẳng hạn, nhân tố đất đai – tư liệu sản xuất quan trọng nhất,
không thể thiếu được trong sản xuất nông nghiệp – vốn là đại lượng có hạn,
nhưng lại được sử dụng chưa hiệu quả, đồng thời nhiều địa phương cũng chưa
tận dụng, khai thác các lợi thế về tiểu vùng khí hậu để sản xuất những giống
cây, con có tính độc đáo và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị
trường xất khẩu khu vực và quốc tế.
Ngoài việc gắn kết giữa hai bộ phận trồng trọt và chăn nuôi trong sản
xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp, các bộ phận còn lại trong cơ cấu nông
nghiệp theo nghĩa rộng như giữa sản xuất lương thực và phát triển lâm nghiệp,
giữa nuôi trồng thuỷ sản và phát triển sản xuất nông nghiệp chưa gắn kết chặt
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 67
chẽ với nhau. Cơ cấu chưa thể hiện sự phân công lao động theo chiều thuận,
nghĩa là thiếu quy hoạch và mất cân đối giữa sản xuất và chế biến, cung ứng
vật tư nông nghiệp ..., nhằm huy động sức mạnh tổng hợp trên cơ sở khai thác
tối đa nguồn lực của từng ngành, từng địa phương và từng vùng sinh thái.
4.5. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa theo một quy hoạch
tổng thể hợp lý
Trong thời gian qua, người nông dân khi thấy thị trường có nhu cầu thì ồ
ạt chạy theo, trồng cây mới nuôi con mới mang nặng tính chất phong trào, tự
phát, trong khi công tác quy hoạch chưa thực sự làm cơ sở cho việc hoạch định
các chính sách khuyến khích hay hạn chế người sản xuất đối với từng mặt hàng
cụ thể. Trên thực tế cả người làm công tác quy hoạch lẫn người nông dân chưa
đánh giá đúng nhu cầu thị trường, nhất là chưa lường trước được những thay
đổi bất thường, rủi ro có thể xảy ra để có các chính sách ứng phó từ trước. Do
đó, nhiều sản phẩm nông nghiệp của chúng ta không tiêu thụ được, hoặc phải
bán với giá thấp, nên không khuyến khích người nông dân tích cực chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nôi.
4.6. Tác động của những nhân tố kích thích sản xuất trong những
năm đầu của thập kỷ đã đến mức tới hạn, trong khi chưa tìm thêm được các
nhân tố mới để kích thích sản xuất phát triển
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung Ương Đảng về công tác khoán sản
phẩm đến tận người lao động. Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp trong việc giải phóng sức sản xuất, Luật đất đai mới
được bổ sung trao thêm các quyền cho người sử dụng đất... đã có tác động tích
cực, biến chúng thành động lực phát triển một thời, thì đến nay đã đã bắt đầu
cạn kiệt. Nếu không có sự đổi mới cơ chế quản lý, tìm ra động lực mới trong
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 68
giai đoạn tới thì sự phát triển của sản xuất nông nghiệp sẽ có nguy cơ chững
lại.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp để hội nhập thành công đòi
hỏi phải có những biện pháp đồng bộ, bao gồm cả việc lựa chọn cơ cấu cây
trồng, vật nuôi hợp lý, vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa thích hợp với điều kiện
tự nhiên, môi trường sinh thái của từng vùng, từng địa phương, trong đó có việc
chuyển đổi ruộng đất theo hướng “đổi điền, dồn thửa” cho quy mô sản xuất ít
manh mún hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải phát triển hệ thống giao thông
nông thôn, hệ thống thuỷ lợi.. để thâm canh tăng năng suất, giúp nền nông
nghiệp nước nhà phát triển mạnh, đủ khả năng hội nhập thành công và có lợi
nhất vào nền nông nghiệp ASEAN cũng như của toàn thế giới.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 67
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP
TỤC HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA
I. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP
Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về một số
chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp đã khẳng định: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô và chủng loại sản phẩm
các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác được lợi thế của cả nước
và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có khả năng tiêu thụ
được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái”. Bởi vậy, chúng ta
có thể hình dung mục tiêu tổng quát chuyển đổi chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trong những năm tới là: Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh,
đa dạng, có chất lượng cao, hiệu quả cao và bền vững dựa trên cơ sở phát huy
các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng trong nước và khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế; năng
cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn, nâng cao thu nhập và đời
sống của người nông dân. Thông qua việc chuyển đổi này đến năm 2005,
chúng ta phấn đấu đạt được:
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp 4 - 4,5%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn 7,5 - 8%/năm.
- Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng đủ nhu cầu
đa dạng của nhân dân về các loại lương thực thực phẩm, bao gồm cho cả đồng
bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
- Giá trị sản lượng trên 1 ha đất nông nghiệp đạt trên 30 triệu đồng/ha.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 68
- Tận dụng khả năng sẵn có, kết hợp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
để phát triển các loại cây trồng, vật nuôi, ngành nghề thay thế nhập
khẩu, nâng cao hợp lý mức độ tự túc, khai thác thị trường trong nước đối
với các sản phẩm: bông, thuốc lá, dầu ăn, nguyên liệu giấy, sữa…
- Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thuỷ hải sản đạt 7 tỷ USD (tăng
12%/năm).
- GDP bình quân đầu người ở nông thôn tăng 1,4 lần so với năm 2000.
Xét một cách cụ thể, mục tiêu quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp nước ta cho phù hợp với quá trình hội nhập vào AFTA bao gồm:
1. Mục tiêu hiệu quả kinh tế
Mục tiêu này có thể hiểu là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp
phải đi vào thực hiện phân bổ và sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực (đất
đai, lao động, vốn, công nghệ...) của đất nước vào sản xuất nông- lâm - ngư -
nghiệp.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp không những phải hướng vào
phát triển sản xuất để làm ra nhiều nông sản đảm bảo chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm mà cơ cấu chủng loại hàng nông sản sản xuất ra còn phải đáp
ứng đúng lúc nhu cầu thị trường, để tiêu thụ được với giá cả có lợi nhất, tăng
giá trị sản phẩm sản xuất ra cũng như năng suất lao động, năng suất đất đai và
thu nhập của người lao động.
Đối với đất đai, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải hướng tới tối đa hoá
giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện, tích đồng thời tạo thêm được việc làm để
giải quyết vấn đề lao động thất nghiệp trong nông nghiệp hiện nay. Do đó, việc
bố trí cây trồng trên từng đơn vị diện tích ở từng vùng cụ thể phải tính đến yếu
tố năng suất: chỉ quyết định tiếp tục duy trì loại cây trồng đó nếu cho năng suất
trong điều kiện bình thường cao hơn ngưỡng năng suất hiệu quả của cây trồng
đó, nếu không phải tìm cách chuyển sang cây trồng, vật nuôi khác. Như vậy
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 69
việc chuyển đổi và nâng cấp cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là việc
làm thường xuyên, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa và hội
nhập vào khu vực ASEAN và quốc tế hiện nay. Để làm tốt điều này, một mặt
chúng ta phải xác định được những lợi thế về đất đai, khí hậu, lao động của đất
nước để lựa chọn trồng cây gì, nuôi con gì, mặt khác sản phẩm được làm ra
phải đáp ứng đủ và đúng nhu cầu thay đổi liên tục của thị trường.
2. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải phù hợp và đáp ứng tốt
hơn những thách thức của quá trình hội nhập vào nền nông nghiệp
khu vực ASEAN và thế giới
Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN và quốc tế là xu thế tất yếu của nền
nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác
định rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Ngày 27/11/2001 Bộ Chính Trị cũng đã ban hành Nghị quyết 07/NQ-TƯ
về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đề ra mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc
tế là “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2010 và Kế hoạch 5
năm 2001-2005”.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế vừa là quá trình hợp tác vừa là quá
trình đấu tranh, vừa có cơ hội vừa có những thách thức mới. Vì vậy, điều chỉnh
cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế nói chung và hội
nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN nói riêng, cần phải đảm bảo tính linh
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 70
hoạt để vừa giải quyết tính được hai mặt của hội nhập, đó là tận dụng cơ hội,
vượt qua thách thức, với nhận thức đầy đủ về đặc điểm, lợi thế của nông nghiệp
Việt Nam nói chung cũng như của từng ngành hàng nông sản nói riêng tại từng
thời điểm cụ thể. Từ đó có kế hoạch và lộ trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ
phát triển, điều kiện sản xuất của ngành nông nghiệp trong nước vừa đáp ứng
được các quy định của AFTA về vấn đề thương mại hàng nông sản.
3. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất phải nhằm vào khai thác tối đa lợi thế so
sánh của từng địa phương, từng vùng và tiểu vùng, tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho nông phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế
Trong sản xuất nông nghiệp, việc khai thác và phát huy tối đa lợi thế so
sánh của tiểu vùng sinh thái, thổ nhưỡng, khí hậu... có ý nghĩa quan trọng đối
với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, nhất là đối với những nông phẩm
đặc sản, để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp, giá thành
hạ, hình thành những ngành, những sản phẩm hàng hoá mũi nhọn, có khả năng
chiếm lĩnh thị phần lớn và tạo lập được vị thế trên thị trường. Bên cạnh các lợi
thế về điều kiện tự nhiên, các lợi thế khác về kinh tế - xã hội; tập quán canh tác,
tính cần cù, năng động sáng tạo của nông dân... cũng là những yếu tố cần phải
tính đến khi xây dựng quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập trung theo hướng
nâng cao lợi thế cạnh tranh cho nông sản hàng hoá của Việt Nam.
4. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải nằm trong định hướng
quy hoạch tổng thể chung gắn với phát triển công nghiệp, nhất là
công nghiệp chế biến
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch
tổng thể chung của cả nước cũng như quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp đối
với những hàng hoá nông sản nhất định, tránh tình trạng chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi tự phát, khi giá cả cao thì trồng ồ ạt và đến khi giá thành hạ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 71
thì đồng loạt chặt bỏ gây thiệt hại và lãng phí lớn về vốn đầu tư, nhân lực và
các chi phí cơ hội có giá trị.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn phải gắn với quá trình từng
bước hình thành và phát triển vùng sản xuất hàng hoá, vùng nguyên liệu tập
trung cho công nghiệp chế biến nông sản, hình thành mối liên kết nông nghiệp
- công nghiệp, dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn cũng như trên
phạm vi cả nước, tạo ra sự phân công lao động mới trong nông thôn, giải quyết
việc làm cho người lao động, tăng giá trị gia tăng cho hàng hoá và tăng thu
nhập cho người lao động nông nghiệp.
5. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải được thực hiện trên cơ
sở dự báo đúng đắn nhu cầu thị trường
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, thị trường là căn cứ quan trọng để
xây dựng chiến lược kinh doanh đối với từng ngành hàng nông sản. Bám sát
nhu cầu thị trường là một việc khó đối với sản xuất nông nghiệp do tính mùa vụ
và đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi. Do đó nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu
của khách hàng để dự báo chính xác nhu cầu thị trường và cơ cấu thị phần đối
với từng loại hàng hoá nông sản nhất định, nhu cầu và thị hiếu của khách hàng
và khách hàng cuối cùng, dung lượng trao đổi và tính ổn định của thị trường
trong trung và dài hạn... sẽ quyết định việc lựa chọn cũng như định hướng quy
hoạch sản xuất nông nghiệp một cách đồng bộ, bao gồm cả các yếu tố sản xuất
và thị trường trong các vùng sản xuất hàng hoá nông phẩm.
6. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở ưu
tiên cho ứng dụng kịp thời tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất,
đảm bảo phát triển bền vững
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp một mặt cần đặc biệt chú ý
đến quá trình ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhất là
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 72
công tác sản xuất và lai tạo giống đồng thời với việc đổi mới công nghệ và thiết
bị công nghiệp chế biến, bảo quản để đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng
suất và giá trị gia tăng của nông sản. Mặt khác chúng ta cũng cần chú ý đến vấn
đề môi trường để vừa tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm
vừa đảm bảo cho nền nông nghiệp nước ta phát triển bền vững.
7. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nền kinh tế trên cơ sở huy
động tối đa các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế phục vụ cho
quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp
Các nguồn lực về tài chính, lao động và sức sáng tạo của các thành phần
kinh tế ngoài thành phần kinh tế Nhà nước là rất lớn. Do đó muốn làm cho quá
trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng và hiệu quả
cao, chúng ta cần phải tạo ra môi trường thông thoáng và thuận lợi để khuyến
khích mọi thành phần kinh tế tham gia đóng góp công sức, tài năng, quản lý
cũng như vốn đầu tư của họ vào quá trình này.
II. ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
Dựa trên các quan điểm, mục tiêu và dự kiến về khả năng hội nhập vào
nền nông nghiệp khu vực ASEAN và quốc tế của hàng nông sản Việt Nam như
đã nêu ở trên, đề tài xin kiến nghị một số định hướng điều chỉnh cơ cấu sản
xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian tới như sau:
1. Định hướng chung về công tác điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp nước ta trong thời gian tới
Trong thời gian tới, chúng ta cần phát triển sản xuất và chế biến các loại
nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng với quy mô thích hợp,
trong đó tập trung vào nâng cao chất lượng, giá trị xuất khẩu và khả năng cạnh
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 73
tranh trên thị trường quốc tế và khu vực cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam như lúa gạo, cà phê, điều, tiêu, chè, cao su, hàng thuỷ sản, rau
quả, thịt lợn… Đối với những mặt hàng hiện nay Việt Nam còn đang nhập khẩu
nhưng có điều kiện phát triển như ngô, đậu tương, thuốc lá lá, dầu ăn, bột
giấy... chúng ta cần bố trí nhân lực, vật lực phát triển sản xuất các mặt hàng đó
với quy mô hợp lý ở mỗi vùng với phương châm coi trọng hiệu quả kinh tế bền
vững.
2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất đối với từng nhóm sản phẩm
nông sản cụ thể trong thời gian tới
Trước những đòi hỏi mới của quá trình hội nhập vào ASEAN/AFTA,
trong một vài năm tới, chúng ta phải có những điều chỉnh hợp lý trong cơ cấu
sản xuất của ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) bằng cách tăng tỷ trọng của
ngành ngư, lâm nghiệp và giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp thuần tuý.
Trong ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp, chúng ta cần giảm tỷ trọng của nhóm
cây lương thực xuống, tăng tỷ trọng của nhóm cây công nghiệp và ăn quả lên.
Việc điều chỉnh cụ thể với từng nhóm sẽ được thực hiện như sau:
- Đối với sản xuất lương thực: Nâng cao hiệu quả của sản xuất lúa gạo
trên cơ sở xây dựng các vùng sản xuất tập trung để có điều kiện đầu tư thâm
canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất như tiến bộ về giống
mới vào sản xuất (ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long), hình
thành các vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giá thành thấp gắn với chế biến và
tiêu thụ. Chuyển một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại
sản phẩm cây, con khác có giá trị kinh tế cao hơn như: đất khô hạn chuyển sang
trồng cây màu, cây ăn quả, cây công nghiệp hoặc cây rừng, đất trũng ở đồng
bằng không thuận tiện tưới tiêu, trồng lúa cho năng suất bấp bênh, cải tạo để
chuyển sang nuôi thả thuỷ sản kết hợp trồng cây ăn quả; đất ven biển, vùng cát
ven biển cải tạo để chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản; đất ven đô thị chuyển sang
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 74
trồng các loại rau, hoa, cây cảnh, cây ăn quả phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
chính người dân đô thị... Chúng ta không nên sản xuất lúa bằng mọi giá ở
những vùng miền núi có điều kiện sản xuất khó khăn, không thuận tiện cho
trồng lúa, đồng thời cũng cần sớm giải quyết dứt điểm, có hiệu quả tình trạng
đốt rừng làm nương rẫy và du canh du cư của đồng bào dân tộc thiểu số, để bảo
vệ các cánh rừng phòng hộ, từ đó gián tiếp bảo vệ các vùng đất canh tác nông
nghiệp ở vùng trung du và đồng bằng chống lại các thiên tai nguy hại cho sản
xuất nông nghiệp như nạn sụt lở đất, lũ lụt, xói mòn đất canh tác, giảm lượng
nước ngầm trong đất…, góp phần vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia cũng như vào sự phát triển một nền nông nghiệp bền vững cho đất nước.
- Đối với sản xuất cây công nghiệp: Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng sinh thái, hình thành vùng sản xuất tập trung các loại cây công
nghiệp làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản. Chú trọng đặc biệt
đến công tác giống cây trồng, ứng dụng công nghệ sinh học, biện pháp canh tác
tiên tiến vào sản xuất, từng bước thực hiện cơ giới hoá sản xuất, trước hết là
các khâu nặng nhọc, độc hại... Cụ thể là: đối với cây cà phê, không phát triển
thêm diện tích cà phê vối, giữ lại diện tích cà phê có điều kiện thâm canh, nhất
là về nước tưới, tập trung phát triển diện tích cà phê chè ở những nơi có điều
kiện thuận lợi. Đối với cây điều, có thể mở rộng thêm diện tích trồng mới
nhưng đặc biệt chú ý đến việc nâng cao chất lượng giống điều do diện tích điều
trồng trước đây, chủ yếu là sử dụng giống cũ năng suất thấp. Đối với cây chè
thực hiện thâm canh vườn chè nhất là các loại chè cao cấp trồng vùng cao. Đối
với cao su, tập trung thâm canh diện tích cao su hiện có, phát triển cao su ở
những nơi có điều kiện thích hợp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao...
- Đối với sản xuất rau màu và hoa quả: Đưa ngành rau quả trở thành một
trong những ngành xuất khẩu chủ lực, trong đó: Phát triển mạnh cây ăn quả
bằng giống có chất lượng cao, sạch bệnh, chú trọng phát triển các loại cây ăn
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 75
quả nhiệt đới (nhãn, vải, xoài, dừa, chuối…). Hướng dẫn nông dân áp dụng các
biện pháp nâng cao chất lượng rau, giảm dư lượng thuốc trừ sâu, tăng dần diện
tích trồng rau theo quy trình rau sạch. Đầu tư công nghệ bảo quả rau tươi, đóng
gói bao bì phù hợp để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu nội tiêu. Hỗ trợ nâng cấp
cải tạo các nhà máy cũ hiện có và lắp mới các dây chuyền chế biến đồng bộ,
hiện đại, phục vụ cho công tác xuất khẩu mặt hàng này.
- Đối với phát triển chăn nuôi: Thực hiện khuyến khích phát triển chăn
nuôi theo hướng công nghiệp nhất là dưới hình thức trang trại với quy mô thích
hợp ở từng vùng, trên cơ sở đó quy hoạch hình thành các vùng chăn nuôi hàng
hoá tập trung an toàn dịch bệnh gắn với đầu tư, nâng cấp các cơ sở giết mổ chế
biến sản phẩm chăn nuôi đạt tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm không chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Khuyến khích áp
dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất giống vật nuôi, thức ăn công nghiệp,
đáp ứng đủ cho nhu cầu chăn nuôi, kết hợp với tăng cường công tác thú y và
kiểm tra chất lượng sản phẩm đầu ra. Cụ thể là:
+ Chăn nuôi lợn: Đẩy mạnh chăn nuôi lợn phục vụ tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu trên cơ sở phát triển hình thức chăn nuôi hộ trang trại với quy mô
lớn, sử dụng các giống lợn có chất lượng cao và quy trình chăn nuôi phù hợp
với yêu cầu của thị trường, gắn với việc xây dựng mới các cơ sở chế biến đạt
trình độ quốc tế, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, xuất khẩu trên 80 nghìn tấn
thịt, trước hết là lợn sữa, lợn choai. Cải tạo nâng cấp các cơ sở chế biến cũ, đầu
tư xây dựng các cơ sở chế biến thịt với tổng công suất 85 ngàn tấn/năm.
+ Chăn nuôi bò: Tiếp tục đẩy mạnh Sind hoá đàn bò để nâng cao chất
lượng thịt, tạo đàn bò nền để phát triển đàn bò lai hướng sữa, phấn đấu năm
2005 có đàn bò thịt 4,4 triệu con, đàn bò sữa trên 100 nghìn con, sản lượng sữa
150 nghìn tấn, đáp ứng 25% nhu cầu trong nước. Từ 2001-2005 tiếp tục đầu tư
phát triển thêm năng lực chế biến sữa các vùng có chăn nuôi bò sữa và thị
trường tiêu thụ lớn.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 76
+ Chăn nuôi gia cầm: Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gà lấy thịt và trứng.
Đặc biệt chú trọng phát triển chăn nuôi gà thả vườn chất lượng cao ở các vùng
trung du. Phát triển chăn nuôi vịt ở đồng bằng sông Cửu Long và các vùng ven
biển bằng các giốn mới có năng suất cao.
+ Phát triển chăn nuôi dê, ong động vật quý để tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu.
- Đối với lâm nghiệp: Thực hiện tiếp tục việc bảo vệ có hiệu quả và phát
triển diện tích rừng hiện có, nâng cao trữ lượng và chất lượng rừng nhất là đối
với rừng phòng hộ xung yếu, rất xung yếu, rừng đặc dụng. Quy hoạch và thực
hiện tốt quy hoạch để phát triển vùng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp
chế biến nhất là chế biến bột giấy, ván nhân tạo, ván dăm, ván ép và làm hàng
thủ công mỹ nghệ. Phát triển chế biến các loai sản phẩm đồ gỗ đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu lâm sản lên 600 triệu USD
vào năm 2005. Chuẩn bị và triển khai thực hiện thực hiện chương trình sản xuất
giấy và bột giấy với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh trồng rừng, thực hiện đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới vào
trồng và phát triển rừng, tập trung phát triển công nghệ giống nhằm đảm bảo
cung cấp đủ giống chất lượng cao cho công tác trồng rừng. Khuyến khích và
thực hiện xã hội hoá trồng rừng, giao rừng cho người dân và cộng đồng chăm
sóc, bảo vệ, hạn chế và dần dần đi đến chấm dứt phá rừng làm nương rẫy. Thực
hiện đổi mới quản lý đối với lâm trường quốc doanh, rà soát và giao lại những
diện tích rừng, đất rừng mà lâm trường đã bao chiếm, sử dụng kém hiệu quả để
chuyển lại cho chính quyền địa phương giao cho dân và cộng đồng để thực hiện
đầu tư trồng rừng mới. Tiếp tục việc giao đất khoán rừng, khoán quản lý bảo vệ
11 triệu ha rừng, làm giàu 555 nghìn ha rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết
hợp trồng bổ sung 800 nghìn ha, trồng rừng nguyên liệu chủ lực 1,6 triệu ha.
- Đối với thuỷ sản: Thực hiện đồng bộ chương trình nuôi trồng và đánh
bắt thuỷ hải sản kết hợp với đầu tư phát triển quy trình chế biến hiện đại, đảm
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 77
bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm với mục tiêu đạt tổng sản lượng
2,55 triệu tấn vào năm 2005 (trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm 50%), kim
ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD.
Trong nuôi trồng thuỷ sản, chú trọng nuôi trồng theo phương thức công
nghiệp và bán công nghiệp, nuôi sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên ở
vùng nước biển, nước lợ và nước ngọt. Quy hoạch và hướng dẫn ngư dân thực
hiện khai thác và sử dụng có hiệu quả diện tích mặt nước có khả năng nuôi thả
thuỷ sản, bao gồm cả số diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang nuôi trồng
thuỷ sản. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, lai tạo và tuyển chọn để sản xuất ra
con giống có chất lượng tốt, không bị bệnh; hướng dẫn người nuôi trồng thuỷ
sản kỹ thuật tiên tiến nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.
3. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo vùng
Các vùng thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên cơ sở
tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng, xuất phát từ như cầu hiện tại và tương lai
của thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Hướng chuyển đổi chính của mỗi
vùng như sau:
Trung du và miền núi phía Bắc
Tiếp tục thâm canh tăng sản lượng lúa, mở rộng diện tích ngô, đỗ tương
và thuốc lá. Mở rộng diện tích chè, cà phê chè, cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt
đới. Phát triển chăn nuôi hàng hoá: Bò thịt, bò sữa (đặc biệt là vùng Mộc Châu
– Sơn La); trồng mới và khoanh nuôi 1,8 triệu ha rừng.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)
Thâm canh lúa nước trên diện tích khoảng 1 triệu ha, tăng diện tích trồng
ngô, trồng rau chất lượng cao, đỗ tương, phát triển cây ăn quả (nhãn, vải,
chuối… ). Phát triển chăn nuôi lợn theo hình thức trang trại. Khai thác hợp lý
dải ven biển trong vùng, phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.
Khu 4 cũ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 78
Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu mùa vụ gieo trồng lúa để né tránh thiên tai,
tăng diện tích trồng ngô, đỗ tương, cà phê, chè, cao su, lạc, cây ăn quả, phát
triển chăn nuôi trâu bò ở những nơi có điều kiện. Trồng mới 330 nghìn ha rừng
phòng hộ, 500 nghìn ha nguyên liệu giấy, tre, trúc, thông nhựa. Phát triển nuôi
trồng và đánh bắt thuỷ sản.
Duyên hải miền trung
Đẩy mạnh thâm canh cây lương thực để đáp ứng nhu cầu tại chỗ, mở
rộng trồng ngô, cây ăn quả, mía đường, bông, điều, cao su tiểu điền. Phát riển
chăn nuôi bò thịt, bò sữa; sản xuất muối công nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ sản.
Tây Nguyên
Không trồng thêm cà phê vối, chuyển một phần diện tích cà phê trồng
trên đất xấu không có nước tưới, hiệu quả thấp sang trồng cây khác có có hiệu
quả cao hơn như: ngô, cao su, dứa, ca cao. Mở rộng diện tích cao su, điều. Đẩy
mạnh thâm canh lúa, mở rộng diện tích trồng ngô, bông; phát triển rau, hoa quả
xuất khẩu (ở Lâm Đồng), dứa (ở Đắc Lắc, Gia Lai); chăn nuôi bò thịt và bò
sữa. Phát triển công nghiệp chế biến cà phê, cao su, mía đường. Bảo vệ diện
tích rừng hiện có, trồng mới 200 nghìn ha rừng kinh tế.
Đông Nam Bộ
Tiếp tục thâm canh 270 nghìn ha cao su hiện có, mở rộng diện tích điều;
cây ăn quả, mía, ngô, lạc, đậu tương, rau, phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, bò
sữa, bò thịt theo hình thức kinh tế trang trại. Vùng ven biển phát triển nuôi
trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.
Đồng bằng sông Cửu Long
Hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao 1 triệu ha. Phát triển trồng
bông, ngô, đậu tương, cây ăn quả; xây dựng vùng mía nguyên liệu 90 nghìn ha.
Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế trên các vùng đất phèn. Phát triển nuôi trồng thuỷ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 79
sản với mục tiêu đến năm 2005 diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn vùng đạt trên
700 nghìn ha. Phát triển các ngành dịch vụ chế biến nông lâm thuỷ hải sản.
III. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH NHẰM TIẾP TỤC
HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NGÀNH NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA
Để thực hiện định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta
trong thời gian tới cho phù hợp với bối cảnh hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - AFTA, đề tài xin kiến nghị một số giải pháp sau:
1. Thực hiện phù hợp một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình điều
chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hội nhập
1.1. Chính sách đất đai
Do đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, có vai trò quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp nhất là trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nên
yêu cầu đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn lực đất đai một cách đạt hiệu
quả nhất, khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng hay nói cách
khác cần thực hiện bố trí cơ cấu cây trồng sao cho tối đa hoá giá trị thu hoạch
trên một đơn vị diện tích đất ở từng vùng. Với tinh thần đó, đề tài xin kiến nghị
một số giải pháp khắc phục, bao gồm:
- Tiến hành rà soát lại diện tích đất nông nghiệp hiện có, xác định những
diện tích đang sử dụng không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp để có phương án
chuyển đổi sang cây trồng, con nuôi khác, cụ thể:
+ Trên cơ sở cân đối cho mục tiêu an toàn lương thực, đảm bảo xuất
khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm, chuyển một số diện tích đất trồng lúa ở
những nơi không thích hợp sang các cây trồng khác, hoặc chuyển sang nuôi thả
thuỷ sản. Trước mắt, rà soát lại diện tích những vùng đất trồng lúa cho năng
suất bấp bênh, thuỷ lợi không thuận tiện ở các vùng trên cả nước để thực hiện
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 80
công khai phương án cắt giảm diện tích trồng lúa giúp người dân được biết và
có kế hoạch chuyển sang nuôi trồng các loại cây, con khác:
+ Đối với diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, trên cơ sở quy hoạch
vùng cây công nghiệp dài ngày tập trung, Nhà nước thực hiện đầu tư vào cơ sở
hạ tầng cho các vùng đã quy hoạch, đồng thời hạn chế nông dân trồng phát
triển sản xuất ngoài vùng quy hoạch.
- Tiến hành rà soát lại quỹ đất của các lâm trường quốc doanh. Những
diện tích đất bao chiếm của các doanh nghiệp nông lâm nghiệp Nhà nước đang
sử dụng kém hiệu quả sẽ được chuyển lại cho địa phương quản lý để giao cho
người dân sử dụng, cụ thể:
+ Đối với đất của các lâm trường quốc doanh: thực hiện chuyển đổi theo
Quyết định 187/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, thực hiện giao khoán
tới tận hộ gia đình công nhân viên nông trường. Những diện tích đất còn lại sẽ
giao cho địa phương quản lý để chuyển cho các hộ gia đình canh tác.
+ Đối với Ban quản lý rừng phòng hộ: một mặt, thực hiện giao khoán
khoanh nuôi bảo vệ rừng, cho phép kinh doanh tận thu lâm sản dưới tán rừng
để người dân có thêm thu nhập, yên tâm bảo vệ rừng, mặt khác phải nghiên cứu
tìm ra các nguồn thu để tăng chế độ thù lao cho người bảo vệ rừng.
- Đất nông nghiệp đang sử dụng hiện nay quá manh mún (với hơn 80
triệu mảnh cho hơn 12 triệu hộ gia đình nông dân), đã ảnh hưởng tiêu cực đến
bố trí quy hoạch sản xuất nông nghiệp hàng hoá và gây ra lãng phí trong tổ
chức sản xuất của hộ gia đình. Mặc dù thực tế ở một số địa phương nông dân
đã tự phát thực hiện chuyển đổi ruộng đất “ngầm” cho nhau nhưng chưa mang
lại hiệu quả toàn diện. Vì vậy, cần tiến hành công tác“đổi điền, dồn thửa” một
cách toàn diện, công khai phương án để người dân bàn bạc, thấy rõ lợi ích của
việc dồn đổi ruộng đất, từ đó đi đến thống nhất trong phương án và hành động.
- Hoàn thành việc giao đất và cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất
cho người sử dụng, quy hoạch hướng dẫn cụ thể để người sử dụng đất thực hiện
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 81
được 7 quyền đối với đất đai theo Luật định. Khuyến khích tích tụ, tập trung
ruộng đất để phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn.
1.2. Chính sách thuế
Đối với bà con nông dân, Nhà nước cần nghiên cứu thực hiện việc miễn,
giảm thuế sử dụng đất nông nghiêp để người nông dân có thêm nguồn lực để
đầu tư phát triển sản xuất và thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Đối với
doanh nghiệp, cần rà soát lại và điều chỉnh bổ sung chính sách thuế theo hướng
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chế biến
nông lâm thuỷ sản, cụ thể:
- Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân trong thời gian
kiến thiết cơ bản. Miễn thuế sử dụng đất ít nhất trong 5 năm đối với
những diện tích đất chuyển sang trồng các cây mới, nuôi con mới.
- Miễn thuế thu nhập đối với kinh tế trang trại sử dụng lãi thu được
để tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá.
- Không tính thuế buôn chuyến đối với hàng hoá nông sản tiêu thụ
ngoài tỉnh, miễn phí kiểm dịch cho hàng nông sản xuất khẩu.
- Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất đối với các cơ sở kinh
doanh phi nông nghiệp ở nông thôn và các doanh nghiệp đầu tư nhà máy
tại các vùng nông thôn (miễn thuế sử dụng đất trong 5 năm), để thúc đẩy
công nghiệp chế biến hàng nông sản, khuyến khích công tác nghiên cứu
khoa học phục vụ quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói
riêng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói chung.
1.3. Chính sách đầu tư, tín dụng
Đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 82
nói chung trong thời gian tới, cần được hoàn thiện bằng các biện pháp cụ thể
như sau:
- Thực hiện đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thiết
yếu cho các vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung trên nguyên tắc xây
dựng và quản lý sử dụng công trình phải có sự tham gia của người dân mới có
thể tăng hiệu quả sử dụng công trình.
- Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản, các chợ đầu mối giới
thiệu và tiêu thụ hàng nông sản tại các vùng sản xuất hàng hoá tập trung và khu
kinh tế cửa khẩu.
- Tập trung đầu tư cho công tác đào tạo, nhằm xây dựng một đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và cán bộ quản lý có trình độ, góp phần đưa
nền nông nghiệp nước nhà tiến kịp với đà phát triển và xu thế hội nhập chung
của khu vực ASEAN và thế giới.
- Khuyến khích các hình thức tín dụng đa dạng, đơn giản hoá các thủ tục
cho người nông dân vay của các tổ chức tín dụng thương mại quốc doanh.
Dành cho các doanh nghiệp chế biến, xuất nhập khẩu nông sản hàng hoá các
khoản vay ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc
chuyển mặt hàng kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
- Cho phép các hộ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi được
lập dự án vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển hoặc từ các nguồn vốn ưu đãi
của các chương trình mục tiêu của Chính phủ.
- Sửa đổi các chính sách về đất đai tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu
tư nước ngoài về đất đai; bổ sung các ưu đãi cao hơn cho các dự án chế chế
biến nông, lâm thuỷ sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn khó khăn, các dự
án phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết để hình
thành các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế
biến xuất khẩu; giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các
doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chuyên sâu, mở
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 83
rộng sản xuất; có biện pháp hỗ trợ dự án mới bắt đầu triển khai hoặc đang xây
dựng cơ bản để có thể thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI vào quá trình điều
chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp nước nhà (trong 5 năm tới cần huy động 660
triệu USD, tương đương 6% tổng nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông
nghiệp).
2. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết và lịch trình thực hiện
CEPT/AFTA của Việt Nam không chỉ trong đội ngũ cán bộ công
chức, doanh nghiệp mà còn tới tận người nông dân
Công tác tuyên truyền, phổ biến những nội dung về hội nhập kinh tế nói
chung và tham gia CEPT-AFTA nói riêng thời gian qua chúng ta làm chưa tốt,
chưa tạo ra nhận thức nhất quán về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập AFTA,
nên sự tham gia của các ngành các cấp, các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ.
Không ít địa phương coi hội nhập là công việc của cấp trên, không liên quan gì
đến mình nên chưa thực sự xây dựng và triển khai kế hoạch cụ thể về sản xuất
kinh doanh có tính đến việc thực hiện lộ trình mà nhà nước ta đã cam kết.
Vì vậy khi thời hạn thực hiện CEPT/AFTA càng đến gần, chúng ta càng
phải khẩn trương tổ chức tuyên truyền để các địa phương, doanh nghiệp, người
sản xuất kinh doanh và nông dân có nhận thức đầy đủ về thời cơ và nhất là các
thách thức mà họ sẽ phải đương đầu nếu muốn tồn tại và phát triển, để từ đó
từng ngành nghề, từng người sản xuất kinh doanh - những tác nhân tham gia
vào các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng nông sản - tự xây dựng
cho mình kế hoạch, phương án và lộ trình hội nhập cụ thể với hiệu quả cao
nhất.
3. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất trên cơ sở quy hoạch hợp lý và đúng đắn
Công tác quy hoạch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp cần được đặc
biệt quan tâm và phải được đặt trong tổng thể chung của cả nước trong bối cảnh
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 84
hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển nhanh nhạy của tiến bộ khoa học công
nghệ. Công tác quy hoạch được tiến hành căn cứ trên lợi thế so sánh và nhu cầu
của thị trường, khả năng cạnh tranh, sự phân công lao động khu vực và quốc tế,
để có thể được điều chỉnh kịp thời trước những biến đổi của các nhân tố bên
trong cũng như bên ngoài đất nước. Quy hoạch phát triển nông nghiệp dài hạn
cũng cần phải tính kỹ đến các cam kết quốc tế để tránh đầu tư vào những
ngành, lĩnh vực không có khả năng cạnh tranh, nhờ vậy rút ngắn thời gian cần
Nhà nước bảo hộ. Trên cơ sở đó, trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, chúng ta cần chú trọng làm tốt quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập
trung, quy hoạch hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho vùng sản xuất
hàng hoá, quy hoạch lại dân cư gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển
sản xuất nông nghiệp bền vững.
Một vấn đề chúng ta cũng cần quan tâm đối với công tác quy hoạch phát
triển trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp là việc xây dựng cơ chế gắn
trách nhiệm của người phê duyệt kế hoạch với hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ
đó mở rộng cơ chế ký kết hợp đồng với nông dân - người trực tiếp sản xuất - về
việc tiêu thụ sản phẩm, trong đó chính quyền các cấp là người giám sát về mặt
pháp luật đối với các hợp đồng kinh tế đó.
4. Tập trung sản xuất những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh
Trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền nông nghiệp ASEAN và
quốc tế, mức độ cạnh tranh của hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng
kể cả hàng nông sản chế biến và những mặt hàng truyền thống có thị trường
trong nước tương đối ổn định, hoặc chưa chế biến sẽ càng trở nên gay gắt,
không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường trong nước, do
hàng hoá cùng loại được nước ngoài sản xuất ra với chi phí thấp hơn, chất
lượng cao hơn. Chẳng hạn, gạo phẩm cấp cao của Việt Nam phải tính đến có
khả năng cạnh tranh được với gạo cùng loại của Thái lan hay không, hoa quả
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 85
sản xuất trong nước có thể cạnh tranh với hoa quả nhập từ các nước ASEAN
vào hay không...
Khi CEPT/AFTA được đưa vào thực hiện, Chính phủ sẽ không thể can
thiệp để bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp như chế hạn định
lượng hay tăng thuế suất nhập khẩu hoặc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi
thuế quan khác được nữa. Điều này có nghĩa là những ngành sản xuất nông
nghiệp mà không có lợi thế so sánh, không cạnh tranh được ngay cả trên thị
trường trong nước thì hầu như không còn cơ hội để giữ vững và mở rộng thị
phần. Cách tồn tại và phát triển tốt nhất, cách phân bổ và sử dụng nguồn lực có
hiệu quả nhất là phát triển những ngành có lợi thế so sánh ngay từ bây giờ, còn
các ngành có sức cạnh tranh trung bình cũng như sức cạnh tranh yếu cũng cần
tranh thủ thời gian tìm cách xác định vị thế của mình trên thị trường để tồn tại
và phát triển. Các ngành, các địa phương, trong công tác quy hoạch của mình
cần phải xem xét cẩn trọng những lợi thế so sánh của địa phương mình đồng
thời phải tính đến các cam kết quốc tế của Việt Nam để tránh đầu tư vào những
ngành, những lĩnh vực không đem lại hy vọng về nâng cao khả năng cạnh
tranh.
Rà soát lại quy mô, lộ trình phát triển của từng ngành hàng đặt trong bối
cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trước hết tập trung phát triển các
ngành sản xuất chính như: lúa gạo, cà phê, chè, điều, hồ tiêu, cây ăn quả nhiệt
đới, lợn, trâu bò, gia cầm, muối... Dựa trên tín hiệu thị trường để xác định khối
lượng mỗi loại sản phẩm cần sản xuất trong mỗi thời kỳ, để bố trí sản xuất ở
những địa bàn thuận lợi nhất trong 7 vùng tự nhiên của cả nước, để áp dụng
những tiến bộ khoa học tiên tiến, xếp theo thứ tự ưu tiên ở mỗi vùng.
5. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất gắn liền với tổ chức thị trường và tổ chức
lại sản xuất
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 86
- Khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, khuyến khích
nông dân nhận đất, nhận rừng phát triển kinh tế hàng hoá; phát triển kinh tế
trang trại, khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tham gia dịch vụ chế biến phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Xây
dựng củng cố các tập đoàn mạnh (Tổng công ty lương thực, Tổng công ty Cà
phê, Tổng công ty chè) đủ sức vươn lên chiếm lĩnh thị trường thế giới, trở
thành chỗ dựa cho nông dân sản xuất hàng hoá.
- Mở rộng liên kết doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân với
nông dân để sản xuất ra hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, tạo lập mối liên
kết hộ nông dân – doanh nghiệp – thị trường, coi đây là biện pháp quan trọng
nhất để tạo ra sự ổn định về thị trường cho nông dân, hạn chế yếu tố tự phát
trong sản xuất nông nghiệp.
- Khuyến khích hình thành mối liên doanh liên kết da dạng giữa người
sản xuất nguyên liệu với các cơ sở chế biến nông sản thông qua mối liên hệ về
lợi ích kinh tế. Thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến nông sản của
Nhà nước để người nông dân có thể tham gia mua cổ phần, qua đó gắn được
quyền lợi và trách nhiệm của cơ sở chế biến với người sản xuất nguyên liệu.
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào tiêu thụ hàng nông
sản kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Hình thành các chợ đấu giá hàng nông sản, các trung tâm thương mại
để giới thiệu sản phẩm ở các vùng, khu kinh tế cửa khẩu giúp đẩy mạnh giao
lưu buôn bán hàng hoá nông phẩm dưới nhiều hình thức đa dạng.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nói chung và thương mại hàng
nông sản nói riêng. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu hàng nông sản tham gia hội chợ trong nước và quốc tế để tìm kiếm
cơ hội và bạn hàng. Nhà nước cũng cần tăng cường thực hiện hợp tác cấp
Chính phủ về trao đổi và xuất nhập khẩu hàng hoá nông sản bằng cách ký kết
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 87
các hợp đồng cấp Chính phủ về xuất khẩu các mặt hàng nông sản, ví dụ: ký kết
các hợp đồng cấp Chính phủ về xuất khẩu các mặt hàng gạo, chè, rau quả...
- Tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo thị trường, cung cấp và xử
lý thông tin thị trường một cách chính xác, cập nhật để người sản xuất quyết
định đầu tư mở rộng hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh đúng đắn, kịp thời.
6. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản
Hiện nay hàng năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 3 tỷ USD hàng
nông sản sơ chế nhưng đồng thời cũng nhập khẩu về khoảng trên 1 tỷ USD
hàng nông sản chế biến. Trong khi đó, nếu phát triển công nghiệp chế biến
chúng ta sẽ vừa tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn, tạo nhiều việc làm hơn, vừa
tạo nên đầu ra ổn định cho ngành trồng trọt và chăn nuôi. Qua chế biến, hàng
nông sản Việt Nam có thể thâm nhập sâu hơn, trên phạm vi rộng hơn vào thị
trường quốc tế và nhất là ít chịu ảnh hưởng của sự biến động trong giá xuất
khẩu như đối với hàng nông sản thô xuất khẩu. Khi phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu, nhà sản
xuất sẽ yên tâm hơn về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất do có thể lựa chọn
nguyên liệu trong nước với giá thấp, chất lượng cao. Như vậy một mặt chúng ta
vừa khai thác được lợi thế so sánh trong sản xuất hàng nông sản thô/sơ chế, mặt
khác lại vừa khuyến khích người nông dân trong nước phát triển sản xuất hàng
hoá, hạ giá thành sản phẩm. Chính vì những lợi ích đó mà việc phát triển mạnh
công nghiệp chế biến nông sản ở một nước sản xuất nông nghiệp như Việt Nam
cần phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải chú ý một
số vấn đề sau:
- Tiếp cận ngay với công nghệ chế biến tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm
nông nghiệp đạt tiêu chuẩn yêu cầu về vệ sinh và an toàn thực phẩm có sức
cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại từ các nước khác trong khu vực;
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 88
- Ưu tiên cho việc áp dụng các công nghệ sử dụng nhiều lao động trong
công nghiệp chế biến nông sản để giảm sức ép về vấn đề lao động và việc làm
đang còn rất lớn nhất là ở khu vực nông thôn;
- Thiết lập cơ chế liên kết về lợi ích giữa nhà máy chế biến với người
nông dân sản xuất nguyên liệu nông sản.
- Đối với các cơ sở chế biến và xuất nhập khẩu hàng nông sản, bên cạnh
việc đổi mới công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá
chủng loại và mẫu mã sản phẩm theo nhu cầu thị trường, cần có biện pháp kiên
quyết tiết kiệm chi tiêu để hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
7. Xây dựng mối liên kết “4 nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp và Nhà nước) trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Nhằm thúc đẩy sự phát của nền nông nghiệp hàng hóa hiện tại, tạo điều
kiện cho người sản xuất yên tâm đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây
trồng vật nuôi, tăng chất lượng và năng suất sản phẩm, hạ giá thành hàng hóa,
nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường trong quá
trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm
2002 về chính sách “khuyến khích tiêu thụ hàng nông sản thông qua hợp
đồng”. Tiếp sau đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và Bộ thủy sản đã ban hành các Thông tư hướng dẫn quy định
việc thực hiện Quyết định này. Thực hiện chính sách này, nhiều doanh nghiệp
đã thành công trong việc ký kết hợp đồng sản xuất nông lâm thủy sản với nông
dân, mang lại hiệu quả đáng ghi nhận. Tuy vậy ở nhiều nơi, nông nghiệp vẫn
chưa thực hiện được chính sách trên, vẫn chưa chuyển mạnh sang sản xuất
hàng hóa, chưa thực sự lấy thị trường làm điểm xuất phát của quy hoạch và kế
hoạch sản xuất. Bên cạnh đó, một số nơi tuy đã chuyển sang sản xuất hàng hóa
nhưng vẫn tiếp tục gặp phải khó khăn trong chế biến, bao tiêu và tiêu thụ sản
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 89
phẩm, thiếu vốn đầu tư để chuyển đổi cơ cấu sản xuất của mình theo hướng đáp
ứng nhu cầu của thị trường, trong khi việc áp dụng phương thức hợp đồng giữa
các doanh nghiệp và người sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Hiện
tượng phá vỡ hay lạm dụng hợp đồng vẫn xảy ra. Các bên tham gia hợp đồng
thiếu sự hỗ trợ của các nghành liên quan như: viện nghiên cứu, trung tâm
khuyến nông ngân hàng, các ngành Tài chính, Hải quan, Thương mại… Do vậy
hiệu quả của hình thức hợp đồng này còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, muốn
điều chỉnh cơ cấu sản xuất để nông nghiệp Việt Nam thực sự trở thành nền
nông nghiệp hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế đòi hỏi phải có mối liên kết chặt
chẽ và có hiệu quả của các bên: Nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp,
Nhà nước và ngân hàng trong các hoạt động chuyển đổi cơ cấu sản xuất và
trong chế biến và tiêu thụ nông phẩm. Những liên kết nay thể hiện như sau:
Nhà khoa học bao gồm các cán bộ nghiên cứu của các viện
trường, các cán bộ khuyến nông của hệ thống khuyến nông Nhà nước và
khuyến nông tự nguyện. Liên kết nhà khoa học với nhà nhà nông được
thể hiện ở sự hợp tác trong việc xác định các ưu tiên nghiên cứu, chuyển
giao có hiệu quả và chịu trách nhiệm về các kỹ thuật tiến bộ được áp
dụng vào sản xuất, giúp nhà nông nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản. Mặt khác,
các nhà khoa học có thị trường để bán các sản phẩm khoa học – công
nghệ và có “đất” để áp dụng các kết quả nghiên cứu của họ.
Nhà doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp chế biến, bao tiêu
nông sản phẩm. Liên kết giữa nhà doanh nghiệp với nhà nông thể hiện ở
việc hướng dẫn giúp đỡ nhà nông trong việc áp dụng kỹ thuật khoa học
tiến bộ vào sản xuất, thực hiện bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận,
đảm bảo lợi ích của cả hai bên, giúp cho người nông dân yên tâm sản
xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng đáp ứng tốt nhất
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 90
nhu cầu của thị trường, nâng cao năng suất thu nhập cho người sản xuất
và người cung tiêu nông phẩm.
Ngân hàng bao gồm các Ngân hàng thương mại và các tổ chức Tín
dụng, thuộc sự quản lý của Nhà nước. Liên kết giữa ngân hàng và nhà
nông thể hiện ở việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của nhà nông về huy
động vốn và cho vay tín dụng để đảm bảo cho nhà nông có đủ vốn để
đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thâm canh, tăng năng suất
và chất lượng sản phẩm, hạn chế rủi ro và thất thoát vốn.
Nhà nông là những người trực tiếp làm ra sản phẩm nông
nghiệp, bao gồm các hộ nông dân, các trang trại, các doanh nghiệp sản
xuất nông nghiệp và HTX. Liên kết nhà nông với nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp, ngân hàng và Nhà nước thể hiện ở 4 mặt sau:
- Cùng với nhà khoa học, xác định các ưu tiên nghiên cứu,
thẩm định các kết quả, tiếp nhận và chuyển giao các kỹ thuật tiến bộ đã
được khẳng định đồng thời thực hiện việc chi trả chi phí cho các sản
phẩm khoa học đã được ứng dụng.
Thực hiện các cam kết trong hợp đồng đã ký với nhà doanh -
nghiệp về bao tiêu, chế biến nông sản phẩm.
Thực hiện các cam kết với ngân hàng trong thanh toán tiền -
vay và tiền lãi đúng kỳ hạn.
Thực hiện tốt các quy định pháp lý về sản xuất chế biến và -
tiêu thụ sản phẩm do Nhà nước quy định.
Tất cả các việc làm trên sẽ góp phần vào việc thúc đẩy sự phát
triển của các ngành khoa học , kinh doanh từ đó giúp chúng tiếp tục tạo
ra các điều kiện thuận lợi hơn về khoa học công nghệ, vốn đầu tư cho
quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất tiếp theo trong nghành nông
nghiệp.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 91
Nhà nước bao gồm các Bộ, ngành mà trọng tâm là Bộ Nông
nghịêp và Phát triển nông thôn, Bộ thủy sản, Bộ Thương mại, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng
cục Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp… Mối liên hệ giữa Nhà nước với
nhà nông, giữa Nhà nước với các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, ngân
hàng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp thể hiện
chủ yếu ở 3 mặt sau:
- Xây dựng hành lang pháp lý cho các bên nói trên để thực hiện liên
kết có hiệu quả trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đổi
mới giống cây trồng, vật nuôi, thâm canh, tăng năng suất, trong chế biến
và tiêu thụ sản phẩm.
- Hướng dẫn và giám sát các bên tham gia thực hiện có hiệu quả
quá trình liên kết.
- Cung cấp kịp thời các thông tin về cung cầu, giá cả sản phẩm giúp
cho nhà nông, nhà doanh nghiệp và các bên liên quan có những quyết
định điêù chỉnh cơ cấu sản xuất – kinh doanh kịp thời và phù hợp với nhu
cầu, thị hiếu của thị trường.
Các mối liên kết trên (được thể hiện ở Phụ lục 6) nếu được thực hiện tốt
sẽ là điều điều kiện đảm bảo cho khoa học thực sự trở thành lực lượng sản xuất
chủ yếu, gắn với thực tiễn sản xuất, công tác chuyển giao kỹ thuật tiến bộ sẽ có
hiệu quả, doanh nghiệp sẽ có nguồn cung cấp nông sản nông sản ổn định cho
chế biến xuất khẩu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, người nông dân yên
tâm đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất vì được tiếp cận đến khoa học, công
nghệ tiên tiến và vốn, còn ngân hàng sẽ thực hiện tốt hơn chức năng kinh doanh
tiền tệ. Tất cả các điều trên đảm bảo cho nền nông nghiệp nước nhà phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Với những ưu điểm đã phân tích, nếu các mối liên kết giữa nhà nông với
nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, ngân hàng và Nhà nước được tăng cường,
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 92
phát triển đúng hướng và hiệu quả, chắc chắn sẽ tạo đà cho nông nghiệp nước
ta phát triển ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa dựa trên nhu cầu của thị
trường để vững vàng hội nhập vào nền nông nghiệp ASEAN và quốc tế trong
thời gian tới.
8. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thụât vào quá trình chuyển
đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng, được coi là khâu đột phá
quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hoá, vì vậy Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến vấn
đề này, cụ thể:
- Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng và triển khai, đổi mới cơ chế quản lý
khoa học nhất là cơ chế quản lý về tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu quả
của nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tới người nông dân. Nhà nước nên
dành kinh phí thoả đáng để nhập những công nghệ tiên tiến của nước ngoài
nhất là về giống và máy móc thiết bị, không vì rẻ mà nhập khẩu công nghệ lạc
hậu.
- Hỗ trợ thoả đáng cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp để đáp ứng tốt
hơn yêu cầu của sản xuất hàng hoá, đầu tư đồng bộ cho các cơ sở nghiên cứu,
tuyển chọn và lai tạo giống cây trồng, con nuôi cho phù hợp với từng vùng sinh
thái nhằm cung cấp cho nông dân giống cây, con có chất lượng để sản xuất ra
sản phẩm có độ đồng đều cao thuận lợi cho công nghiệp chế biến và nâng cao
giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của thị trường.
- Tập trung phát triển công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sau
thu hoạch với quy mô vừa và nhỏ cho nông dân trong các vùng sản xuất hàng
hoá tập trung theo quy hoạch để nông dân tiến hành sơ chế ngay sau khi thu
hoạch, giảm thiểu tỷ lệ sản phẩm nông sản hư hỏng, nâng cao chất lượng hàng
nông sản chế biến.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 93
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư
để đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất, đồng thời gắn
trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với
sản xuất của nông dân thông qua cơ chế thưởng và phạt thích hợp. Khuyến
khích cán bộ khuyến nông lâm ngư đến với nông dân kể cả tại các vùng sâu,
vùng xa. Mở rộng các hình thức đào tạo, tập huấn kỹ thuât, xây dựng mô hình
trình diễn khuyến nông, lâm, ngư tại các vùng để nông dân nhanh chóng tiếp
cận và hưởng lợi từ các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, tập huấn cho người
nông dân phương thức canh tác theo đúng quy trình.
- Tập huấn cho nông dân về các phương thức quản lý dịch hại tổng hợp
IPM và quản lý cây trồng tổng hợp ICM.
- Chú trọng đến công tác nghiên cứu và ứng dụng giống mới vào quá
trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp bằng các biện pháp:
+ Hoàn chỉnh các văn bản pháp quy, các cơ chế chính sách để khuyến
khích các thành phần phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển giống, từng bước
tiến tới xã hội hoá về công tác giống, tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà
nước về giống nông lâm ngư nghiệp.
+ Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương, cùng
các chương trình hợp tác quốc tế để tăng các nguồn vốn và phát huy hiệu quả
của quá trình đầu tư cho chương trình giống.
+ Với các dự án giống thuộc Bộ quản lý: tiếp tục chọn đào tạo và bổ
sung thêm cho tập đoàn giống gốc hiện có, đẩy mạnh sản xuất giống gốc, xây
dựng mạng lưới nhân giống và chuyển giao công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ
thuật tiên tiến về sản xuất chế biến giống xuống các địa phương, các vùng sản
xuất nông nghiệp trọng điểm.
Gắn các nội dung của chương trình giống với chương trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, Chương trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 94
hoá nông nghiệp… để hình thành các trung tâm sản xuất giống công nghệ cao
theo vùng sinh thái và vùng kinh tế.
+ Ở các địa phương: tiếp tục đầu tư nâng cấp các nhà lưới, vườn ươm,
nuôi cấy mô, giâm hom…, củng cố hệ thống nhân giống và cung ứng giống
theo hướng xã hội hoá để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát huy thế
mạnh các cây, con, có lợi thế so sánh phục vụ chương trình chuyển đổi cơ cấu
sản xuất và cơ cấu sản phẩm địa phương.
Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, trên cơ sở các doanh nghiệp, các
hợp tác xã, các tổ đội, các hộ trang trại chuyên sản xuất và cung ứng giống để
đảm bảo mục tiêu 80% diện tích cây trồng và đàn gia súc được thay thế bằng
các giống mới, tiên tiến, năng suất, chất lượng cao, giá thành hợp lý.
Quảng bá chủ trương, chính sách định hướng về quy hoạch, kế hoạch và
dự báo nhu cầu giống trong sản xuất của địa phương, giúp các cơ sở làm giống
chủ động được kế hoạch và quy mô đàu tư.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giống trên từng địa bàn, các
cơ quan quản lý cần quan tâm hơn đến việc kiẻm tra, đánh giá, tổng kết, kịp
thời biểu dương các tổ chức, cá nhân có thành tích tốt trong thực hiện chương
trình giống.
- Xây dựng trung tâm khoa học công nghệ cao phục vụ quá trình chuyển
đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp:
Do ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, mà điển
hình là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin, cùng với toàn cầu hoá kinh
tế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Mục
tiêu hiện đại hoá nông nghiệp là chuyển nền nông nghiệp truyền thống thành
nông nghiệp hiện đại về thực chất là hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông
nghiệp, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh
doanh và trí thức hoá nông thôn. Để thực hiện mục tiêu này, con đường tất yếu
và duy nhất là phải dựa vào sức mạnh của đòn bẩy khoa học công nghệ. Trung
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 95
tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao ra đời đã tạo môi trường thuận lợi
cho việc sáng tạo khoa học công nghệ và chuyển giao nhanh thành quả của
nghiên cứu khoa học công nghệ vào sản xuất mang lại hiệu quả cao.
Trung tâm khoa học công nghệ cao là cầu nối quan trọng giữa công tác
nghiên cứu với việc mở rộng sản xuất, giữa việc trình diễn và nhân ra diện
rộng. Trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao là con đường kết hợp
chặt chẽ giữa áp dụng nhanh chóng các thành quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật
nông nghiệp, làm cho kinh tế nông thôn gắn kết với khoa học kỹ thuật nông
nghiệp, thông qua việc xây dựng khu nông nghiệp khoa học công nghệ để trình
diễn các kỹ thuật nông nghiệp mới thích hợp với địa phương, để nông dân tận
mắt có thể nhìn thấy kết quả và khả năng áp dụng các công nghệ cao, mới, từ
đó họ sẽ làm theo. Đó là phương pháp nhanh nhất để đưa tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào áp dụng trong chuyển đổi sản xuất nông nghiệp.
Trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao là cơ sở để kết hợp chặt
chẽ, có hiệu quả giữa nền nông nghiệp sử dụng thiết bị công nghệ cao tiên tiến
của thế giới với những kinh nghiệm sản xuất của nền nông nghiệp truyền
thống.
Sự phát triển của trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao là sự
lựa chọn hiện thực nhất để đưa sản phẩm nông nghiệp vào thị trường nông sản
của thế giới có hiệu quả do tiêu chuẩn, phẩm chất sản phẩm nông nghiệp của
các nước chậm phát triển như Việt Nam còn có khoảng cách xa so với tiêu
chuẩn, phẩm chất của thị trường nông sản thế giới.
Để hình thành khu khoa học công nghệ nông nghiệp cao, các biện pháp
phải thực hiện là:
- Coi khoa học công nghệ là đòn bẩy, lấy đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật làm gốc.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng của trung tâm hiện đại, thuận tiện, đồng bộ: Hệ
thống thuỷ lợi, giao thông, điện, thông tin phải được xây dựng theo tiêu chuẩn
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 96
hiện đại, phù hợp với chức năng của trung tâm (kinh nghiệm của Trung Quốc là
4 thông 1 bằng: Giao thông tốt, Thông cấp thoát nước, thông điện, thông tin và
mặt bằng khu thuận lợi).
- Có chính sách ưu đãi, thông thoáng, mở rộng để thu hút nhân tài, thu
hút phát minh, sáng chế mới, công nghệ tiên tiến, phương tiện hiện đại đầu tư
vào trung tâm khoa học nông nghiệp cao. Chính phủ phải đầu tư vốn và áp
dụng các chính sách liên quan khác, khuyến khích nghiên cứu khoa học, tạo
điều kiện thuận lợi cho sáng tạo.
- Khuyến khích và ưu đãi các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham
gia đầu tư vào trung tâm khoa học công nghệ nông nghiệp cao.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu thành
quả nghiên cứu khoa học công nghệ, sản phẩm của trung tâm với các cơ sở,
trung tâm khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới.
9. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản
xuất nông nghiệp đất nước
Chúng ta cần thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách khuyến khích
mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh, kể cả quốc doanh
công nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp cùng với kinh tế hợp tác vươn lên
giữ vai trò nòng cốt, bằng các biện pháp:
Phát triển thành phần kinh tế hộ gia đình
- Hướng dẫn các hộ nông dân, khuyến khích tâm canh, xây dựng phong
trào nông dân sản xuất giỏi thúc đẩy sản xuất hàng hoá, từng bước phát triển
sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại gia đình.
- Khuyến khích những hộ có kinh nghiệm, có năng lực kinh doanh giỏi,
có vốn, có lao động, kể cả lao động thuê mướn phát triển sản xuất kinh doanh
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 97
làm giàu, trở thành những hộ sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại, tạo
điều kiện cho hộ nông dân tăng quy mô trang trại, mở rộng các hoạt động phi
nông nghiệp để tăng thu nhập.
- Nhà nước có chính sách giao đất, cho vay vốn, chuyển giao kỹ thuật, tổ
chức thị trường, khuyến khích đại bộ phận hộ nông dân chuyển sang sản xuất
hàng hoá, để có nền nông nghiệp với tỷ suất hàng hoá cao, tạo thành đòn bẩy
cho tăng trưởng kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới. Phát triển kinh tế hộ
sản xuất hàng hoá còn là cơ sở để phát triển kinh tế hợp tác, hợp quy luật, hợp
lòng dân và chắc chắn sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho người nông dân và xã
hội.
- Đồng thời, Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để những hộ nông dân
nghèo, thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức dạy
nghề... để những hộ này có điều kiện hoạt động được trong nền kinh tế thị
trường, vươn lên sản xuất đủ tiêu dùng và từng bước làm giàu.
Với những hộ quá nghèo đói, Nhà nước mở rộng chương trình xoá đói
giảm nghèo, thông qua việc trợ giúp vật tư sản xuất (giống, phân bón) và
hướng dẫn quy trình sản xuất, để họ tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Với
những hộ nông dân nghèo túng ở các vùng núi và vùng thường xuyên bị thiên
tai, Nhà nước giúp đỡ xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, thông qua
các mô hình trình diễn để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tăng thêm
nguồn vốn vay ưu đãi và các nguồn tài trợ khác để ổn định và phát triển sản
xuất.
Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã
Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, hợp
tác xã (HTX) có vai trò quan trọng, vừa có tác dụng hỗ trợ để kinh tế hộ phát
triển, vừa góp phần phát huy hiệu quả đầu tư của Nhà nước trên từng địa bàn
(nhất là về thuỷ lợi, khoa học kỹ thuật...), đồng thời bảo vệ lợi ích kinh tế hộ
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 98
nhằm khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường. Do đó, trong những năm tới cần
tập trung thực hiện các nội dung sau:
- Đẩy mạnh thực hiện Luật Hợp tác xã, thúc đẩy kinh tế tập thể phát
triển theo hướng đa dạng, trên cơ sở tự nguyện của hộ nông dân và sự hỗ trợ
của Nhà nước. Hướng HTX vào phát triển dịch vụ cung ứng các yếu tố đầu vào
cho sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá; từng bước phát triển công nghiệp ,
đặc biệt là phát triển công nghiệp ché biến nông sản. Tăng cường công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cho kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
- Tiến hành phân loại những HTX đã có nhưng chưa chuyển đổi phương
thức hoạt động theo Luật HTX, để xử lý: đối với những HTX yếu kém, tuy đã
thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nhưng vẫn không khắc phục được, thì giải
thể, hướng dẫn và giúp đỡ nông dân hình thành tổ chức kinh tế hợp tác phù
hợp. Số HTX cũ còn lại, hướng dẫn thực hiện các chính sách hỗ trợ của Chính
phủ, tuyên truyền để chuyển đổi theo Luật HTX, tạo điều kiện thuận lợi về thủ
tục đăng ký kinh doanh.
- Thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động thành lập các HTX mới.
Khuyến khích phát triển các loại hình HTX đa dạng hướng vào dịch vụ sản
xuất và đời sống, kể cả dịch vụ tín dụng nội bộ HTX.
- Tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp phát triển, Nhà
nước cần có chính sách xoá nợ đối với những khoản vay trước đây của các
HTX không có khả năng trả nợ. Cho các HTX thuê đất với giá ưu đãi để làm
trụ sở, xây dựng kho tàng, nhà xưởng chế biến nông - lâm - thuỷ sản... Chính
sách miễn các khoản thuế thu nhập sau 5 năm đầu đối với những tổ hợp tác và
HTX mới thành lập, có chính sách cho vay vốn với số lượng phù hợp với quy
mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thời gian trung hạn, dài hạn. Nhà nước xây
dựng kế hoạch và hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ HTX.
Củng cố thành phần kinh tế Nhà nước
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 99
- Trước mắt cũng như lâu dài, cần tập trung xây dựng kinh tế Nhà nước
trong nông nghiệp (bao gồm: các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông lâm
ngư nghiệp, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến và dịch vụ, lưu thông) đủ
mạnh để nắm vai trò chủ đạo, đảm bảo cho nông nghiệp nước ta đi vào sản xuất
sản xuất quy mô lớn, tạo điều kiện giúp nông dân thoát khỏi đói nghèo, đưa
nông nghiệp nước ta phát triển theo định hướng XHCN.
- Kinh tế Nhà nước tập trung chủ yếu vào các khâu: quy hoạch sản xuất -
đô thị hoá nông thôn, phát triển thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng; phát triển khoa học
công nghệ; kinh doanh xuất nhập nhập khẩu những mặt hàng chiến lược có ý
nghĩa lớn về kinh tế - xã hội; liên kết các thành phần kinh tế, thúc đẩy nông
nghiệp, nông thôn phát triển toàn diện.
- Đối với nông, lâm trường:
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiền vốn và
sức lao động hiện có của nông, lâm trường, tạo việc làm và tăng thu nhập cho
hộ gia đình công nhân viên. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý đất đai và lao
động của các nông, lâm trường theo hướng: thực hiện rộng rãi cơ chế khoán đất
đai, vườn cây, gia súc theo Nghị định 01/CP của Chính phủ; giao và khoán
rừng, chuyển mạnh sang làm dịch vụ. Giao đất cho các hộ gia đình, cán bộ
công nhân viên để phát triển kinh tế.
+ Tổ chức lại ban quản lý nông, lâm trường để làm tốt chức năng, nhiệm
vụ dịch vụ và công nghiệp chế biến phát triển thị trường, hướng dẫn và hỗ trợ
các gia đình nhận khoán và phát triển sản xuất kinh doanh đa dạng. Tổng kết,
đưa ra bài học kinh nghiệm mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh của Công ty
mía đường Lam Sơn, Nông trường Sông Hậu, để phổ biến và nhân ra diện
rộng, biến các nông trường trở thành Trung tâm công nghiệp , dịch vụ và
chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá trong vùng, nhất là vùng sâu, vùng
xa, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 100
Khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân tham gia chuyển đổi cơ
cấu sản xuất nông nghiệp
- Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiệncho tư nhân đầu tư vào các địa
bàn trung du, miền núi, ven biển đẻ khai thác, sử dụng có hiệu quả các loại đất
trồng, đồi núi trọc, đất hoang hoá và làm công nghiệp chế biến, các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp..., nhưng phải theo từng dự án.
Riêng với vùng đồng bằng, hướng tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất
kinh doanh công nghiệp chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng, chăn nuôi quy mô
lớn và công nghiệp khác ít sử dụng đất canh tác.
Tóm lại, để chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phát triển một nền nông
nghiệp bền vững, mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế cần được huy
động và phát huy một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất.
10. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y,
bảo vệ thực vật ngang với trình độ trong khu vực, tạo điều kiện để
thực hiện việc điều chỉnh và hội nhập của nông nghiệp
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và nền kinh tế tri
thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế
và phương thức sản xuất kinh doanh .v.v. thì vấn đề đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực ngày càng trở nên quan trọng. Kinh nghiệm nhiều nước ASEAN cho
thấy công tác đào tạo có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung
và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Chính sách đào tạo nguồn
nhân lực cho CNH - HĐH nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp cần chú ý vào cả hai đối tượng là:
- Tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất
là cán bộ nghiên cứu triển khai để nhanh chóng chuyển giao và áp dụng những
tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 101
- Tăng cường trang bị kiến thức cho người nông dân: do bà con nông
dân là người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá nông sản, trực tiếp ứng dụng những
kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trực tiếp chịu hậu quả của
những biến động thị trường hàng nông sản trong và ngoài nước với sản phẩm
của mình (gạo, cà phê .v.v. ) bằng các biện pháp cụ thể như:
+ Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y,
bảo vệ thực vật cơ sở ngang với trình độ trong khu vực để tạo điều kiện thực
hịên việc điều chỉnh và hội nhập của ngành nông nghiệp.
+ Cần thực hiện cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm để tăng cường
đầu tư cho giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá cho bà con nông dân ở các vùng
nông thôn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long.
+ Điều chỉnh mạng lưới cơ sở đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy
hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng vùng sản xuất nông nghiệp. Xây dựng
các trạm, trại hoặc cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trong các vùng
nông nghiệp trọng điểm nhằm kết hợp khuyến nông với đẩy mạnh hoạt động
phổ biến chuyển giao công nghệ tiên tiến về kỹ thuật cho người nông dân.
+ Nghiên cứu thêm về cơ cấu trình độ lao động nông nghiệp, phát triển
hệ cao đẳng và trung học chuyên nghiệp về nông nghiệp cho người nông dân.
+ Miễn, giảm học phí cho con em nông dân vào học trong các trường đào
tạo nông nghiệp; thực hiện chế độ nghĩa vụ công tác có thời hạn tại các vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa đối với các cán bộ, sinh viên ngành nông nghiệp
và khoa học nông nghịêp. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng cho khoa học
nông nghiệp, phát triển các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Thực tế sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua đã cho thấy: người
sản xuất nông nghiệp trong cơ chế thị trường cũng cần phải được trang bị kiến
thức khoa học kỹ thuật tiến bộ chứ không chỉ làm theo kinh nghiệm như trước
kia. Người nông dân được đào tạo sẽ biết cách nắm bắt, xử lý thông tin thị
trường trước khi đưa ra quyết định đầu tư sản xuất; chọn giống cây trồng, vật
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 102
nuôi thích hợp; biết cách phòng trừ dịch hại; biết cách áp dụng tiến bộ kỹ thuật
canh tác mới vào sản xuất, tác động đúng lúc, đúng liều lượng để sản phẩm làm
ra đạt chất lượng cao nhất; đồng thời biết cách bảo quản, sơ chế sau thu hoạch
để vẫn giữ được chất lượng hàng hoá của mình khi đưa ra thị trường; biết cách
không lạm dụng hoá chất nông dược vì sẽ ảnh hưởng đến môi trường và sản
phẩm khó hoặc không tiêu thụ được. Người nông dân cũng cần thấm nhuần và
tuân thủ chặt chẽ các quy định về tiêu chuẩn chất lượng vì nếu không sản phẩm
làm ra sẽ không bán được sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của bản thân và
gia đình họ./.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Association of South East Asian nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AFTA: Asean free trade area
Khu vực thương mại tự do ASEAN
FAO: Food agriculture organization
Tổ chức nông lương thế giới
ODA: Official development assistance
Viện trợ phát triển chính thức
WTO: World trade organization
Tổ chức thương mại thế giới
FDI: Foreign direct investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ICO: International coffee organization
Tổ chức cà phê thế giới
BCT: Bộ Chính trị
HTX: Hợp tác xã
NSNN: Ngân sách Nhà nước
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
KNXK: Kim ngạch xuất khẩu
CNH - HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Khãa luËn tèt nghiÖp
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phân tích sơ bộ Khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối
cảnh ASEAN và AFTA, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 10/2000.
2. Hội nhập với AFTA: Cơ hội và thách thức, Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế-
Trường Đại học KTQD, NXB Thống kê, HN 1997.
3. Báo cáo khoa học đề tài Nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy lợi
thế, nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản
trong thời gian tới, Viện kinh tế nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, 2/2001.
4. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế
giới, Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, HN 1999.
5. Số liệu thống kê nông – lâm nghiệp – thủy sản Việt Nam 1975-2000, Vụ nông –
lâm nghiệp – Thủy sản, Tổng cục thống kê, NXB Thống kê, HN 2001.
6. Thông tin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng thời kỳ 1990 – 2000, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ, tháng 4/2000.
7. Niên giám thống kê các năm 1990 – 2002.
8. Kinh tế xã hội Việt Nam 2002, kế hoạch 2003 tăng trưởng và hội nhập, NXB
Thống kê, HN 2003.
9. Kinh tế Việt Nam 2002, Viện nghiên cứu QLKTTƯ, NXB CTQG, HN 2003.
10. Đông Nam Á chặng đường dài phía trước, Lim Chong Yah- GS KT Đại học
công nghệ Nanyang, Xingapo, NXB Thế giới, HN 2003.
11. Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS.TS. Nguyễn
Sinh Cúc, NXB Thống kê, HN 2003.
12. Kinh tế thế giới 2002-2003 Đặc điểm và triển vọng, PGS.TS. Kim Ngọc, Viện
kinh tế thế giới, NXB Chính trị quốc gia, HN 2003.
13. Số liệu thống kê dân số và KT- XH Việt Nam 1975-2002, NXB TK, HN 2003.
Cao Nam H¶i – Líp Nga K38
Khãa luËn tèt nghiÖp
14. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, HN 2003.
15. CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam và Chương trình đẩy mạnh xuất
khẩu nông sản, TS. Nguyễn Hữu Khải, NXB Thống kê, HN 2003.
16. Chính sách cơ cấu vùng, Viện QLKTTƯ, NXB Chính trị quốc gia, HN 2003.
17. Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban CHTƯ Khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, 2002.
18. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, 2001.
19. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Số 1/2002; Số 1- 7/2003.
20. Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 1, 2, 3, 4, 7, 8, 9, 10/2003.
21. Tạp chí Thông tin kinh tế- xã hội, Số 3, 9, 10, 11,13, 15/2003.
22. Thông tin phục vụ lãnh đạo, Bộ Tài chính, Học viện Tài chính - Viện kế hoạch tài
chính, Số 12, 14, 17, 18/2003.
23. Điểm tin kinh tế (Thông tin phục vụ lãnh đạo), Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất
lượng, Số 440-520/2003.
24. Tạp chí Thương mại, Bộ Thương mại, Số 1- 41/2003.
25. Tạp chí Ngoại thương, Bộ Thương mại, Số 1- 33/2003.
26. Thời báo kinh tế Việt Nam, Các số năm 2003.
27. Công báo, Các số năm 2003.
28. Tạp chí doanh nghiệp và thương mại, Các số năm 2003.
29. Tạp chí kinh tế Sài Gòn, Các số năm 2003.
30. Báo Đầu tư, Các số năm 2003.
31. Thông tin từ Internet:
www. mot. gov. vn (Bộ Thương mại)
www. cpv. org. vn (Đảng Cộng sản Việt Nam)
www. agroviet.gov.vn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
www. mofi.gov.vn (Bộ thủy sản)
www. mof.gov.vn (Bộ ngoại giao)
www. mof. gov.vn (Bộ Tài chính)
www. aseansec.com
Cao Nam H¶i – Líp Nga K38
Khãa luËn tèt nghiÖp
www. asean.com
Cao Nam H¶i – Líp Nga K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
KẾT LUẬN
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và điều chỉnh
cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng trong bối cảnh mở cửa và hội nhập khu vực
và quốc tế là chủ trương lớn đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ nhiều năm
nay. Vấn đề này càng trở nên bức xúc hơn khi thời hạn thực hiện các cam kết về
tự do hoá thương mại hàng nông sản theo CEPT/AFTA đang đến gần.
Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu sản xuất do cơ cấu nhu cầu quyết định,
vì vậy việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp là yêu cầu đặt ra thường xuyên
trước những biến động của thị trường hàng nông sản trong và ngoài nước. Điều
chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cần phải được tính toán dựa trên cơ sở nghiên
cứu, đánh giá và dự báo nhu cầu thị trường của từng sản phẩm trên thị trường và
dựa trên chiến lược hội nhập của từng ngành sản phẩm với những bước đi phù hợp
trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành sản phẩm đó.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cần phải hướng vào khai thác tối đa
các lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của từng vùng, tiểu vùng sinh thái để
tham gia có hiệu quả nhất vào phân công lao động khu vực và quốc tế. Nói cách
khác, đó là khai thác và phát huy được khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên
thị trường. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong từng giai đoạn
nhất định là góp phần vào thực hiện phân bổ và sử dụng một cách có hiệu quả các
nguồn lực sản xuất. Trên thực tế, lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của từng
mặt hàng nông sản nhất định lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách
quan, nên việc xem xét lợi thế so sánh của từng sản phẩm cụ thể không phải là bất
biến mà cần phải được xem xét ở trạng thái động để có thể theo dõi và có các giải
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất kịp thời khi lợi thế so sánh cũ mất đi, lợi thế so
sánh mới xuất hiện.
Để có thể đánh giá đúng khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm cũng như
dự báo sát như cầu thị trường đối với mặt hàng nông sản đó, đòi hỏi phải tính toán
nhiều chỉ tiêu định tính và định lượng dựa trên một hệ thống cơ sở dữ liệu được
cập nhật thường xuyên. Đây là việc làm đòi hỏi sự tỷ mỷ, kiên trì, với khối lượng
công việc tính toán rất lớn do số lượng hàng nông sản nhiều và rất đa dạng. Do đó,
đề tài không có tham vọng đi vào nghiên cứu vấn đề điều chỉnh hướng sản xuất
toàn ngành nông nghiệp mà chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất của một
số mặt hàng xuất khẩu chính trong bối cảnh hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN, để từ đó đưa ra các kiến nghị về định hướng và giải pháp chính sách lớn
trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất các mặt hàng trên.
Kết quả nghiên cứu của đề tài mới chỉ là bước đầu và mang tính định
hướng, tuy nhiên đề tài cũng hy vọng những phân tích kiến nghị và giải pháp đã
được trình bày trong các Chương I, II và III sẽ đóng góp được một phần nào đó
vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nói riêng và vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp Việt Nam nói chung, nhằm đưa nền nông
nghiệp nước ta vững vàng hội nhập vào nền nông nghiệp khu vực ASEAN nói
riêng và nền nông nghiệp thế giới nói chung trong một tương lai không xa.
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
PHỤ LỤC 2 TỔNG HỢP NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHÍNH VÀ HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU TRONG THỜI GIAN TỚI
Biện pháp hạn chế tiêu cực Mục tiêu điều chỉnh cơ cấu
Ngành hàng chính
Khả năng cạnh tranh Cao
Chiều hướng tác động của việc thực hiện CEPT/AFTA Tích cực nhiều hơn tiêu cực
Lúa gạo
- Ổn định diện tích. - Lựa chọn giống tốt để thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đa dạng hoá. - Quy hoạch vùng nguyên liệu trên cơ sở đánh giá đúng lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu.
Cà phê
Tích cực nhiều hơn tiêu cực
- Quy hoạch vùng lúa gạo xuất khẩu. - Đổi mới giống. - Chú trọng chất lượng sau thu hoạch. - Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản. - Tăng cường liên kết giữa người trồng lúa và các tổ chức xuất khẩu. - Ổn định vùng. - Cắt giảm diện tích khôn hiệu quả. - Tăng chất lượng chế biến.
Cao
Tích cực nhiều hơn tiêu cực
Hạt điều
- Thay đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng diện tích cà phê chè. - Áp dụng các biện pháp canh tác linh hoạt để ứng phó với biến động của thị trường. - Mở rộng thêm diện tích. - Đổi mới giống. - Quy hoạch vùng nguyên liệu.
- Nâng cao chất lượng. - Phát triển công nghệ chế biến. - Hỗ trợ vốn vay dài hạn, lấy ngắn nuôi dài. - Tăng cường các biện pháp thâm canh.
Chè
Trung bình khá
Tích cực và tiêu cực ngang nhau
- Ổn định diện tích. - Trồng mới những nơi có lợi thế về tiểu khí hậu và đất đai.
Tích cực ít hơn tiêu cực
Cao su Trung bình yếu
- Giữ diện tích như quy hoạch. - Kết hợp trồng xen các cây khác để cải thiện đời sống người nông dân ở những nơi có điều kiện.
Cao
Tích cực nhiều hơn tiêu cực
Rau quả
- Đa dạng hoá chủng loại rau quả. - Quy hoạch vùng nguyên liệu. - Đẩy mạnh trồng rau vụ đông xuất khẩu ở vùng có nhiều điều kiện thuân lợi.
Yếu
là
Tiêu cực chính
Mía đường
- Không đẩy mạnh quảng canh, không tăng thêm diện tích. - Quy hoạch các vùng mía nguyên liệu. - Đổi mới giống mía.
- Tăng cường khâu chế biến. - Đẩy mạnh vay tín dụng để đổi mới các vườn chègià cỗi. - Tìm các bạn hàng ổn định. - Nâng cao chất lượng và chủng loại đa dạng tuỳ theo các thị trường khác nhau. - Giải quyết các ách tắc về tín dụng, thuế để người trồng cao su có điều kiện tiếp cận giống mới cho năng suất cao. - Chú trọng thay đổi cơ cấu sản phẩm chế biến phù hợp nhu cầu thị trường. - Tăng sử dụng cao su nguyên liệu trong nước. - Đẩy mạnh đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản. - Tiếp cận các thị trường mới. - Đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ trồng rau sạch. - Liên kết người trồng rau với các nhà xuất khẩu. - Cân nhắc các biện pháp bảo hộ có hiệu quả, tránh bảo hộ tràn lan. - Tìm hướng giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành. - Tìm các hình thức quản lý phù hợp đối với các công ty, cơ sở chế biến mía đường.
Cao
Tích cực nhiều hơn tiêu cực
Thuỷ sản
- Đa dạng hoá sản phẩm. - Chú trọng khâu chế biến, bảo quản, vệ sinh. - Củng cố và phát triển các thương hiệu mặt hàng thuỷ sản Việt Nam. - Tăng cường các biện pháp thâm canh đi đôi với bảo vệ môi trường.
Tích cực ít hơn tiêu cực
Lâm sản
Trung bình yếu
- Quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản. - Đổi mới cơ cấu tàu thuyền theo hướng giảm tàu thuyền nhỏ đánh bắt xa bờ. - Tăng cường các biện pháp bảo vệ nguồn cá. - Đẩy mạnh nuôi trồng để bù đắp vào sự giảm sản lượng do áp dụng các biện pháp bảo vệ nguồ lợi thuỷ hải sản. - Lấy lợi ích lâu dài là chính để phát triển rừng, tăng diện tích phủ xanh đất. - Đẩy nhanh việc giao đất, giao rừng. - Tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn.
- Chú trọng khâu chế biến, mẫu mã, chủng loại phù hợp nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. - Tập trung vào các mặt hàng cao cấp, hàm lượng khoa học công nghệ cao. - Tận dụng tối đa nguồn lợi thuỷ sản, áp dụng các công nghệ chế biến tiết kiệm gỗ.
PHỤ LỤC 1 SO SÁNH VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN CÁC NƯỚC ASEAN
Thứ hai
Thứ năm
Thứ nhất Malaysia
Myanma
Thứ ba Thái Lan
Thứ tư Inđônêxia
Philippin
Thứ sáu Việt Nam
Thái Lan
Vị trí 1.Động vật sống 2.Thịt và sản phẩm từ thịt
Việt Nam
Thái Lan
Việt Nam
Việt Nam Inđônêxia Inđônêxia Malaysia Myanma
Malaysia Myanma Philippin Philippin Myanma Thái Lan
Philippin
Inđônêxia Malaysia
Việt Nam
Malaysia
Myanma
Thái Lan Myanma Philippin
Thái Lan
ViệtNam
Inđônêxia Philippin Inđônêxia Malaysia
Philippin
Việt Nam
3.Sản phẩm sữa và trứng 4.Cá và sản phẩm từ cá 5.Ngũ cốc và sản phẩm 6.Rau quả tươi 7.Đường, mật Thái Lan
Inđônêxia Myanma Philippin
Malaysia Inđônêxia Myanma Malaysia Thái Lan Inđônêxia Malaysia
Philippin Việt Nam
8.Cà phê, chè Việt Nam Thái Lan 9.Thức ăn gia súc 10.Đồ uống
Inđônêxia Myanma
Philippin
11.Thuốc lá
Malaysia Philippin Thái Lan Việt Nam Thái Lan Inđônêxia
Việt Nam
Myanma
Philippin
Myanma
Việt Nam
Philippin
12.Da, lông thú thô 13.Hạt có dầu, lạc
Thái Lan Myanma Việt Nam
Inđônêxia Malaysia ViệtNam Malaysia Thái Lan Myanma
Philippin Việt Nam Thái Lan Philippin Inđônêxia Malaysia
Malaysia
Inđônêxia
Philippin
14.Cao su 15.Gỗ xẻ 16.Chế phẩm từ động vật 17.Dầu, mỡ động vật
Malaysia
Philippin
Inđônêxia
TháI Lan
Myanma
Malaysia Việt Nam Myanma Inđônêxia Malaysia Thái Lan Malaysia Inđônêxia Myanma Inđônêxia Myanma Philippin TháiLan Myanma Việt Nam Việt Nam
Malaysia
Philippin
Inđônêxia
Thái Lan
Inđônêxia Malaysia
Philippin
Myanma
Việt Nam Myanma
18.Dầu, mỡ thực vật 19.Dầu động vật chế biến 20.Gỗ chế biến
Việt Nam Thái Lan
Nguồn: Bộ Tài chính.
PHỤ LỤC 3
DIỆN TÍCH CÁC LOẠI CÂY TRỒNG (NGHÌN HA)
Năm
Tổng
Trong đó
Cây hàng năm
Cây lâu năm
Tổng
Trong đó
Tổng
Trong đó
Lương
Cây CN
Cây
Cây ăn
thực có
hàng
CN lâu
quả
hạt
năm
năm
9040,0
8101,5
6474,6
542,0
938,5
657,3
281,2
1990
9410,0
8475,3
6750,4
578,7
934,7
662,7
271,9
1991
9752,9
8754,4
6953,3
584,3
998,5
697,8
260,9
1992
10028,3
8893,0
7055,9
598,9
1135,3
758,5
296,0
1993
10381,4
9000,6
7133,2
655,8
1380,8 809,,9
320,1
1994
10496.9
9224,2
7322,4
716,7
1272,7
902,3
346,4
1995
10928.9
9486,1
7619,0
694,3
1442,8 1015,3
375,5
1996
11316.4
9680,9
7762,6
728,2
1635,5 1153,4
426,1
1997
11740.4
10011,3
8012,4
808,2
1729,1 1202,7
447,0
1998
12320.3
10468,9
8345,4
889,4
1851,4 1257,8
512,8
1999
12644.3
10540,3
8396,5
778,1
2104,0 1451,3
565,0
2000
12447.5
10311,8
8211,5
789,9
2135,7 1476,7
589,4
2001
12662.3
10447,1
8245,0
832,1
2215,2 1504,2
643,2
2002
3%
2%
2%
3%
8%
8%
7%
Tốc độ
tăng bq
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS
Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, trang 661.
PHỤ LỤC 4
GIÁ TRỊ THU HOẠCH/HA ĐẤT NÔNG NGHIỆP (THEO GIÁ NĂM 1994)
Năm
1990
1995
1997
1998
1999
2000
2001
2002
49604
66183,4
75745,5
80291,7
86380,6
90858,2
92584,5
96840,4
GT ngành trồng trọt (tỷ đồng)
6963,2
7357,5
7681,2
7843,1
8080,2
9345,4
9382,5
10662,3
Diện tích đất NN (nghìn ha)
7,12
9,00
9,86
10,24
10,69
9,72
9,87
9,11
Giá trị thu hoạch/ha đất NN (tr đồng)
33289
42110,4
46952,9
49059,6
52719,7
55163,1
55108,2
57781,4
Giá trị thu hoạch ngành lương thực (tỷ đồng)
4108,9
4203,5
4387,6
4199,5
4213,4
4267,9
4147,7
4245
DT đất lương thực (nghìn ha)
8,10
10,02
10,70
11,68
12,51
12,93
13,29
13,61
Gía trị thu hoạch/ha cây LT (tr. đồng)
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003.
PHỤ LỤC 5
CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH LÂM NGHIỆP (%)
Năm Tổng Trong đó
số Trồng và nuôi rừng Khai thác lâm sản Lâm nghiệp khác
16,5 100 78,7 4,8 1986
15,0 100 83,2 1,8 1987
15,1 100 84,2 0,7 1988
12,9 100 81,0 3,1 1989
13,1 100 85,8 1,1 1990
17,0 100 81,1 1,9 1991
23,0 100 75,0 2,0 1992
18,0 100 79,0 3,0 1993
22,0 100 75,1 2,9 1994
22,0 100 72,0 6,0 1995
20,2 100 74,9 4,9 1996
19,4 100 68,3 12,3 1997
18,5 100 61,9 19,6 1998
20,2 100 72,1 7,7 1999
24,6 100 71,7 3,7 2000
23,2 100 72,8 4,0 2001
24,3 100 70,8 4,9 2002
Nguồn : Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
PHỤ LỤC 6
CƠ CẤU GIÁ TRỊ NGÀNH THUỶ SẢN (%)
Năm Toàn ngành thuỷ sản Khai thác Nuôi trồng
100,00 68,34 31,66 1990
100,00 70,44 29,56 1991
100,00 71,05 28,95 1992
100,00 70,30 29,70 1993
100,00 70,01 29,99 1994
100,00 68,13 61,87 1995
100,00 70,25 29,75 1996
100,00 70,87 29,13 1997
100,00 69,87 30,13 1998
100,00 69,27 30,73 1999
100,00 63,84 36,16 2000
100,00 56,28 43,72 2001
100,00 57,86 47,84 2002
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS -
TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 210
PHỤ LỤC 7 KẾT QUẢ XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THUỶ SẢN NĂM 2002 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2003
Chỉ tiêu
Thực hiện 2001
Thực hiện 2002
Dự kiến 2003
Thực hiện 2000
Giá XKBQ (USD/T)
Giá XKBQ (USD/T)
Giá XKBQ (USD/T)
Lượn g (1000 tấn)
Lượn g (1000 tấn)
Lượn g (1000 tấn)
Lượn g (1000 tấn)
Giá trị (tr. USD) 2.800 501 734 166 273 667 3.477 70 56 167 34 146 37 41 76 16 11 214 188 1.479
Giá trị (tr. USD) 2.690 304 705 258 446 723 3.207 87 76 211 63 118 80 54 110 20 15 190 410 2.024
Giá trị (tr. USD) 2.628 391 166 625 78 152 91 38 36 330 391
420 539 168 1.149 3.47 4 1600 488 1.353
931 308 3.729 68 44 57 78 26
431 378 225 1.145 3.349 1.475 491 1.333
500 579 229 1.125 3.333 1.474 500 1.400
Tổng kim ngạch XK 1. Nông sản - Cà phê - Cao su - Gạo - Chè - Hạt điều - Hạt tiêu - Lạc - Thịt lợn - Rau quả 2. Lâm sản 3. Thuỷ sản
Giá trị (tr. USD) 3.000 300 600 220 380 800 3.500 90 80 200 60 115 78 65 130 42 30 350 450 2.300 Nguồn: Kinh tế xã hội Việt Nam 2002 - kế hoạch 2003 - tăng trưởng và hội nhập, trang 113.
PHỤ LỤC 8 MỐI LIÊN KẾT GIỮA NHÀ NÔNG VỚI NHÀ KHOA HỌC, NHÀ DOANH NGHIỆP, NGÂN HÀNG VÀ NHÀ NƯỚC.
NHÀ NƯỚC:
NHÀ KHOA HỌC: - Gồm các nhà nghiên cứuvà khuyến nông.
- Nghiên cứu và giải quyết những khó khăn
của nhà nông về khoa học công nghệ.
Xây
dựng
- Chuyển giao kỹ thuật tiến bộ cho sản xuất và
điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
NHÀ DOANH NGHIỆP: - Gồm các doanh nghiệp, các ngân hàng
thương mại.
- Hợp đồng, sản xuất, chế biến bao tiêu sản
NHÀ NÔNG: - Gồm các hộ nông dân, trng trại, HTX. - Liên kết với nhà khoa học, doanh nghiệp, ngân hàng để sản xuất, bao tiêu sản phẩm.
phẩm của nhà nông.
- Huy động và cung cấp vốn cho nhà nông,
hướng dẫn cách đảm bảo an toàn vốn.
cấp liên
tin
- Gồm các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp. - hành lang pháp lý. - Hướng dãn chỉ đạo thực hiện. - Kiểm tra và sát việc giám thực hiện liên kết giữa nông dân với nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, ngân hàng và các bên liên quankhác. - Cung thông quan.
KẾT QUẢ: - Cơ cấu nông nghiệp được chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở nhu cầu thị trường. - Sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa tăng. - Chủ động nguyên liêu cho cơ sở chế biến và bao tiêu. - Thu nhập của nhà nông ổn định. - Tăng sức cạnh tranh của nền nông nghiệp. - Có tiền đề vững chắc để hội nhập thành công vào nền nông nghiệp khu vực và thế giới.