BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHẠM THỊ NHƯ YẾN GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006
Trang 1
MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1
DANH MỤC BẢNG BIỂU .......................................................................................4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ QUẢN LÝ VỐN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM......................................................................7
1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM............................................................................... 7
1.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới .................7
1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm ..............................................................................11
1.1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm ...................................................................... 11
1.1.2.2 Sự cần thiết của đầu tư vốn tại các doanh nghiệp bảo hiểm ........... 12
1.1.3 Cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm ......................................................................14
1.1.3.1 Quy luật số đông ................................................................................ 14
1.1.3.2 Phương pháp thống kê ....................................................................... 15
1.1.4 Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm ...................................................................16
1.1.4.1 Bảo hiểm nhân thọ ............................................................................. 16
1.1.4.2 Bảo hiểm phi nhân thọ....................................................................... 16
1.1.5 Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội .....17
1.2 TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM .................................................................................................. 18
1.2.1 Tổng quan về quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm........18
1.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ........... 19
1.2.1.2 Nguyên tắc đầu tư vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm ..................... 19
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 2
1.2.2 Danh mục đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm..........................20
1.2.3 Hoạt động đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở một số nước................24
1.2.3.2 Cơ cấu đầu tư và sự thay đổi cấu trúc đầu tư trên thị trường BHNT .. 29
1.2.3.1 Các quy định về pháp lý .................................................................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN
CỦA CÁC DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..........32
2.1 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM ............................................................ 32
2.1.1 Khái quát sự ra đời vào phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam ......32
2.1.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay....................................................33
2.2 THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 39
2.2.1 Vấn đề tạo lập vốn trong doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại
Việt Nam hiện nay...............................................................................................39
2.2.1.1 Nguồn gốc hình thành vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm 39
2.2.1.2 Nội dung dự phòng nghiệp vụ đối với doanh nghiệp kinh doanh
BHNT.............................................................................................................. 41
2.2.1.3 Một số tồn tại trong quy định về trích lập dự phòng bảo hiểm nhân
thọ……… ....................................................................................................... 45
2.2.2 Thực trạng đầu tư vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ.....................................................................................46
2.2.2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam ......................................................... 46
2.2.2.2 Thực trạng đầu tư trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua....................................................... 48
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 3
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TẠO LẬP VÀ ĐẦU TƯ VỐN CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM ........................ 62
2.3.1 Kết quả của hoạt động tạo lập vốn .............................................................62
2.3.1.1 Thực trạng tạo lập vốn từ người tham gia bảo hiểm....................... 62
2.3.1.2 Thực trạng tạo lập vốn từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm............... 63
2.3.2 Những đánh giá chung trong việc quản lý và sử dụng vốn ........................64
2.3.2.1 Những thành tích................................................................................ 64
2.3.2.2 Những tồn tại...................................................................................... 64
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN
VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO
HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM .......................................................................71
3.1 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM
VIỆT NAM ................................................................................................................... 71
3.1.1 Theo xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế ..............................71
3.1.2 Theo mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam ........................72
3.1.3 Những cơ hội và thách thức........................................................................73
3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM
NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM......................................................................................... 76
3.2.1 Các giải pháp ở tầm vĩ mô..........................................................................76
3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm ...........................................83
3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác ...........................................................................89
KẾT LUẬN ..............................................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................92
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 4
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1:
Bảng 1.1: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Trung Quốc ..........................26
Bảng 1.2: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Indonesia ..............................27
Bảng 1.3: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Hồng Kông...........................28
Bảng 1.4: Cơ cấu đầu tư tài chính của các công ty BHNT ở một số nước...............30
CHƯƠNG 2:
Bảng 2.1: Tổng hợp các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm trên thị trường VN đến
31/12/2005.................................................................................................................34
Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên TTBH Việt Nam đến 31/12/2005.................35
Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên TTBH Việt Nam đến 31/12/2005 (tiếp theo)36
Bảng 2.3: Dự phòng nghiệp vụ BHNT năm 2004-2005...........................................43
Bảng 2.4: Dự phòng nghiệp vụ BHNT của một số công ty......................................44
Bảng 2.5: Dự phòng toán học BHNT của một số công ty........................................44
Bảng 2.6: Doanh thu phí bảo hiểm 1994-2005 toàn thị trường................................50
Biểu 2.1: Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường...........................................51
Biểu 2.2: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế ......................................................51
Bảng 2.7: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế ....................................................52
Bảng 2.8a & 2.8b: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế DNBH nhân thọ
và toàn ngành bảo hiểm ............................................................................................54
Bảng 2.9: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Việt qua các năm .........................................55
Bảng 2.10: Cơ cấu đầu tư vốn của Prudential Việt Nam năm 2004 & 2005 ...........56
Bảng 2.11: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Minh CMG năm 2004 & 2005 ..................56
Bảng 2.12: Lợi suất đầu tư tài chính của công ty BHNT Bảo Việt, Công ty bảo
hiểm nhân thọ AIA và Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG .......................58
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm, cùng với việc tăng
cường hoạt động khai thác bảo hiểm, vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
vốn mà các doanh nghiệp đang sở hữu là một trong những vấn đề có tầm quan trọng
đặc biệt, là chỗ dựa vững chắc cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nhất là trong
điều kiện thị trường bảo hiểm (TTBH) Việt Nam ngày càng cạnh tranh gay gắt do
có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) dưới tác động của chính
sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc đầu tư như thế nào để vừa
đạt được hiệu quả về mặt kinh tế, vừa đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả các hợp
đồng bảo hiểm, lại vừa hạn chế ở mức tối đa các rủi ro lại là vấn đề không hề đơn
giản đối với các doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài
“Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả công tác đầu tư tài
chính tại các Công ty Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam” làm luận văn bảo vệ học vị
thạc sĩ kinh tế của mình với mong muốn đóng góp một phần công sức để phân tích
thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa
hiệu quả của hoạt động đầu tư tài của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (BHNT)
trên thị trường tài chính.
2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử để phân tích, đánh giá đối tượng, kết hợp phân tích lý luận và phân tích
thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp cụ thể như phương
pháp so sánh, tổng hợp, phân tích để đánh giá đối tượng nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài giới thiệu và phân tích thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của các
DNBH nhân thọ ở Việt Nam nhằm chỉ ra những hạn chế và khó khăn mà các
DNBH đang gặp phải. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 6
đầu tư giúp các DNBH nhân thọ Việt Nam thể hiện tốt hơn vai trò của một tổ chức
trung gian tài chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các công ty BHNT đang hoạt
động trên TTBH Việt Nam. Trong đó, đề tài đi sâu vào nghiên cứu khả năng tạo lập
vốn và công tác đầu tư tài chính.
5. Những điểm mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về bảo hiểm, thực trạng tạo lập và đầu tư vốn
trong các DNBH trong và ngoài nước đồng thời thông qua kinh nghiệm thực tế
trong công tác tài chính tại công ty BHNT, luận văn đã đề xuất và giới thiệu những
giải pháp nhằm giúp những người làm công tác đầu tư tài chính trong các DNBH
nhân thọ giảm thiểu rủi ro khi đầu tư vốn, cụ thể:
(cid:131) Thành lập công ty đầu tư chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư;
(cid:131) Xây dựng DMĐT tối ưu cho các DNBH;
(cid:131) Phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng;
(cid:131) Nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý tiền mặt tối ưu;
(cid:131) Phát triển các loại hình sản phẩm mới của BHNT để thu hút đầu tư dài hạn ...
6. Kết cấu của luận văn
Không tính phần mục lục, danh mục bảng biểu, mở đầu, kết luận và tài liệu
tham khảo, luận văn dài 84 trang bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiểm và quản lý vốn trong các DNBH
Chương 2: Thực trạng việc tạo lập, quản lý và sử dụng vốn của các DNBH
nhân thọ ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả công
tác đầu tư tài chính tại các công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ QUẢN LÝ VỐN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM
1.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới
Con người cùng các thể chế chính trị từng tồn tại trong lịch sử luôn đặt
nhiệm vụ hạn chế rủi ro lên hàng đầu. Dịch vụ bảo hiểm ra đời để làm nhiệm vụ hạn
chế rủi ro ấy.
Ở Trung Hoa cách đây hơn 5.000 năm, lúc bấy giờ bọn cướp biển hoành
hành khắp nơi; do vậy để hạn chế rủi ro, khi ra khơi người ta thường bố trí cho
nhiều tàu chia nhau chở kèm một phần hàng hóa của một chiếc tàu khác, phòng khi
có một chiếc tàu bị bọn cướp biển tấn công thì phần hàng còn lại chở trên những
chiếc tàu kia không bị cướp.
Cách nay gần 4.500 năm, ở một nơi khác là đế quốc Babylon cổ, các thương
nhân thường phải du thương khá nhiều, và họ đã đối phó với các rủi ro bằng cách
đem tiền cho người khác vay. Khi việc vận chuyển hàng hóa đã hoàn tất một cách
an toàn, các thương nhân này sẽ bắt người vay tiền hoàn trả khoản vay, kèm theo đó
là tiền lời. Vào năm 2100 trước Công Nguyên, đạo luật Hammurabi ra đời đã đặt
hoạt động cho vay của các doanh nhân vào khuôn khổ pháp luật. Đạo luật này đã
chính thể hóa các khái niệm “bottomry” (chỉ việc mượn tiền trên cơ sở lấy tàu làm
bảo đảm) và “respondentia” (chỉ hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy). Các khái
niệm này đã đặt nền móng cho thực hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Các hợp
đồng loại này gồm 3 yếu tố: khoản vay căn cứ vào giá trị tàu, hàng hóa hay cước
vận chuyển; lãi suất; khoản phụ thu cho các trường hợp mất mát có thể xảy ra. Trên
thực tế, khi tham gia hợp đồng bảo hiểm, chủ tàu là người được bảo hiểm còn chủ
cho vay là người đánh giá rủi ro.
BHNT xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại không lâu sau đó. Tại đây người ta
đã lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 8
cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau Công Nguyên,
đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của BHNT bị lãng quên.
Tuy nhiên các mặt, tính chất của nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung
Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và thương nghiệp. Các phường hội này
đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù đắp thiệt hại các vụ hỏa hoạn,
lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật, tử vong và thậm chí là bảo
hiểm tù ngục (bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù).
Trong suốt thời phong kiến, các ngành du lịch và mậu dịch ngày càng suy
yếu và không còn thịnh đạt như trước, do vậy các hình thức bảo hiểm sơ khai cũng
bị mai một. Tuy nhiên trong khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 các ngành
giao thông, thương nghiệp và cả dịch vụ bảo hiểm đã phát triển trở lại.
Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Đơn cử
là trường hợp của tập đoàn BHNT Yogakshema, một Công ty trực thuộc tổng hội
liên hiệp bảo hiểm Ấn Độ. Tên của Công ty này được lấy từ trong kinh Rig Veda.
Cụm từ Yogakshema cho thấy ở Ấn Độ vào khoảng năm 1.000 trước Công Nguyên,
hình thức “bảo hiểm cộng đồng” đã phát triển rất thịnh hành và người Aryan khi đó
cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này.
Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật
người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà
cửa đồng thời che chở, đùm bọc các góa phụ và trẻ nhỏ.
Sau Cách Mạng ánh sáng (Glorious Revolution) năm 1688, ở Châu Âu chỉ có
Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lý của BHNT. Nhờ vậy mà trong suốt 3 thập
kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh mẽ. Hình
thức bảo hiểm mà chúng ta thấy ngày nay có nguồn gốc từ thế kỷ 17. Khi đó ở Anh
từng có một nơi gọi là Lloyd’s of London, nơi mà về sau người ta biết tới với cái
tên Nhà hàng Cà phê Lloyd’s (Lloyd’s Coffee House). Các thương nhân, chủ tàu và
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 9
các nhà thầu bảo hiểm khi đó hay tụ tập ở nhà hàng này để bàn công chuyện làm ăn
và tiến hành các hợp đồng buôn bán.
Mặc dù được sử dụng như một công cụ hạn chế rủi ro, dịch vụ BHNT vẫn bị
cuốn vào trò đỏ đen vốn được xem là bản năng của tầng lớp tiểu tư sản Anh đang
phát triển rất mạnh mẽ lúc bấy giờ. Đến năm 1774, Quốc hội Anh ra sắc lệnh cấm tổ
chức, tham gia cá cược trên ngày chết của con người, từ đó vấn nạn này mới chấm
dứt.
Ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo
hiểm Anh. Vào năm 1735, Công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở
Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm 1759, Hội nghị Giáo hội Trưởng
lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn BHNT đầu tiên của Hoa Kỳ.
Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ. Ngày 22/5/1761, tập
đoàn này đã ký kết được hợp đồng BHNT đầu tiên với công chúng Mỹ.
Mặc dù vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ BHNT Mỹ
mới thật sự cất cánh. Chìa khóa dẫn đến thành công chính là nhờ các Công ty bảo
hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Năm 1835, ở New York đã xảy ra một vụ hỏa hoạn đầy tai tiếng. Vụ hỏa
hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự
trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước. Hai năm
sau, Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các Công
ty phải tự tích lũy nguồn dự trữ này. Vụ cháy lớn ở Chicago vào năm 1871 càng
nhấn mạnh sâu sắc một thực tế: nếu hỏa hoạn bùng lên ở những thành phố đông
dân, mức độ thiệt hại sẽ vô cùng to lớn.
Hình thức bảo hiểm trách nhiệm công cộng xuất hiện trong những năm 1880
và cùng với phát minh ra xe ô tô, hình thức bảo hiểm này đã được công chúng đón
nhận và ngày càng thể hiện được tầm quan trọng.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 10
Trong suốt quá trình công nghiệp hóa, dịch vụ bảo hiểm đã có rất nhiều bước
phát triển. Năm 1897, chính phủ Anh thông qua “Đạo luật bồi thường cho người lao
động” (Workmen’s Compensation Act). Đạo luật này buộc các Công ty phải đóng
bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên.
Trong thế kỷ 19, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo
hiểm nhân mạng và sức khỏe cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ
cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay
các hội kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm cho hội viên; điều này diễn ra tương tự ở
hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn
một lúc nhiều hợp đồng BHNT và sức khỏe cho nhân viên. Các hợp đồng này
không chỉ đơn thuần BHNT mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên khi họ bị
bệnh, bị tai nạn hay về hưu. Trong các hợp đồng này thường nhân viên chỉ phải trả
một phần phí bảo hiểm.
Mặc dù ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi
Vương Quốc Anh, TTBH của nước này lại phát triển theo chiều hướng có phần
khác với Anh. Khi Mỹ chuyển mình từ một thuộc địa xa bờ của Anh trở thành một
thế lực độc lập và từ một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp phát triển,
ngành kinh doanh bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một
vài Công ty ban đầu trở thành một ngành công nghiệp quy mô lớn.
Tóm lại có thể nói ngành bảo hiểm Mỹ đã phát triển rất tinh vi, sản sinh ra
nhiều loại mạng lưới phục vụ và đa dạng hóa dịch vụ để phát triển hài hòa với một
quốc gia đang ngày càng phức tạp.
Ngày nay, bảo hiểm đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã
hội. Dù có đề phòng tai nạn tốt đến mức nào, con người cũng không thể loại trừ hết
tất cả những rủi ro ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh và cuộc sống của nhân
loại. Chỉ có bảo hiểm mới là phương tiện hữu hiệu giúp cho cuộc sống con người
được ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 11
khi chẳng may gặp những sự cố rủi ro, tai nạn bất ngờ,…Bảo hiểm ngày nay thực
sự trở thành một phạm trù kinh tế hiện đại và ngành kinh doanh bảo hiểm ngày càng
giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia.
1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm
1.1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm
Theo các chuyên gia bảo hiểm, có rất nhiều định nghĩa bảo hiểm khác nhau
tuỳ theo giác độ phân tích và quan điểm của mỗi người, song “Một định nghĩa thích
hợp của bảo hiểm phải bao gồm sự xây dựng một quỹ, sự hoán chuyển rủi ro, và
thêm nữa là phải bao gồm sự kết hợp số nhiều các đối tượng để biến tổn thất cá thể
thành tổn thất cộng đồng, dự toán được. Tổn thất dự toán này được phân bổ theo tỷ
lệ cho các đơn vị được kết hợp (cộng đồng). Định nghĩa này bao gồm cả hai yếu tố:
giảm thiểu rủi ro và phân tán tổn thất”.
Về phương diện pháp lý, bảo hiểm là một hợp đồng được ký kết, trong đó
một bên (người bảo hiểm) đồng ý nhận một số tiền của bên kia (người được bảo
hiểm) đã được tính toán (gọi là phí bảo hiểm) về những tổn thất người ấy phải gánh
chịu do hậu quả của những sự cố đã xảy ra.
Về phương diện nghiệp vụ, “Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó một bên
người được bảo hiểm đóng góp một số tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho mình hoặc
cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra sự cố sẽ được nhận một khoản tiền đền bù
từ phía nhà bảo hiểm. Người này nhận toàn bộ trách nhiệm đối với các rủi ro và đền
bù thiệt hại theo quy luật thống kê ”.
Về phía người kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm là một hệ thống trong một số
đông người đồng ý đóng góp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm) cho công ty bảo
hiểm hình thành một quỹ bảo hiểm, để đổi lấy sự an toàn và chia sẻ chi phí cho một
tổn thất mà có khả năng một cá nhân trong số họ phải gánh chịu đơn lẻ. Nhiệm vụ
của nhà bảo hiểm là nhận diện rủi ro, phân tán tổn thất, giải quyết hậu quả, bù đắp
tổn thất và quản lý tốt quỹ bảo hiểm.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 12
Đứng trên giác độ kinh tế, bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế để
huy động sự đóng góp của các tổ chức, các cá nhân một số tiền nhất định dưới dạng
phí bảo hiểm hình thành quỹ bảo hiểm, nhằm chi trả hay bù đắp cho các đối tượng
của người đóng góp khi có sự cố xảy ra, đảm bảo ổn định đời sống được thường
xuyên và liên tục.
Tóm lại, bản chất sâu xa của bảo hiểm là sự phục vụ tích cực cho mục tiêu an
toàn của nền kinh tế - xã hội, biểu hiện các mối quan hệ kinh tế và xã hội phát sinh
trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, thông qua
việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm.
1.1.2.2 Sự cần thiết của đầu tư vốn tại các doanh nghiệp bảo hiểm
Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, các DNBH muốn đi vào hoạt
động phải đáp ứng một số vốn tối thiểu do pháp luật quy định. Số vốn này có thể do
nhà nước cấp phát hoặc do các cổ đông đóng góp dưới hình thức góp vốn cổ phần.
Trong quá trình hoạt động, phí bảo hiểm do những người được bảo hiểm trả cũng
được bổ sung vào nguồn này. Chi phí quản lý doanh nghiệp, các khoản bồi thường
cho người được bảo hiểm và cổ tức chia cho các cổ đông cũng được trích ra từ quỹ
này. Nhằm duy trì quỹ cho những năm tiếp theo, một điều vô cùng cần thiết là quỹ
này phải tích lũy được càng nhiều càng tốt. Để thực hiện được điều này các DNBH
đã tiến hành đầu tư.
Đầu tư là hành động sử dụng những nguồn lực tài chính hiện có để biến các
lợi ích thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Như vậy,
mục tiêu của công tác đầu tư nói chung là đạt được một mức sinh lời kỳ vọng trong
tương lai và chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định.
Mục tiêu của đầu tư quỹ bảo hiểm là đảm bảo tốt nhất sự an toàn và cân bằng
tài chính; hiệu quả hoạt động đầu tư vốn có vai trò to lớn không những đối với bản
thân doanh nghiệp, đối với nền kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 13
Đối với các DNBH phi nhân thọ: Mục đích của thiết lập các quỹ dự phòng kỹ
thuật đối với DNBH không phải hoàn toàn nhằm vào việc kiếm lời, mà để đảm bảo
duy trì khả năng thanh toán thường xuyên. Tuy nhiên, được xác định là một nguồn
vốn nhàn rỗi nên các quỹ dự phòng sẽ được DNBH thực hiện việc đầu tư vào các
lĩnh vực khác nhau để kiếm lời. Thu nhập từ hoạt động đầu tư quỹ dự phòng sẽ giúp
DNBH tăng cường khả năng thanh toán, bảo vệ tốt nhất quyền lợi bảo hiểm. Mặc
khác, cho phép DNBH bù đắp được các khoản chi phí bồi thường, chi phí quản lý,
bình ổn kết quả kinh doanh của mình. Điều này tạo điều kiện cho các DNBH có cơ
hội để giảm phí bảo hiểm hoặc không tăng phí trong các chu kỳ sau. Như vậy,
DNBH sẽ có điều kiện để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình, tăng năng lực
ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Đối với các DNBH nhân thọ: Mục đích của thiết lập dự phòng kỹ thuật là
nhằm duy trì sự cân bằng nghiệp vụ dài hạn, tức là nhằm đảm bảo cho việc thanh
toán tiền bảo hiểm trong tương lai. Do tính chất của hợp đồng BHNT hiện nay đa số
chỉ là một hợp đồng tiết kiệm, DNBH cam kết sẽ trả cho người được bảo hiểm các
khoản tiền với lãi suất đã dự kiến khi tính phí bảo hiểm (gọi là lãi suất kỹ thuật).
Nếu DNBH không đầu tư nguồn bảo hiểm thu được với kết quả bằng hoặc cao hơn
lãi suất kỹ thuật thì DNBH sẽ bị lỗ. Điều này rất nguy hiểm cho DNBH, vì trên thực
tế sự phá sản DNBH ở nhiều nước cũng do nguyên nhân này. Như vậy, DNBH theo
yêu cầu kỹ thuật, bắt buộc phải đầu tư các quỹ dự phòng kỹ thuật và hiệu quả đạt
được phải ít nhất ngang bằng với lãi suất mà DNBH đã cam kết thực hiện cho người
được bảo hiểm. Nếu kết quả đầu tư tốt hơn sự mong đợi, DNBH sẽ có điều kiện để
đảm bảo thực hiện đầy đủ các cam kết, đồng thời có thể chia lại cho người được bảo
hiểm một phần kết quả phụ trội thông qua các khoản lãi chia trong hợp đồng bảo
hiểm. Điều này sẽ làm tăng tính hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm của doanh
nghiệp.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 14
1.1.3 Cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm
Bảo hiểm không chỉ được xem xét dưới góc độ của mối quan hệ kinh tế, xã
hội, pháp lý giữa những người được bảo hiểm và nhà bảo hiểm mà còn phải xem xét
dưới góc độ kỹ thuật. Thật vậy, các sản phẩm bảo hiểm được xây dựng trên cơ sở
tính toán thực sự khoa học trong việc sử dụng các phương pháp của toán học. Một
trong những cơ sở kỹ thuật quan trọng nhất của bảo hiểm là dựa vào quy luật số
đông và lý thuyết xác suất - thống kê.
1.1.3.1 Quy luật số đông
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm và thống kê chính là cơ sở đảm
bảo nguyên tắc này.
Vào thế kỷ 17, Pascal – nhà toán học người Pháp đã nghiên cứu các đại
lượng ngẫu nhiên và chứng minh rằng chúng bị chi phối bởi các định luật. Ở thế kỷ
18, Bernouli – một nhà toán học khác tiếp tục nghiên cứu và phát biểu quy luật số
đông. Quy luật này phát biểu như sau: “số lần thực hiện phép thử càng lớn, kết quả
thu được từ phép thử sẽ tiến dần về xác suất lý thuyết xảy ra biến cố đang xem xét”.
Ví dụ minh họa bằng trò chơi con xúc sắc. Người ta tung một con xúc xắc 20 lần,
100 lần, 1.000 lần và cuối cùng là 10.000 lần. Mỗi lần tung ra, người ta chú ý đến
việc xuất hiện một mặt nhất định, chẳng hạn như mặt có 6 nút. Kết quả được ghi
nhận như sau:
Số lần tung ra Số lần xuất hiện Tần số xuất hiện
20 0,100 2
100 0,120 12
1.000 0,175 175
10.000 0,165 1.653
Nếu không thực hiện thử nghiệm này, thoạt đầu chúng ta có thể nghĩ đơn
giản sự may rủi mà bề mặt có số 6 xuất hiện là 1/6 (tần suất xuất hiện là 0,167), đây
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 15
là xác suất lý thuyết. Qua nhiều lần thử nghiệm, tần suất xuất hiện của mặt 6 sẽ dần
về xác suất lý thuyết. Nói một cách khác, nếu chúng ta nghiên cứu trên một lượng
đủ lớn các hiện tượng ngẫu nhiên, chúng ta có thể tính toán được tần suất xảy ra
hiện tượng một cách tương đối chính xác, có nghĩa là nó đã trở thành hiện tượng
“tất nhiên”, có thể dự đoán được. Quy luật số đông trở thành cơ sở kỹ thuật quan
trọng của bảo hiểm bởi vì nó chỉ ra rằng, sự bất khả tiên liệu sự cố cho mỗi trường
hợp riêng lẻ nay trở thành khả năng tiên liệu khi kết hợp số đông các trường hợp.
Người bảo hiểm như vậy có thể đảm bảo cho một rủi ro hoàn toàn bấp bênh, bất trắc
đối với người được bảo hiểm bởi vì công ty bảo hiểm không đảm bảo đơn lẻ một rủi
ro cá biệt và trên tổng thể nhiều rủi ro đảm nhận, công ty bảo hiểm có thể biết được
mức độ chính xác có thể chấp nhận được tần suất xảy ra rủi ro đó.
1.1.3.2 Phương pháp thống kê
Để vận dụng cơ sở kỹ thuật là quy luật số lớn vào thực tế, nhà bảo hiểm phải
cố gắng tập hợp số đông đủ lớn, đồng nhất để xác định tần suất xảy ra tổn thất. Từ
đó, xác định được mức giá trung bình của mỗi tổn thất và mức phí bảo hiểm phải
thu của mỗi đối tượng. Muốn vậy, nhà bảo hiểm phải triển khai một cách tối đa các
nghiệp vụ của mình, đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, phát triển theo chiều rộng lẫn
chiều sâu,… nhằm đạt được số lượng đối tượng tương đồng nhiều nhất. Trên cơ sở
đó mới dễ dàng dự đoán xác suất xảy ra rủi ro, tổn thất, làm cơ sở cho việc xác định
được mức phí trung bình và mức phí bảo hiểm phải thu của mỗi đối tượng.
Trong quá trình hoạt động lâu dài, tổ chức bảo hiểm phải theo dõi thường
xuyên sự biến động của các số liệu thống kê được, nhằm điều chỉnh khi cần thiết
phí bảo hiểm phải thu cho phù hợp với thực tế diễn biến rủi ro tổn thất. Vì số liệu
thống kê được trong quá khứ và các sự cố xảy ra trong tương lai có thể có sự chênh
lệch.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 16
1.1.4 Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm
Trong hệ thống kinh tế – xã hội nói chung, hoạt động bảo hiểm tồn tại dưới
hai dạng là bảo hiểm mang tính kinh doanh và bảo hiểm không mang tính kinh
doanh. Bảo hiểm không mang tính kinh doanh góp phần thực hiện chính sách phúc
lợi xã hội của Nhà nước, đó là các hình thức Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế.
Hoạt động bảo hiểm mang tính kinh doanh còn gọi là Bảo hiểm thương mại, là dịch
vụ tài chính đặc biệt, do các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh. Bên cạnh mục đích
kinh doanh là đảm bảo có lãi, bảo hiểm thương mại còn đảm bảo sự ổn định tài
chính cho nền kinh tế chống lại các nguy cơ rủi ro, huy động thêm nguồn lực trong
nước đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế. Ở phạm vi đề tài này,
chúng ta chỉ đề cập đến bảo hiểm thương mại. Có thể nói, bảo hiểm thương mại chủ
yếu được phân thành hai loại như sau:
1.1.4.1 Bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ (life insurance): là loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro
có tính thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng thường gắn liền với tuổi thọ con
người. Các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn (10 năm, 20 năm). Kỹ
thuật hạch toán bảo hiểm của loại này dựa trên kỹ thuật dồn tích, bao gồm:
+ Bảo hiểm trọn đời;
+ Bảo hiểm sinh kỳ;
+ Bảo hiểm tử kỳ;
+ Bảo hiểm hỗn hợp;
+ Bảo hiểm trả tiền định kỳ; và
+ Các nghiệp vụ BHNT khác do Chính phủ quy định.
1.1.4.2 Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ (non-life insurance): là loại bảo hiểm đảm bảo cho
các rủi ro có tính ổn định (tương đối) theo thời gian và đối tượng thường độc lập với
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 17
tuổi thọ con người. Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là ngắn hạn (một năm). Kỹ
thuật hạch toán bảo hiểm của loại này dựa trên kỹ thuật phân bổ, bao gồm:
+ Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người;
+ Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;
+ Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường
sắt và đường hàng không;
+ Bảo hiểm hàng không;
+ Bảo hiểm xe cơ giới;
+ Bảo hiểm cháy, nổ;
+ Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu;
+ Bảo hiểm trách nhiệm chung;
+ Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;
+ Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh;
+ Bảo hiểm nông nghiệp; và
+ Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do pháp luật quy định.
1.1.5 Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội
Bảo hiểm có vai trò rất quan trọng có thể được xét ở hai khía cạnh: kinh tế -
xã hội và tài chính.
(cid:131) Khía cạnh kinh tế - xã hội:
Rủi ro, tổn thất phát sinh làm thiệt hại các đối tượng: của cải vật chất do con
người tạo ra và chính cả bản thân con người, làm gián đoạn quá trình sinh hoạt của
dân cư, ngưng trệ hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Nói chung, tổn thất phát sinh
làm gián đoạn và giảm hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Quỹ dự trữ bảo
hiểm được tạo lập trước một cách có ý thức, khắc phục hậu quả nói trên bằng cách
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 18
bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập đảm bảo tính thường xuyên, liên tục của
quá trình sản xuất. Như vậy, trên phạm vi rộng toàn bộ nền kinh tế-xã hội, bảo hiểm
đóng vai trò như một công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu
dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế.
Với vai trò đó, bảo hiểm khi thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực của đời
sống đã phát huy tác dụng vốn có của mình: thúc đẩy ý thức đề phòng hạn chế tổn
thất cho mọi thành viên trong xã hội. Thật vậy, trong trường hợp rủi ro, Công ty bảo
hiểm sẽ thay bạn gánh vác hậu quả khiến bạn yên tâm hơn. Còn công ty bảo hiểm
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên họ rất quan tâm đến việc kiểm soát rủi ro,
nhằm làm chúng ít xảy ra hơn và mức độ thiệt hại cũng ít hơn.
(cid:131) Khía cạnh tài chính:
Sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặt biệt: một lời cam kết đảm
bảo cho sự an toàn, mặt khác sự tồn tại và phát triển của các hoạt động bảo hiểm
còn đáp ứng nhu cầu vốn không ngừng tăng lên của quá trình tái sản xuất mở rộng,
đặt biệt trong nền kinh tế thị trường với việc thu phí theo nguyên tắc ứng trước, các
tổ chức hoạt động bảo hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện cam kết của
họ đối với khách hàng nhưng tạm thời nhàn rỗi. Do vậy, các tổ chức hoạt động bảo
hiểm đã trở thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng cho các hoạt động khác nhau
của nền kinh tế quốc dân. Thị trường dịch vụ bảo hiểm là một kênh huy động vốn
hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nói chung, tại những nước có TTBH phát
triển, các công ty bảo hiểm là các chủ thể tích cực tham gia vào thị trường tài chính.
Do đó, bảo hiểm còn có vai trò là một trung gian tài chính và phát huy được tác
dụng của mình là cung cấp vốn cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển, tạo
công ăn việc làm cho người dân.
1.2 TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM
1.2.1 Tổng quan về quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 19
1.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
Hoạt động đầu tư của các DNBH diễn ra khá phong phú. Theo Luật kinh
doanh bảo hiểm Việt Nam, các DNBH có thể sử dụng các nguồn như: vốn điều lệ,
quỹ dự trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện; các khoản lãi của những năm trước chưa
sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại doanh
nghiệp và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để đầu tư.
Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm: đó là tổng dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm dùng để bồi
thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo
hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ. Pháp luật hiện hành của
Việt Nam quy định như sau:
(cid:131) Khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không thấp hơn 25% tổng dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt
Nam.
(cid:131) Khoản tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
1.2.1.2 Nguyên tắc đầu tư vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm
Các nguyên tắc cơ bản mà pháp luật ở nhiều nước đặt ra đối với hoạt động
đầu tư của các DNBH là an toàn, sinh lợi và đảm bảo tính thanh khoản.
(cid:131) Nguyên tắc an toàn: nguyên tắc này yêu cầu DNBH phải đầu tư vốn nhàn rỗi
một cách chắc chắn để luôn thực hiện được cam kết với người được bảo hiểm khi
xảy ra các sự kiện bảo hiểm.
(cid:131) Nguyên tắc sinh lợi: tức là hoạt động đầu tư của các DNBH phải mang lại lợi
nhuận. Đây cũng là yêu cầu tất yếu của hoạt động đầu tư, bởi vì suy cho cùng mọi
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 20
sự đầu tư vốn cũng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Với mức phí thu được của người
tham gia bảo hiểm, DNBH đã nắm giữ được một nguồn tài chính dồi dào. Do còn
phải thực hiện các cam kết chia lãi cho người tham gia bảo hiểm, DNBH phải thực
hiện các hoạt động đầu tư trên nhiều lĩnh vực nhằm tối đa hóa lợi nhuận để tăng khả
năng đền bù, giảm phí, làm cho dịch vụ bảo hiểm ngày càng hấp dẫn hơn. Tuy
nhiên, theo lý thuyết đầu tư thì việc thực hiện nguyên tắc này lại mâu thuẫn với
nguyên tắc an toàn. Vấn đề đặt ra cho DNBH là phải đáp ứng được hai nguyên tắc
mâu thuẫn với nhau này một cách hài hòa.
(cid:131) Nguyên tắc thanh khoản: đầu tư trong bảo hiểm yêu cầu đáp ứng nhu cầu
thanh toán thường xuyên nên các loại hình đầu tư phải có tính thanh khoản cao.
Do đó, nhiệm vụ của các nhà quản lý đầu tư là phải biết kết hợp hài hòa giữa
ba nguyên tắc cơ bản trên, lựa chọn đối tác đầu tư nào để phát huy hiệu quả cao
nhất mà vẫn đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản này.
1.2.2 Danh mục đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm
Trong quá trình xây dựng danh mục đầu tư (DMĐT), bất kỳ DNBH nào cũng
phải quyết định xem cần đưa những loại tài sản nào vào DMĐT của doanh nghiệp
nhằm đạt được hai mục tiêu: (1) duy trì khả năng thanh toán; và (2) duy trì khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Ở mức độ tối thiểu nhất, hai mục tiêu này bao gồm
việc đáp ứng trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm, duy trì khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp để tăng thị phần, và đóng góp vào sự tăng trưởng của thu
nhập và thặng dư doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu đó, DNBH phải tạo ra
được một DMĐT với các đặt tính của dòng tiền phù hợp với các trách nhiệm bảo
hiểm mà công ty phải chi trả trong tương lai và phù hợp với chiến lược quản lý rủi
ro, đặt biệt là rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách nhiệm của doanh nghiệp.
Xét ở góc độ tổng quát nhất, có hai loại rủi ro gắn liền với các tài sản đầu tư.
Thứ nhất là rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường. Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng tới
hầu hết các tài sản đầu tư, mặc dù mỗi loại tài sản chịu ảnh hưởng ở mức độ cao
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 21
thấp khác nhau. Ví dụ về loại rủi ro này là rủi ro về chính trị, lãi suất hay lạm phát.
Thứ hai là rủi ro đặt thù riêng có của từng tài sản hay của một nhóm nhỏ các tài sản
đầu tư. Thực tiễn cũng như lý thuyết đầu tư hiện đại đã chứng minh rằng, bằng cách
kết hợp nhiều loại tài sản trong một DMĐT, hay nói một cách khác, đa dạng hóa
DMĐT có thể loại trừ hoặc giảm thiểu các rủi ro đặt thù riêng có của từng loại tài
sản. Vì lý do này mà các DNBH luôn luôn mong muốn và tìm cách đa dạng hóa
DMĐT của mình để đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư.
Để đảm bảo các DNBH thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ với người được bảo
hiểm, pháp luật mỗi nước đều có quy định giới hạn DMĐT nhưng nhìn chung
DMĐT của một DNBH thường bao gồm các loại tài sản như sau:
(cid:131) Trái phiếu (bao gồm trái phiếu chính phủ và công ty):
Trái phiếu được coi là một công cụ đầu tư dài hạn tạo ra nguồn thu nhập ổn
định cho DNBH thông qua việc trả tiền lãi định kỳ (thường là 6 tháng hoặc hàng
năm) và trả số tiền gốc theo mệnh giá vào lúc đáo hạn. Đầu tư vào trái phiếu, nhất là
trái phiếu chính phủ có mức độ rủi ro thấp và tạo ra độ chắc chắn cao hơn về tỷ suất
lợi nhuận. Những công cụ đầu tư đầu tư tạo ra nguồn thu nhập ổn định giống như
trái phiếu với thời hạn và dòng tiền phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp BHNT
trong việc đạt được mức lợi nhuận giả định được xây dựng trong công thức tính phí
bảo hiểm và đáp ứng được mục tiêu quản lý rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách
nhiệm của doanh nghiệp. Ở TTBH phát triển, thông thường trái phiếu công ty là
loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong DMĐT của một công ty BHNT
(khoảng trên 40%). Trái phiếu chính phủ được coi là không có rủi ro về tín dụng, vì
vậy mức lãi suất thấp hơn trái phiếu công ty và cũng ít hấp dẫn hơn so với trái phiếu
công ty. Trái phiếu chính phủ thường chiếm tỷ trọng lớn thứ 3 trong DMĐT của
một DNBH.
(cid:131) Cổ phiếu
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 22
Cổ phiếu của các công ty là loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 trong
DMĐT của một công ty bảo hiểm ở các TTBH phát triển. Những đặc tính của dòng
tiền tạo ra từ việc đầu tư vào cổ phiếu phổ thông có mức biến động cao hơn nhiều
và do vậy nhiều rủi ro hơn so với các đặt tính của dòng tiền tạo ra từ việc đầu tư vào
trái phiếu. Đặt tính của dòng tiền tạo ra từ cổ phiếu phổ thông được quyết định bởi
việc chi trả cổ tức thường kỳ (không mang tính cam kết) và bởi giá trị thị trường
của cổ phiếu. Khác với trái phiếu, cổ phiếu phổ thông không có thời gian đáo hạn.
Do các đặt tính nêu trên, phần lớn nguồn vốn đầu tư vào cổ phiếu phổ thông của các
doanh nghiệp BHNT có nguồn gốc là số phí bảo hiểm thu được từ các hợp đồng
BHNT gắn với đầu tư (investment-linked products). Đây là loại sản phẩm thế hệ
mới, rất phổ biến và hấp dẫn người tham gia bảo hiểm ở các TTBH phát triển. Đối
với loại sản phẩm này, rủi ro đầu tư được chuyển từ công ty BHNT sang người
tham gia bảo hiểm hay nói cách khác, người tham gia bảo hiểm có quyền quyết định
số phí bảo hiểm họ đóng sẽ được đầu tư vào lĩnh vực nào.
Cổ phiếu ưu đãi mang tính chất của cả cổ phiếu phổ thông và trái phiếu, thể hiện
việc người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi được chi trả cổ tức theo một mức ấn định
trước và cổ tức ưu đãi phải được chi trả trước khi cổ tức phổ thông chi trả. Tuy
nhiên, cũng giống như cổ tức phổ thông, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không mang
tính cam kết và chỉ được chi trả khi công bố.
Ngoài ra, đầu tư vào cổ phiếu còn gặp một số bất lợi khác của đầu tư chứng khoán
là lạm phát, lãi suất, rủi ro về kinh tế vĩ mô, rủi ro về xã hội, chính trị.
(cid:131) Cho vay có thế chấp
Ngoài việc đầu tư vào các loại trái phiếu và cổ phiếu, một công cụ phổ biến
mà các DNBH thường sử dụng là cho vay có thế chấp mà tài sản thế chấp được hình
thành từ vốn vay. Cũng giống như các công cụ khác (trái phiếu), cho vay có thế
chấp là công cụ đầu tư tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho DNBH thông qua việc
nguời vay thanh toán tiền lãi và một phần tiền gốc theo định kỳ cho doanh nghiệp,
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 23
mặc dù cho vay có thế chấp có độ rủi ro cao hơn đầu tư vào trái phiếu. Xét về mặt
lịch sử, các khoản cho vay thương mại dài hạn có thế chấp từng là phương thức lý
tưởng được sử dụng để cân đối các trách nhiệm dài hạn mà DNBH đã cam kết với
người tham gia bảo hiểm.
(cid:131) Cho vay theo hợp đồng
Cho vay theo hợp đồng bảo hiểm là hình thức cho vay đặc thù của các
DNBH vì hai lý do. Thứ nhất, các khoản vay theo hợp đồng bảo hiểm không phải là
kết quả của một quyết định về quản lý đầu tư mà đó là kết quả của việc thực hiện
các quyền lựa chọn của chủ hợp đồng được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Thứ
hai, khoản tiền cho vay không bao giờ vượt quá giá trị giải ước của hợp đồng bảo
hiểm và DNBH luôn luôn có thể khấu trừ khoản tiền cho vay không được hoàn trả
từ giá trị giải ước hoặc số tiền bảo hiểm nên độ an toàn của hầu hết số tiền cho vay
theo hợp đồng bảo hiểm là tuyệt đối. Các đặc tính của dòng tiền gắn liền với các
khoản cho vay theo hợp đồng bảo hiểm được quyết định bởi sở thích của chủ hợp
đồng, do vậy nhiều khi khó dự đoán trước. Nhìn chung, để đảm bảo an toàn cho vay
theo hợp đồng chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong DMĐT của doanh nghiệp
BHNT (dưới 10% tổng giá trị tài sản đầu tư).
(cid:131) Đầu tư kinh doanh bất động sản
Đầu tư trực tiếp hoặc nắm quyền sở hữu bất động sản là hình thức đầu tư
tương tự như đầu tư vào cổ phiếu phổ thông. Đầu tư vào bất động sản có thể rất hấp
dẫn đối với DNBH do tạo ra mức lợi nhuận cao hơn so với đầu tư vào cổ phiếu
trong khi vẫn tạo ra cơ hội để tăng giá trị vốn đầu tư thông qua việc tăng giá của bất
động sản trên thị trường. Các đặc tính của dòng tiền tạo ra từ việc đầu tư vào bất
động sản được quyết định bởi công suất cho thuê, tiền cho thuê và chi phí hoạt động
cho thuê bất động sản. Mặt khác, các đặc tính khó dự đoán trước của dòng tiền tạo
ra từ việc đầu tư và bất động sản làm cho công cụ đầu tư này không hoàn toàn phù
hợp với nhu cầu của các DNBH. Thêm vào đó, đầu tư vào bất động sản thì tính
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 24
thanh khoản không cao, do việc bán các bất động sản không thể diễn ra nhanh
chóng được, vì các thủ tục giao dịch và các nhu cầu của người mua khó phù hợp với
những đặc tính bất động sản hiện có của người bán.Tuy nhiên, các DNBH vẫn duy
trì một tỷ lệ bất động sản nhất định trong DMĐT của mình vì mục tiêu đa dạng hóa
DMĐT nhằm giảm thiểu rủi ro và tìm kiếm một mức lợi nhuận cao hơn.
(cid:131) Tiền gửi vào các tổ chức tín dụng
Hình thức đầu tư này được sử dụng do có nhiều ưu điểm. Việc gửi tiền lấy
lãi được trải rộng trên nhiều ngân hàng, đúng nguyên tắc phân tán rủi ro và đáp ứng
được yêu cầu thanh khoản cao. Ngân hàng được chọn để đầu tư là ngân hàng thỏa
mãn cùng lúc hai tiêu thức: sự hoạt động và lãi suất. Trong đó, tiêu thức về tình
hình hoạt động của ngân hàng là tiêu thức được ưu tiên hơn cả, vì ngân hàng có
hoạt động tốt thì mới đảm bảo sự an toàn số tiền gửi của các doanh nghiệp bảo hiểm
và đảm bảo được tính thanh khoản khi cần, còn tiêu thức thứ hai chỉ là tiêu thức phụ
bổ sung cho sự lựa chọn khi các ngân hàng có sự hoạt động như nhau.
Tuy nhiên, khi đầu tư tiền gửi vào các ngân hàng các doanh nghiệp bảo hiểm
phải có nhiều kênh thông tin chính thức để tìm hiểu và nắm được tình hình hoạt
động của ngân hàng. Mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm rất mong có sự kiểm tra
kiểm soát thường xuyên của các cơ quan quản lý Nhà nước về tình hình hoạt động
của ngân hàng, để đảm bảo cho việc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm được an
toàn, nhất là kiểm soát tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần.
1.2.3 Hoạt động đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở một số nước
1.2.3.1 Các quy định về pháp lý
Những quy định pháp lý về đầu tư tài chính ở các nước không hoàn toàn
giống nhau. Nhưng xét về tổng thể, các quy định này có những đặc điểm chung như
sau:
(cid:131) Bắt buộc các công ty bảo hiểm phải thiết lập đầy đủ các quỹ dự phòng kỹ
thuật để đảm bảo tôn trọng cam kết của các công ty bảo hiểm đối với người được
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 25
bảo hiểm. Quy định này được coi như một chỉ tiêu để đánh giá khả năng thanh toán
của các công ty bảo hiểm.
(cid:131) Bắt buộc các DNBH phải thể hiện rõ các quỹ dự phòng kỹ thuật trên báo cáo
tài chính là một khoản mục riêng bên Nguồn vốn của bảng Cân đối kế toán. Nguồn
vốn này phải được tương thích bằng một danh mục tài sản đầu tư bên Tài sản có của
Bảng Cân đối kế toán.
(cid:131) Thể chế hóa các nguyên tắc đầu tư tài chính các quỹ dự phòng kỹ thuật là: an
toàn, sinh lợi, tính thanh khoản và đa dạng hóa DMĐT.
(cid:131) Quy định tỷ lệ tối đa và tối thiểu cho từng loại tài sản đầu tư đối với việc
phân bổ các quỹ dự phòng của các công ty bảo hiểm.
Tùy vào đặc điểm kinh tế, tài chính và xã hội, mỗi nước có quy định về
nguyên tắc phân bổ tài sản đầu tư theo các tỉ lệ khác nhau. Chúng ta có thể tham
khảo quy định đầu tư của một số nước trong khu vực Châu Á và Châu Âu như sau:
a) Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở một số nước Châu Á
Tình hình đầu tư của các DNBH nhân thọ khu vực Châu Á nhìn chung còn
cứng nhắc, thận trọng. Hầu hết các khoản đầu tư của các công ty này là vào tiền gửi
và các loại chứng khoán với lãi suất cố định. Tính trung bình tỷ lệ đầu tư vào cổ
phiếu chỉ chiếm khoảng 10 đến 15% tổng nguồn vốn đầu tư. Chỉ trừ có thị trường
Nhật Bản với tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu ở mức khá cao, khoảng 30% tổng nguồn vốn
đầu tư. Ở Trung Quốc, các công ty bảo hiểm buộc phải áp dụng cơ cấu đầu tư thận
trọng chủ yếu là do những quy định chặt chẽ của chính phủ hạn chế hoạt động đầu
tư chứ không phải xuất phát từ chiến lược thận trọng của các công ty này. Tuy
nhiên, những hạn chế này cũng đang dần dần được gỡ bỏ. Các công ty bảo hiểm
Trung Quốc nay đã có thể đầu tư trực tiếp vào các cổ phiếu hay đầu tư ra nước
ngoài. Ở Đài Loan, các công ty bảo hiểm sẽ được phép đầu tư tới 50% tổng nguồn
vốn đầu tư của mình ra nước ngoài thay vì 35% như hiện nay.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 26
Bảng 1.1: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Trung Quốc
Tỷ lệ quỹ Loại hình đầu tư Các giới hạn (nếu có) đầu tư
100% Tiền gửi ngân hàng Không giới hạn
- Trái phiếu và các công cụ nợ Tín dụng AA trở lên 100%
- Trái phiếu chuyển đổi <15% tổng số phát hành 20%
- Cho vay có bảo lãnh ngân hàng <20% tổng số phát hành 8%&15%
- Cho vay có bảo lãnh các Công ty <4% giá trị công ty bảo lãnh 20%
bảo hiểm
Cổ phiếu: - Đầu tư vào quỹ tương hỗ 15% <10% tổng giá trị quỹ tương hỗ
- Cổ phiếu niêm yết 5% <10% giá trị niêm yết 1 công ty
Bất động sản 50% Dành cho sử dụng nội bộ
Cho vay chủ hợp đồng Theo giá trị giải ước
Đầu tư ra nước ngoài 80% của vốn ngoại tệ
Cho vay/mượn ngoại tệ trên thị 50% trên vốn ngoại tệ trường liên ngân hàng
Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 27
Bảng 1.2: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Indonesia
Tỷ lệ quỹ Loại hình đầu tư Các giới hạn (nếu có) đầu tư
Tiền gửi ngân hàng 20% cho mỗi ngân hàng 100%
100% Trái phiếu Chính phủ và các chứng
khoán được bảolãnh
Cổ phiếu:
20% - Đầu tư vào quỹ tương hỗ
<20% giá trị niêm yết 1 công ty 100% - Cổ phiếu niêm yết
Bất động sản 20% Dành cho mục đích đầu tư
Cho vay chủ hợp đồng 100% Tối đa 80% giá trị giải ước
Đầu tư ra nước ngoài 20%
<20 % giá trị niêm yết của một Trái phiếu Công ty và các chứng 100% công ty khoán được bảo lãnh
<75% tài sản thế chấp Cho vay thế chấp 20%
Đầu tư trực tiếp 10%
Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 28
Bảng 1.3: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Hồng Kông
Tỷ lệ quỹ đầu Loại hình đầu tư Các giới hạn (nếu có) tư
100% Không giới hạn Tiền gửi ngân hàng
100% Không giới hạn Các chứng khoán của Chính phủ
100% Không giới hạn Cổ phiếu
100% Không giới hạn Bất động sản
Trái phiếu Công ty và cho vay trực 100% Không giới hạn tiếp
Cho vay chủ hợp đồng Theo giá trị giải ước
Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005
Nhìn chung, các quy định pháp lý về đầu tư cho các công ty BHNT ở Châu
Á đã quy định rõ ràng và chi tiết các khoản mục đầu tư nhằm giảm thiểu sự quản lý
chồng chéo. Việc mở rộng lĩnh vực đầu tư làm giảm thiểu các rủi ro trong đầu tư
nhằm tạo điều kiện sử dụng, thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước.
b) Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm ở một số nước Châu Âu
(cid:131) Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm ở Pháp:
Quy định DMĐT gồm 5 loại: Trái phiếu, Cổ phiếu, Bất động sản, Cho vay và Tiền
gửi. Trong đó, mỗi loại tài sản đầu tư được quy định như sau:
+ Không quá 65% quỹ dự phòng đối với cổ phiếu.
+ Không quá 40% quỹ dự phòng đối với bất động sản.
+ Không quá 10% quỹ dự phòng đối với cho vay.
+ Đầu tư vào trái phiếu không hạn chế.
+ Không quy định mức đầu tư vào tiền gửi ngân hàng.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 29
Quy định về phân tán rủi ro trong đầu tư như sau:
+ Không được đầu tư quá 5% quỹ dự phòng vào cổ phiếu được niêm yết
hoặc trái phiếu của một công ty phát hành.
+ Không được đầu tư quá 0,5% quỹ dự phòng vào cổ phiếu không được niêm
yết
+ Không được đầu tư quá 10% quỹ dự phòng vào một bất động sản.
(cid:131) Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm ở Cộng hòa Liên bang Đức:
DNBH được phép đầu tư vào các danh mục sau: chứng khoán, cho vay, tiền
gửi tại các tổ chức tín dụng, bất động sản, các khoản trả trước hoặc cho vay theo
đơn bảo hiểm của DNBH đối với chủ hợp đồng BHNT, đầu tư khác.
Quy định về phân bổ vào các DMĐT như sau:
+ Đầu tư vào cổ phiếu và các quỹ chứng khoán đặc biệt không vượt quá 30%
quỹ dự phòng.
+ Đầu tư vào bất động sản không vượt quá 25% quỹ dự phòng.
+ Đầu tư vào trái phiếu vô danh, trái phiếu thế chấp, trái phiếu địa phương
không vượt quá 2.5% quỹ dự phòng. Nếu đầu tư kết hợp trái phiếu và cổ phiếu, tỷ lệ
các khoản đầu tư không vượt quá 10% giá trị các quỹ dự phòng.
1.2.3.2 Cơ cấu đầu tư và sự thay đổi cấu trúc đầu tư trên thị trường BHNT
Chúng ta có thể thấy cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm ở một số nước
nước thể hiện qua bảng sau:
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 30
Bảng 1.4: Cơ cấu đầu tư tài chính của các công ty BHNT ở một số nước
(Đơn vị: %)
Danh mục Năm Pháp Nhật Anh
2001 68,6 41,8 30,9
Trái phiếu 2002 64,7 38,1 38,2
2003 66,9 44,6 37,0
2001 19,0 30,7 50,8
Cổ phiếu 2002 21,4 29,5 45,3
2003 18,9 26,8 44,0
2001 8,6 6,2 7,1
Bất động sản 2002 9,1 7,3 8,5
2003 9,3 5,9 8,9
2001 1,4 9,1 3,2
Tiền gửi ngân hàng 2002 2,1 8,4 1,5
2003 1,7 7,7 2,7
2001 2,4 12,2 8
Đầu tư khác 2002 2,7 16,7 6,5
2003 3,2 15 7,4
Nguồn: http://swissre.com/sigma6_2004
Như vậy, có thể thấy những lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các công ty bảo
hiểm ở các nước kể trên chủ yếu được đầu tư vào các tài sản chính là cổ phiếu và
trái phiếu.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 31
Qua các năm quan sát đều cho thấy trong cấu trúc đầu tư của các công ty bảo
hiểm trên thì giá trị các khoản vốn đầu tư vào chứng khoán chiếm trên 80%. Trong
lĩnh vực chứng khoán thì trái phiếu là loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng số vốn đầu tư của hai nước Pháp và Nhật, còn các công ty bảo hiểm của
Anh thì ngược lại, đầu tư vào cổ phiếu nhiều hơn. Lượng vốn đầu tư vào tiền gửi
tiết kiệm tại ngân hàng và các khoản đầu tư khác chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, từ
khoảng 1,5%-3,6% giá trị vốn đầu tư của các công ty bảo hiểm ở các công ty bảo
hiểm Anh và Pháp. Đối với Nhật, các công ty BHNT ở đây dành khoảng 30% trong
tỷ trọng đầu tư để đầu tư vào các lĩnh vực khác như bất động sản, tiền gửi ngân
hàng và các khoản đầu tư khác với cơ cấu mỗi loại chiếm từ 6,5% đến 15%. Tỷ
trọng vốn đầu tư như vậy thể hiện sự phân bố khá đồng đều hơn ở các công ty
BHNT của Nhật.
Quan sát tổng thể về cơ cấu đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở các nước
phát triển ta nhận thấy các xu hướng đầu tư chính là:
+ Thứ nhất, vốn đầu tư bất động sản và tiền gửi vào các tổ chức tín dụng có
xu hướng giảm mạnh, trong cấu trúc đầu tư của các công ty bảo hiểm có thể nhận
thấy danh mục này ngày càng chiếm một tỷ trọng nhỏ.
+ Thứ hai, vốn đầu tư cổ phiếu và trái phiếu công ty đang có xu hướng tăng
lên ở tất cả các nước. Trong mọi giai đoạn, vốn đầu tư vào trái phiếu chiếm tỷ trọng
cao nhất trong cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm ở đa số các nước.
Kết luận chương 1:
Để có thể đáp ứng được nhu cầu đảm bảo an toàn về tài chính khi phát sinh
các biến cố trong sản xuất và đời sống, các chủ thể, cá nhân đã tìm đến nhà bảo
hiểm. Vì thế các DNBH cần phải sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn vốn thu
được. Chương 1 đã giới thiệu về nguyên tắc lý luận, các qui định pháp lý, kinh
nghiệm đầu tư ở một số nước nhằm làm cơ sở tham chiếu so sánh để xác định quan
điểm đầu tư cho các DNBH tại Việt Nam.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
VỐN CỦA CÁC DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
2.1.1 Khái quát sự ra đời vào phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
Lịch sự ra đời và phát triển bảo hiểm ở Việt Nam có thể khái quát qua 3 giai
đoạn chính:
(cid:131) Giai đoạn trước 30/04/1975
- Tình hình hoạt động bảo hiểm ở miền Nam: Ở miền Nam hoạt động kinh doanh
bảo hiểm khá phát triển với sự có mặt của trên 52 công ty bảo hiểm trong nước và
nước ngoài. Hầu hết các công ty đều đặt trụ sở chính ở Sài Gòn, trung tâm kinh tế
của miền Nam lúc bấy giờ. Các công ty bảo hiểm có Hiệp hội nghề nghiệp của mình
nhằm thực hiện các chức năng vốn có như thông tin tư vấn, đào tạo, môi trường hợp
tác. Các công ty hoạt động theo Luật bảo hiểm năm 1965
- Tình hình hoạt động bảo hiểm ở miền Bắc: Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam
(Bảo Việt) ra đời theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/12/1964, chính
thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965. Bảo Việt là công ty bảo hiểm nhà nước duy
nhất đại diện cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh, hoạt động
của Bảo Việt ở miền Bắc chưa phát triển. Với 2 chi nhánh ở Hà Nội và Hải Phòng,
Bảo Việt thực hiện chủ yếu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nhưng thường
tái bảo hiểm với tỷ lệ cao cho Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Ba Lan.
(cid:131) Giai đoạn sau 30/04/1975 đến trước 18/12/1993
Các công ty bảo hiểm được quốc hữu hóa và sáp nhập chung vào Tổng Công
ty Bảo hiểm Việt Nam. Các công ty bảo hiểm cũ ở miền Nam sát nhập thành lập
Công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (BAVINA). Sau 1976, BAVINA
chuyển thành chi nhánh công ty bảo hiểm Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 33
Trong giai đoạn này chỉ có một công ty bảo hiểm duy nhất của Nhà nước là Bảo
Việt, trực thuộc Bộ Tài chính.
(cid:131) Giai đoạn sau ngày 18/12/1993 đến nay
Nghị Định 100/CP của Chính phủ ra đời. Bộ Tài chính thành lập thêm một số
công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tình trạng độc quyền
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đã bị xoá bỏ. Cũng từ thời gian này, hoạt động
kinh doanh bảo hiểm Việt Nam bắt đầu sôi động do có sự cạnh tranh lẫn nhau giữa
các công ty. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam thật sự hoạt động mang tính
chuyên nghiệp từ khi Quốc Hội thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm và có hiệu lực
thi hành từ 01/04/2001. TTBH Việt Nam đã có sự tham gia hoạt động của các công
ty bảo hiểm Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và đặc biệt có cả DNBH của ASEAN.
Sự mở cửa này đã tạo nên sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải vươn lên,
nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
2.1.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay
Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng ở tốc độ cao, mức tăng trưởng mà
trước đây người ta nghĩ rằng Trung Quốc và Ấn Ðộ mới có thể đạt được. Năm
ngoái, GDP của Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 8,4%, tăng gấp rưỡi so với năm
2001. Dân số của Việt Nam hiện là 82 triệu người, trong đó, số dân ở độ tuổi dưới
30 chiếm tới 60%. Chính thói quen tiết kiệm của người dân đã góp phần tạo nên sức
hấp dẫn của TTBH. Từ năm 1993 đến nay, sau gần 14 năm mở cửa, các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã học tập được nhiều kinh nghiệm và tự nâng cao năng
lực để cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang họat
động tại Việt Nam. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đang từng bước chuẩn bị
nâng cao năng lực của mình. Lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam trong
thời gian qua được đánh giá là tương đối mạnh. Số lượng doanh nghiệp chính thức
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay 32 DNBH và môi giới bảo hiểm tiến
hành hoạt động kinh doanh cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho thị trường. Đối với
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 34
lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ có 16 doanh nghiệp, trong đó có 2 DNBH Nhà
nước, 8 doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm; 3 DNBH 100% vốn nước ngoài; 3 doanh
nghiệp liên doanh bảo hiểm. BHNT có 8 doanh nghiệp, trong đó có 1 DNBH nhà
nước, 1 doanh nghiệp liên doanh và 6 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong
lĩnh vực môi giới bảo hiểm có 7 doanh nghiệp, trong đó có 4 doanh nghiệp cổ phần
và 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp tái bảo hiểm có 1
doanh nghiệp, đó là Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare). Ngoài ra còn
có 30 công ty nước ngoài khác đã thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Bảng 2.1: Tổng hợp các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm trên thị trường VN
đến 31/12/2005
Liên 100% vốn Nhà Tổng Loại hình doanh Cổ phần doanh nước ngoài nước cộng nghiệp
Bảo hiểm phi nhân thọ 2 8 3 3 16
Bảo hiểm nhân thọ 1 1 6 8
Tái bảo hiểm 1 1
Môi giới bảo hiểm 4 3 7
3 13 4 12 32 Tổng cộng
Nguồn: Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 35
Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đến 31/12/2005
STT
Tên DN
Hình thức sở hữu
Vốn điều lệ
Lĩnh vực hoạt động
Năm thành lập
1
1964
Nhà nước
Tổng công ty bảo hiểm VN (Bảo Việt)
3.000 tỷ VND
2
Công ty môi giới bảo hiểm Aon
1993
100% vốn nước ngoài
300.000 USD
Nhân thọ, phi nhân thọ Môi giới bảo hiểm
3
1994
Công ty tái bảo hiểm quốc gia VN (Vinare)
Cổ phần/2004
343 tỷ VND
Tái bảo hiểm
4
1995
Cổ phần
Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)
434 tỷ VND
Phi nhân thọ
5
1995
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)
Cổ phần/2004
140 tỷ VND
Phi nhân thọ
6
1995
Cổ phần
Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long)
70 tỷ VND
Phi nhân thọ
7
1996
Nhà nước
Công ty bảo hiểm dầu khí (PV Insurance)
20 tỷ VND
Phi nhân thọ
8
1996
Liên doanh
Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế - VN (VIA)
6 triệu USD
Phi nhân thọ
9
1997
Liên doanh
Công ty bảo hiểm liên hiệp (UIC)
4 triệu USD
Phi nhân thọ
10
1998
Cổ phần
Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)
70 triệu USD
Phi nhân thọ
11
1999
Nhân thọ
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Manulife VN
100% vốn nước ngoài
10 triệu USD
12
1999
Liên doanh
Nhân thọ
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh – CMG
25 triệu USD
13
1999
Nhân thọ
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential
100% vốn nước ngoài
61 triệu USD
14
2000
Nhân thọ
Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA) VN
100% vốn nước ngoài
25 triệu USD
15
2001
Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp Groupama VN
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
Phi nhân thọ
16
2001
Cổ phần
Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc
6 tỷ VND
Môi giới bảo hiểm
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 36
Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đến 31/12/2005 (tiếp theo)
2002
Liên doanh
17
Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Samsung-Vina
5 triệu USD
Phi nhân thọ
2002
Cổ phần
18
6 triệu USD
Phi nhân thọ
Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Châu Á - NH Công thương
2003
Cổ phần
19
Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông (VASS)
200 tỷ VND
Phi nhân thọ
2003
20
Công ty môi giới bảo hiểm Gras Savoye
100% vốn nước ngoài
300.000 USD
Môi giới bảo hiểm
2003
Cổ phần
21
Công ty môi giới bảo hiểm Á Đông
6 tỷ VND
Môi giới bảo hiểm
22
2003
Cổ phần
Công ty môi giới bảo hiểm Đại Việt
6 tỷ VND
Môi giới bảo hiểm
23
2004
Công ty môi giới bảo hiểm Marsh VN
100% vốn nước ngoài
300.000 USD
Môi giới bảo hiểm
24
2005
Nhân thọ
Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ ACE Life VN (ACE Life)
100% vốn nước ngoài
20 triệu USD
Công ty Bảo hiểm AAA
2005
Cổ phần
25
80 tỷ VND
Phi nhân thọ
26
2005
Công ty TNHH bảo hiểm QBE VN (QBE Viet Nam)
100% vốn nước ngoài
7,5 triệu USD
Phi nhân thọ
27
2005
Cổ phần
Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIC)
4 triệu USD
Phi nhân thọ
28
2005
Nhân thọ
Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prévior
100% vốn nước ngoài
2005
Cổ phần
29
Công ty môi giới bảo hiểm Thái Bình Dương
Môi giới bảo hiểm
2005
Nhân thọ
30
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ New York Life
100% vốn nước ngoài
2005
31
Công ty AIG Việt Nam (AIG Viet Nam)
100% vốn nước ngoài
Phi nhân thọ
10 triệu USD không có số liệu 10 triệu USD không có số liệu
Nguồn: Theo Hiệp hội Bảo hiểm VN
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 37
Trong giai đoạn hiện nay, Bộ Tài chính đã thực hiện phát triển TTBH theo
hướng đa dạng hóa các loại hình sở hữu nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào
lĩnh vực bảo hiểm giúp TTBH hoạt động an toàn, hiệu quả và có đủ năng lực cung
cấp các dịch vụ có chất lượng, có tính cạnh tranh phù hợp với lộ trình hội nhập quốc
tế. TTBH tiếp tục mở cửa với việc nhà nước cấp phép cho công ty AAA, AIG hoạt
động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ; Prevoir, ACE Life, New York Life hoạt
động kinh doanh BHNT; Công ty Thái Bình Dương hoạt động môi giới bảo hiểm và
một số Văn phòng đại diện Công ty bảo hiểm nước ngoài. Việc cấp phép cho các
DNBH nước ngoài được thực hiện theo đúng quy định phát luật hiện hành, phù hợp
với tiến trình hội nhập kinh tế cũng như các cam kết song phương, đa phương của
Việt Nam với các nước. Các DNBH nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt
Nam đều là các doanh nghiệp hàng đầu thế giới, có uy tín, năng lực tài chính và
kinh nghiệm hoạt động được các tổ chức xếp hạng quốc tế đánh giá có hệ số tín
nhiệm cao nhất. Bên cạnh đó, tỷ lệ và cơ cấu các loại hình doanh nghiệp thuộc các
khu vực tương đối hài hòa, xử lý tốt mối quan hệ giữa Việt Nam và các khu vực
trên thế giới trong việc mở cửa TTBH. Trong 16 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có 06 chủ đầu tư Mỹ, 03 chủ đầu tư là Pháp, 01 chủ đầu tư là Anh, 01 chủ đầu
tư là Canada, 02 chủ đầu tư Úc, 02 Nhật, 01 Hàn Quốc.
Ngoài ra, TTBH cũng diễn ra sự cơ cấu lại các DNBH. Bảo Minh và
VINARE năm đầu tiên cổ phần hóa hoạt động có nhiều khởi sắc. Ngân hàng Đầu tư
phát triển Việt Nam mua lại cổ phần của QBE thành lập công ty BIC 100% vốn
Việt Nam; QBE mua lại công ty bảo hiểm Allianz; Bảo Việt trở thành tập đoàn tài
chính Bảo Việt theo quyết định số 310 của Thủ tướng Chính phủ với nhiều đơn vị
thành viên như Bảo Việt Nhân thọ, Bảo Việt Việt Nam, Bảo hiểm y tế cộng đồng,
Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng Cổ phần Bảo Việt, Công ty
cho thuê Tài chính Bảo Việt, Công ty kinh doanh bất động sản Bảo Việt. Theo số
liệu của Hiệp hội bảo hiểm, tốc độ tăng trưởng của TTBH phi nhân thọ Việt Nam
thời gian qua đạt bình quân 34%/năm và trên 60%/năm với BHNT. Dự báo của Bộ
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 38
Tài chính cho rằng, đến năm 2010, tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP có thể
đạt 4,2%.
Sau gần 14 năm mở cửa TTBH, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt
Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị
trường tăng bình quân 30% trong giai đoạn 1993 - 2005 cơ cấu tỷ trọng doanh thu
dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,37% GDP năm 1993 lên
2,03%/GDP năm 2005.
Số lượng sản phẩm bảo hiểm năm 1993 chỉ có 22, đến nay đã có gần 700 sản
phẩm bảo hiểm, do không còn tình trạng hoạt động độc quyền, các doanh nghiệp đã
chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm quyền lợi cho các
khách hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo thỏa thuận trong hợp
đồng bảo hiểm. Các đại lý bảo hiểm, hiện ở con số 92.000, đang là lực lượng phân
phối dịch vụ bảo hiểm chính ở Việt Nam. Chỉ có 12% hợp đồng bảo hiểm được
thương lượng bởi các nhà môi giới bảo hiểm. Tuy nhiên, con số các công ty môi
giới bảo hiểm sẽ còn gia tăng. Công ty môi giới bảo hiểm Aon Việt Nam, hiện đang
chiếm thị phần lớn nhất, khoảng 46% doanh thu từ môi giới bảo hiểm tại thị trường
này. Các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động sớm tại Việt Nam đang thu được
nhiều lợi nhuận. Năm 2002, Manulife Việt Nam, công ty BHNT 100% vốn nước
ngoài đầu tiên ở Việt Nam, cho biết sau 3 năm hoạt động đã trở thành công ty bảo
hiểm đầu tiên thu được lợi nhuận tại thị trường này. Năm 2004, Prudential Việt
Nam cũng thông báo đã thu được lợi nhuận ở mức 3,8 triệu USD sau 5 năm hoạt
động. Việt Nam đã trở thành địa điểm đầu tư phổ biến thứ 4 của các nhà đầu tư
Nhật Bản vào năm 2005, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Ðộ và Thái Lan sau khi đứng ở vị
trí thứ 8 vào năm 2000. Theo một báo cáo do công ty tư vấn của Mỹ Towers Perrin
về TTBH Việt Nam, với chưa đầy 10% dân số có sử dụng dịch vụ BHNT, đây là
một trong những TTBH có tiềm năng tăng trưởng hàng đầu ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 39
Rõ ràng, Việt Nam là một TTBH đầy tiềm năng nhưng cũng nhiều thách
thức
Có thể nói, luật pháp đối với lĩnh vực bảo hiểm của Việt Nam còn chưa hoàn
thiện và vẫn còn có những hạn chế pháp lý đối với việc đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư
của các công ty bảo hiểm.
Đến giữa năm 2006, các công ty bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam vẫn chưa
được phép cung cấp một cách đầy đủ các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Mặc dù
chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường BHNT nhưng các công ty nước ngoài chỉ nắm
một thị phần khiêm tốn 7% trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ do thị trường này
thuộc về các công ty trong nước. Các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại Việt Nam
cũng đang phải đối mặt với việc các ngân hàng tăng lãi suất để thu hút người dân
gửi tiết kiệm thay vì mua bảo hiểm. Hiện nay, lãi suất tiền gửi tiết kiệm hàng năm
đã ở mức 10% trong khi mức lãi bảo hiểm chỉ là 2%. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
cho biết, số lượng hợp đồng bảo hiểm mới được ký trong quý đầu năm 2006 giảm
tới 27% so với cùng kỳ năm 2005. Số lượng hợp đồng mà Manulife ký được trong
thời kỳ này giảm tới 56%, Bảo hiểm Quốc tế Mỹ giảm 44%, Prudential giảm 30%
và Bảo Minh CMG giảm 31%. Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, ở Việt Nam
hiện có 120.000 đại lý bảo hiểm và 10.000 nhân viên làm việc trong lĩnh vực này.
2.2 THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1 Vấn đề tạo lập vốn trong doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
tại Việt Nam hiện nay
2.2.1.1 Nguồn gốc hình thành vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm
Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm Việt Nam định nghĩa: “Hoạt động kinh doanh
bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó
doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên
mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 40
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm”.
Thông qua định nghĩa trên kết hợp với các nguyên tắc bảo hiểm, ta thấy
ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác.
Khi một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm - bằng sự
cam kết của mình - sẽ phải tiến hành thu phí bảo hiểm trước của khách hàng. Sau đó
sẽ thực hiện các trách nhiệm bảo hiểm đối với khách hàng, trong một phạm vi giới
hạn thời gian nhất định gọi là hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Việc tiến hành các
dịch vụ này có thể xảy ra hoặc không xảy ra, có thể xảy ra ngay sau thời điểm thu
phí hoặc xảy ra cách thời gian thu phí một khoảng thời gian nào đó. Nghĩa là thời
điểm công ty bảo hiểm nhận được tiền và thời điểm chi trả tiền cho khách hàng có
những khoảng cách và không thể xác định trước được. Vì vậy, người ta còn gọi
kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Với các lý do đó, để đảm bảo
cho việc thực hiện các trách nhiệm của công ty với khách hàng tham gia bảo hiểm
và ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế - xã hội, các công ty bảo
hiểm hoạt động phải luôn ở trong tình trạng đảm bảo khả năng thanh toán các tổn
thất có thể xảy ra và phải có một tình hình tài chính mạnh. Vì lẽ đó, Luật kinh
doanh bảo hiểm ở các nước đều bắt buộc các doanh nghiệp phải trích đầy đủ các
khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Các khoản dự phòng nghiệp vụ này thực chất
là khoản tiền doanh nghiệp bảo hiểm trích lập từ doanh thu phí bảo hiểm của từng
nghiệp vụ bảo hiểm, để đảm bảo các trách nhiệm đã nhận với khách hàng.
Đó là nguồn gốc của sự hình thành nguồn vốn nhàn rỗi, hay còn gọi là các
quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Xét ở một khía cạnh khác có
thể nói, cùng với hoạt động kinh doanh của mình các công ty bảo hiểm luôn phải
quản lý một nguồn vốn nhàn rỗi lớn và ổn định. Việc đầu tư có hiệu quả và an toàn
nguồn vốn nhàn rỗi này là một trách nhiệm quan trọng của quá trình kinh doanh bảo
hiểm. Đồng thời, giúp doanh nghiệp có khả năng gia tăng các quỹ đảm bảo và là cơ
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 41
sở để hạ giá thành bảo hiểm. Vì vậy, để nguồn vốn này ngày càng được gia tăng, tất
cả các công ty bảo hiểm đều được pháp luật cho phép đầu tư để sinh lợi.
2.2.1.2 Nội dung dự phòng nghiệp vụ đối với doanh nghiệp kinh doanh BHNT
Đặc điểm của các hợp đồng BHNT là thời hạn dài (tối thiểu là 5 năm), phí
bảo hiểm thường được thu san bằng hàng năm trong suốt thời hạn của hợp đồng. Số
phí bảo hiểm thu hàng năm được công ty BHNT tích lũy lại và đưa vào đầu tư ngay
với lãi suất đầu tư thực tế tối thiểu phải đạt mức lãi suất kỹ thuật khi tính phí. Theo
thời gian số phí tích lũy sẽ tăng trưởng và đạt đúng giá trị cần thiết để trả cho các
chủ hợp đồng và đây chính là dự phòng toán học của các hợp đồng BHNT. Trong
trường hợp lãi suất đầu tư thực tế lớn hơn lãi suất kỹ thuật khi tính phí thì phần
chênh lệch này sẽ hình thành nên dự phòng chia lãi của các hợp đồng BHNT. Đây
là hai loại quỹ dự phòng chủ yếu trong tổng dự phòng nghiệp vụ của các công ty
BHNT vì nó tác động rất lớn đến khả năng chi trả của các công ty BHNT. Vì vậy
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm cũng chính là bảo vệ sự phát
triển bền vững và ổn định của thị trường BHNT, Chính phủ các nước bao giờ cũng
đưa ra những qui định rất chặt chẽ trong việc trích lập dự phòng nghiệp vụ các sản
phẩm BHNT và yêu cầu các công ty BHNT phải tuân thủ theo những qui định này.
Theo Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm và các thông tư văn bản hướng dẫn thi hành quy
định chế độ tài chính đối với DNBH, doanh nghiệp kinh doanh BHNT phải trích lập
dự phòng nghiệp vụ từ phí bảo hiểm thu được như sau:
a) Dự phòng toán học là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số tiền
bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu được trong tương lai, được sử
dụng để trả tiền bảo hiểm đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm.
Phương pháp trích lập: Theo phương pháp phí bảo hiểm thuần được điều
chỉnh bởi hệ số Zillmer 3% số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh
dùng để tính dự phòng không cao hơn 90% phí bảo hiểm thực tế thu được.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 42
Nguyên tắc tính dự phòng: Dự phòng toán học theo phương pháp phí bảo
hiểm thuần được điều chỉnh Zillmer 3% số tiền bảo hiểm tính theo nguyên tắc sau:
Giá trị hiện tại của tổng số phí bảo Giá trị hiện tại của tổng Dự phòng hiểm thuần điều chỉnh Zillmer 3% = + số tiền bảo hiểm sẽ phải toán học toán học số tiền bảo hiểm sẽ thu trả trong tương lai trong tương lai
Cơ sở tính dự phòng: Doanh nghiệp kinh doanh BHNT sử dụng bảng tỉ lệ tử
vong CSO năm 1980 theo quy định tại thông tư 99 và lãi suất kỹ thuật tối đa bằng
80% lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước khi
xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng. Dự phòng toán học được
coi là bằng 0 trong trường hợp tính theo phương pháp và cơ sở nêu trên cho ra kết
quả là số âm.
b) Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng BHNT có
thời hạn dưới một năm, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời
gian còn hiệu lực của hợp đồng trong năm tiếp theo.
Phương pháp trích lập theo phương pháp 1/24 hoặc phương pháp trích lập dự
phòng phí theo ngày.
c) Dự phòng bồi thường, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết.
Được trích theo phương pháp từng hồ sơ với mức trích lập được tính trên cơ
sở thống kê số tiền bảo hiểm phải trả cho từng hồ sơ đã yêu cầu đòi bồi thường
nhưng đến cuối năm tài chính DNBH chưa giải quyết.
d) Dự phòng chia lãi, được sử dụng để trả lãi mà DNBH đã thỏa thuận với
bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
Chỉ áp dụng với những hợp đồng có lãi chia được tích lũy qua các năm
hợp đồng bảo hiểm và được tính theo công thức sau:
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 43
Tổng lãi công bố chia Giá trị tích lũy của lãi đã công bố Dự phòng = + cho chủ hợp đồng trong chia cho chủ hợp đồng trong các chia lãi năm tài chính năm tài chính trước nhưng chưa chi
e) Dự phòng bảo đảm cân đối, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
Được trích lập hàng năm cho đến khi khoản dự phòng này bằng 5% phí bảo
hiểm thu được trong năm tài chính của DNBH. Mức trích lập hàng năm là 1% từ lợi
nhuận trước thuế của DNBH.
Bảng 2.3: Dự phòng nghiệp vụ BHNT năm 2004-2005
(Đơn vị: tỷ đồng)
Dự phòng nghiệp vụ Tổng dự phòng nghiệp vụ trích trong năm Dự phòng nghiệp vụ Tăng Tăng 2004 2005 2004 2005 trưởng trưởng
Dự phòng toán học 4.567 5.433 19% 14.677 20.112 37%
Dự phòng bồi thường 1 1 0% 20 21 5%
Dự phòng đảm bảo cân đối 1 2 100% 4 6 50%
Dự phòng lãi chia 424 (853) (301%) 1.097 244 (78%)
Tổng số 4.992 4.583 (8%) 15.798 20.383 29%
Nguồn: Báo cáo Bộ tài chính – 2006
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 44
Bảng 2.4: Dự phòng nghiệp vụ BHNT của một số công ty
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Manulife 487.513 828.773 1.398.421
Baominh CMG 182.884 204.057 242.806 422.350
Bảo Việt 4.757.045 6.326.871 8.448.992 9.931.000
AIA 210.562 292.682 409.176 497.985
Prudential 1.984.988 3.235.531 5.301.541
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo tài chính của các công ty BHNT
Bảng 2.5: Dự phòng toán học BHNT của một số công ty
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
%/Tổng %/Tổng %/Tổng Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền DP DP DP
Manulife 472.887 97 812.653 98,74 1.380.816 98,05
Baominh- 171.910 94 193.854 95 235.293 97 CMG
Bảo Việt 3.805.636 80 5.694.183 89 7.519.602 90
AIA 189.505 90 287.048 98,8 404.393 98,08
Prudential 1.726.939 87 2.671.143 82,47 4.372.013 91,82
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo tài chính của các công ty BHNT
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 45
2.2.1.3 Một số tồn tại trong quy định về trích lập dự phòng bảo hiểm nhân thọ
Theo Thông tư 99/TT-BTC ban hành 19/10/2004, hướng dẫn thực hiện Nghị
định 43 của Chính phủ qui định chế độ tài chính đối với DNBH và doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm, qui định trích lập dự phòng nghiệp vụ đã có sự tiến bộ rõ rệt đó
là Thông tư đã đưa ra được cơ sở trích lập dự phòng mà Thông tư 72 trước đây
không đề cập đến. Thông tư 99 đề cập một cách rõ ràng các công ty BHNT ở Việt
Nam phải sử dụng các cơ sở sau đây để tính dự phòng toán học:
- Bảng tử vong là bảng CSO 1980.
- Lãi suất kỹ thuật tối đa bằng 80% lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10
năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở
trích lập dự phòng.
- Dự phòng toán học được coi là bằng 0 trong trường hợp tính theo phương
pháp và cơ sở nêu trên cho ra kết quả là số âm
Qui định trích lập dự phòng nghiệp vụ theo Thông tư 99 hoàn thiện hơn
nhiều so với thông tư 72 và 45 trước đây. Tuy nhiên qui định này còn một số vấn đề
cần xem xét thêm
Thứ nhất, qui định lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi suất trái phiếu chính phủ
kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin phê chuẩn phương pháp
và cơ sở trích lập dự phòng cho tất cả các sản phẩm BHNT là không phù hợp. Bởi
vì, các sản phẩm BHNT có các kỳ hạn khác nhau 5 năm, 8 năm, 10 năm, 15 năm,
20 năm hoặc nhiều hơn. Về nguyên tắc khi thời hạn đầu tư càng dài, mức gánh chịu
rủi ro của nhà đầu tư càng cao thì lãi suất cần phải tăng lên để bù đắp cho phần rủi
ro mà nhà đầu tư phải gánh chịu.
Thứ hai, bảng tử vong sử dụng để tính phí và dự phòng là bảng CSO 80. Đây
là bảng tử vong được các cơ quan quản lý bảo hiểm ở các nước sử dụng rộng rãi để
giám sát việc trích lập dự phòng của công ty BHNT. Trong thực tế các công ty bảo
hiểm không sử dụng bảng tỷ lệ tử vong này để tính phí vì bảng CSO 80 có tỷ lệ tử
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 46
vong cao hơn thực tế, do đó các công ty bảo hiểm ở các nước thường sử dụng các
bảng tỷ lệ tử vong khác, phản ánh tỷ lệ chết chính xác hơn. Ở Việt Nam, trong thời
gian qua, chỉ riêng Bảo Việt sử dụng bảng tỷ lệ tử vong trên cơ sở số liệu thống kê
của dân số Việt Nam, còn các công ty bảo hiểm nước ngoài họat động tại Việt Nam
lại sử dụng bảng tử vong trên cơ sở số liệu thống kê dân số của nước ngoài. Như ta
đã biết, điều kiện kinh tế xã hội, vị thế địa lý của mỗi quốc gia có tác động đến tuổi
thọ người dân của nước đó, vì vậy việc áp dụng bảng tỷ lệ tử vong của nước này
cho một nước khác là không phù hợp, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người
tham gia bảo hiểm cũng như của chính các công ty bảo hiểm đó. Hơn nữa bảng tỷ lệ
tử vong mà hiện nay Bảo Việt đang áp dụng là trên cơ sở số liệu thống kê toàn diện
dân số của Việt Nam vào năm 1989, ở thời điểm này và trước đó, nền kinh tế Việt
Nam chưa có những thành tựu đáng kể về mặt kinh tế, đời sống người dân còn khó
khăn, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến tuổi thọ con người. Trong giai đoạn hiện
nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống người
dân từng bước được nâng cao tất cả điều này đã ảnh hưởng đến tuổi thọ của người
dân. Vì vậy, qui định trích lập dự phòng nghiệp vụ BHNT sử dụng bảng tử vong
CSO 80 cần phải nghiên cứu một cách cụ thể hơn, tránh việc qui định của cơ quan
quản lý chỉ mang tính hình thức vì qui định này không áp dụng được trong thực
tiễn.
2.2.2 Thực trạng đầu tư vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
2.2.2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Ở tất cả các quốc gia có tồn tại ngành kinh doanh bảo hiểm, Nhà nước phải
can thiệp vào các quy định quản lý có tính vĩ mô đối với các DNBH. Sự can thiệp
này là một tất yếu bởi các lý do:
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 47
+Bảo vệ lợi ích của người tham gia bảo hiểm (khách hàng). Đảm bảo cho
DNBH luôn trong tình hình tài chính vững mạnh để thực hiện trách nhiệm của mình
về các cam kết đối với khách hàng khi tham gia bảo hiểm; hoặc ít nhất cũng cảnh
báo được tình hình tài chính của các doanh nghiệp đang ở trạng thái nào giúp các
nhà quản lý có những biện pháp can thiệp thích hợp, kịp thời.
+ Đảm bảo ổn định tình hình hoạt động đời sống, sản xuất kinh doanh của
các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội của
đất nước.
+ Đối với nền kinh tế toàn cầu, do tính đặc thù cùng chia sẻ rủi ro của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, nên hầu hết các công ty bảo hiểm trên thế giới đều ít
nhiều có sự quan hệ về tài chính với nhau. Sự hoạt động mạnh hay yếu của một
công ty bảo hiểm bất kỳ đều có ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống ngành bảo hiểm
trên thế giới. Sự tác động này thể hiện rõ rệt nhất là đối với các công ty bảo hiểm
lớn trên thế giới, tập trung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
+Hướng công tác đầu tư các quỹ bảo hiểm vào mục tiêu kinh tế xã hội của
đất nước.
+Ngăn ngừa các công ty bảo hiểm tìm cách gây ảnh hưởng tiêu cực trong
toàn bộ lĩnh vự̣c tài chính.
Do tính chất đặc thù và tầm quan trọng của nó đối với sự an toàn tài chính
của các DNBH, hoạt động đầu tư được quy định khá đầu đủ và chặt chẽ trong luật
Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cũng giống như quy định
pháp luật của nhiều nước trên thế giới, hoạt động đầu tư của các DNBH tại Việt
Nam phải tuân thủ những hạn chế nhất định về nguồn vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư,
DMĐT, địa bàn đầu tư, cụ thể là:
- Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại
các tổ chức tín dụng không hạn chế;
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 48
- Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các
doanh nghiệp khác tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;
- Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức tài chính –
tín dụng tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Điều đáng chú ý là khác với một số nước, trong đó có liên minh Châu Âu
(EU), pháp luật Việt Nam chỉ khống chỉ mức tối đa đối với hoạt động đầu tư của
DNBH mà không quy định những tỷ lệ tối thiểu mà các DNBH phải tuân thủ khi
tiến hành đầu tư. Thông thường, những quy định tối thiểu này được áp dụng đối với
một loại đầu tư nhất định, thường là đầu tư vào các chứng khoán chính phủ. Mục
đích chủ yếu của nó không phải nhằm bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo
hiểm mà nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, bao gồm đảm bảo sự hỗ trợ đầy
đủ cho việc tài trợ nợ của chính phủ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn chưa quy
định mức hạn chế đối với số tiền tối đa mà một DNBH được phép đầu tư vào một
dự án đầu tư cụ thể nhằm mục đích tránh tích tụ rủi ro. Thêm vào đó, theo quy định
đầu tư tại Việt Nam, ta thấy lĩnh vực đầu tư cũng bị giới hạn một cách vô hình
chung
2.2.2.2 Thực trạng đầu tư trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam trong thời gian qua
Thực tế ở nước ta cho thấy, cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng,
các DNBH đã mở rộng quy mô hoạt động và đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng năng
lực kinh doanh, năng lực tài chính. Các công ty bảo hiểm đã góp phần đáng kể vào
việc sớm hình thành thị trường vốn ở Việt Nam. Thông qua hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, các DNBH đã huy động được các nguồn tài chính nhàn rỗi từ những tổ
chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, để đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Ngành bảo hiểm
đã và đang từng bước khẳng định được vai trò trung gian tài chính trong việc huy
động và cung cấp các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế tại Việt Nam, phục vụ
đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 49
gần đây, các DNBH Việt Nam chú trọng cải thiện công tác đầu tư tài chính: một
loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm bảo lựa chọn
được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh
tế cao như góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần, cho vay, tham
gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, mua cổ phiếu, gửi
tiết kiệm ngân hàng… Thông qua hoạt động đa dạng hóa đầu tư, các DNBH đã thu
được nhiều kết quả đáng ghi nhận từ lĩnh vực đầu tư tài chính. Hoạt động đầu tư tài
chính đã hình thành phần lớn lợi nhuận cho các DNBH và trở thành xương sống
nâng đỡ các DNBH, nhất là các doanh nghiệp BHNT. Theo đánh giá của Bộ Tài
chính, riêng trong năm 2004, tổng số tiền các DNBH đã huy động để đầu tư trở lại
nền kinh tế là 8.400 tỷ đồng, nâng tổng số tiền đầu tư của toàn ngành bảo hiểm đến
cuối năm 2004 lên 23.002 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2003. Cũng trong năm
2004, 87,08% tổng số tiền đầu tư được gửi tại các tổ chức tín dụng và mua trái
phiếu Chính phủ. Tính đến hết năm 2004, tổng tài sản đầu tư của Prudential đạt hơn
5.000 tỉ đồng, đây là con số không nhỏ đối với một cy BHNT chỉ mới sau 5 năm đi
vào hoạt động.
a) Xét về tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế
Cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng DNBH, việc mở rộng quy mô
và địa bàn hoạt động, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm và nâng cao chất lược dịch vụ,
doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường đã tăng mạnh trong thời gian qua.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 50
Bảng 2.6: Doanh thu phí bảo hiểm 1994-2005 toàn thị trường
Doanh thu phí bảo Tốc độ tăng Tỷ trọng doanh thu Năm hiểm (tỷ đồng) trưởng (%) phí/GDP (%)
741 0,442 1994
1.026 38,52 0,448 1995
1.264 23,18 0,461 1996
1.424 12,59 0,453 1997
2.077 45,88 0,574 1998
2.092 0,72 0,523 1999
3.057 46,15 0,579 2000
4.982 63,00 0,996 2001
7.000 40,49 1,318 2002
10.390 48,43 1,821 2003
12.400 19,34 1,973 2004
17.000 37,00 2,034 2005
Nguồn: Báo cáo Bộ tài chính năm 2006
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 51
Biểu 2.1: Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường
Tỷ đồng
18,000 16,000 14,000 12,000 10,000 8,000 6,000 4,000 2,000 -
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường
Với sự phát triển của TTBH Việt Nam, sự tăng trưởng mạnh trong doanh thu phí
bảo hiểm đã kéo theo vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH cũng tăng nhanh
trong những năm qua.
Biểu 2.2: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế
Tỷ đồng
30,000
25,000
20,000
15,000
10,000
5,000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
- Năm
Bảo hiểm phi nhân thọ
Cộng toàn thị trường
Bảo hiểm nhân thọ
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 52
Bảng 2.7: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế
(Đơn vị: tỷ đồng)
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
3.245,00
4.680,00
4.469,00
789,50 748,50
917,90 852,90
1.230,70 1.069,70
1.754,30 1.494,30
2.440,40 2.109,40
3.612,20 3.170,20
2.228,80 1.608,80
2.545,40 1.850,40
2.275,00
3.496,00
3.277,00
41,00
65,00
78,00
132,00
186,00
221,00
307,00
345,00
452,00
596,00
601,00
83,00
128,00
145,00
221,00
36,00
285,00
518,00 10.681,00
313,00 3.721,00 3.004,00
6.122,00
588,00 18.322,00 10.880,00
4.559,00 14.602,00
789,50 748,50
917,90 852,90
1.230,70 1.069,70
1.754,30 1.494,30
36,00 2.476,40 2.109,40
285,00 3.897,20 3.170,20
717,00 5.949,80 4.612,80
350,00 7.203,00 4.937,00 2.266,00 9.748,40 6.787,40
8.397,00
7.442,00 23.002,00 14.376,00
591,00 21.807,00 10.098,00 11.709,00 26.276,00 13.375,00
41,00
65,00
78,00
132,00
186,00
221,00
452,00
596,00
83,00
128,00
181,00
506,00
5.077,00
8.030,00
307,00 1.030,00
I. Bảo hiểm phi nhân thọ 1. Khối doanh nghiệp nhà nước 2. Khối công ty cổ phần 3. Khối DN có vốn ĐTNN II. Bảo hiểm nhân thọ 1. Khối doanh nghiệp nhà nước 2. Khối DN có vốn ĐTNN III. Cộng toàn thị trường 1. Khối doanh nghiệp nhà nước 2. Khối công ty cổ phần 3. Khối DN có vốn ĐTNN
345,00 2.616,00
601,00 12.300,00
Nguồn: Báo cáo Bộ tài chính năm 2006
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 53
Qua bảng số liệu Bảng 2.7 và biểu đồ minh họa về tổng số vốn đầu tư trở lại
nền kinh tế ta thấy từ chỗ hoạt động đầu tư hầu như không đáng kể ở năm 1994,
trong giai đoạn 10 năm từ 1995-2005 tổng số tiền đầu tư đã tăng hơn 30 lần, tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm 30%. Cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới,
hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam được thực hiện theo nguyên
tắc an toàn, hiệu quả và đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả tiền bồi thường cho
người tham gia bảo hiểm, đồng thời, đem lại lợi nhuận hợp lý để trang trải các chi
phí hoạt động và mở rộng phạm vi kinh doanh cho DNBH. Tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng đầu tư giai đoạn 2003 đến nay có giảm so với các năm trước (năm 2005 tăng
14% so với năm 2004) do những biến động trên thị trường chứng khoán (TTCK)
với giá cổ phiếu của các công ty tham gia niêm yết có nhiều biến động thất thường
trong khi trái phiếu chính phủ lại không hấp dẫn được các nhà đầu tư, đã ảnh hưởng
đáng kể đến hoạt động đầu tư của các DNBH. Căn cứ theo chiến lược phát triển của
TTBH Việt Nam từ năm 2003-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì
nguồn vốn đầu tư của các DNBH sẽ phải đạt 90.000 tỷ vào năm 2010.
b) Xét cơ cấu và xu hướng đầu tư
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 54
Bảng 2.8a: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Tiền gửi, trái phiếu, Cổ phiếu chính phủ
Bất động sản, cho vay, ủy thác
Tổng cộng
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Loại hình doanh nghiệp/Năm 1. Khối doanh nghiệp trong nước
Cổ phiếu,TP doanh nghiệp Tỷ lệ Giá trị
500,00 4,60% 164,00 1,62%
2004 2005 2. Khối DN có vốn đầu tư nước ngoài 2004 2005
8.760,00 80,51% 8.929,00 88,42% 7.136,00 95,89% 10.635,00 90,83%
111,00 1,49% 567,00 4,84%
1.620,00 1.005,00 195,00 507,00
14,89% 9,95% 2,62% 4,33%
10.880,00 10.098,00 7.442,00 11.709,00
Tỷ lệ 100% 100% 100% 100%
Nguồn : Báo cáo Bộ tài chính, 2006 Bảng 2.8b: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế doanh nghiệp bảo hiểm
(Đơn vị: tỷ đồng)
Tiền gửi, trái phiếu, Cổ phiếu chính phủ
Bất động sản, cho vay, ủy thác
Tổng cộng
Giá trị
Giá trị 1.183,00 2.140,00
Tỷ lệ 12.980,00 88,89% 20.030,00 87,08% 89,00%
Cổ phiếu,TP doanh nghiệp Giá trị Tỷ lệ 439,00 3,01% 832,00 3,62% 3,30%
Tỷ lệ 8,10% 9,30% 9,00%
Giá trị 14.602,00 23.002,00 26.276,00
Tỷ lệ 100% 100% 100%
Loại hình doanh nghiệp/Năm 2003 2004 2005 (ước)
Nguồn : Báo cáo Bộ tài chính, 2006
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 55
Qua bảng 2.8a và 2.8b ta thấy cơ cấu đầu tư toàn thị trường của các DNBH
chỉ đầu tư chủ yếu vào hai lĩnh vực là tiền gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính
phủ với tỷ lệ gần 90%. Trong khi đó tỉ lệ này ở các nước phát triển như Anh, Pháp,
Đức chỉ chiếm từ 1,1 đến 1,9%. Đối với kinh doanh chứng khoán là công cụ đầu tư
phổ biến được các công ty bảo hiểm ở hầu hết các nước sử dụng rộng rãi thì các
DNBH Việt Nam mới chỉ chiếm tỷ trọng chưa tới 10%. Điều này cũng dễ hiểu vì
TTCK Việt Nam mới đưa vào vận hành, thiếu hàng hóa trầm trọng. Ngoài ra khung
pháp lý cho hoạt động đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu cũng như TTCK nói chung
chưa hoàn thiện.
Cùng với việc đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư, các DNBH đã quan tâm
chuyển dịch cơ cấu đầu tư từ chủ yếu là đầu tư ngắn hạn trước đây sang tăng cường
tỷ lệ đầu tư dài hạn hiện nay. Trong tổng số vốn đầu tư 23.000 tỷ đồng năm 2004 thì
tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu chính phủ và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng là 87,8%.
Năm 2005 với tổng số vốn đầu tư là 26.276 tỷ đồng, tỷ lệ đầu tư trung và dài hạn
khoảng 76% và đầu tư ngắn hạn khoảng 24%.
Bảng 2.9: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Việt qua các năm
(Đơn vị: %)
Loại hình đầu tư 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Đầu tư chứng khoán 41,6 41,8 17,2 20,5 20,8 19,7 20,1 20,4
Liên doanh liên kết 2,0 1,9 2,7 3,2 3,7 3,5 3,6 3,2
Tiền gửi ngân hàng 49,6 51,8 72,9 67,8 70,2 71,2 70,9 71,3
Đầu tư khác 6,8 4,5 7,2 8,5 5,3 5,6 5,4 5,1
Đầu tư tổng cộng 100 100 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Báo cáo tài chính của Bảo Việt
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 56
Bảng 2.10: Cơ cấu đầu tư vốn của Prudential Việt Nam năm 2004 & 2005
2004 2005
Loại hình đầu tư Số tiền Số tiền % % (tỷ đồng) (tỷ đồng)
Đầu tư ngắn hạn vào tiền gửi ngân hàng 1.631 20 1.468 18
Đầu tư dài hạn, bao gồm: 6.412 80 6.546 82
+ Trái phiếu chính phủ 6.022 75 5.219 65
+ Cổ phiếu 231 3 693 9
+ Đầu tư khác 159 2 634 8
Đầu tư tổng cộng 8.043 100 8.014 100
Nguồn: Báo cáo tài chính của Prudential 2004-2005
Bảng 2.11: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Minh CMG năm 2004 & 2005
2004
2005
Loại hình đầu tư
Số tiền
Số tiền
%
%
(triệu đồng)
(triệu đồng)
Đầu tư ngắn hạn vào tiền gửi ngân hàng
73.463
36%
49.991 13%
Đầu tư dài hạn, bao gồm:
130.113
64%
325.472 87%
+ Tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn
122.156
60%
187.430 50%
+ Trái phiếu chính phủ
0%
120.000 32%
+ Cho vay hợp đồng
7.957
4%
18.042
5%
Đầu tư tổng cộng
203.576 100%
375.463 100%
Nguồn: Báo cáo tài chính đã kiểm toán của Bảo Minh CMG năm 2004-2005
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 57
Xem xét cơ cấu đầu tư của một số Công ty bảo hiểm tại Việt Nam ta thấy các
công ty này thiên về lĩnh vực đầu tư có tính an toàn cao vì ngoài việc gửi tiền ở
ngân hàng, các công ty còn đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Hai công ty BHNT có
vốn đầu tư nước ngoài là Prudential và Bảo Minh CMG do tính chất nguồn vốn đầu
tư dài hạn nên cơ cấu đầu tư của Công ty này tập trung vào lĩnh vực đầu tư dài hạn
đến gần 90% trong tài sản đầu tư năm 2005 và tỉ lệ đầu tư ngắn hạn giảm dần qua
các năm.
Hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm dưới hình thức
góp vốn vào doanh nghiệp khác, đầu tư bất động sản còn khá khiêm tốn do sự đóng
băng của thị trường bất động sản trong giai đoạn suốt thời gian dài vừa qua và đầu
tư vào lãnh vực này lại khá rủi ro, đi ngược với các nguyên tắc bảo đảm an toàn
trong đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm. Vì các lý do trên, các DNBH
đang đầu tư rất thận trọng vào các loại hình này.
Như vậy, đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp trên TTBH thương mại hiện
nay là gửi ngân hàng và mua trái phiếu chính phủ. Trong khi đó, đầu tư cho vay và
góp vốn với các cơ sở đầu tư khác lại ở mức thấp, chưa đến 10%. Điều đó cho thấy
các DNBH hiện nay chưa thực sự tìm được kênh đầu tư vốn.
c) Về hiệu quả đầu tư
Đối với các công ty BHNT, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả
đầu tư tài chính là việc sử dụng hiệu quả nguốn vốn nhàn rỗi, hay nói một cách
khác, đó chính là lợi suất đầu tư tài chính từ dự phòng nghiệp vụ.
Doanh thu hoạt động tài chính – Chi khác hoạt động tài chính Lợi suất đầu tư = Dự phòng nghiệp vụ tài chính
Trong đó, chi khác hoạt động tài chính tính bằng chi phí hoạt động tài chính trừ đi
các dự phòng trích lập từ lãi đầu tư.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 58
Căn cứ trên số liệu của Bảo Việt Nhân Thọ - công ty bảo hiểm nhà nước duy
nhất và lớn nhất thị trường BHNT Việt Nam hiện nay, Công ty bảo hiểm AIA - một
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và Công ty bảo hiểm Nhân thọ Bảo Minh
CMG là công ty liên doanh giữa Việt Nam và Úc để phân tích về hiệu quả đầu tư.
Bảng 2.12: Lợi suất đầu tư tài chính của công ty BHNT Bảo Việt, Công ty bảo
hiểm nhân thọ AIA và Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG
(Đơn vị: triệu đồng)
Lợi suất Doanh thu Chi phí khác Tỷ lệ lạm Dự phòng Công ty Năm đầu tư tài hoạt động hoạt động tài phát (%) nghiệp vụ chính (%) tài chính chính
2003 479.912 11.235 6.326.871 7,41 5,8
Bảo Việt 2004 650.816 15.076 8.448.992 7,64 7,8
2005 795.000 16.584 9.931.000 7,84 9,0
2003 21.589 1.625 292.682 6,79 5,8
AIA 2004 43.786 4.097 409.176 9,67 7,8
2005 79.164 8.401 497.985 14,21 9,0
2003 3.577 60 69.677 5,2 5,8
Bảo Minh 2004 8.203 146 115.816 7,0 7,8 CMG
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm của Bảo Việt, AIA, Bảo Minh CMG
2005 21.808 1.035 176.419 11,8 9,0
Thông thường, tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản trung bình là dao động trong
khoản từ 4,5% đến 10%; và tỷ lệ này phải lớn hơn lãi suất kỷ thuật khi tính phí đối
với sản phẩm BHNT, thì DNBH mới đảm bảo đáp ứng được các cam kết tài chính
đối với người tham gia bảo hiểm, các doanh nghiệp có chỉ tiêu này thấp hơn lãi suất
kỹ thuật trong một thời gian dài thì có thể gặp khó khăn về tài chính trong tương lai.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 59
Ta thấy, lợi suất đầu tư tài chính qua bảng số liệu tăng dần chứng tỏ hiệu quả
đầu tư ngày càng cải thiện. Nếu so sánh với lãi suất kỹ thuật của các sản phẩm
BHNT là 5%/năm và lãi suất tiền gửi trung bình trong giai đoạn 2003-2005 là
8,28%/năm, thì tuy lợi suất đầu tư tài chính của các DNBH quan sát có cao nhưng
chưa thể hiện được hiệu quả đầu tư cao và chưa tương xứng với tiềm năng về nguồn
vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Nhìn chung, tỉ suất lợi nhuận đầu tư của các DNBH hoạt động ở Việt Nam
còn khiêm tốn, không đều, phản ánh một số lượng tài sản lớn không sinh lời hoặc
sinh lời thấp trong tổng số tài sản của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận dao động từ
7% đến 15% . Lãi suất đầu tư trung bình của ngành bảo hiểm trong một số năm gần
đây đạt trên 7,8%. Trong đó, lãi suất đầu tư ngắn hạn từ 6,5 đến 7,5%, lãi suất đầu
tư trung và dài hạn bình quân đạt trên 8,5%. Đặc biệt, trong các lĩnh vực đầu tư thì
đầu tư vào trái phiếu Chính phủ đạt tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao nhất (từ 8% đến
9,5% tuỳ theo thời hạn và thời điểm đầu tư). Trong khi tỷ suất lợi nhuận này đối với
các doanh nghiệp niêm yết là trên 20% và đối với các ngân hàng thương mại là từ
15-35%. Các DMĐT vào liên doanh, cổ phiếu, tham gia vào công ty với tư cách là
cổ đông sáng lập, chưa có hiệu quả cao. Hầu hết lãi đầu tư là do lãi tiền gửi có kỳ
hạn đóng góp. Chính hiệu quả đầu tư chưa cao nên đã phần nào hạn chế khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp BHNT với các hình thức huy động tiết kiệm khác.
Tuy nhiên, để đánh giá được hiệu suất sinh lợi thực của vốn đầu tư cần phải
tính đến chỉ số lạm phát. Việc đánh giá chất lượng của công tác đầu tư không thể
tách rời với việc so sánh tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế. Bởi vì, nếu lợi nhuận mang
lại từ đầu tư không đủ bù đắp vốn do lạm phát thì doanh nghiệp coi như đầu tư kém
hiệu quả. Bảng trên chỉ đưa ra các thông tin tham khảo về tỷ lệ lạm phát qua các
năm chứ không dùng làm cột mốc so sánh vì chúng ta không thể so sánh lợi nhuận
đầu tư của tất cả các khoản đầu tư với tỷ lệ lạm phát, vì hầu hết các DNBH khi đặt
vấn đề góp vốn liên doanh là nhằm vào việc thu lợi nhuận trong tương lai. Doanh
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 60
nghiệp sẵn sàng chấp nhận mức lỗ kỹ thuật trong giai đoạn đầu, vì vậy phải mất
nhiều năm tổng số tiền đầu tư mới có thể sinh lãi.
d) Về tổ chức hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm
Tổ chức hoạt động đầu tư trong các DNBH có vai trò quan trọng, quyết định
đến sự thành công của hoạt động đầu tư. Hình thức tổ chức cũng phần nào nói lên
tính chuyên nghiệp và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Yêu cầu tổ chức hoạt động
đầu tư là phải có kế hoạch, chương trình mục tiêu rõ ràng, phải có những bộ phận
chuyên môn hóa phù hợp với qui mô hoạt động.
Hình thức tổ chức hoạt động đầu tư của DNBH phụ thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó chủ yếu là qui mô của doanh nghiệp, tính chất của nghiệp vụ bảo hiểm và
quy định pháp luật có liên quan của từng nước. Có 3 hình thức chủ yếu được các
DNBH trên thế giới sử dụng để tiến hành các hoạt động đầu tư của mình. Đó là,
đầu tư thông qua:
(cid:190) Phòng/trung tâm đầu tư, trực thuộc DNBH;
(cid:190) Thành lập một pháp nhân độc lập (dưới hình thức công ty đầu tư hay công ty
quản lý quỹ) do DNBH sở hữu toàn bộ hay nắm cổ phần chi phối; và
(cid:190) Ủy thác đầu tư.
Do tính chất đặc biệt quan trọng của hoạt động đầu tư đối với hoạt động kinh
doanh BHNT nên hầu hết các doanh nghiệp BHNT đều có bộ phận quản lý và điều
hành hoạt động đầu tư tương đối độc lập trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Cùng với sự tăng trưởng của hoạt động kinh doanh BHNT, khi nguồn kinh phí bảo
hiểm thu được đã đạt tới một mức đáng kể, các doanh nghiệp BHNT có xu hướng
tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh BHNT dưới hình thức thành
lập một công ty quản lý quỹ đầu tư chuyên nghiệp, độc lập với doanh nghiệp
BHNT. Khi đó, hầu hết số phí bảo hiểm do doanh nghiệp BHNT thu được sẽ được
chuyển cho công ty quản lý quỹ để quản lý và đầu tư trên cơ sở hợp đồng ủy thác
giữa hai công ty.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 61
Trên TTBH Việt Nam, trong suốt một thời gian dài, tại phần lớn các doanh
nghiệp, hoạt động đầu tư không được tách rời mà thường được giao cho bộ phận tài
chính kế toán thực hiện. Nhìn chung, các DNBH chưa có tổ chức đầu tư chuyên
nghiệp, hoạt động đầu tư chưa tập trung mà còn khá phân tán. Chỉ mới có Bảo Việt,
Bảo Minh và Prudential và một số ít doanh nghiệp có bộ phận đầu tư chuyên trách
và tương đối độc lập. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của Bảo Việt còn được hỗ trợ bởi
Công ty chứng khoán Bảo Việt. Gần đây, việc 3 công ty BHNT là Bảo Việt,
Prudential, Manulife được phép thành lập công ty quản lý quỹ là một bước đi đúng
nhằm nâng cao tính chuyên môn hóa và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Công ty
quản lý quỹ Manulife với số vốn điều lệ 5 tỷ đồng, Công ty quản lý quỹ đầu tư
Prudential Việt Nam với số vốn điều lệ là 23 tỷ đồng và quản lý tài sản có giá trị
650 triệu đô la cho Công ty bảo hiểm Prudential, và Công ty TNHH quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán Bảo Việt vốn điều lệ 25 tỷ đồng. Sự ra đời của các Công ty
quản lý quỹ sẽ bảo đảm được tính an toàn và hiệu quả cao hơn trong hoạt động đầu
tư của các công ty BHNT vì các lý do sau đây:
(cid:131) Việc tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh BHNT dưới hình
thức thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ giúp cơ quan quản lý bảo hiểm giám
sát chặt chẽ hơn hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp BHNT, qua đó đảm bảo sự
an toàn về tài chính cho các công ty và bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo
hiểm. Ở nhiều quốc gia có ngành bảo hiểm và đầu tư tài chính phát triển thì việc
tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh BHNT dưới hình thức thành
lập công ty quản lý quỹ đầu tư là một yêu cầu bắt buộc của pháp luật.
(cid:131) Với trình độ chuyên sâu về quản lý hoạt động đầu tư theo phong cách
chuyên nghiệp, công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ góp phần làm tăng hiệu quả đầu tư
nguồn phí bảo hiểm do công ty BHNT chuyển giao. Bên cạnh đó, công ty quản lý
quỹ đầu tư độc lập còn là một kênh thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư khác
thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, kể cả niêm yết và bán các chứng chỉ
quỹ đầu tư trên TTCK.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 62
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TẠO LẬP VÀ ĐẦU TƯ VỐN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM
2.3.1 Kết quả của hoạt động tạo lập vốn
Công tác tạo lập vốn của các DNBH có thể phân làm hai nguồn: Từ người tham gia
bảo hiểm thông qua doanh thu phí bảo hiểm và huy động từ nội bộ.
2.3.1.1 Thực trạng tạo lập vốn từ người tham gia bảo hiểm
Các DNBH muốn gia tăng được nguồn vốn đầu tư thì phải gia tăng được các
quỹ dự phòng nghiệp vụ. Nguồn quỹ này tăng theo quy mô doanh thu của doanh
nghiệp. Như vậy, cơ sở quan trọng nhất để tăng được lượng tiền đưa vào đầu tư là
phải tăng được doanh thu. Giữa doanh thu và quy mô quỹ dự phòng nghiệp vụ có
mối liên hệ hữu cơ với nhau. Thế nhưng, theo các số liệu đã dẫn chứng nói trên thì
tỷ trọng của doanh thu phí bảo hiểm trong GDP còn quá khiêm tốn. Các DNBH
chưa phát huy hết tiềm năng để gia tăng phí bảo hiểm. Tồn tại trên là do một số
nguyên nhân sau:
(cid:131) Năng lực của các DNBH còn hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu
chuyên gia tính phí bảo hiểm, chuyên giá đánh giá rủi ro; công nghệ thông tin chưa
theo kịp với sự phát triển công nghệ.
(cid:131) Các DNBH chưa có chiến lược phát triển kinh doanh, phát triển sản phẩm
một cách hiệu quả, nên chưa có hướng đầu tư thích hợp để mở rộng phạm vi hoạt
động, nâng cao doanh thu.
(cid:131) DNBH chưa thể hiện vai trò nòng cốt để giúp cho việc định hướng phát triển
thị trường, chưa tập trung nguồn lực cả về vốn và sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng
nhu cầu bảo hiểm cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
(cid:131) Sản phẩm bảo hiểm chưa đa dạng phong phú, chất lượng phục vụ thấp. Các
doanh nghiệp chỉ tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm truyền thống, thế nhưng
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 63
doanh nghiệp cũng chưa qua tâm đến việc cải tiến những sản phẩm truyền thống;
chưa tập trung nghiên cứu và cho ra đời nhiều loại sản phẩm mới, cá biệt.
(cid:131) Một số doanh nghiệp kinh doanh vẫn còn tồn tại tư duy và thói quen kinh
doanh trong môi trường bao cấp, chưa nhận thức được vai trò của bảo hiểm, thể
hiện, mặc dù Nhà nước đã cho phép tính phí bảo hiểm vào giá thành, nhưng nhiều
doanh nghiệp không chủ động lập kế hoạch tham gia bảo hiểm để ổn định sản xuất
kinh doanh, phòng chống rủi ro. Điều này cũng làm hạn chế việc tăng doanh thu
bảo hiểm.
(cid:131) Hoạt động môi giới bảo hiểm chưa được đa dạng hoá. Chất lượng đại lý bảo
hiểm còn chưa mang tính chuyên nghiệp. Nhiều đại lý chưa xem việc khai thác bảo
hiểm là một công việc chính của mình – do thu nhập không đủ sống, nên chưa quan
tâm bồi dưỡng kiến thức bảo hiểm.
(cid:131) Thu nhập quốc dân trên đầu người thấp, nhận thức của các tổ chức cá nhân
về bảo hiểm thương mại còn hạn chế; Công tác tuyên truyền của các DNBH và của
Nhà nước chưa sâu rộng, thường xuyên. Hiện vẫn còn một phần lớn dân cư chưa
tham gia bảo hiểm, hoặc chưa hiểu rõ về bảo hiểm. Do đó đã ảnh hưởng đến việc
gia tăng phí bảo hiểm.
2.3.1.2 Thực trạng tạo lập vốn từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm
Để kinh doanh bảo hiểm có hiệu quả các công ty bảo hiểm phải mở rộng
mạng lưới hoạt động của mình. Đối với các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới, việc
mở rộng hoạt động đã vươn ra phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam các DNBH đã phát
triển kinh doanh trên phạm vi toàn quốc. Một công ty bảo hiểm mạnh thì số lượng
đơn vị thành viên càng nhiều, đồng thời các đơn vị trực thuộc của các thành viên
cũng gia tăng. Vấn đề tập trung được nguồn tiền kịp thời để thực hiện đầu tư là một
công tác quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, các công tác quản lý tài chính trong kinh doanh đối với các đơn vị trực thuộc,
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 64
nhằm nâng cao khả năng sinh lời của đồng vốn là việc làm luôn mang tính thời sự
đối với doanh nghiệp.
Hiện nay, do việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý còn hạn chế, nên
các doanh nghiệp chưa nắm bắt kịp thời số dư tiền mặt và tiền gửi thanh toán tại
từng đơn vị trực thuộc. Dẫn đến, hiệu quả công tác đầu tư vốn chưa cao. Đồng thời
do trình độ cán bộ quản lý phát triển chưa theo kịp với việc tốc độ tăng quy mô hoạt
động của doanh nghiệp, nên công tác quản lý tài chính còn nhiều bất cập.
Các tồn tại trên đây góp phần làm giảm hiệu quả của công tác huy động và
sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
2.3.2 Những đánh giá chung trong việc quản lý và sử dụng vốn
2.3.2.1 Những thành tích
Kinh doanh bảo hiểm càng phát triển, dẫn đến vốn đầu tư trở lại nền kinh tế
của các doanh nghiệp bảo hiểm càng tăng. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã đóng góp
một nguồn tài trợ mới, tạo lập nguồn vốn lớn đáng kể̉ và ngày càng gia tăng cho nền
kinh tế trong giai đoạn mà nguồn tài trợ vốn là một nhu cầu bức xúc cho việc đầu tư
phát triển kinh tế – xã hội. Một số loại hình đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm
còn mang ý nghĩa chính trị xã hội. Xuất phát từ thực tế trên việc bảo toàn và phát
triển nguồn vốn nhàn rỗi trong dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm,
là một trong những vấn đề rất quan trọng, có tính chất quyết định trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường vốn, thu hút các
nguồn vốn nhỏ, lẻ tạo thành một luồng tiền lớn đem đầu tư trở lại nền kinh tế.
Bên cạnh đó, thu nhập hoạt động đầu tư chiếm một vị trí không nhỏ và có xu
hướng không ngừng tăng lên trong tổng thu nhập của DNBH.
2.3.2.2 Những tồn tại
(cid:131) Hoạt động đầu tư là hoạt động được các DNBH trên thế giới rất quan tâm,
thế nhưng ở nước ta hiện nay công tác này chưa được các doanh nghiệp quan tâm
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 65
đúng mức. Các DNBH chưa thực sự đánh giá đúng tầm quan trọng của đầu tư vốn,
do vậy trong thời gian dài chưa có DNBH nào thực hiện việc chuyên môn hóa đầu
tư. Mãi đến tháng 7 năm 2006 mới chỉ có 3 DNBH thành lập công ty quản lý quỹ đó
là Bảo Việt, Prudential Việt Nam và Manulife, còn lại các doanh nghiệp khác công
tác đầu tư được giao cho một bộ phận phòng ban hoặc kiêm nhiệm. Một số DNBH
có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động tương đối năng động trong các chiến lược chiếm
lĩnh thị phần song lại không có những chiến lược hữu hiệu về tài chính để sử dụng
hiệu quả nguồn quỹ dự phòng tăng lên với tốc độ cao.
(cid:131) Qui mô đầu tư còn nhỏ, tổng vốn đầu tư của ngành bảo hiểm chỉ chiếm 1,2%
đến 1,5% trong tổng vốn của nền kinh tế. Trừ Bảo Việt với số vốn 3.000 tỷ đồng và
Công ty BHNT Prudential với số vốn thực có 61 triệu đô la Mỹ, các DNBH khác
mới chỉ có đủ số vốn theo quy định của pháp luật. Số vốn thực có toàn thị trường
hiện nay là gần 4.000 tỷ đồng, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao
năng lực nhận bảo hiểm phù hợp với mức độ phát triển trung bình của thế giới. Quy
mô TTBH nước ta hiện nay còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và
tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Tổng doanh thu phí bảo hiểm mới chỉ đạt
2%GDP trong khi đó, chỉ số này ở các nước trong khu vực chiếm khoảng từ 2%-4%
(năm 2000: Trung Quốc đạt 1,8% GDP, Malaysia đạt 4,21%GDP, Đài Loan đạt
6,95% GDP, Thái Lan đạt 2,25%GDP, Singapore đạt 5,52% GDP…).
(cid:131) Nhìn chung hoạt động đầu tư vốn của các DNBH ở Việt Nam còn hạn chế, tỷ
trọng đầu tư dưới hình thức gửi tiền còn khá cao ( khoảng 80%), trong đó, tỷ trọng
các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn còn ở mức cao ( khoảng 70% trên tổng ngồn vốn
đầu tư). Đối với các nước phát triển, việc đầu tư vào TTCK chiếm trên 80% tổng số
tiền đầu tư vào nền kinh tế. Hoạt động đầu tư kinh doanh ở lĩnh vực này rất sôi
động. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam lĩnh vực kinh doanh chứng khoán tại các
DNBH chưa đầu tư tốt do một số nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Thị trường
vốn được niêm yết tại Việt Nam chỉ có 36 loại cổ phiếu với tổng số vốn của thị
trường khoản 2 tỉ USD và doanh số mua bán trung bình hàng ngày vào khoảng 5
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 66
triệu USD (số liệu tính đến giữa năm 2006). Thị trường vốn không được niêm yết
dự kiến lớn hơn thị trường đã niêm yết 5 đến 6 lần. Tuy nhiên, thị trường này hiện
nay có những nhược điểm lớn như tính minh bạch của khu vực kinh doanh chưa
được kiểm soát này rất thấp, giá cổ phiếu thì đã được công bố trên báo chí nhưng
nhiều nhà môi giới địa phương vẫn tùy nghi cung cấp bảng chào giá riêng của mình,
tỷ lệ hoa hồng môi có thể cực kỳ cao trong khoảng từ 5% đến 20%. Tiếp đến là tính
thanh khoản thấp của một số trái phiếu Chính phủ. Các công ty chứng khoán chỉ
thực hiện nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn đối với một số loại trái phiếu chính phủ
niêm yết. Nhiều DNBH mua trái phiếu Chính phủ và đợi đến ngày đáo hạn để nhận
được vốn, càng làm cho tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ thấp đi. Bên cạnh
đó còn có qui định mỗi nhà đầu tư chỉ được phép mở một tài khoản giao dịch lưu ký
chứng khoán tại một Công ty chứng khoán càng làm hạn chế việc đầu tư này của
DNBH. Trên thực tế, các nhà đầu tư có thể “lách luật” bằng cách sử dụng nhiều nhà
đầu tư có mối quan hệ với nhau đứng tên tài khoản giao dịch. Ngoài ra, việc miễn
thuế thu nhập đối với trái phiếu chính phủ chưa được quy định cụ thể, tùy vào từng
đợt phát hành. Điều này cũng một phần hạn chế việc đầu tư của doanh nghiệp vào
trái phiếu chínhh phủ.
(cid:131) Chưa tách biệt giữa đầu tư từ quỹ BHNT và phi nhân thọ. Xét về bản chất kỹ
thuật thì nguồn quỹ dự phòng của nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ phải được đầu
tư chủ yếu vào các loại đầu tư ngắn hạn. Tuy nhiên, trên thực tế các DNBH vẫn sử
dụng nguồn vốn này để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn. Việc không phân định
rõ rang nguồn vốn đầu tư trong từng loại hoạt động kinh doanh bảo hiểm sẽ dẫn đến
việc đánh giá hiệu quả hoàn toàn thiếu chính xác. Nếu đánh giá hiệu quả chung của
toàn bộ vốn đầu tư sẽ ảnh hưởng có thể là không tích cực đến các kết quả chia lãi
cho các chủ hợp đồng BHNT. Như vậy sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các
sản phẩm BHNT và về lâu dài sẽ là điều nguy hiểm đối với các DNBH kinh doanh
cả hai lĩnh vực phi nhân thọ và nhân thọ.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 67
(cid:131) Các DNBH chưa có chiến lược đầu tư một cách hiệu quả đó là xây dựng một
DMĐT tối ưu có thể mang lại một mức sinh lợi nhất định với rủi ro thấp nhất.
Khách hàng thiếu thông tin đặc biệt là khi tham gia vào những sản phẩm liên kết
giữa bảo hiểm và đầu tư.
(cid:131) Dù đã triển khai một cơ hội đầu tư mới có hiệu quả đó là cho vay theo hợp
đồng nhưng các doanh nghiệp BHNT vẫn chưa thực sự đầu tư khai thác thế mạnh
này.
(cid:131) Việc quản lý ngân quỹ các DNBH vẫn còn nhiều yếu kém nên chưa huy
động triệt để nguồn vốn vào hoạt động đầu tư. Một DNBH để có thể phát huy tối đa
các khoản tiền nhàn rỗi thì đòi hỏi phải có sự quản lý ngân quỹ một cách khoa học.
Tức là phải xác định được lượng tồn quỹ nhỏ nhất và nhanh chóng đưa tất cả các
khoản tiền dư thừa tạm thời vào đầu tư. Muốn làm được điều này đòi hỏi DNBH
phải có bộ phận kế toán quản trị và bộ phận quản lý ngân quỹ được chuyên môn
hóa. Thực tế hiện nay không có DNBH nào chú ý đến vấn đề quản lý này. Mặt
khác, do các DNBH có cấu trúc tổ chức phân tán trên phạm vi không gian toàn
quốc, nên việc tập trung nhanh chóng toàn bộ nguồn thu phí bảo hiểm là hết sức
khó khăn khi hệ thống quản lý của DNBH chưa mạnh.
(cid:131) Chính sách kiểm soát ngoại hối chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước thông qua
tỷ giá giao dịch trong biên độ, lãi suất trần đối với tiền gửi USD của các tổ chức
kinh tế và việc kiểm soát mua ngoại tệ có tác dụng hạn chế hiện tượng đô la hóa
trong nền kinh tế. Nhưng mặt khác, việc thực thi chính sách cứng nhắc cho mọi đối
tượng lại gây khó khăn và thiệt hại cho các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam. Theo Nghị định 43/2001-NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Kinh
doanh bảo hiểm, các công ty bảo hiểm nước ngoài phải góp vốn điều lệ tối thiểu 10
triệu đô la và trích ra 500.000 USD để gửi vào một ngân hàng thương mại làm ký
quỹ bắt buộc. Trong thực tế một số công ty bảo hiểm đưa vào Việt Nam một lượng
vốn nhiều lần hơn mức quy định tối thiểu. Trong những năm đầu hoạt động, một
lượng lớn ngoại tệ được bán ra để trang trải các chi phí hoạt động ban đầu. Phần còn
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 68
lại được gửi vào các ngân hàng hưởng lãi suất trần theo quy định của Ngân hàng
Nhà Nước. Do kinh doanh ngày càng phát triển và có hiệu quả, một số công ty bảo
hiểm đã bắt đầu thu hồi các khoản lỗ lũy kế và có lãi tích lũy. Tuy nhiên chính sách
ngoại hối đã gây khó khăn cho việc quản lý và bảo toàn nguồn vốn điều lệ bằng
ngoại tệ, cụ thể:
- Các công ty bảo hiểm nước ngoài không được phép mua lại số ngoại tệ ban
đầu đã bán để khôi phục lại vốn gốc ngoại tệ và tăng cường khả năng thanh toán
bảo hiểm.
- Lãi suất trần 0,8%/năm cho tiền gửi USD tạo ra một lãi suất thực âm do mức
lạm phát hàng năm của Mỹ cao hơn 2%/năm. Hơn 5 năm qua, các ngân hàng
thương mại được hưởng lợi lớn từ chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất
trần. Theo xu hướng tăng lãi USD, sự chênh lệch này càng bất hợp lý.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những hạn chế nêu trên,
trong đó có thể chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
a) Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư của các DNBH cần tiếp
tục được bổ sung, hoàn chỉnh, bảo đảm sự nhất quán giữa Luật kinh doanh bảo
hiểm và các luật chuyên ngành khác
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, lĩnh vực
đầu tư của DNBH được quy định khá rộng và không có sự phân biệt đối xử giữa
DNBH trong nước và DNBH có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, khi áp dụng vào
từng lĩnh vực đầu tư cụ thể thì đều gặp vướng mắc. Cụ thể là:
- Đã 8 năm sau khi Luật các tổ chức tín dụng được ban hành nhưng vẫn chưa có
hướng dẫn cụ thể về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
trong đó có DNBH. Thực tế này một mặt buộc các DNBH phải sử dụng hình thức
cho vay ủy thác do đó, mất thêm chi phí và làm giảm hiệu quả cho vay. Mặc khác,
nó cũng khiến cho cơ sở pháp lý của hoạt động cho vay theo hợp đồng chưa thật
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 69
đầy đủ, rõ ràng mặc dù đây là một hình thức đầu tư không thể thiếu của các doanh
nghiệp BHNT tại nhiều nước trên thế giới.
- Quy định của Luật Đất đai hạn chế quyền sở hữu và kinh doanh bất động sản,
nhận tài sản đảm bảo là bất động sản của các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp
của các DNBH 100% vốn đầu tư nước ngoài, trong khi những doanh nghiệp này
hiện đang chiếm vị trí quan trọng trên thị trường BHNT xét về số lượng doanh
nghiệp cũng như thị phần doanh thu phí bảo hiểm.
- Ngoài ra, do hoạt động đầu tư từ số phí bảo hiểm thu được tại Việt Nam của các
DNBH có vốn đầu tư nước ngoài vẫn được coi là đầu tư nước ngoài theo quy định
hiện hành nên thủ tục đầu tư còn phức tạp, thậm chí trong nhiều trường hợp còn
phải xin giấy phép cho các dự án đầu tư như đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mặt khác, các DNBH có vốn ĐTNN cũng không được hưởng ưu đãi đầu tư theo
Luật khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời, phải chịu những khống chế về tỷ lệ
đầu tư tối đa không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư.
b) Môi trường đầu tư chưa thuận lợi
Nhìn chung, môi trường đầu tư của các DNBH tại Việt Nam còn chưa thuận
lợi. Các thủ tục và thông tin liên quan đến đầu tư bất động sản còn ít được công
khai; số lượng các dự án đầu tư hiệu quả, an toàn và khả thi còn chưa nhiều; những
thất thoát và chất lượng yếu kém trong đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục là những
yếu tố hạn chế đầu tư trực tiếp của các DNBH vào các dự án đầu tư. Bên cạnh đó,
thị trường tiền tệ và TTCK chưa phát triển, số lượng các doanh nghiệp niêm yết còn
ít, thiếu các loại trái phiếu chính phủ với thời hạn dài (từ 10 năm trở lên), với lãi
suất hợp lý, phương thức thanh toán linh hoạt… cũng cản trở đến sự tham gia của
các DNBH trên TTCK
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 70
c) Các DN chưa có sự quan tâm đúng mức đến hoạt động đầu tư
Có một thực tế là phần lớn các DNBH hoạt động trên thị trường đều có lãi từ
hoạt động khai thác bảo hiểm. Do đó, các doanh nghiệp chưa có sự quan tâm thích
đáng đến hoạt động đầu tư, thể hiện ở cơ cấu tổ chức đầu tư đơn giản, phân tán và
chưa được chuyên môn hóa. Trong suốt một thời gian dài, bên cạnh hoạt động khai
thác bảo hiểm được tập trung phát triển, số lượng sản phẩm mới liên tục gia tăng,
đến nay đã có trên 700 sản phẩm, số lượng đại lý cũng liên tục tăng thì thị trường
đầu tư lại chưa có sự phát triển tương xứng, DMĐT vẫn đơn điệu, cán bộ làm công
tác đầu tư chưa theo kịp yêu cầu của thị trường, còn thiếu các chuyên gia đầu tư có
trình độ và kinh nghiệm; việc ra quyết định đầu tư, thực hiện quy chế đầu tư còn
buông lỏng…
Kết luận chương 2:
Nhìn chung, hoạt động đầu tư của các DNBH trong thời gian qua về cơ bản
đã đáp ứng các yêu cầu an toàn, đúng pháp luật, đảm bảo tính thanh khoản, nguồn
vốn đầu tư tăng trưởng đều và ổn định và qua đó, đã hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động
bảo hiểm gốc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được thì hiệu quả
đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn còn thấp nguyên nhân là do thị
trường tài chính ở Việt Nam còn trong giai đoạn đầu phát triển, môi trường đầu tư
chưa hoàn thiện. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ nói riêng là một vấn đề đáng quan tâm.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 71
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN
VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY
BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM
3.1 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO
HIỂM VIỆT NAM
3.1.1 Theo xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và hội nhập hứa
hẹn nhiều cơ hội tiềm năng cho ngành bảo hiểm. Để tận dụng cơ hội này, ngành bảo
hiểm xác định xu thế phát triển TTBH theo quan điểm hội nhập là một xu hướng tất
yếu.
Thứ nhất, Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc
mở cửa bắt đầu từ năm 1986. Gần đây, xu thế này ngày càng được khẳng định khi
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO)
và Qui chế Thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) cũng đã được
Quốc hội Mỹ thông qua. Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Ban công tác về
việc gia nhập WTO của Việt Nam, cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại
nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ tái bảo hiểm, dịch vụ
bảo hiểm đối với vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ (định phí,
tư vấn...). Cho phép các tổ chức, cá nhân Việt Nam khi đi ra nước ngoài được sử
dụng dịch vụ bảo hiểm nước ngoài. Và không còn bất cứ hạn chế nào đối việc thành
lập pháp nhân của công ty bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ kinh doanh dịch vụ bảo
hiểm bắt buộc sẽ chỉ được mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào đầu năm
2008.
Thứ hai, do nguyên tắc phân tán, chia sẽ rủi ro lẫn nhau trong bảo hiểm dẫn
đến bất kỳ một TTBH của bất cứ quốc gia nào đều có mối quan hệ tái bảo hiểm với
TTBH quốc tế. Do đó, hoạt động của các TTBH trên thế giới gắn kết nhau, liên kết
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 72
và hợp tác với nhau để duy trì sự ổn định của toàn hệ thống TTBH thế giới. Một
TTBH phát triển sẽ có mối quan hệ với rất nhiều TTBH trên thế giới là điều tất
nhiên.
3.1.2 Theo mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam
Phát triển TTBH toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo
hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; đảm bảo cho các tổ chức cá nhân được thụ
hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực
trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực
tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp
ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động
kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc,
chuẩn mực quốc tế.
Bằng quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ra ngày 29 tháng 8 năm 2003, Chính
phủ đã đưa ra chiến lược phát triển TTBH Việt Nam đến năm 2010. Chiến lược
phát triển này có thể lượng hóa bằng tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân
khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và
BHNT tăng khoảng 28%/năm.Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm
chiếm 2,5% GDP năm 2005 và 4,2% năm 2010. Đến năm 2010 tổng dự phòng
nghiệp vụ của các DNBH tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế
tăng khoảng 14 lần so với năm 2002. Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000
người vào năm 2010. Nộp ngân sách Nhà nước giai đoạn 2003-2010 tăng bình quân
20%/năm.
Trong điều kiện hội nhập tất yếu đã và đang tiếp tục diễn ra, để thực hiện
được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên đây đòi hỏi phải có môi trường tài
chính tốt, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải phát triển, các DNBH phải nâng cao
được hiệu quả tạo lập và đầu tư vốn.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 73
3.1.3 Những cơ hội và thách thức
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đem đến cho toàn bộ nền kinh tế nước
ta nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng những cơ hội và thách thức mới. Thực
hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, TTBH Việt Nam sẽ chịu tác
động mạnh cả về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói
chung. Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa TTBH trong việc Việt
Nam cam kết gia nhập WTO có thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích
cực và tiêu cực.
Về tác động tích cực của cam kết đối với hoạt động của thị trường, về cơ bản
sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo
hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước thể hiện qua
các điểm như:
(cid:131) Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các
công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. Sự
tham gia của công ty có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thức tỉnh các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước; đồng thời, phá vỡ thế độc quyền bằng việc gia tăng nhanh
chóng số lượng nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ không
còn nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, đẩy thị trường bảo hiểm tiến gần hơn đến
một thị trường cạnh tranh lành mạnh; kích thích việc mở rộng danh mục sản phẩm,
giúp ngành bảo hiểm thực hiện tốt hơn chức năng huy động vốn và bảo vệ các đối
tượng trong nền kinh tế trước rủi ro.
(cid:131) Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng
chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm
trong nước. Các công ty bảo hiểm trong nước có điều kiện tiếp thu ở một mức độ
nhất định những kiến thức và kỹ năng chuyên ngành của các công ty bảo hiểm nước
ngoài. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh lớn hơn buộc các công ty bảo hiểm trong
nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên,
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 74
ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo được lợi thế với các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài.
Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm
cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng
quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thể hiện rõ nét ở những điểm sau:
(cid:131) Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất ở mọi
nước bắt đầu tiến hành mở cửa thị trường.
(cid:131) Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi
sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực
trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Do đó, nếu
các công ty bảo hiểm trong nước không có những điều chỉnh liên quan đến chính
sách nhân sự trong thời gian tới, sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước các công ty
100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.
(cid:131) Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối
với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi
người tiêu dùng; khả năng giải quyết tranh chấp; thị trường bị chia cắt manh mún và
vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống.
Bên cạnh những cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO, vẫn còn những khó
khăn nhất định mà ngành bảo hiểm Việt Nam đang phải đối mặt:
(cid:131) Vị trí của ngành bảo hiểm Việt Nam vẫn chiếm thứ hạng khá khiêm tốn
trong khu vực và thế giới (đứng thứ 55/88 thế giới và 16/25 khu vực Châu Á về
doanh thu phí bảo hiểm – theo thống kê của sigma số 2/2006). Công nghệ của bảo
hiểm các nước trong khu vực đang trên đà phát triển nhanh, nhiều nước đã triển
khai được kênh phân phối sản phẩm qua ngân hàng và thu được kết quả khả quan
như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan,
Philipines…Trong khi đó, việc triển khai kênh phân phối sản phẩm qua ngân hàng ở
Việt Nam được xếp dưới các nước kể trên trong bảng xếp hạng.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 75
(cid:131) Các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục chiến dịch thu hút tiền gửi tiết kiệm
thông qua tăng lãi suất và khuyến mại sẽ gây khó khăn không nhỏ cho BHNT. Các
hợp đồng khai thác mới sẽ tăng chậm lại và rất có thể tổng số tiền bảo hiểm của các
hợp đồng bảo hiểm khai thác mới sẽ tiếp tục giảm đi. Trong năm 2005, mặc dù tổng
số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới tăng 3,27% so với năm 2004 song tổng số tiền
bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm khai thác mới giảm 5,73% so với năm 2004.
Tổng số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới đạt 820.000 hợp đồng, tăng 26.000 hợp
đồng so với năm 2004 trong khi tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng khai thác
mới này chỉ đạt 20.626 tỷ đồng, giảm 1.253 tỷ đồng so với năm 2004. Bình quân số
tiền bảo hiểm của hợp đồng khai thác mới trong năm 2005 cũng giảm 2,4 triệu đồng
tương ứng mức giảm 8,7% so với năm 2004. Bên cạnh đó, bảo hiểm y tế tự nguyện
đang được phép triển khai rộng rãi, các đơn vị bảo hiểm y tế đang đào tạo đại lý và
bán bảo hiểm từ đầu năm 2006. Theo nhận định của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam,
đây là lực lượng cạnh tranh quyết liệt với BHNT và nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn con
người.
(cid:131) Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, điều kiện và cơ hội
lưu chuyển vốn đầu tư của các DNBH nói chung và của BHNT nói riêng chưa có
hiệu quả, phạm vi đầu tư còn hẹp, cơ hội đầu tư còn quá ít. Hiện trạng chậm phát
triển và tình hình ảm đạm trên TTCK những năm trước và sự phát triển theo xu thế
đám đông của TTCK trong năm nay vẫn chưa thể là một kênh đầu tư vốn hấp dẫn
đối với các DNBH. Thêm vào đó, số dự án kêu gọi góp vốn cổ phần, góp vốn liên
doanh đảm bảo mức độ an toàn và khả năng sinh lời hợp lý không nhiều. Trong khi
đó, về phía các DNBH thì số lượng các sản phẩm đầu tư hoàn thiện, phù hợp với
đặc thù kinh doanh bảo hiểm vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, hình thức đầu tư chủ
yếu của các DNBH hiện nay vẫn là gửi tiền ngân hàng có kỳ hạn và mua trái phiếu
Chính phủ. Điều này đã hạn chế hiệu quả đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty
bảo hiểm.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 76
Song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù
hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường.
3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO
HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM
3.2.1 Các giải pháp ở tầm vĩ mô
Thứ nhất, về khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý nhà nước để đảm bảo sự
phát triển ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn
thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm:
(cid:131) Bổ sung, sửa đổi một số qui định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của
các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài
chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư
có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm
Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm
tra việc cho vay theo hợp đồng BHNT, nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng
đối tượng, tránh thất thoát tài sản… Mặc khác, cần nghiên cứu để tiến tới áp dụng
quy định về định giá DMĐT nhằm xác định chính xác chất lượng đầu tư và gắn chất
lượng đầu tư với khả năng thanh toán của DNBH. Các qui định này giúp doanh
nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro, đồng thời
hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng.
(cid:131) Thống nhất quan điểm là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư vốn chủ sở hữu, quỹ
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm gắn bó mật thiết với nhau trong hoạt động của
DNBH. Vì vậy, DNBH bị chi phối bởi Luật kinh doanh bảo hiểm, chịu sự giám sát
của Bộ tài chính (cơ quan quản lý trực tiếp) hay bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản
lý nhà nước khác nếu như họ kinh doanh chứng khoán, đầu tư bất động sản, cho
vay…Cũng cần sớm ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư từ nguồn vốn
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 77
chủ sỡ hữu nhằm đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng an toàn, hiệu quả và đảm
bảo khả năng thanh toán của DNBH.
(cid:131) Cần có văn bản hướng dẫn chi tiết cho các DNBH trong hoạt động đầu tư về
mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiền ngân hàng, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh
nghiệp, kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua ngân hàng. Các văn
bản đảm bảo tính rõ ràng minh bạch để doanh nghiệp biết mình được làm và phải
làm những gì, các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng kiểm tra giám sát và đỡ có sự
chồng chéo, hiểu lầm giữa các cơ quan tài chính, chứng khoán, bất động sản, ngân
hàng, thuế vụ.
(cid:131) Cần thay đổi và hoàn thiện những quy định về đầu tư vốn của các DNBH.
Hiện nay, Bộ tài chính chưa có hướng dẫn cụ thể về giới hạn an toàn hoạt động đầu
tư vào từng loại hình như: tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu không bảo lãnh, đầu
tư vào cổ phiếu đã được niêm yết, chưa niêm yết; tỷ lệ ủy thác cho vay các doanh
nghiệp trong cùng một ngành; tỷ lệ đầu tư kinh doanh bất động sản… Có thể nói qui
định đầu tư hiện nay của Chính phủ cho phép doanh nghiệp BHNT được phép đầu
tư tối đa 50% dự phòng kỹ thuật vào cổ phiếu và 40% vào bất động sản. Những quy
định này là quá mạo hiểm, không đáp ứng nguyên tắc an toàn và trong giai đoạn
này là phi thực tế. Trong giai đoạn trước mắt cần quy định cụ thể: không nên cho
phép các DNBH được đầu tư quá 5% tổng giá trị quỹ dự phòng vào một loại chứng
khoán được niêm yết và 1% chứng khoán không được niêm yết do một tổ chức phát
hành. Đồng thời nên khống chế tỷ lệ đầu tư vốn vào bất động sản: không quá 20%
vốn đầu tư và mỗi bất động sản không chiếm quá 1% giá trị vốn đầu tư. Sỡ dĩ phải
khống chế ở mức thấp tỷ lệ đầu tư vốn của các DNBH vào hai loại hình này vì hiện
nay thị trường cổ phiếu và thị trường bất động sản có nhiều biến động nên mức rủi
ro khá cao. Ngoài ra, luật kinh doanh bảo hiểm và các Nghị định hướng dẫn chỉ quy
định đến tỷ lệ đầu tư tối đa trên nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ, sẽ khó
khăn trong tính toán. Nên có qui định cụ thể tỷ lệ từng DMĐT trong tổng nguồn
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 78
vốn đầu tư, vì ngoài vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ các DNBH còn sử
dụng các nguồn vốn khác để đầu tư.
(cid:131) Nhanh chóng phối hợp với các cơ quan chức năng như Ngân hàng Nhà nước,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư… để xây dựng, sớm ban hành và tổ chức thực hiện các quy
định hướng dẫn về hoạt động cho vay của các tổ chức tính dụng phi ngân hàng; đơn
giản hóa các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư bất
động sản; nâng dần và đi tới xóa bỏ các hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ
góp vốn của các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong
nước.
(cid:131) Về phía Ngân hàng Nhà nước nên áp dụng một chính sách ngoại hối linh
hoạt cho các công ty bảo hiểm nước ngoài như: cho phép công ty bảo hiểm nước
ngoài mua lại số ngoại tệ gốc đã bán cho các ngân hàng thương mại để bảo toàn
nguồn vốn ngoại tệ ban đầu; không áp dụng lãi suất trần đối với tiền gửi ngân hàng
USD; cho phép các công ty bảo hiểm được tham gia mua các loại trái phiếu chính
phủ và chứng khoán khác bằng ngoại tệ.
(cid:131) Cho phép những DNBH lớn thành lập Ngân hàng thương mại và các Ngân
hàng thương mại thành lập công ty bảo hiểm. Họ sẽ trở thành tập đoàn tài chính
mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và thế giới.
(cid:131) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường,
bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội
dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của
giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý,
môi giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh, đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo
hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm.
(cid:131) Để thực hiện các cam kết gia nhập WTO, bổ sung các quy định về chi nhánh
trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các qui định mang tính
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 79
bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng,
các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn thiện các
điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép
theo từng trường hợp cụ thể.
Thứ hai, phát triển TTCK, tạo môi trường thu hút đầu tư quỹ bảo hiểm.
(cid:131) Tăng cường số lượng và chất lượng các loại chứng khoán niêm yết trên thị
trường. Số lượng các chứng khoán quá ít ỏi trên thị trường cũng khiến các nhà đầu
tư trong nước chưa có được nhiều sự lựa chọn để thay thế cho hình thức đầu tư vào
tiền gửi truyền thống. TTCK cũng cần có thêm nhiều loại trái phiếu Chính phủ với
nhiều kỳ hạn để DNBH dễ dàng lựa chọn. Vì vậy, để gia tăng số lượng chứng khoán
niêm yết trên thị trường Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp Nhà nước, tổng công ty, ngân hàng; rút ngắn thời gian cổ phẩn hóa và việc
niêm yết trên TTCK. Đẩy mạnh và khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái
phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình…
(cid:131) Thành lập và phát triển thị trường giao dịch phi tập trung OTC (Over The
Counter). Đối với loại cổ phiếu của các công ty cổ phần chưa đủ tiêu chuẩn niêm
yết sẽ được giao dịch trên thị trường riêng OTC. Đây là thị trường mua bán trực tiếp
giữa các nhà đầu tư hoặc thông qua môi giới bên ngoài sàn giao dịch. Chúng ta có
thể cho phép tiến hành giao dịch trong những ngày nhất định nhằm đa dạng hóa các
loại cổ phiếu trên TTCK. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay hình thức hoạt động này
vẫn đang diễn ra nhưng chưa được công nhận.
(cid:131) Ngoài việc qui định các ngân hàng thương mại được cầm cố và thế chấp
những giấy tờ có giá thì Ngân hàng trung ương cũng cần có những văn bản hướng
dẫn cụ thể trong việc thực hiện, thanh lý, chuyển nhượng các giấy tờ có giá khác
(bao gồm cổ phiếu niêm yết và cổ phiếu chưa niêm yết trên thị trường OTC) để các
ngân hàng này không còn e dè và quan tâm nhiều hơn đến loại tài sản đặc biệt này.
Điều này sẽ góp phần không nhỏ trong việc tạo thêm sự sôi động của TTCK.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 80
Thứ ba, thành lập các tổ chức đánh giá tín nhiệm công ty và cung cấp thông tin
cho nhà đầu tư.
Để đảm bảo hàng hóa trên TTCK Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng,
cần phải có sự tham gia của các tổ chức định mức tín nhiệm để đánh giá và xếp
hạng tín nhiệm cho các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường, từng bước hòa nhập
TTCK Việt Nam theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó giúp cho các DNBH có cơ sở
đưa ra quyết định đầu tư vào các chứng khoán trong DMĐT của mình. Tổ chức xếp
hạng tín nhiệm là một định chế trung gian độc lập, là một công cụ tài chính quan
trọng trong việc phát triển thị trường tài chính. Hệ số tín nhiệm là đánh giá hiện thời
về khả năng và tính sẵn sàng của người đi vay về việc hoàn trả đúng hạn gốc và lãi
của một khoản nợ nhất định, nó là kết quả của sự tổng hợp các rủi ro hệ thống và
không hệ thống của nhà phát hành trong thời hạn thanh toán món nợ. Như vậy, nếu
nhà phát hành có hệ số tín nhiệm càng cao sẽ tạo được sự tin tưởng cao của các nhà
đầu tư và thu hút được nhiều nhà đầu tư mua trái phiếu của mình. Hệ số tín nhiệm
còn cho phép nhà phát hành xác định mức lãi suất trái phiếu hợp lý, vừa đảm bảo
phản ánh mức độ rủi ro vừa đảm bảo khả năng thanh toán của nhà phát hành. Hệ số
tín nhiệm càng cao thì tỷ lệ lãi suất càng giảm, có lợi cho nhà phát hành. Định mức
tín nhiệm và công ty định mức tín nhiệm là một khái niệm và một mô hình còn mới
ở Việt Nam nhưng trong quá trình phát triển TTCK nói riêng rất cần đến vai trò của
hệ thống trung gian này. Vì vậy, Chính phủ ngay từ bây giờ nên quan tâm và tạo
điều kiện để tổ chức ngày sớm ra đời và hoạt động.
Thứ tư, xây dựng và tính toán hệ số beta (β) cho các công ty niêm yết nhằm đo
lường rủi ro trong quản lý DMĐT của các DNBH.
Tại các quốc gia phát triển việc đo lường rủi ro của danh mục các chứng khoán
căn cứ vào hệ số beta của từng chứng khoán trong danh mục đó khi áp dụng các mô
hình định giá tài sản vốn CAPM, mô hình kinh doanh chênh lệch giá APT. Vì vậy,
để từng bước đưa thị trường tài chính Việt Nam dần hội nhập vào thị trường tài
chính thế giới, thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần đưa khái niệm và cách tính
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 81
toán hệ số beta cho các đối tượng khi tham gia vào TTCK để các đối tượng này
nhận định được rủi ro của từng chứng khoán khi đưa ra quyết định đầu tư. Đặc biệt,
cần qui định trong báo các tài chính cần đưa thêm chỉ tiêu hệ số betaβ như là một
trong những chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Mỗi chứng
khoán đều có một mức rủi ro nhất định và như thế rủi ro của từng chứng khoán có
một tác động nhất định vào rủi ro của một danh mục đã được đa dạng hóa. Điều này
có nghĩa là cần thiết phải đo lường rủi ro thị trường của chứng khoán đó bằng cách
đo lường độ nhạy cảm của chứng khoán đó đối với các biến động thị trường. Độ
nhạy cảm này gọi là betaβ.
Ở Việt Nam, để tính toán được hệ số betaβ của từng cổ phiếu niêm yết, cần thiết
phải xác định được phương sai của danh mục thị trường. Hiện nay, trên TTCK số cổ
phiếu được niêm yết còn ít với hầu hết các công ty này thuộc qui mô vừa và nhỏ,
chỉ hoạt động trong một vài lĩnh vực của nền kinh tế, với số chứng khoán ít, qui mô
vốn nhỏ và lĩnh vực hoạt động đơn điệu như vậy có thể sẽ không phản ánh được rủi
ro chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ cần thiết nhanh chóng đưa các
doanh nghiệp có qui mô lớn thuộc đa ngành với lĩnh vực hoạt động khác nhau cổ
phần hoá và niêm yết trên TTCK để tính toán hệ số beta của từng chứng khoán
riêng lẻ mới phản ánh chính xác rủi ro của nó với sự thay đổi của thị trường, giúp
cho việc quản lý DMĐT tốt hơn.
Thứ năm, xây dựng và phát triển các loại chứng khoán phái sinh.
Chứng khoán phái sinh là một loại tài sản tài chính có dòng tiền trong tương lai
phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản khác (gọi là tài sản cơ sở).
Từ khi ra đời và hoạt động, thị trường Việt Nam mặc dù đã thu được nhiều kết
quả đáng khích lệ nhưng một trong những nhược điểm lớn nhất của nó là hàng hóa
trao đổi trên thị trường còn chưa đa dạng và tuyệt nhiên chưa có một chứng khoán
phái sinh nào được giao dịch thứ cấp trên TTCK cho dù đã có những giao dịch sơ
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 82
cấp đã ký kết. Vì vậy, trong giai đoạn sắp tới, Chính phủ cần tạo điều kiện để sớm
hình thành và đưa các loại chứng khoán phái sinh vào giao dịch.
Thứ sáu, hoàn thiện qui định pháp lý về trích lập dự phòng nghiệp vụ BHNT
Về lãi suất kỹ thuật, theo qui định hiện hành lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi
suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin
phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng cho tất cả các sản phẩm BHNT
là không phù hợp như đã phân tích ở phần 2.2. Vì vậy, Bộ tài chính cần xem xét
đưa ra nhiều mức giới hạn hơn về lãi suất kỹ thuật tương ứng với từng thời hạn của
hợp đồng BHNT. Ví dụ: hợp đồng BHNT có thời hạn từ 5 đến 10 năm, lãi suất kỹ
thuật tối đa là 70% lãi suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm; hợp đồng
BHNT có thời hạn trên 10 năm đến 15 năm thì lãi suất kỹ thuật tối đa là 85% lãi
suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm… Có như vậy mới phân biệt được
quyền lợi của chủ hợp đồng khi tham gia các hợp đồng BHNT với nhiều thời hạn
khác nhau, khi chủ hợp đồng tham gia với thời hạn càng dài thì càng có lợi.
Về bảng tỷ lệ tử vong: cơ quan quản lý cần nghiên cứu và đưa ra bảng tỷ lệ tử
vong chuẩn dựa trên cơ sở thống kê của dân số Việt Nam. Trên cơ sở bảng tỷ lệ tử
vong này, các công ty BHNT sẽ điều chỉnh theo kinh nghiệm của từng công ty
mình.
Về dự phòng chia lãi: các công ty bảo hiểm khi tính phí đã chọn mức lãi suất kỹ
thuật rất thấp để đảm bảo nguyên tắc thận trọng và nếu lãi suất đầu tư thực tế lớn
hơn lãi suất kỹ thuật thì khoản chênh lệch này hình thành nên lợi nhuận của các
công ty BHNT được gọi là lãi tài chính. Các công ty bảo hiểm phải chia lại một
phần lãi này cho chủ hợp đồng. Hiện nay, ở hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ,
đến ngày kỷ niệm hợp đồng, khách hàng được nhận một thông báo lãi chia tích lũy
cho đến thời điểm đó, nhưng chưa được biết con số chính xác được chia và với tỷ lệ
bao nhiêu. Vì vậy cơ quan quản lý cần qui định trên thông báo kỷ niệm hợp đồng
cần nêu rõ những nội dung: lãi suất kỹ thuật, lãi suất đầu tư thực tế, lãi tài chính
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 83
(chênh lệch giữa lãi suất đầu tư tài chính với lãi suất kỹ thuật), tỷ lệ chia lãi tài
chính.
Có như vậy thì người được bảo hiểm mới hiểu được quyền lợi của mình như thế
nào, đã thoả đáng chưa. Từ đó, có sự so sánh giữa các công ty BHNT và đây cũng
chính là một trong những phương thức cạnh tranh mới trong thời điểm thị trường
BHNT ở Việt Nam hiện nay
3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm
Thứ nhất, chuyên môn hóa hoạt động đầu tư bằng cách thành lập công ty đầu
tư chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư
Bảo hiểm có vai trò là một định chế tài chính trung gian, tham gia vào thị trường
tài chính với tư cách là một nhà đầu tư lớn và có tổ chức. Tuy nhiên, thực tế ở Việt
Nam trong thời gian qua vai trò này của bảo hiểm lại khá mờ nhạt bởi vì việc đầu tư
nguồn vốn nhàn rỗi từ ngành bảo hiểm trở lại nền kinh tế qua các hình thức cổ
phiếu, trái phiếu chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu đầu tư của các công ty bảo
hiểm trong khi đó tỷ trọng đầu tư dưới hình thức gởi tiền tại các ngân hàng chiếm tỷ
trọng chủ yếu. Như vậy, vô hình chung, vai trò trung gian tài chính của ngành bảo
hiểm được chuyển giao cho ngân hàng. Một trong những nguyên nhân của vấn đề
này là trong thời gian qua, các DNBH chưa thực sự chú trọng đến công tác đầu tư
và chưa chuyên môn hóa trong hoạt động đầu tư. Trong năm 2004, với sự ra đời của
Quyết định 73 về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư
chứng khoán và Công ty quản lý quỹ, đây là cơ sở pháp lý cho phép các công ty bảo
hiểm có thể chuyên môn hoá hoạt động đầu tư của mình bằng cách lập quy đầu tư
và công ty quản lý quỹ. Do đó, các DNBH có đủ điều kiện về vốn, qui mô dự phòng
lớn thì nên thành lập các Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ để chuyên môn hóa
hơn nữa hoạt động đầu tư và tham gia vào TTCK một cách tích cực hơn. Sự hình
thành các quỹ đầu tư độc lập của các DNBH một mặt sẽ góp phần tạo nên các trung
tâm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nhỏ thuộc các thành phần kinh tế của các
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 84
tầng lớp dân cư thành nguồn vốn lớn, ổn định để tham gia các hoạt động đầu tư
trong nền kinh tế. Hơn nữa, công cụ đầu tư chủ yếu của quỹ đầu tư là chứng khoán,
vì vậy các quỹ đầu tư của DNBH còn có vai trò thúc đẩy sự phát triển của TTCK.
Thứ hai, các DNBH có quy mô vừa và nhỏ nên chọn dịch vụ ủy thác đầu tư để
quản lý nguồn vốn
Đối với các công ty bảo hiểm có quy mô nhỏ chưa để điều kiện để thành lập
Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ thì có thể sử dụng dịch vụ ủy thác đầu tư vốn.
Hiện nay, trên thị trường đã xuất hiện hàng loạt các công ty đầu tư chứng khoán
ngoài việc thực hiện chức năng đầu tư vốn cho chính mình vào TTCK, các công ty
này còn cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới và đầu tư tín thác.
Đặc trưng của đầu tư ủy thác là người đầu tư một cách gián tiếp thông qua một
công ty hoặc một quỹ đầu tư chuyên nghiệp được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư.
Sau khi người đầu tư giao vốn cho người đầu tư ủy thác, họ mất quyền ra các quyết
định đầu tư. Còn người đầu tư ủy thác sẽ toàn quyền ra các quyết định đầu tư để
mang lại lợi nhuận. Lợi nhuận thu được của người đầu tư là thu nhập sau khi trừ đi
phí ủy thác và các khoản chi phí khác.
Thứ ba, xây dựng DMĐT tối ưu cho các DNBH
Mục tiêu của đầu tư là sinh lợi. Việc sinh lợi là kỳ vọng gắn liền với đầu tư. Mặt
khác, lợi nhuận cũng đi liền với rủi ro trong đầu tư. Trên thị trường mỗi khi nhà đầu
tư muốn tăng thêm lợi suất kỳ vọng phải trả giá bằng khả năng mức độ rủi ro tăng
theo. Các tài sản tài chính nhất là các cổ phiếu thường hàm chứa nhiều loại rủi ro,
nhà đầu tư không thể xét đoán một cách đơn giản để lựa chọn chúng. Đối với
DNBH việc sử dụng các quỹ dự phòng kỹ thuật trước hết phải tuân thủ theo nguyên
tắc an toàn vốn, đồng thời phải sinh lời và đáp ứng khả năng thanh toán thường
xuyên.
Các nguyên tắc này đặt ra một bài toán về sự lựa chọn danh mục tài sản đầu tư
với yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro thấp nhất. Phải cân nhắc tính toán
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 85
kỹ khi sử dụng nguồn vốn đem đầu tư các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào loại tài sản
nào? Với tỷ trọng vốn vào từng loại tài sản bao nhiêu? Trên thị trường tài chính
không thể có loại tài sản nào có một mức rủi ro rất nhỏ mà lợi suất lại cực đại. Mọi
sự lựa chọn đều có một cái giá về sự chấp nhận rủi ro. Vì vậy, từng doanh nghiệp
cần xây dựng cho mình chiến lược đầu tư thích hợp và gắn với chiến lược kinh
doanh. Xét về lâu dài, lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các DNBH sẽ là cổ phiếu và trái
phiếu. Trong thị trường tài chính ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, lạm phát có
xu hướng tăng như hiện nay thì đầu tư vào trái phiếu Chính phủ còn có nhiều hạn
chế. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát
triển, khung pháp lý chưa hoàn thiện, hàng hóa chưa đa dạng để đảm bảo thị trường
sôi động. Trong điều kiện đó, lĩnh vực đầu tư bất động sản có nhiều tiềm năng phát
triển. Thị trường tín dụng ngân hàng luôn sôi động, với vai trò là kênh chính thức
duy nhất cung cấp vốn cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện
kinh tế liên tục phát triển, nhiều dự án hiệu quả nhưng lại thiếu vốn nên tín dụng
ngân hàng có nhiều sự lựa chọn đầu tư. Do đó, bên cạnh việc xác định xu hướng
đầu tư lâu dài vào trái phiếu và cổ phiếu thì đầu tư vào bất động sản và cho vay có
thể là những lĩnh vực có nhiều cơ hội trước mắt phù hợp với nguồn vốn đầu tư của
các DNBH. Tuy nhiên, việc đầu tư vào hai lĩnh vực này cần nhiều kinh nghiệm, kỹ
năng về định giá bất động sản, thủ tục hồ sơ trong xây dựng, quy hoạch cũng như
khả năng thẩm định, đánh giá hiệu quả phương án… Đây vẫn là những điểm yếu
của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của DNBH nói riêng.
Thứ tư, phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển thì sự chuyên môn hóa càng thể hiện rõ rệt trong các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Công ty có thể tận dụng hiệu quả sự hợp tác
với ngân hàng trong một số lĩnh vực liên quan mà ngân hàng có trình độ chuyên
môn hơn để có ảnh hưởng tốt đến công tác tạo lập và đầu tư vốn như:
(cid:131) Sử dụng dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 86
Trên cơ sở có sự thỏa thuận thống nhất giữa Công ty Bảo hiểm và ngân hàng về thời
gian, địa điểm thu phí, các mẫu biểu thanh quyết toán… ngân hàng có thể giúp công
ty đi thu tiền định kỳ tại các điểm và nộp trực tiếp vào ngân hàng. Nếu làm tốt việc
này, tuy đơn vị phải chi thêm một khoản lệ phí nhất định, nhưng quản lý được thời
gian phát sinh trách nhiệm bảo hiểm kịp thời, tránh việc trục lợi do công tác thanh
quyết toán chậm trễ, giảm được chi phí và thời gian của các khai thác viên khi đi
quyết toán và thu tiền về, do từng khai thác viên chỉ đi thu phí của những đại lý do
mình quản lý mà không có sự phối hợp thu tiền của các đại lý khác. Về phía công ty
có thể sử dụng được kịp thời khoản tiền này phục vụ công tác đầu tư.
(cid:131) Sự gia tăng các tiện ích của các loại thẻ thanh toán, thẻ ATM so với các tiện
ích hiện nay của chúng đối với người chủ thẻ, trong đó chú ý đến các sản phẩm kết
hợp giữa bảo hiểm và ngân hàng.
(cid:131) Các DNBH sử dụng số tiền huy động được để gửi tiết kiệm ngân hàng, mua
trái phiếu, tính phiếu chính phủ… Đây là hoạt động đầu tư phổ biến của các DNBH
hiện nay.
(cid:131) Trong các kênh phân phối bảo hiểm, kênh phân phối bảo hiểm qua ngân
hàng là kênh có khả năng phát triển mạnh thông qua mạng lưới rộng lớn của hệ
thống ngân hàng. Vì thế, cần tận dụng hơn nữa kênh phân phối này.
Thứ năm, các DNBH cần nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý tiền mặt
tối ưu
Quản lý ngân quỹ của một Công ty bảo hiểm trước hết là sự quản lý các luồng
tiền hiện tại và tương lai: luồng nhập quỹ phí bảo hiểm hoặc thanh toán tổn thất;
luồng đầu tư hoặc thu hồi đầu tư. Theo quy định của cơ quan quản lý đã yêu cầu các
DNBH phải dự trữ tiền mặt ở trạng thái tĩnh với tỷ lệ khá cao (không thấp hơn 25%
tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đối với DNBH phi nhân thọ và 5% tổng dự
phòng kỹ thuật đối với doanh nghiệp BHNT). Điều này đã làm giảm hiệu quả đầu
tư của các doanh nghiệp, cho nên các DNBH cần nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 87
nhàn rỗi của mình bằng cách triệt để đưa những nguồn tài chính hiện có vào đầu tư
nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của các DNBH. Các DNBH cần
căn cứ vào đặc thù của doanh nghiệp mình để chọn ra phương pháp dự trữ tiền mặt
tối ưu. Theo nghiên cứu chúng ta có thể đi đến quan điểm sử dụng nguồn vốn ngân
quỹ công ty bảo hiểm một cách tối ưu như sau:
Đối với nguồn thu phí bảo hiểm, các DNBH cần xác định một lượng tiền mặt
nhất định cho giao dịch được gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ
hạn. Giải pháp tốt nhất là các DNBH phải thực hiện lập kế hoạch ngân quỹ cho từng
tháng thông qua việc thống kê lượng tiền mặt trung bình có tính đến sự tăng trưởng.
Lượng tiền còn lại DNBH có thể đầu tư vào các tài sản tài chính như mua các loại
tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu … để mang lại lợi ích cao hơn từ việc quản lý ngân
quỹ.
DNBH có thể sử dụng toàn bộ quỹ dự phòng kỹ thuật để đầu tư vào các lĩnh vực
lựa chọn.
Công thức xác định nguồn vốn đầu tư trong năm của DNBH là:
V = P + P’
với V là nguồn vốn đầu tư trong năm, P là dự phòng kỹ thuật được lập ở cuối niên
độ trước, P’ là một phần phí bảo hiểm thu trong năm.
Sử dụng kịp thời các khoản phí thu trong năm là hết sức quan trọng đối với các
doanh nghiệp BHNT. Bởi vì, trong kỹ thuật BHNT, DNBH sẽ bắt đầu phải tính lãi
suất trên khoản phí tiết kiệm kể từ thời điểm người được bảo hiểm ký kết hợp đồng
bảo hiểm. Nếu để cuối năm lập dự phòng rồi DNBH mới tiến hành đầu tư thì đã làm
“chết” nguồn vốn nhàn rỗi từ thời điểm thu phí đến cuối năm tài chính. Điều này có
thể làm cho giá trị tài sản không lớn kịp giá trị cam kết bảo hiểm, và có thể dẫn đến
nguy cơ phá vỡ sự cân bằnng tài chính trong dài hạn cho các doanh nghiệp BHNT
Lưu ý: Cách tính trên chỉ đề cập đến hoạt động của quỹ chủ hợp đồng chứ chưa
xem xét đến hoạt động đầu tư của quỹ chủ sở hữu.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 88
Thứ sáu, mở rộng hình thức cho vay đối với chủ hợp đồng BHNT
Trong kỹ thuật BHNT, hợp đồng bảo hiểm sau một thời gian nộp phí sẽ có dự
phòng toán học, tức là các khoản tiết kiệm tích lũy. Về bản chất khoản tiền này là
thuộc quyền sở hữu của chủ hợp đồng. Nếu DNBH cho chủ hợp đồng vay thì khoản
tiền dự phòng này được xem như là tài sản thế chấp. Như vậy, đây sẽ là khoản cho
vay ít rủi ro nhất của DNBH. Hình thức cho vay này sẽ rất hiệu quả, vừa đảm bảo
cho DNBH thu được lãi suất cao hơn lãi suất kỹ thuật, vừa giúp được các chủ hợp
đồng vay vốn trong thời điểm khó khăn, điều nay sẽ tăng khả năng duy trì hợp đồng
của BHNT.
Thứ bảy, nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp
Trong quá trình hội nhập quốc tế, ngoài khả năng và tiềm lực tài chính là yếu tố
quan trọng trong việc phát triển quy mô hoạt động và hiệu quả đầu tư, nâng cao
năng lực kinh doanh và phát triển yếu tố con người cũng đóng vai trò quan trọng
không kém. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải tiếp tục trang bị và ứng
dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp,
trong đó quan trọng nhất là ứng dụng được thương mại điện tử.
Người có nhu cầu về bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các
doanh nghiệp bảo hiểm trên mạng và khi chấp nhận sẽ được cấp đơn bảo hiểm, giấy
chứng nhận bảo hiểm ngay lập tức. Từ đó, việc quản lý đơn bảo hiểm, giấy chứng
nhận bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối tượng được
bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, giải quyết tổn thất và bồi thường bảo hiểm được dễ
dàng và thuận tiện nhanh chóng.
Bên cạnh đó, phải sắp xếp lại bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh thật gọn
nhẹ, tính chuyên nghiệp cao, có sự liên kết và mang lại hiệu quả cao cho doanh
nghiệp. Đồng thời phát triển mạnh việc bán bảo hiểm qua khâu trung gian như: môi
giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, ngân hàng thương mại...
Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ bảo hiểm và đại lý bảo hiểm trong đó
có trang bị kiến thức bảo hiểm cho các cán bộ bảo hiểm đã tốt nghiệp cử nhân, kỹ
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 89
sư từ các chuyên ngành khác. Nâng cao trình độ quản lý rủi ro, giám định tổn thất,
tính phí bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp.
Thứ tám, phát triển các loại hình sản phẩm mới của BHNT để thu hút vốn
đầu tư dài hạn
Tạo sự gắn kết giữa hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc
biệt là trong khâu thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh nói chung và hiệu quả đầu tư nói riêng. Theo hướng đi này, trong thời
gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu phát triển thêm các loại sản phẩm bảo hiểm mới
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân Việt Nam, đặc biệt là hình
thức bảo hiểm kết hợp với đầu tư (investment-linked units). Đây là sản phẩm bảo
hiểm thế hệ mới, đã được triển khai rộng rãi và rất thành công ở nhiều nước trên thế
giới, kể cả một số thị trường mới nổi như Trung Quốc. Đặc trưng nổi bật của loại
sản phẩm này là người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp BHNT
đầu tư số phí bảo hiểm của họ vào các quỹ đầu tư khác nhau (chủ yếu là các quỹ
chứng khoán) thông qua công ty quản lý quỹ đầu tư theo tỷ lệ họ tự chọn. Nhờ kinh
nghiệm và kiến thức chuyên sâu về hoạt động đầu tư, công ty quản lý quỹ có thể tư
vấn cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn phương án đầu tư phù hợp với nhu cầu
tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của họ nhằm đạt hiệu quả đầu tư tối ưu. Ngược
lại, người tham gian bảo hiểm sẽ tự mình gánh chịu các rủi ro liên quan tới việc đầu
tư số phí bảo hiểm của họ. Có thể nói, sản phẩm bảo hiểm kết hợp với đầu tư là một
kênh huy động vốn trực tiếp của DNBH vào thị trường vốn.
3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác
Thứ nhất, phát triển kinh tế - xã hội ổn định, tạo nền tảng vững chắc cho việc
phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường BHNT nói riêng
Thị trường tài chính nói chung, thị trường BHNT nói riêng có phát triển bền
vững ổn định hay không phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển ổn định vững chắc của
nền kinh tế xã hội, vì vậy chính phủ bằng các công cụ tài chính của mình như: thuế,
ngân sách… tác động, hỗ trợ tạo động lực để tất cả các thành phần kinh tế tham gia
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 90
vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Khi kinh tế phát triển, thu nhập
người dân được nâng lên, có tích lũy, họ sẽ tiến hành đầu tư sinh lợi, nhu cầu đảm
bảo an toàn về đời sống và tài chính gia tăng, thúc đẩy phát triển thị trường tài
chính, TTBH. Và khi hai thị trường này phát triển thì sẽ hỗ trợ rất lớn đến sự phát
triển kinh tế đất nước.
Thứ hai, trang bị cao hơn kiến thức bảo hiểm cho người dân
Sự cần thiết của người khách hàng Việt Nam là được trang bị cao hơn kiến thức
bảo hiểm nói chung và kiến thức đầu tư cơ bản để họ có thể đưa ra các quyết định
thấu đáo về hoạt động đầu tư của mình vì trong tương lai loại sản phẩm liên kết bảo
hiểm và đầu tư sẽ chiếm phần lớn trong thị phần của bảo hiểm. Ngoài những hiểu
biết về các sản phẩm truyền thống, người tham gia vào các loại hình sản phẩm
mang tính đầu tư phải được cung cấp hoặc phải có kiến thức thích hợp về những
khái niệm và nguyên tắc trong đầu tư như sau:
(cid:131) Sự lựa chọn giữa các cân thu nhập và rủi ro trong đầu tư;
(cid:131) Sự đa dạng hóa rủi ro đầu tư thông qua việc hình thành danh mục đầu tư đa
kết cấu; và
(cid:131) Nhu cầu về vốn để đầu tư dài hạn và bỏ qua sự không ổn định của kết quả
đầu tư ngắn hạn.
Kết luận chương 3:
Như vậy, trong tình hình hiện nay, về phía quản lý Nhà nước cần có những đòn
bẩy hỗ trợ là các cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý… cho hoạt động đầu tư tài
chính của các DNBH. Còn liên quan đến môi trường đầu tư, các DNBH nên hy
vọng về một tương lai tiến triển theo chiều thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ vì biến chuyển của môi trường đầu tư không phải
trong ngày một ngày hai. Tuy nhiên, việc thu hẹp, xóa bỏ khoảng cách giữa kỳ vọng
sinh lời của người mua bảo hiểm và khả năng đầu tư thực tế của các doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ lại phụ thuộc vào chính các doanh nghiệp bảo hiểm.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 91
KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, việc tạo lập và nâng cao hiệu quả đầu tư các nguồn vốn trong
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà
hoạch định chính sách, các nhà quản trị vì lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính
cũng đã phần nào khắc phục khó khăn và nâng cao năng lực tài chính của hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, đồng thời góp phần thúc đẩy TTBH Việt Nam phát triển.
Để công tác đầu tư trong các công ty bảo hiểm nhân thọ mang lại hiệu quả,
an toàn và đáp ứng được yêu cầu thanh toán, xứng đáng là “chỗ dựa” vững chắc cho
hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư vốn cần
phải được hành lang pháp lý bảo vệ. Khi có được các Thông tư hướng dẫn cụ thể,
chắc chắn các công ty bảo hiểm sẽ mạnh dạn hơn trong quyết định đầu tư của mình.
Từ đó, danh mục đầu tư của bảo hiểm sẽ không còn đơn điệu trong một số lĩnh vực
như tiền gửi, mua trái phiếu chính phủ nữa mà chắc chắn sẽ đa dạng hơn, hiệu quả
hơn. Khi các chính sách khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp được tháo gỡ,
đối với nền kinh tế các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ sẽ đầu tư trực tiếp nhiều
hơn, tham gia vào các dự án trung và dài hạn để có được nguồn lợi nhuận cao, ổn
định; tình hình tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ càng vững mạnh hứa
hẹn một xu hướng phát triển tốt đẹp cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong tương lai
nói chung.
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam không chỉ cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Chính phủ mà
còn cần có sự nổ lực từ chính bản thân của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Hy vọng qua các phần trình bày trên có thể đóng góp một số ý kiến vào việc
phát triển công tác đầu tư tài chính ở các công ty bảo hiểm Nhân Thọ tại Việt Nam.
Rất mong nhận được sự đóng góp và chân thành cảm ơn các ý kiến quý báu của
Qúy Thầy Cô, các chuyên gia tài chính, bảo hiểm, cũng như bạn bè đồng nghiệp,
cùng những người quan tâm đến lĩnh vực này.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dr. David Bland, Học Viện Bảo hiểm Hoàng Gia Anh (1998), Bảo Hiểm
Nguyên tắc và Thực hành, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
2. TS. Nguyễn Ngọc Định, (1999), Lý thuyết bảo hiểm, Nhà xuất bản tài chính,
TPHCM.
3. TS. Nguyễn Văn Định, (2004), Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội.
4. Th.S. Nguyễn Tiến Hùng, (2005), Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt
Nam, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội.
5. TS. Phan Thị Bích Nguyệt, (2006), Đầu tư tài chính, Nhà xuất bản Thống kê.
6. PGS-TS. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất
bản Thống kê.
7. Bản tin theo quý của Hiệp hội Bảo Hiểm Việt Nam, Hà Nội.
8. Báo cáo tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ qua các năm.
9. Bộ Tài Chính, (2006), TTBH Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
10. Bộ Tài Chính (1999), Luật bảo hiểm ở một số nước, Nhà xuất bản Tài chính,
Hà Nội.
11. Bộ Tài Chính, Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001, quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
12. Bộ Tài Chính, Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001, quy định chế
độ tài chính đối vói các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm.
13. Bộ Tài Chính, Thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001.
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN
Trang 93
14. Bộ Tài Chính, Thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001.
15. Bộ Tài Chính, Thông tư số 98/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 thay thế
thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001.
16. Bộ Tài Chính, Thông tư số 99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 thay thế
thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001.
17. Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005
18. Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/8/2003 của Chính phủ, Về phê
duyệt “ Chiến lược phát triển TTBH Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”,
Hà Nội.
19. Tạp chí lập pháp, Văn phòng Quốc hội.
20. Một số tài liệu trên Interner ở các trang: http://swissre.com/,
http://www.baohiem.pro.vn, http://www.baoviet.com.vn,
http://www.tuoitre.com.vn, http://www.gso.gov.vn,
http://thoibaokinhtesaigon.com.vn, http://uhe.edu.com.vn, và một số trang
khác.
21. Và các tài liệu khác.
-------------------------------oOo-------------------------------
Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG
Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN