
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Với 3260 km bờ biển trải dài từ Bắc vào Nam, vùng thềm lục địa thuộc chủ quyền rộng
gấp 3 lần diện tích đất liền, nhiều vịnh kín, sông có độ sâu lớn, vị trí địa lý gần với các tuyến
hàng hải quốc tế, nên Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển kinh tế biển.Hiện
tại, vận tải biển vẫn là ngành chủ đạo, chiếm ưu thế tuyệt đối (80% khối lượng) trong việc
trao đổi thương mại giữa các quốc gia và có mức tăng trưởng bình quân năm là 8- 9%. Các
cảng biển có khối lượng thông qua lớn nhất đều nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tiềm năng là vậy nhưng việc có được định hướng và có giải pháp tổng thể ra sao để phát
huy hết được tiềm năng này là điều không đơn giản. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là
phát triển kinh tế biển, quay mặt ra biển. Phát triển cơ sở hạ tầng biển trong đó phát triển hệ
thống cảng biển phải được ưu tiên giải quyết, phải đi trước một bước để phục vụ cho ổn
định chính trị, phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của vùng cũng như cả nước. Hiện nay
theo Quyết định số 1579/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Với
mục tiêu phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm
vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong
sự nghiệp CNH, HÐH. Trong đó, xác định rõ: Ðến năm 2030, phát triển thành công, có bước
đột phá về kinh tế biển, ven biển với kinh tế hàng hải đứng thứ hai trong các ngành kinh tế
biển, kinh tế hàng hải sẽ đứng đầu trong các ngành kinh tế biển. Ðể thực hiện thành công các
Nghị quyết của Ðảng, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đã và đang chỉ đạo tập trung phát triển
kết cấu hạ tầng cảng biển theo đúng định hướng quy hoạch, tập trung, không dàn trải; tổ chức
quản lý hạ tầng cảng biển đồng bộ, hiện đại; phát triển dịch vụ logistic, hạ tầng ngành hàng
hải, góp phần khẳng định và giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo quốc gia,...
Hệ thống cảng biển hiện nay được quy hoạch đồng bộ gắn liền với các trung tâm, vùng
kinh tế lớn của cả nước. Đặc biệt, các cảng biển lớn với vai trò là đầu mối phục vụ xuất –
nhập khẩu hàng hóa và tạo động lực phát triển toàn vùng đã hình thành rõ nét và đóng góp
không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế như: Cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng gắn
với vùng kinh tế trọng điểm phía bắc; cảng biển Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Dung Quất, Quy
Nhơn gắn với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; cảng biển TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng
Tàu, Đồng Nai gắn với vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam; cảng biển Cần Thơ, An
Giang gắn với vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Một số cảng biển đã và
đang được đầu tư với quy mô hiện đại mang tầm vóc quốc tế như Cảng Quốc tế Cái Mép
(CMIT) – Bà Rịa – Vũng Tàu và Cảng container Quốc tế Tân Cảng (HICT) – Hải Phòng được
xếp vào những cảng container nước sâu đón được tàu siêu trường, siêu trọng trên hải trình thế
giới. Về tuyến vận tải, Việt Nam hiện nay đã thiết lập được 32 tuyến vận tải biển, trong đó 25
tuyến vận tải quốc tế và 7 tuyến vận tải nội địa, trong đó ngoài các tuyến châu Á, khu vực
phía bắc đã khai thác 2 tuyến đi Bắc Mỹ, phía nam đã hình thành được 16 tuyến đi Bắc Mỹ
và châu Âu; đứng vị trí thứ 3 khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po.
Thời gian qua, cùng với việc phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển nói chung và khu vực
phía Bắc nói riêng, đặc biệt khu vực Hải Phòng đã và đang triển khai phát triển đồng bộ các
hạ tầng hỗ trợ hoạt động dịch vụ cảng biển, vận tải biển bảo đảm thực hiện đầy đủ các yêu
cầu về cơ sở vật chất theo quy định các Công ước quốc tế về biển và hàng hải mà nước ta là
thành viên. Tuy nhiên, đầu tư phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam trong thời gian qua
cũng chịu nhiều rủi ro chủ yếu do tính phức tạp: thời gian hợp tác dài, vốn đầu tư lớn, nhiều
bên tham gia.
Xuất phát từ lý do này, tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu giải pháp hạn chế rủi ro trong
đầu tư phát triển hệ thống cảng biển khu vực phía Bắc Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu
trong luận án tiến sĩ của mình.