BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

PHẠM THỊ NHƯ YẾN GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006

Trang 1

MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................1

DANH MỤC BẢNG BIỂU .......................................................................................4

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ QUẢN LÝ VỐN TRONG

CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM......................................................................7

1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM............................................................................... 7

1.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới .................7

1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm ..............................................................................11

1.1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm ...................................................................... 11

1.1.2.2 Sự cần thiết của đầu tư vốn tại các doanh nghiệp bảo hiểm ........... 12

1.1.3 Cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm ......................................................................14

1.1.3.1 Quy luật số đông ................................................................................ 14

1.1.3.2 Phương pháp thống kê ....................................................................... 15

1.1.4 Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm ...................................................................16

1.1.4.1 Bảo hiểm nhân thọ ............................................................................. 16

1.1.4.2 Bảo hiểm phi nhân thọ....................................................................... 16

1.1.5 Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội .....17

1.2 TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH

NGHIỆP BẢO HIỂM .................................................................................................. 18

1.2.1 Tổng quan về quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm........18

1.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ........... 19

1.2.1.2 Nguyên tắc đầu tư vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm ..................... 19

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 2

1.2.2 Danh mục đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm..........................20

1.2.3 Hoạt động đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở một số nước................24

1.2.3.2 Cơ cấu đầu tư và sự thay đổi cấu trúc đầu tư trên thị trường BHNT .. 29

1.2.3.1 Các quy định về pháp lý .................................................................... 24

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN

CỦA CÁC DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..........32

2.1 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM ............................................................ 32

2.1.1 Khái quát sự ra đời vào phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam ......32

2.1.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay....................................................33

2.2 THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÁC

DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 39

2.2.1 Vấn đề tạo lập vốn trong doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại

Việt Nam hiện nay...............................................................................................39

2.2.1.1 Nguồn gốc hình thành vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm 39

2.2.1.2 Nội dung dự phòng nghiệp vụ đối với doanh nghiệp kinh doanh

BHNT.............................................................................................................. 41

2.2.1.3 Một số tồn tại trong quy định về trích lập dự phòng bảo hiểm nhân

thọ……… ....................................................................................................... 45

2.2.2 Thực trạng đầu tư vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp kinh

doanh bảo hiểm nhân thọ.....................................................................................46

2.2.2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của các doanh

nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam ......................................................... 46

2.2.2.2 Thực trạng đầu tư trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp

bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua....................................................... 48

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 3

2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TẠO LẬP VÀ ĐẦU TƯ VỐN CỦA

CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM ........................ 62

2.3.1 Kết quả của hoạt động tạo lập vốn .............................................................62

2.3.1.1 Thực trạng tạo lập vốn từ người tham gia bảo hiểm....................... 62

2.3.1.2 Thực trạng tạo lập vốn từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm............... 63

2.3.2 Những đánh giá chung trong việc quản lý và sử dụng vốn ........................64

2.3.2.1 Những thành tích................................................................................ 64

2.3.2.2 Những tồn tại...................................................................................... 64

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN

VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO

HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM .......................................................................71

3.1 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM

VIỆT NAM ................................................................................................................... 71

3.1.1 Theo xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế ..............................71

3.1.2 Theo mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam ........................72

3.1.3 Những cơ hội và thách thức........................................................................73

3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU

QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM

NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM......................................................................................... 76

3.2.1 Các giải pháp ở tầm vĩ mô..........................................................................76

3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm ...........................................83

3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác ...........................................................................89

KẾT LUẬN ..............................................................................................................91

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................92

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 4

DANH MỤC BẢNG BIỂU

CHƯƠNG 1:

Bảng 1.1: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Trung Quốc ..........................26

Bảng 1.2: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Indonesia ..............................27

Bảng 1.3: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Hồng Kông...........................28

Bảng 1.4: Cơ cấu đầu tư tài chính của các công ty BHNT ở một số nước...............30

CHƯƠNG 2:

Bảng 2.1: Tổng hợp các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm trên thị trường VN đến

31/12/2005.................................................................................................................34

Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên TTBH Việt Nam đến 31/12/2005.................35

Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên TTBH Việt Nam đến 31/12/2005 (tiếp theo)36

Bảng 2.3: Dự phòng nghiệp vụ BHNT năm 2004-2005...........................................43

Bảng 2.4: Dự phòng nghiệp vụ BHNT của một số công ty......................................44

Bảng 2.5: Dự phòng toán học BHNT của một số công ty........................................44

Bảng 2.6: Doanh thu phí bảo hiểm 1994-2005 toàn thị trường................................50

Biểu 2.1: Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường...........................................51

Biểu 2.2: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế ......................................................51

Bảng 2.7: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế ....................................................52

Bảng 2.8a & 2.8b: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế DNBH nhân thọ

và toàn ngành bảo hiểm ............................................................................................54

Bảng 2.9: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Việt qua các năm .........................................55

Bảng 2.10: Cơ cấu đầu tư vốn của Prudential Việt Nam năm 2004 & 2005 ...........56

Bảng 2.11: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Minh CMG năm 2004 & 2005 ..................56

Bảng 2.12: Lợi suất đầu tư tài chính của công ty BHNT Bảo Việt, Công ty bảo

hiểm nhân thọ AIA và Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG .......................58

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm, cùng với việc tăng

cường hoạt động khai thác bảo hiểm, vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư

vốn mà các doanh nghiệp đang sở hữu là một trong những vấn đề có tầm quan trọng

đặc biệt, là chỗ dựa vững chắc cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nhất là trong

điều kiện thị trường bảo hiểm (TTBH) Việt Nam ngày càng cạnh tranh gay gắt do

có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) dưới tác động của chính

sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc đầu tư như thế nào để vừa

đạt được hiệu quả về mặt kinh tế, vừa đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả các hợp

đồng bảo hiểm, lại vừa hạn chế ở mức tối đa các rủi ro lại là vấn đề không hề đơn

giản đối với các doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài

“Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả công tác đầu tư tài

chính tại các Công ty Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam” làm luận văn bảo vệ học vị

thạc sĩ kinh tế của mình với mong muốn đóng góp một phần công sức để phân tích

thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa

hiệu quả của hoạt động đầu tư tài của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (BHNT)

trên thị trường tài chính.

2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử để phân tích, đánh giá đối tượng, kết hợp phân tích lý luận và phân tích

thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp cụ thể như phương

pháp so sánh, tổng hợp, phân tích để đánh giá đối tượng nghiên cứu.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Đề tài giới thiệu và phân tích thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của các

DNBH nhân thọ ở Việt Nam nhằm chỉ ra những hạn chế và khó khăn mà các

DNBH đang gặp phải. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 6

đầu tư giúp các DNBH nhân thọ Việt Nam thể hiện tốt hơn vai trò của một tổ chức

trung gian tài chính.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các công ty BHNT đang hoạt

động trên TTBH Việt Nam. Trong đó, đề tài đi sâu vào nghiên cứu khả năng tạo lập

vốn và công tác đầu tư tài chính.

5. Những điểm mới của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về bảo hiểm, thực trạng tạo lập và đầu tư vốn

trong các DNBH trong và ngoài nước đồng thời thông qua kinh nghiệm thực tế

trong công tác tài chính tại công ty BHNT, luận văn đã đề xuất và giới thiệu những

giải pháp nhằm giúp những người làm công tác đầu tư tài chính trong các DNBH

nhân thọ giảm thiểu rủi ro khi đầu tư vốn, cụ thể:

(cid:131) Thành lập công ty đầu tư chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư;

(cid:131) Xây dựng DMĐT tối ưu cho các DNBH;

(cid:131) Phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng;

(cid:131) Nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý tiền mặt tối ưu;

(cid:131) Phát triển các loại hình sản phẩm mới của BHNT để thu hút đầu tư dài hạn ...

6. Kết cấu của luận văn

Không tính phần mục lục, danh mục bảng biểu, mở đầu, kết luận và tài liệu

tham khảo, luận văn dài 84 trang bao gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiểm và quản lý vốn trong các DNBH

Chương 2: Thực trạng việc tạo lập, quản lý và sử dụng vốn của các DNBH

nhân thọ ở Việt Nam hiện nay

Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả công

tác đầu tư tài chính tại các công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ QUẢN LÝ VỐN TRONG

CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM

1.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới

Con người cùng các thể chế chính trị từng tồn tại trong lịch sử luôn đặt

nhiệm vụ hạn chế rủi ro lên hàng đầu. Dịch vụ bảo hiểm ra đời để làm nhiệm vụ hạn

chế rủi ro ấy.

Ở Trung Hoa cách đây hơn 5.000 năm, lúc bấy giờ bọn cướp biển hoành

hành khắp nơi; do vậy để hạn chế rủi ro, khi ra khơi người ta thường bố trí cho

nhiều tàu chia nhau chở kèm một phần hàng hóa của một chiếc tàu khác, phòng khi

có một chiếc tàu bị bọn cướp biển tấn công thì phần hàng còn lại chở trên những

chiếc tàu kia không bị cướp.

Cách nay gần 4.500 năm, ở một nơi khác là đế quốc Babylon cổ, các thương

nhân thường phải du thương khá nhiều, và họ đã đối phó với các rủi ro bằng cách

đem tiền cho người khác vay. Khi việc vận chuyển hàng hóa đã hoàn tất một cách

an toàn, các thương nhân này sẽ bắt người vay tiền hoàn trả khoản vay, kèm theo đó

là tiền lời. Vào năm 2100 trước Công Nguyên, đạo luật Hammurabi ra đời đã đặt

hoạt động cho vay của các doanh nhân vào khuôn khổ pháp luật. Đạo luật này đã

chính thể hóa các khái niệm “bottomry” (chỉ việc mượn tiền trên cơ sở lấy tàu làm

bảo đảm) và “respondentia” (chỉ hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy). Các khái

niệm này đã đặt nền móng cho thực hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Các hợp

đồng loại này gồm 3 yếu tố: khoản vay căn cứ vào giá trị tàu, hàng hóa hay cước

vận chuyển; lãi suất; khoản phụ thu cho các trường hợp mất mát có thể xảy ra. Trên

thực tế, khi tham gia hợp đồng bảo hiểm, chủ tàu là người được bảo hiểm còn chủ

cho vay là người đánh giá rủi ro.

BHNT xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại không lâu sau đó. Tại đây người ta

đã lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 8

cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau Công Nguyên,

đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của BHNT bị lãng quên.

Tuy nhiên các mặt, tính chất của nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung

Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và thương nghiệp. Các phường hội này

đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù đắp thiệt hại các vụ hỏa hoạn,

lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật, tử vong và thậm chí là bảo

hiểm tù ngục (bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù).

Trong suốt thời phong kiến, các ngành du lịch và mậu dịch ngày càng suy

yếu và không còn thịnh đạt như trước, do vậy các hình thức bảo hiểm sơ khai cũng

bị mai một. Tuy nhiên trong khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 các ngành

giao thông, thương nghiệp và cả dịch vụ bảo hiểm đã phát triển trở lại.

Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Đơn cử

là trường hợp của tập đoàn BHNT Yogakshema, một Công ty trực thuộc tổng hội

liên hiệp bảo hiểm Ấn Độ. Tên của Công ty này được lấy từ trong kinh Rig Veda.

Cụm từ Yogakshema cho thấy ở Ấn Độ vào khoảng năm 1.000 trước Công Nguyên,

hình thức “bảo hiểm cộng đồng” đã phát triển rất thịnh hành và người Aryan khi đó

cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này.

Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật

người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà

cửa đồng thời che chở, đùm bọc các góa phụ và trẻ nhỏ.

Sau Cách Mạng ánh sáng (Glorious Revolution) năm 1688, ở Châu Âu chỉ có

Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lý của BHNT. Nhờ vậy mà trong suốt 3 thập

kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh mẽ. Hình

thức bảo hiểm mà chúng ta thấy ngày nay có nguồn gốc từ thế kỷ 17. Khi đó ở Anh

từng có một nơi gọi là Lloyd’s of London, nơi mà về sau người ta biết tới với cái

tên Nhà hàng Cà phê Lloyd’s (Lloyd’s Coffee House). Các thương nhân, chủ tàu và

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 9

các nhà thầu bảo hiểm khi đó hay tụ tập ở nhà hàng này để bàn công chuyện làm ăn

và tiến hành các hợp đồng buôn bán.

Mặc dù được sử dụng như một công cụ hạn chế rủi ro, dịch vụ BHNT vẫn bị

cuốn vào trò đỏ đen vốn được xem là bản năng của tầng lớp tiểu tư sản Anh đang

phát triển rất mạnh mẽ lúc bấy giờ. Đến năm 1774, Quốc hội Anh ra sắc lệnh cấm tổ

chức, tham gia cá cược trên ngày chết của con người, từ đó vấn nạn này mới chấm

dứt.

Ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo

hiểm Anh. Vào năm 1735, Công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở

Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm 1759, Hội nghị Giáo hội Trưởng

lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn BHNT đầu tiên của Hoa Kỳ.

Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ. Ngày 22/5/1761, tập

đoàn này đã ký kết được hợp đồng BHNT đầu tiên với công chúng Mỹ.

Mặc dù vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ BHNT Mỹ

mới thật sự cất cánh. Chìa khóa dẫn đến thành công chính là nhờ các Công ty bảo

hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.

Năm 1835, ở New York đã xảy ra một vụ hỏa hoạn đầy tai tiếng. Vụ hỏa

hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự

trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước. Hai năm

sau, Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các Công

ty phải tự tích lũy nguồn dự trữ này. Vụ cháy lớn ở Chicago vào năm 1871 càng

nhấn mạnh sâu sắc một thực tế: nếu hỏa hoạn bùng lên ở những thành phố đông

dân, mức độ thiệt hại sẽ vô cùng to lớn.

Hình thức bảo hiểm trách nhiệm công cộng xuất hiện trong những năm 1880

và cùng với phát minh ra xe ô tô, hình thức bảo hiểm này đã được công chúng đón

nhận và ngày càng thể hiện được tầm quan trọng.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 10

Trong suốt quá trình công nghiệp hóa, dịch vụ bảo hiểm đã có rất nhiều bước

phát triển. Năm 1897, chính phủ Anh thông qua “Đạo luật bồi thường cho người lao

động” (Workmen’s Compensation Act). Đạo luật này buộc các Công ty phải đóng

bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên.

Trong thế kỷ 19, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo

hiểm nhân mạng và sức khỏe cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ

cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay

các hội kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm cho hội viên; điều này diễn ra tương tự ở

hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn

một lúc nhiều hợp đồng BHNT và sức khỏe cho nhân viên. Các hợp đồng này

không chỉ đơn thuần BHNT mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên khi họ bị

bệnh, bị tai nạn hay về hưu. Trong các hợp đồng này thường nhân viên chỉ phải trả

một phần phí bảo hiểm.

Mặc dù ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi

Vương Quốc Anh, TTBH của nước này lại phát triển theo chiều hướng có phần

khác với Anh. Khi Mỹ chuyển mình từ một thuộc địa xa bờ của Anh trở thành một

thế lực độc lập và từ một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp phát triển,

ngành kinh doanh bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một

vài Công ty ban đầu trở thành một ngành công nghiệp quy mô lớn.

Tóm lại có thể nói ngành bảo hiểm Mỹ đã phát triển rất tinh vi, sản sinh ra

nhiều loại mạng lưới phục vụ và đa dạng hóa dịch vụ để phát triển hài hòa với một

quốc gia đang ngày càng phức tạp.

Ngày nay, bảo hiểm đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã

hội. Dù có đề phòng tai nạn tốt đến mức nào, con người cũng không thể loại trừ hết

tất cả những rủi ro ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh và cuộc sống của nhân

loại. Chỉ có bảo hiểm mới là phương tiện hữu hiệu giúp cho cuộc sống con người

được ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 11

khi chẳng may gặp những sự cố rủi ro, tai nạn bất ngờ,…Bảo hiểm ngày nay thực

sự trở thành một phạm trù kinh tế hiện đại và ngành kinh doanh bảo hiểm ngày càng

giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia.

1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm

1.1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm

Theo các chuyên gia bảo hiểm, có rất nhiều định nghĩa bảo hiểm khác nhau

tuỳ theo giác độ phân tích và quan điểm của mỗi người, song “Một định nghĩa thích

hợp của bảo hiểm phải bao gồm sự xây dựng một quỹ, sự hoán chuyển rủi ro, và

thêm nữa là phải bao gồm sự kết hợp số nhiều các đối tượng để biến tổn thất cá thể

thành tổn thất cộng đồng, dự toán được. Tổn thất dự toán này được phân bổ theo tỷ

lệ cho các đơn vị được kết hợp (cộng đồng). Định nghĩa này bao gồm cả hai yếu tố:

giảm thiểu rủi ro và phân tán tổn thất”.

Về phương diện pháp lý, bảo hiểm là một hợp đồng được ký kết, trong đó

một bên (người bảo hiểm) đồng ý nhận một số tiền của bên kia (người được bảo

hiểm) đã được tính toán (gọi là phí bảo hiểm) về những tổn thất người ấy phải gánh

chịu do hậu quả của những sự cố đã xảy ra.

Về phương diện nghiệp vụ, “Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó một bên

người được bảo hiểm đóng góp một số tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho mình hoặc

cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra sự cố sẽ được nhận một khoản tiền đền bù

từ phía nhà bảo hiểm. Người này nhận toàn bộ trách nhiệm đối với các rủi ro và đền

bù thiệt hại theo quy luật thống kê ”.

Về phía người kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm là một hệ thống trong một số

đông người đồng ý đóng góp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm) cho công ty bảo

hiểm hình thành một quỹ bảo hiểm, để đổi lấy sự an toàn và chia sẻ chi phí cho một

tổn thất mà có khả năng một cá nhân trong số họ phải gánh chịu đơn lẻ. Nhiệm vụ

của nhà bảo hiểm là nhận diện rủi ro, phân tán tổn thất, giải quyết hậu quả, bù đắp

tổn thất và quản lý tốt quỹ bảo hiểm.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 12

Đứng trên giác độ kinh tế, bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế để

huy động sự đóng góp của các tổ chức, các cá nhân một số tiền nhất định dưới dạng

phí bảo hiểm hình thành quỹ bảo hiểm, nhằm chi trả hay bù đắp cho các đối tượng

của người đóng góp khi có sự cố xảy ra, đảm bảo ổn định đời sống được thường

xuyên và liên tục.

Tóm lại, bản chất sâu xa của bảo hiểm là sự phục vụ tích cực cho mục tiêu an

toàn của nền kinh tế - xã hội, biểu hiện các mối quan hệ kinh tế và xã hội phát sinh

trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, thông qua

việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm.

1.1.2.2 Sự cần thiết của đầu tư vốn tại các doanh nghiệp bảo hiểm

Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, các DNBH muốn đi vào hoạt

động phải đáp ứng một số vốn tối thiểu do pháp luật quy định. Số vốn này có thể do

nhà nước cấp phát hoặc do các cổ đông đóng góp dưới hình thức góp vốn cổ phần.

Trong quá trình hoạt động, phí bảo hiểm do những người được bảo hiểm trả cũng

được bổ sung vào nguồn này. Chi phí quản lý doanh nghiệp, các khoản bồi thường

cho người được bảo hiểm và cổ tức chia cho các cổ đông cũng được trích ra từ quỹ

này. Nhằm duy trì quỹ cho những năm tiếp theo, một điều vô cùng cần thiết là quỹ

này phải tích lũy được càng nhiều càng tốt. Để thực hiện được điều này các DNBH

đã tiến hành đầu tư.

Đầu tư là hành động sử dụng những nguồn lực tài chính hiện có để biến các

lợi ích thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Như vậy,

mục tiêu của công tác đầu tư nói chung là đạt được một mức sinh lời kỳ vọng trong

tương lai và chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định.

Mục tiêu của đầu tư quỹ bảo hiểm là đảm bảo tốt nhất sự an toàn và cân bằng

tài chính; hiệu quả hoạt động đầu tư vốn có vai trò to lớn không những đối với bản

thân doanh nghiệp, đối với nền kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 13

Đối với các DNBH phi nhân thọ: Mục đích của thiết lập các quỹ dự phòng kỹ

thuật đối với DNBH không phải hoàn toàn nhằm vào việc kiếm lời, mà để đảm bảo

duy trì khả năng thanh toán thường xuyên. Tuy nhiên, được xác định là một nguồn

vốn nhàn rỗi nên các quỹ dự phòng sẽ được DNBH thực hiện việc đầu tư vào các

lĩnh vực khác nhau để kiếm lời. Thu nhập từ hoạt động đầu tư quỹ dự phòng sẽ giúp

DNBH tăng cường khả năng thanh toán, bảo vệ tốt nhất quyền lợi bảo hiểm. Mặc

khác, cho phép DNBH bù đắp được các khoản chi phí bồi thường, chi phí quản lý,

bình ổn kết quả kinh doanh của mình. Điều này tạo điều kiện cho các DNBH có cơ

hội để giảm phí bảo hiểm hoặc không tăng phí trong các chu kỳ sau. Như vậy,

DNBH sẽ có điều kiện để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình, tăng năng lực

ký kết hợp đồng bảo hiểm.

Đối với các DNBH nhân thọ: Mục đích của thiết lập dự phòng kỹ thuật là

nhằm duy trì sự cân bằng nghiệp vụ dài hạn, tức là nhằm đảm bảo cho việc thanh

toán tiền bảo hiểm trong tương lai. Do tính chất của hợp đồng BHNT hiện nay đa số

chỉ là một hợp đồng tiết kiệm, DNBH cam kết sẽ trả cho người được bảo hiểm các

khoản tiền với lãi suất đã dự kiến khi tính phí bảo hiểm (gọi là lãi suất kỹ thuật).

Nếu DNBH không đầu tư nguồn bảo hiểm thu được với kết quả bằng hoặc cao hơn

lãi suất kỹ thuật thì DNBH sẽ bị lỗ. Điều này rất nguy hiểm cho DNBH, vì trên thực

tế sự phá sản DNBH ở nhiều nước cũng do nguyên nhân này. Như vậy, DNBH theo

yêu cầu kỹ thuật, bắt buộc phải đầu tư các quỹ dự phòng kỹ thuật và hiệu quả đạt

được phải ít nhất ngang bằng với lãi suất mà DNBH đã cam kết thực hiện cho người

được bảo hiểm. Nếu kết quả đầu tư tốt hơn sự mong đợi, DNBH sẽ có điều kiện để

đảm bảo thực hiện đầy đủ các cam kết, đồng thời có thể chia lại cho người được bảo

hiểm một phần kết quả phụ trội thông qua các khoản lãi chia trong hợp đồng bảo

hiểm. Điều này sẽ làm tăng tính hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm của doanh

nghiệp.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 14

1.1.3 Cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm

Bảo hiểm không chỉ được xem xét dưới góc độ của mối quan hệ kinh tế, xã

hội, pháp lý giữa những người được bảo hiểm và nhà bảo hiểm mà còn phải xem xét

dưới góc độ kỹ thuật. Thật vậy, các sản phẩm bảo hiểm được xây dựng trên cơ sở

tính toán thực sự khoa học trong việc sử dụng các phương pháp của toán học. Một

trong những cơ sở kỹ thuật quan trọng nhất của bảo hiểm là dựa vào quy luật số

đông và lý thuyết xác suất - thống kê.

1.1.3.1 Quy luật số đông

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm và thống kê chính là cơ sở đảm

bảo nguyên tắc này.

Vào thế kỷ 17, Pascal – nhà toán học người Pháp đã nghiên cứu các đại

lượng ngẫu nhiên và chứng minh rằng chúng bị chi phối bởi các định luật. Ở thế kỷ

18, Bernouli – một nhà toán học khác tiếp tục nghiên cứu và phát biểu quy luật số

đông. Quy luật này phát biểu như sau: “số lần thực hiện phép thử càng lớn, kết quả

thu được từ phép thử sẽ tiến dần về xác suất lý thuyết xảy ra biến cố đang xem xét”.

Ví dụ minh họa bằng trò chơi con xúc sắc. Người ta tung một con xúc xắc 20 lần,

100 lần, 1.000 lần và cuối cùng là 10.000 lần. Mỗi lần tung ra, người ta chú ý đến

việc xuất hiện một mặt nhất định, chẳng hạn như mặt có 6 nút. Kết quả được ghi

nhận như sau:

Số lần tung ra Số lần xuất hiện Tần số xuất hiện

20 0,100 2

100 0,120 12

1.000 0,175 175

10.000 0,165 1.653

Nếu không thực hiện thử nghiệm này, thoạt đầu chúng ta có thể nghĩ đơn

giản sự may rủi mà bề mặt có số 6 xuất hiện là 1/6 (tần suất xuất hiện là 0,167), đây

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 15

là xác suất lý thuyết. Qua nhiều lần thử nghiệm, tần suất xuất hiện của mặt 6 sẽ dần

về xác suất lý thuyết. Nói một cách khác, nếu chúng ta nghiên cứu trên một lượng

đủ lớn các hiện tượng ngẫu nhiên, chúng ta có thể tính toán được tần suất xảy ra

hiện tượng một cách tương đối chính xác, có nghĩa là nó đã trở thành hiện tượng

“tất nhiên”, có thể dự đoán được. Quy luật số đông trở thành cơ sở kỹ thuật quan

trọng của bảo hiểm bởi vì nó chỉ ra rằng, sự bất khả tiên liệu sự cố cho mỗi trường

hợp riêng lẻ nay trở thành khả năng tiên liệu khi kết hợp số đông các trường hợp.

Người bảo hiểm như vậy có thể đảm bảo cho một rủi ro hoàn toàn bấp bênh, bất trắc

đối với người được bảo hiểm bởi vì công ty bảo hiểm không đảm bảo đơn lẻ một rủi

ro cá biệt và trên tổng thể nhiều rủi ro đảm nhận, công ty bảo hiểm có thể biết được

mức độ chính xác có thể chấp nhận được tần suất xảy ra rủi ro đó.

1.1.3.2 Phương pháp thống kê

Để vận dụng cơ sở kỹ thuật là quy luật số lớn vào thực tế, nhà bảo hiểm phải

cố gắng tập hợp số đông đủ lớn, đồng nhất để xác định tần suất xảy ra tổn thất. Từ

đó, xác định được mức giá trung bình của mỗi tổn thất và mức phí bảo hiểm phải

thu của mỗi đối tượng. Muốn vậy, nhà bảo hiểm phải triển khai một cách tối đa các

nghiệp vụ của mình, đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, phát triển theo chiều rộng lẫn

chiều sâu,… nhằm đạt được số lượng đối tượng tương đồng nhiều nhất. Trên cơ sở

đó mới dễ dàng dự đoán xác suất xảy ra rủi ro, tổn thất, làm cơ sở cho việc xác định

được mức phí trung bình và mức phí bảo hiểm phải thu của mỗi đối tượng.

Trong quá trình hoạt động lâu dài, tổ chức bảo hiểm phải theo dõi thường

xuyên sự biến động của các số liệu thống kê được, nhằm điều chỉnh khi cần thiết

phí bảo hiểm phải thu cho phù hợp với thực tế diễn biến rủi ro tổn thất. Vì số liệu

thống kê được trong quá khứ và các sự cố xảy ra trong tương lai có thể có sự chênh

lệch.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 16

1.1.4 Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm

Trong hệ thống kinh tế – xã hội nói chung, hoạt động bảo hiểm tồn tại dưới

hai dạng là bảo hiểm mang tính kinh doanh và bảo hiểm không mang tính kinh

doanh. Bảo hiểm không mang tính kinh doanh góp phần thực hiện chính sách phúc

lợi xã hội của Nhà nước, đó là các hình thức Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế.

Hoạt động bảo hiểm mang tính kinh doanh còn gọi là Bảo hiểm thương mại, là dịch

vụ tài chính đặc biệt, do các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh. Bên cạnh mục đích

kinh doanh là đảm bảo có lãi, bảo hiểm thương mại còn đảm bảo sự ổn định tài

chính cho nền kinh tế chống lại các nguy cơ rủi ro, huy động thêm nguồn lực trong

nước đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế. Ở phạm vi đề tài này,

chúng ta chỉ đề cập đến bảo hiểm thương mại. Có thể nói, bảo hiểm thương mại chủ

yếu được phân thành hai loại như sau:

1.1.4.1 Bảo hiểm nhân thọ

Bảo hiểm nhân thọ (life insurance): là loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro

có tính thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng thường gắn liền với tuổi thọ con

người. Các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn (10 năm, 20 năm). Kỹ

thuật hạch toán bảo hiểm của loại này dựa trên kỹ thuật dồn tích, bao gồm:

+ Bảo hiểm trọn đời;

+ Bảo hiểm sinh kỳ;

+ Bảo hiểm tử kỳ;

+ Bảo hiểm hỗn hợp;

+ Bảo hiểm trả tiền định kỳ; và

+ Các nghiệp vụ BHNT khác do Chính phủ quy định.

1.1.4.2 Bảo hiểm phi nhân thọ

Bảo hiểm phi nhân thọ (non-life insurance): là loại bảo hiểm đảm bảo cho

các rủi ro có tính ổn định (tương đối) theo thời gian và đối tượng thường độc lập với

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 17

tuổi thọ con người. Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là ngắn hạn (một năm). Kỹ

thuật hạch toán bảo hiểm của loại này dựa trên kỹ thuật phân bổ, bao gồm:

+ Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người;

+ Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;

+ Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường

sắt và đường hàng không;

+ Bảo hiểm hàng không;

+ Bảo hiểm xe cơ giới;

+ Bảo hiểm cháy, nổ;

+ Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu;

+ Bảo hiểm trách nhiệm chung;

+ Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;

+ Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh;

+ Bảo hiểm nông nghiệp; và

+ Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do pháp luật quy định.

1.1.5 Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội

Bảo hiểm có vai trò rất quan trọng có thể được xét ở hai khía cạnh: kinh tế -

xã hội và tài chính.

(cid:131) Khía cạnh kinh tế - xã hội:

Rủi ro, tổn thất phát sinh làm thiệt hại các đối tượng: của cải vật chất do con

người tạo ra và chính cả bản thân con người, làm gián đoạn quá trình sinh hoạt của

dân cư, ngưng trệ hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Nói chung, tổn thất phát sinh

làm gián đoạn và giảm hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Quỹ dự trữ bảo

hiểm được tạo lập trước một cách có ý thức, khắc phục hậu quả nói trên bằng cách

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 18

bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập đảm bảo tính thường xuyên, liên tục của

quá trình sản xuất. Như vậy, trên phạm vi rộng toàn bộ nền kinh tế-xã hội, bảo hiểm

đóng vai trò như một công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu

dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế.

Với vai trò đó, bảo hiểm khi thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực của đời

sống đã phát huy tác dụng vốn có của mình: thúc đẩy ý thức đề phòng hạn chế tổn

thất cho mọi thành viên trong xã hội. Thật vậy, trong trường hợp rủi ro, Công ty bảo

hiểm sẽ thay bạn gánh vác hậu quả khiến bạn yên tâm hơn. Còn công ty bảo hiểm

có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên họ rất quan tâm đến việc kiểm soát rủi ro,

nhằm làm chúng ít xảy ra hơn và mức độ thiệt hại cũng ít hơn.

(cid:131) Khía cạnh tài chính:

Sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặt biệt: một lời cam kết đảm

bảo cho sự an toàn, mặt khác sự tồn tại và phát triển của các hoạt động bảo hiểm

còn đáp ứng nhu cầu vốn không ngừng tăng lên của quá trình tái sản xuất mở rộng,

đặt biệt trong nền kinh tế thị trường với việc thu phí theo nguyên tắc ứng trước, các

tổ chức hoạt động bảo hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện cam kết của

họ đối với khách hàng nhưng tạm thời nhàn rỗi. Do vậy, các tổ chức hoạt động bảo

hiểm đã trở thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng cho các hoạt động khác nhau

của nền kinh tế quốc dân. Thị trường dịch vụ bảo hiểm là một kênh huy động vốn

hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nói chung, tại những nước có TTBH phát

triển, các công ty bảo hiểm là các chủ thể tích cực tham gia vào thị trường tài chính.

Do đó, bảo hiểm còn có vai trò là một trung gian tài chính và phát huy được tác

dụng của mình là cung cấp vốn cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển, tạo

công ăn việc làm cho người dân.

1.2 TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH

NGHIỆP BẢO HIỂM

1.2.1 Tổng quan về quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 19

1.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

Hoạt động đầu tư của các DNBH diễn ra khá phong phú. Theo Luật kinh

doanh bảo hiểm Việt Nam, các DNBH có thể sử dụng các nguồn như: vốn điều lệ,

quỹ dự trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện; các khoản lãi của những năm trước chưa

sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại doanh

nghiệp và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để đầu tư.

Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm: đó là tổng dự phòng

nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm dùng để bồi

thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo

hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ. Pháp luật hiện hành của

Việt Nam quy định như sau:

(cid:131) Khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với

doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không thấp hơn 25% tổng dự

phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt

Nam.

(cid:131) Khoản tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh

nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ

bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.

1.2.1.2 Nguyên tắc đầu tư vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm

Các nguyên tắc cơ bản mà pháp luật ở nhiều nước đặt ra đối với hoạt động

đầu tư của các DNBH là an toàn, sinh lợi và đảm bảo tính thanh khoản.

(cid:131) Nguyên tắc an toàn: nguyên tắc này yêu cầu DNBH phải đầu tư vốn nhàn rỗi

một cách chắc chắn để luôn thực hiện được cam kết với người được bảo hiểm khi

xảy ra các sự kiện bảo hiểm.

(cid:131) Nguyên tắc sinh lợi: tức là hoạt động đầu tư của các DNBH phải mang lại lợi

nhuận. Đây cũng là yêu cầu tất yếu của hoạt động đầu tư, bởi vì suy cho cùng mọi

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 20

sự đầu tư vốn cũng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Với mức phí thu được của người

tham gia bảo hiểm, DNBH đã nắm giữ được một nguồn tài chính dồi dào. Do còn

phải thực hiện các cam kết chia lãi cho người tham gia bảo hiểm, DNBH phải thực

hiện các hoạt động đầu tư trên nhiều lĩnh vực nhằm tối đa hóa lợi nhuận để tăng khả

năng đền bù, giảm phí, làm cho dịch vụ bảo hiểm ngày càng hấp dẫn hơn. Tuy

nhiên, theo lý thuyết đầu tư thì việc thực hiện nguyên tắc này lại mâu thuẫn với

nguyên tắc an toàn. Vấn đề đặt ra cho DNBH là phải đáp ứng được hai nguyên tắc

mâu thuẫn với nhau này một cách hài hòa.

(cid:131) Nguyên tắc thanh khoản: đầu tư trong bảo hiểm yêu cầu đáp ứng nhu cầu

thanh toán thường xuyên nên các loại hình đầu tư phải có tính thanh khoản cao.

Do đó, nhiệm vụ của các nhà quản lý đầu tư là phải biết kết hợp hài hòa giữa

ba nguyên tắc cơ bản trên, lựa chọn đối tác đầu tư nào để phát huy hiệu quả cao

nhất mà vẫn đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản này.

1.2.2 Danh mục đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm

Trong quá trình xây dựng danh mục đầu tư (DMĐT), bất kỳ DNBH nào cũng

phải quyết định xem cần đưa những loại tài sản nào vào DMĐT của doanh nghiệp

nhằm đạt được hai mục tiêu: (1) duy trì khả năng thanh toán; và (2) duy trì khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp. Ở mức độ tối thiểu nhất, hai mục tiêu này bao gồm

việc đáp ứng trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm, duy trì khả năng cạnh

tranh của doanh nghiệp để tăng thị phần, và đóng góp vào sự tăng trưởng của thu

nhập và thặng dư doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu đó, DNBH phải tạo ra

được một DMĐT với các đặt tính của dòng tiền phù hợp với các trách nhiệm bảo

hiểm mà công ty phải chi trả trong tương lai và phù hợp với chiến lược quản lý rủi

ro, đặt biệt là rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách nhiệm của doanh nghiệp.

Xét ở góc độ tổng quát nhất, có hai loại rủi ro gắn liền với các tài sản đầu tư.

Thứ nhất là rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường. Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng tới

hầu hết các tài sản đầu tư, mặc dù mỗi loại tài sản chịu ảnh hưởng ở mức độ cao

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 21

thấp khác nhau. Ví dụ về loại rủi ro này là rủi ro về chính trị, lãi suất hay lạm phát.

Thứ hai là rủi ro đặt thù riêng có của từng tài sản hay của một nhóm nhỏ các tài sản

đầu tư. Thực tiễn cũng như lý thuyết đầu tư hiện đại đã chứng minh rằng, bằng cách

kết hợp nhiều loại tài sản trong một DMĐT, hay nói một cách khác, đa dạng hóa

DMĐT có thể loại trừ hoặc giảm thiểu các rủi ro đặt thù riêng có của từng loại tài

sản. Vì lý do này mà các DNBH luôn luôn mong muốn và tìm cách đa dạng hóa

DMĐT của mình để đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư.

Để đảm bảo các DNBH thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ với người được bảo

hiểm, pháp luật mỗi nước đều có quy định giới hạn DMĐT nhưng nhìn chung

DMĐT của một DNBH thường bao gồm các loại tài sản như sau:

(cid:131) Trái phiếu (bao gồm trái phiếu chính phủ và công ty):

Trái phiếu được coi là một công cụ đầu tư dài hạn tạo ra nguồn thu nhập ổn

định cho DNBH thông qua việc trả tiền lãi định kỳ (thường là 6 tháng hoặc hàng

năm) và trả số tiền gốc theo mệnh giá vào lúc đáo hạn. Đầu tư vào trái phiếu, nhất là

trái phiếu chính phủ có mức độ rủi ro thấp và tạo ra độ chắc chắn cao hơn về tỷ suất

lợi nhuận. Những công cụ đầu tư đầu tư tạo ra nguồn thu nhập ổn định giống như

trái phiếu với thời hạn và dòng tiền phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp BHNT

trong việc đạt được mức lợi nhuận giả định được xây dựng trong công thức tính phí

bảo hiểm và đáp ứng được mục tiêu quản lý rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách

nhiệm của doanh nghiệp. Ở TTBH phát triển, thông thường trái phiếu công ty là

loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong DMĐT của một công ty BHNT

(khoảng trên 40%). Trái phiếu chính phủ được coi là không có rủi ro về tín dụng, vì

vậy mức lãi suất thấp hơn trái phiếu công ty và cũng ít hấp dẫn hơn so với trái phiếu

công ty. Trái phiếu chính phủ thường chiếm tỷ trọng lớn thứ 3 trong DMĐT của

một DNBH.

(cid:131) Cổ phiếu

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 22

Cổ phiếu của các công ty là loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 trong

DMĐT của một công ty bảo hiểm ở các TTBH phát triển. Những đặc tính của dòng

tiền tạo ra từ việc đầu tư vào cổ phiếu phổ thông có mức biến động cao hơn nhiều

và do vậy nhiều rủi ro hơn so với các đặt tính của dòng tiền tạo ra từ việc đầu tư vào

trái phiếu. Đặt tính của dòng tiền tạo ra từ cổ phiếu phổ thông được quyết định bởi

việc chi trả cổ tức thường kỳ (không mang tính cam kết) và bởi giá trị thị trường

của cổ phiếu. Khác với trái phiếu, cổ phiếu phổ thông không có thời gian đáo hạn.

Do các đặt tính nêu trên, phần lớn nguồn vốn đầu tư vào cổ phiếu phổ thông của các

doanh nghiệp BHNT có nguồn gốc là số phí bảo hiểm thu được từ các hợp đồng

BHNT gắn với đầu tư (investment-linked products). Đây là loại sản phẩm thế hệ

mới, rất phổ biến và hấp dẫn người tham gia bảo hiểm ở các TTBH phát triển. Đối

với loại sản phẩm này, rủi ro đầu tư được chuyển từ công ty BHNT sang người

tham gia bảo hiểm hay nói cách khác, người tham gia bảo hiểm có quyền quyết định

số phí bảo hiểm họ đóng sẽ được đầu tư vào lĩnh vực nào.

Cổ phiếu ưu đãi mang tính chất của cả cổ phiếu phổ thông và trái phiếu, thể hiện

việc người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi được chi trả cổ tức theo một mức ấn định

trước và cổ tức ưu đãi phải được chi trả trước khi cổ tức phổ thông chi trả. Tuy

nhiên, cũng giống như cổ tức phổ thông, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không mang

tính cam kết và chỉ được chi trả khi công bố.

Ngoài ra, đầu tư vào cổ phiếu còn gặp một số bất lợi khác của đầu tư chứng khoán

là lạm phát, lãi suất, rủi ro về kinh tế vĩ mô, rủi ro về xã hội, chính trị.

(cid:131) Cho vay có thế chấp

Ngoài việc đầu tư vào các loại trái phiếu và cổ phiếu, một công cụ phổ biến

mà các DNBH thường sử dụng là cho vay có thế chấp mà tài sản thế chấp được hình

thành từ vốn vay. Cũng giống như các công cụ khác (trái phiếu), cho vay có thế

chấp là công cụ đầu tư tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho DNBH thông qua việc

nguời vay thanh toán tiền lãi và một phần tiền gốc theo định kỳ cho doanh nghiệp,

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 23

mặc dù cho vay có thế chấp có độ rủi ro cao hơn đầu tư vào trái phiếu. Xét về mặt

lịch sử, các khoản cho vay thương mại dài hạn có thế chấp từng là phương thức lý

tưởng được sử dụng để cân đối các trách nhiệm dài hạn mà DNBH đã cam kết với

người tham gia bảo hiểm.

(cid:131) Cho vay theo hợp đồng

Cho vay theo hợp đồng bảo hiểm là hình thức cho vay đặc thù của các

DNBH vì hai lý do. Thứ nhất, các khoản vay theo hợp đồng bảo hiểm không phải là

kết quả của một quyết định về quản lý đầu tư mà đó là kết quả của việc thực hiện

các quyền lựa chọn của chủ hợp đồng được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Thứ

hai, khoản tiền cho vay không bao giờ vượt quá giá trị giải ước của hợp đồng bảo

hiểm và DNBH luôn luôn có thể khấu trừ khoản tiền cho vay không được hoàn trả

từ giá trị giải ước hoặc số tiền bảo hiểm nên độ an toàn của hầu hết số tiền cho vay

theo hợp đồng bảo hiểm là tuyệt đối. Các đặc tính của dòng tiền gắn liền với các

khoản cho vay theo hợp đồng bảo hiểm được quyết định bởi sở thích của chủ hợp

đồng, do vậy nhiều khi khó dự đoán trước. Nhìn chung, để đảm bảo an toàn cho vay

theo hợp đồng chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong DMĐT của doanh nghiệp

BHNT (dưới 10% tổng giá trị tài sản đầu tư).

(cid:131) Đầu tư kinh doanh bất động sản

Đầu tư trực tiếp hoặc nắm quyền sở hữu bất động sản là hình thức đầu tư

tương tự như đầu tư vào cổ phiếu phổ thông. Đầu tư vào bất động sản có thể rất hấp

dẫn đối với DNBH do tạo ra mức lợi nhuận cao hơn so với đầu tư vào cổ phiếu

trong khi vẫn tạo ra cơ hội để tăng giá trị vốn đầu tư thông qua việc tăng giá của bất

động sản trên thị trường. Các đặc tính của dòng tiền tạo ra từ việc đầu tư vào bất

động sản được quyết định bởi công suất cho thuê, tiền cho thuê và chi phí hoạt động

cho thuê bất động sản. Mặt khác, các đặc tính khó dự đoán trước của dòng tiền tạo

ra từ việc đầu tư và bất động sản làm cho công cụ đầu tư này không hoàn toàn phù

hợp với nhu cầu của các DNBH. Thêm vào đó, đầu tư vào bất động sản thì tính

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 24

thanh khoản không cao, do việc bán các bất động sản không thể diễn ra nhanh

chóng được, vì các thủ tục giao dịch và các nhu cầu của người mua khó phù hợp với

những đặc tính bất động sản hiện có của người bán.Tuy nhiên, các DNBH vẫn duy

trì một tỷ lệ bất động sản nhất định trong DMĐT của mình vì mục tiêu đa dạng hóa

DMĐT nhằm giảm thiểu rủi ro và tìm kiếm một mức lợi nhuận cao hơn.

(cid:131) Tiền gửi vào các tổ chức tín dụng

Hình thức đầu tư này được sử dụng do có nhiều ưu điểm. Việc gửi tiền lấy

lãi được trải rộng trên nhiều ngân hàng, đúng nguyên tắc phân tán rủi ro và đáp ứng

được yêu cầu thanh khoản cao. Ngân hàng được chọn để đầu tư là ngân hàng thỏa

mãn cùng lúc hai tiêu thức: sự hoạt động và lãi suất. Trong đó, tiêu thức về tình

hình hoạt động của ngân hàng là tiêu thức được ưu tiên hơn cả, vì ngân hàng có

hoạt động tốt thì mới đảm bảo sự an toàn số tiền gửi của các doanh nghiệp bảo hiểm

và đảm bảo được tính thanh khoản khi cần, còn tiêu thức thứ hai chỉ là tiêu thức phụ

bổ sung cho sự lựa chọn khi các ngân hàng có sự hoạt động như nhau.

Tuy nhiên, khi đầu tư tiền gửi vào các ngân hàng các doanh nghiệp bảo hiểm

phải có nhiều kênh thông tin chính thức để tìm hiểu và nắm được tình hình hoạt

động của ngân hàng. Mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm rất mong có sự kiểm tra

kiểm soát thường xuyên của các cơ quan quản lý Nhà nước về tình hình hoạt động

của ngân hàng, để đảm bảo cho việc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm được an

toàn, nhất là kiểm soát tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần.

1.2.3 Hoạt động đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở một số nước

1.2.3.1 Các quy định về pháp lý

Những quy định pháp lý về đầu tư tài chính ở các nước không hoàn toàn

giống nhau. Nhưng xét về tổng thể, các quy định này có những đặc điểm chung như

sau:

(cid:131) Bắt buộc các công ty bảo hiểm phải thiết lập đầy đủ các quỹ dự phòng kỹ

thuật để đảm bảo tôn trọng cam kết của các công ty bảo hiểm đối với người được

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 25

bảo hiểm. Quy định này được coi như một chỉ tiêu để đánh giá khả năng thanh toán

của các công ty bảo hiểm.

(cid:131) Bắt buộc các DNBH phải thể hiện rõ các quỹ dự phòng kỹ thuật trên báo cáo

tài chính là một khoản mục riêng bên Nguồn vốn của bảng Cân đối kế toán. Nguồn

vốn này phải được tương thích bằng một danh mục tài sản đầu tư bên Tài sản có của

Bảng Cân đối kế toán.

(cid:131) Thể chế hóa các nguyên tắc đầu tư tài chính các quỹ dự phòng kỹ thuật là: an

toàn, sinh lợi, tính thanh khoản và đa dạng hóa DMĐT.

(cid:131) Quy định tỷ lệ tối đa và tối thiểu cho từng loại tài sản đầu tư đối với việc

phân bổ các quỹ dự phòng của các công ty bảo hiểm.

Tùy vào đặc điểm kinh tế, tài chính và xã hội, mỗi nước có quy định về

nguyên tắc phân bổ tài sản đầu tư theo các tỉ lệ khác nhau. Chúng ta có thể tham

khảo quy định đầu tư của một số nước trong khu vực Châu Á và Châu Âu như sau:

a) Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở một số nước Châu Á

Tình hình đầu tư của các DNBH nhân thọ khu vực Châu Á nhìn chung còn

cứng nhắc, thận trọng. Hầu hết các khoản đầu tư của các công ty này là vào tiền gửi

và các loại chứng khoán với lãi suất cố định. Tính trung bình tỷ lệ đầu tư vào cổ

phiếu chỉ chiếm khoảng 10 đến 15% tổng nguồn vốn đầu tư. Chỉ trừ có thị trường

Nhật Bản với tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu ở mức khá cao, khoảng 30% tổng nguồn vốn

đầu tư. Ở Trung Quốc, các công ty bảo hiểm buộc phải áp dụng cơ cấu đầu tư thận

trọng chủ yếu là do những quy định chặt chẽ của chính phủ hạn chế hoạt động đầu

tư chứ không phải xuất phát từ chiến lược thận trọng của các công ty này. Tuy

nhiên, những hạn chế này cũng đang dần dần được gỡ bỏ. Các công ty bảo hiểm

Trung Quốc nay đã có thể đầu tư trực tiếp vào các cổ phiếu hay đầu tư ra nước

ngoài. Ở Đài Loan, các công ty bảo hiểm sẽ được phép đầu tư tới 50% tổng nguồn

vốn đầu tư của mình ra nước ngoài thay vì 35% như hiện nay.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 26

Bảng 1.1: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Trung Quốc

Tỷ lệ quỹ Loại hình đầu tư Các giới hạn (nếu có) đầu tư

100% Tiền gửi ngân hàng Không giới hạn

- Trái phiếu và các công cụ nợ Tín dụng AA trở lên 100%

- Trái phiếu chuyển đổi <15% tổng số phát hành 20%

- Cho vay có bảo lãnh ngân hàng <20% tổng số phát hành 8%&15%

- Cho vay có bảo lãnh các Công ty <4% giá trị công ty bảo lãnh 20%

bảo hiểm

Cổ phiếu: - Đầu tư vào quỹ tương hỗ 15% <10% tổng giá trị quỹ tương hỗ

- Cổ phiếu niêm yết 5% <10% giá trị niêm yết 1 công ty

Bất động sản 50% Dành cho sử dụng nội bộ

Cho vay chủ hợp đồng Theo giá trị giải ước

Đầu tư ra nước ngoài 80% của vốn ngoại tệ

Cho vay/mượn ngoại tệ trên thị 50% trên vốn ngoại tệ trường liên ngân hàng

Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 27

Bảng 1.2: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Indonesia

Tỷ lệ quỹ Loại hình đầu tư Các giới hạn (nếu có) đầu tư

Tiền gửi ngân hàng 20% cho mỗi ngân hàng 100%

100% Trái phiếu Chính phủ và các chứng

khoán được bảolãnh

Cổ phiếu:

20% - Đầu tư vào quỹ tương hỗ

<20% giá trị niêm yết 1 công ty 100% - Cổ phiếu niêm yết

Bất động sản 20% Dành cho mục đích đầu tư

Cho vay chủ hợp đồng 100% Tối đa 80% giá trị giải ước

Đầu tư ra nước ngoài 20%

<20 % giá trị niêm yết của một Trái phiếu Công ty và các chứng 100% công ty khoán được bảo lãnh

<75% tài sản thế chấp Cho vay thế chấp 20%

Đầu tư trực tiếp 10%

Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 28

Bảng 1.3: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Hồng Kông

Tỷ lệ quỹ đầu Loại hình đầu tư Các giới hạn (nếu có) tư

100% Không giới hạn Tiền gửi ngân hàng

100% Không giới hạn Các chứng khoán của Chính phủ

100% Không giới hạn Cổ phiếu

100% Không giới hạn Bất động sản

Trái phiếu Công ty và cho vay trực 100% Không giới hạn tiếp

Cho vay chủ hợp đồng Theo giá trị giải ước

Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005

Nhìn chung, các quy định pháp lý về đầu tư cho các công ty BHNT ở Châu

Á đã quy định rõ ràng và chi tiết các khoản mục đầu tư nhằm giảm thiểu sự quản lý

chồng chéo. Việc mở rộng lĩnh vực đầu tư làm giảm thiểu các rủi ro trong đầu tư

nhằm tạo điều kiện sử dụng, thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước.

b) Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm ở một số nước Châu Âu

(cid:131) Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm ở Pháp:

Quy định DMĐT gồm 5 loại: Trái phiếu, Cổ phiếu, Bất động sản, Cho vay và Tiền

gửi. Trong đó, mỗi loại tài sản đầu tư được quy định như sau:

+ Không quá 65% quỹ dự phòng đối với cổ phiếu.

+ Không quá 40% quỹ dự phòng đối với bất động sản.

+ Không quá 10% quỹ dự phòng đối với cho vay.

+ Đầu tư vào trái phiếu không hạn chế.

+ Không quy định mức đầu tư vào tiền gửi ngân hàng.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 29

Quy định về phân tán rủi ro trong đầu tư như sau:

+ Không được đầu tư quá 5% quỹ dự phòng vào cổ phiếu được niêm yết

hoặc trái phiếu của một công ty phát hành.

+ Không được đầu tư quá 0,5% quỹ dự phòng vào cổ phiếu không được niêm

yết

+ Không được đầu tư quá 10% quỹ dự phòng vào một bất động sản.

(cid:131) Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm ở Cộng hòa Liên bang Đức:

DNBH được phép đầu tư vào các danh mục sau: chứng khoán, cho vay, tiền

gửi tại các tổ chức tín dụng, bất động sản, các khoản trả trước hoặc cho vay theo

đơn bảo hiểm của DNBH đối với chủ hợp đồng BHNT, đầu tư khác.

Quy định về phân bổ vào các DMĐT như sau:

+ Đầu tư vào cổ phiếu và các quỹ chứng khoán đặc biệt không vượt quá 30%

quỹ dự phòng.

+ Đầu tư vào bất động sản không vượt quá 25% quỹ dự phòng.

+ Đầu tư vào trái phiếu vô danh, trái phiếu thế chấp, trái phiếu địa phương

không vượt quá 2.5% quỹ dự phòng. Nếu đầu tư kết hợp trái phiếu và cổ phiếu, tỷ lệ

các khoản đầu tư không vượt quá 10% giá trị các quỹ dự phòng.

1.2.3.2 Cơ cấu đầu tư và sự thay đổi cấu trúc đầu tư trên thị trường BHNT

Chúng ta có thể thấy cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm ở một số nước

nước thể hiện qua bảng sau:

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 30

Bảng 1.4: Cơ cấu đầu tư tài chính của các công ty BHNT ở một số nước

(Đơn vị: %)

Danh mục Năm Pháp Nhật Anh

2001 68,6 41,8 30,9

Trái phiếu 2002 64,7 38,1 38,2

2003 66,9 44,6 37,0

2001 19,0 30,7 50,8

Cổ phiếu 2002 21,4 29,5 45,3

2003 18,9 26,8 44,0

2001 8,6 6,2 7,1

Bất động sản 2002 9,1 7,3 8,5

2003 9,3 5,9 8,9

2001 1,4 9,1 3,2

Tiền gửi ngân hàng 2002 2,1 8,4 1,5

2003 1,7 7,7 2,7

2001 2,4 12,2 8

Đầu tư khác 2002 2,7 16,7 6,5

2003 3,2 15 7,4

Nguồn: http://swissre.com/sigma6_2004

Như vậy, có thể thấy những lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các công ty bảo

hiểm ở các nước kể trên chủ yếu được đầu tư vào các tài sản chính là cổ phiếu và

trái phiếu.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 31

Qua các năm quan sát đều cho thấy trong cấu trúc đầu tư của các công ty bảo

hiểm trên thì giá trị các khoản vốn đầu tư vào chứng khoán chiếm trên 80%. Trong

lĩnh vực chứng khoán thì trái phiếu là loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất

trong tổng số vốn đầu tư của hai nước Pháp và Nhật, còn các công ty bảo hiểm của

Anh thì ngược lại, đầu tư vào cổ phiếu nhiều hơn. Lượng vốn đầu tư vào tiền gửi

tiết kiệm tại ngân hàng và các khoản đầu tư khác chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, từ

khoảng 1,5%-3,6% giá trị vốn đầu tư của các công ty bảo hiểm ở các công ty bảo

hiểm Anh và Pháp. Đối với Nhật, các công ty BHNT ở đây dành khoảng 30% trong

tỷ trọng đầu tư để đầu tư vào các lĩnh vực khác như bất động sản, tiền gửi ngân

hàng và các khoản đầu tư khác với cơ cấu mỗi loại chiếm từ 6,5% đến 15%. Tỷ

trọng vốn đầu tư như vậy thể hiện sự phân bố khá đồng đều hơn ở các công ty

BHNT của Nhật.

Quan sát tổng thể về cơ cấu đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở các nước

phát triển ta nhận thấy các xu hướng đầu tư chính là:

+ Thứ nhất, vốn đầu tư bất động sản và tiền gửi vào các tổ chức tín dụng có

xu hướng giảm mạnh, trong cấu trúc đầu tư của các công ty bảo hiểm có thể nhận

thấy danh mục này ngày càng chiếm một tỷ trọng nhỏ.

+ Thứ hai, vốn đầu tư cổ phiếu và trái phiếu công ty đang có xu hướng tăng

lên ở tất cả các nước. Trong mọi giai đoạn, vốn đầu tư vào trái phiếu chiếm tỷ trọng

cao nhất trong cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm ở đa số các nước.

Kết luận chương 1:

Để có thể đáp ứng được nhu cầu đảm bảo an toàn về tài chính khi phát sinh

các biến cố trong sản xuất và đời sống, các chủ thể, cá nhân đã tìm đến nhà bảo

hiểm. Vì thế các DNBH cần phải sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn vốn thu

được. Chương 1 đã giới thiệu về nguyên tắc lý luận, các qui định pháp lý, kinh

nghiệm đầu tư ở một số nước nhằm làm cơ sở tham chiếu so sánh để xác định quan

điểm đầu tư cho các DNBH tại Việt Nam.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG

VỐN CỦA CÁC DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM

2.1.1 Khái quát sự ra đời vào phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam

Lịch sự ra đời và phát triển bảo hiểm ở Việt Nam có thể khái quát qua 3 giai

đoạn chính:

(cid:131) Giai đoạn trước 30/04/1975

- Tình hình hoạt động bảo hiểm ở miền Nam: Ở miền Nam hoạt động kinh doanh

bảo hiểm khá phát triển với sự có mặt của trên 52 công ty bảo hiểm trong nước và

nước ngoài. Hầu hết các công ty đều đặt trụ sở chính ở Sài Gòn, trung tâm kinh tế

của miền Nam lúc bấy giờ. Các công ty bảo hiểm có Hiệp hội nghề nghiệp của mình

nhằm thực hiện các chức năng vốn có như thông tin tư vấn, đào tạo, môi trường hợp

tác. Các công ty hoạt động theo Luật bảo hiểm năm 1965

- Tình hình hoạt động bảo hiểm ở miền Bắc: Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam

(Bảo Việt) ra đời theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/12/1964, chính

thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965. Bảo Việt là công ty bảo hiểm nhà nước duy

nhất đại diện cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh, hoạt động

của Bảo Việt ở miền Bắc chưa phát triển. Với 2 chi nhánh ở Hà Nội và Hải Phòng,

Bảo Việt thực hiện chủ yếu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nhưng thường

tái bảo hiểm với tỷ lệ cao cho Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Ba Lan.

(cid:131) Giai đoạn sau 30/04/1975 đến trước 18/12/1993

Các công ty bảo hiểm được quốc hữu hóa và sáp nhập chung vào Tổng Công

ty Bảo hiểm Việt Nam. Các công ty bảo hiểm cũ ở miền Nam sát nhập thành lập

Công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (BAVINA). Sau 1976, BAVINA

chuyển thành chi nhánh công ty bảo hiểm Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 33

Trong giai đoạn này chỉ có một công ty bảo hiểm duy nhất của Nhà nước là Bảo

Việt, trực thuộc Bộ Tài chính.

(cid:131) Giai đoạn sau ngày 18/12/1993 đến nay

Nghị Định 100/CP của Chính phủ ra đời. Bộ Tài chính thành lập thêm một số

công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tình trạng độc quyền

trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đã bị xoá bỏ. Cũng từ thời gian này, hoạt động

kinh doanh bảo hiểm Việt Nam bắt đầu sôi động do có sự cạnh tranh lẫn nhau giữa

các công ty. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam thật sự hoạt động mang tính

chuyên nghiệp từ khi Quốc Hội thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm và có hiệu lực

thi hành từ 01/04/2001. TTBH Việt Nam đã có sự tham gia hoạt động của các công

ty bảo hiểm Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và đặc biệt có cả DNBH của ASEAN.

Sự mở cửa này đã tạo nên sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải vươn lên,

nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

2.1.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay

Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng ở tốc độ cao, mức tăng trưởng mà

trước đây người ta nghĩ rằng Trung Quốc và Ấn Ðộ mới có thể đạt được. Năm

ngoái, GDP của Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 8,4%, tăng gấp rưỡi so với năm

2001. Dân số của Việt Nam hiện là 82 triệu người, trong đó, số dân ở độ tuổi dưới

30 chiếm tới 60%. Chính thói quen tiết kiệm của người dân đã góp phần tạo nên sức

hấp dẫn của TTBH. Từ năm 1993 đến nay, sau gần 14 năm mở cửa, các doanh

nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã học tập được nhiều kinh nghiệm và tự nâng cao năng

lực để cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang họat

động tại Việt Nam. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đang từng bước chuẩn bị

nâng cao năng lực của mình. Lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam trong

thời gian qua được đánh giá là tương đối mạnh. Số lượng doanh nghiệp chính thức

kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay 32 DNBH và môi giới bảo hiểm tiến

hành hoạt động kinh doanh cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho thị trường. Đối với

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 34

lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ có 16 doanh nghiệp, trong đó có 2 DNBH Nhà

nước, 8 doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm; 3 DNBH 100% vốn nước ngoài; 3 doanh

nghiệp liên doanh bảo hiểm. BHNT có 8 doanh nghiệp, trong đó có 1 DNBH nhà

nước, 1 doanh nghiệp liên doanh và 6 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong

lĩnh vực môi giới bảo hiểm có 7 doanh nghiệp, trong đó có 4 doanh nghiệp cổ phần

và 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp tái bảo hiểm có 1

doanh nghiệp, đó là Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare). Ngoài ra còn

có 30 công ty nước ngoài khác đã thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Bảng 2.1: Tổng hợp các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm trên thị trường VN

đến 31/12/2005

Liên 100% vốn Nhà Tổng Loại hình doanh Cổ phần doanh nước ngoài nước cộng nghiệp

Bảo hiểm phi nhân thọ 2 8 3 3 16

Bảo hiểm nhân thọ 1 1 6 8

Tái bảo hiểm 1 1

Môi giới bảo hiểm 4 3 7

3 13 4 12 32 Tổng cộng

Nguồn: Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 35

Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đến 31/12/2005

STT

Tên DN

Hình thức sở hữu

Vốn điều lệ

Lĩnh vực hoạt động

Năm thành lập

1

1964

Nhà nước

Tổng công ty bảo hiểm VN (Bảo Việt)

3.000 tỷ VND

2

Công ty môi giới bảo hiểm Aon

1993

100% vốn nước ngoài

300.000 USD

Nhân thọ, phi nhân thọ Môi giới bảo hiểm

3

1994

Công ty tái bảo hiểm quốc gia VN (Vinare)

Cổ phần/2004

343 tỷ VND

Tái bảo hiểm

4

1995

Cổ phần

Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)

434 tỷ VND

Phi nhân thọ

5

1995

Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)

Cổ phần/2004

140 tỷ VND

Phi nhân thọ

6

1995

Cổ phần

Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long)

70 tỷ VND

Phi nhân thọ

7

1996

Nhà nước

Công ty bảo hiểm dầu khí (PV Insurance)

20 tỷ VND

Phi nhân thọ

8

1996

Liên doanh

Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế - VN (VIA)

6 triệu USD

Phi nhân thọ

9

1997

Liên doanh

Công ty bảo hiểm liên hiệp (UIC)

4 triệu USD

Phi nhân thọ

10

1998

Cổ phần

Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)

70 triệu USD

Phi nhân thọ

11

1999

Nhân thọ

Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Manulife VN

100% vốn nước ngoài

10 triệu USD

12

1999

Liên doanh

Nhân thọ

Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh – CMG

25 triệu USD

13

1999

Nhân thọ

Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential

100% vốn nước ngoài

61 triệu USD

14

2000

Nhân thọ

Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA) VN

100% vốn nước ngoài

25 triệu USD

15

2001

Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp Groupama VN

100% vốn nước ngoài

5 triệu USD

Phi nhân thọ

16

2001

Cổ phần

Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc

6 tỷ VND

Môi giới bảo hiểm

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 36

Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đến 31/12/2005 (tiếp theo)

2002

Liên doanh

17

Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Samsung-Vina

5 triệu USD

Phi nhân thọ

2002

Cổ phần

18

6 triệu USD

Phi nhân thọ

Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Châu Á - NH Công thương

2003

Cổ phần

19

Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông (VASS)

200 tỷ VND

Phi nhân thọ

2003

20

Công ty môi giới bảo hiểm Gras Savoye

100% vốn nước ngoài

300.000 USD

Môi giới bảo hiểm

2003

Cổ phần

21

Công ty môi giới bảo hiểm Á Đông

6 tỷ VND

Môi giới bảo hiểm

22

2003

Cổ phần

Công ty môi giới bảo hiểm Đại Việt

6 tỷ VND

Môi giới bảo hiểm

23

2004

Công ty môi giới bảo hiểm Marsh VN

100% vốn nước ngoài

300.000 USD

Môi giới bảo hiểm

24

2005

Nhân thọ

Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ ACE Life VN (ACE Life)

100% vốn nước ngoài

20 triệu USD

Công ty Bảo hiểm AAA

2005

Cổ phần

25

80 tỷ VND

Phi nhân thọ

26

2005

Công ty TNHH bảo hiểm QBE VN (QBE Viet Nam)

100% vốn nước ngoài

7,5 triệu USD

Phi nhân thọ

27

2005

Cổ phần

Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIC)

4 triệu USD

Phi nhân thọ

28

2005

Nhân thọ

Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prévior

100% vốn nước ngoài

2005

Cổ phần

29

Công ty môi giới bảo hiểm Thái Bình Dương

Môi giới bảo hiểm

2005

Nhân thọ

30

Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ New York Life

100% vốn nước ngoài

2005

31

Công ty AIG Việt Nam (AIG Viet Nam)

100% vốn nước ngoài

Phi nhân thọ

10 triệu USD không có số liệu 10 triệu USD không có số liệu

Nguồn: Theo Hiệp hội Bảo hiểm VN

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 37

Trong giai đoạn hiện nay, Bộ Tài chính đã thực hiện phát triển TTBH theo

hướng đa dạng hóa các loại hình sở hữu nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào

lĩnh vực bảo hiểm giúp TTBH hoạt động an toàn, hiệu quả và có đủ năng lực cung

cấp các dịch vụ có chất lượng, có tính cạnh tranh phù hợp với lộ trình hội nhập quốc

tế. TTBH tiếp tục mở cửa với việc nhà nước cấp phép cho công ty AAA, AIG hoạt

động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ; Prevoir, ACE Life, New York Life hoạt

động kinh doanh BHNT; Công ty Thái Bình Dương hoạt động môi giới bảo hiểm và

một số Văn phòng đại diện Công ty bảo hiểm nước ngoài. Việc cấp phép cho các

DNBH nước ngoài được thực hiện theo đúng quy định phát luật hiện hành, phù hợp

với tiến trình hội nhập kinh tế cũng như các cam kết song phương, đa phương của

Việt Nam với các nước. Các DNBH nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt

Nam đều là các doanh nghiệp hàng đầu thế giới, có uy tín, năng lực tài chính và

kinh nghiệm hoạt động được các tổ chức xếp hạng quốc tế đánh giá có hệ số tín

nhiệm cao nhất. Bên cạnh đó, tỷ lệ và cơ cấu các loại hình doanh nghiệp thuộc các

khu vực tương đối hài hòa, xử lý tốt mối quan hệ giữa Việt Nam và các khu vực

trên thế giới trong việc mở cửa TTBH. Trong 16 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài có 06 chủ đầu tư Mỹ, 03 chủ đầu tư là Pháp, 01 chủ đầu tư là Anh, 01 chủ đầu

tư là Canada, 02 chủ đầu tư Úc, 02 Nhật, 01 Hàn Quốc.

Ngoài ra, TTBH cũng diễn ra sự cơ cấu lại các DNBH. Bảo Minh và

VINARE năm đầu tiên cổ phần hóa hoạt động có nhiều khởi sắc. Ngân hàng Đầu tư

phát triển Việt Nam mua lại cổ phần của QBE thành lập công ty BIC 100% vốn

Việt Nam; QBE mua lại công ty bảo hiểm Allianz; Bảo Việt trở thành tập đoàn tài

chính Bảo Việt theo quyết định số 310 của Thủ tướng Chính phủ với nhiều đơn vị

thành viên như Bảo Việt Nhân thọ, Bảo Việt Việt Nam, Bảo hiểm y tế cộng đồng,

Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng Cổ phần Bảo Việt, Công ty

cho thuê Tài chính Bảo Việt, Công ty kinh doanh bất động sản Bảo Việt. Theo số

liệu của Hiệp hội bảo hiểm, tốc độ tăng trưởng của TTBH phi nhân thọ Việt Nam

thời gian qua đạt bình quân 34%/năm và trên 60%/năm với BHNT. Dự báo của Bộ

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 38

Tài chính cho rằng, đến năm 2010, tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP có thể

đạt 4,2%.

Sau gần 14 năm mở cửa TTBH, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt

Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị

trường tăng bình quân 30% trong giai đoạn 1993 - 2005 cơ cấu tỷ trọng doanh thu

dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,37% GDP năm 1993 lên

2,03%/GDP năm 2005.

Số lượng sản phẩm bảo hiểm năm 1993 chỉ có 22, đến nay đã có gần 700 sản

phẩm bảo hiểm, do không còn tình trạng hoạt động độc quyền, các doanh nghiệp đã

chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm quyền lợi cho các

khách hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo thỏa thuận trong hợp

đồng bảo hiểm. Các đại lý bảo hiểm, hiện ở con số 92.000, đang là lực lượng phân

phối dịch vụ bảo hiểm chính ở Việt Nam. Chỉ có 12% hợp đồng bảo hiểm được

thương lượng bởi các nhà môi giới bảo hiểm. Tuy nhiên, con số các công ty môi

giới bảo hiểm sẽ còn gia tăng. Công ty môi giới bảo hiểm Aon Việt Nam, hiện đang

chiếm thị phần lớn nhất, khoảng 46% doanh thu từ môi giới bảo hiểm tại thị trường

này. Các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động sớm tại Việt Nam đang thu được

nhiều lợi nhuận. Năm 2002, Manulife Việt Nam, công ty BHNT 100% vốn nước

ngoài đầu tiên ở Việt Nam, cho biết sau 3 năm hoạt động đã trở thành công ty bảo

hiểm đầu tiên thu được lợi nhuận tại thị trường này. Năm 2004, Prudential Việt

Nam cũng thông báo đã thu được lợi nhuận ở mức 3,8 triệu USD sau 5 năm hoạt

động. Việt Nam đã trở thành địa điểm đầu tư phổ biến thứ 4 của các nhà đầu tư

Nhật Bản vào năm 2005, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Ðộ và Thái Lan sau khi đứng ở vị

trí thứ 8 vào năm 2000. Theo một báo cáo do công ty tư vấn của Mỹ Towers Perrin

về TTBH Việt Nam, với chưa đầy 10% dân số có sử dụng dịch vụ BHNT, đây là

một trong những TTBH có tiềm năng tăng trưởng hàng đầu ở khu vực châu Á –

Thái Bình Dương.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 39

Rõ ràng, Việt Nam là một TTBH đầy tiềm năng nhưng cũng nhiều thách

thức

Có thể nói, luật pháp đối với lĩnh vực bảo hiểm của Việt Nam còn chưa hoàn

thiện và vẫn còn có những hạn chế pháp lý đối với việc đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư

của các công ty bảo hiểm.

Đến giữa năm 2006, các công ty bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam vẫn chưa

được phép cung cấp một cách đầy đủ các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Mặc dù

chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường BHNT nhưng các công ty nước ngoài chỉ nắm

một thị phần khiêm tốn 7% trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ do thị trường này

thuộc về các công ty trong nước. Các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại Việt Nam

cũng đang phải đối mặt với việc các ngân hàng tăng lãi suất để thu hút người dân

gửi tiết kiệm thay vì mua bảo hiểm. Hiện nay, lãi suất tiền gửi tiết kiệm hàng năm

đã ở mức 10% trong khi mức lãi bảo hiểm chỉ là 2%. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

cho biết, số lượng hợp đồng bảo hiểm mới được ký trong quý đầu năm 2006 giảm

tới 27% so với cùng kỳ năm 2005. Số lượng hợp đồng mà Manulife ký được trong

thời kỳ này giảm tới 56%, Bảo hiểm Quốc tế Mỹ giảm 44%, Prudential giảm 30%

và Bảo Minh CMG giảm 31%. Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, ở Việt Nam

hiện có 120.000 đại lý bảo hiểm và 10.000 nhân viên làm việc trong lĩnh vực này.

2.2 THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA

CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1 Vấn đề tạo lập vốn trong doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

tại Việt Nam hiện nay

2.2.1.1 Nguồn gốc hình thành vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm

Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm Việt Nam định nghĩa: “Hoạt động kinh doanh

bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó

doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên

mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 40

người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo

hiểm”.

Thông qua định nghĩa trên kết hợp với các nguyên tắc bảo hiểm, ta thấy

ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác.

Khi một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm - bằng sự

cam kết của mình - sẽ phải tiến hành thu phí bảo hiểm trước của khách hàng. Sau đó

sẽ thực hiện các trách nhiệm bảo hiểm đối với khách hàng, trong một phạm vi giới

hạn thời gian nhất định gọi là hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Việc tiến hành các

dịch vụ này có thể xảy ra hoặc không xảy ra, có thể xảy ra ngay sau thời điểm thu

phí hoặc xảy ra cách thời gian thu phí một khoảng thời gian nào đó. Nghĩa là thời

điểm công ty bảo hiểm nhận được tiền và thời điểm chi trả tiền cho khách hàng có

những khoảng cách và không thể xác định trước được. Vì vậy, người ta còn gọi

kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Với các lý do đó, để đảm bảo

cho việc thực hiện các trách nhiệm của công ty với khách hàng tham gia bảo hiểm

và ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế - xã hội, các công ty bảo

hiểm hoạt động phải luôn ở trong tình trạng đảm bảo khả năng thanh toán các tổn

thất có thể xảy ra và phải có một tình hình tài chính mạnh. Vì lẽ đó, Luật kinh

doanh bảo hiểm ở các nước đều bắt buộc các doanh nghiệp phải trích đầy đủ các

khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Các khoản dự phòng nghiệp vụ này thực chất

là khoản tiền doanh nghiệp bảo hiểm trích lập từ doanh thu phí bảo hiểm của từng

nghiệp vụ bảo hiểm, để đảm bảo các trách nhiệm đã nhận với khách hàng.

Đó là nguồn gốc của sự hình thành nguồn vốn nhàn rỗi, hay còn gọi là các

quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Xét ở một khía cạnh khác có

thể nói, cùng với hoạt động kinh doanh của mình các công ty bảo hiểm luôn phải

quản lý một nguồn vốn nhàn rỗi lớn và ổn định. Việc đầu tư có hiệu quả và an toàn

nguồn vốn nhàn rỗi này là một trách nhiệm quan trọng của quá trình kinh doanh bảo

hiểm. Đồng thời, giúp doanh nghiệp có khả năng gia tăng các quỹ đảm bảo và là cơ

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 41

sở để hạ giá thành bảo hiểm. Vì vậy, để nguồn vốn này ngày càng được gia tăng, tất

cả các công ty bảo hiểm đều được pháp luật cho phép đầu tư để sinh lợi.

2.2.1.2 Nội dung dự phòng nghiệp vụ đối với doanh nghiệp kinh doanh BHNT

Đặc điểm của các hợp đồng BHNT là thời hạn dài (tối thiểu là 5 năm), phí

bảo hiểm thường được thu san bằng hàng năm trong suốt thời hạn của hợp đồng. Số

phí bảo hiểm thu hàng năm được công ty BHNT tích lũy lại và đưa vào đầu tư ngay

với lãi suất đầu tư thực tế tối thiểu phải đạt mức lãi suất kỹ thuật khi tính phí. Theo

thời gian số phí tích lũy sẽ tăng trưởng và đạt đúng giá trị cần thiết để trả cho các

chủ hợp đồng và đây chính là dự phòng toán học của các hợp đồng BHNT. Trong

trường hợp lãi suất đầu tư thực tế lớn hơn lãi suất kỹ thuật khi tính phí thì phần

chênh lệch này sẽ hình thành nên dự phòng chia lãi của các hợp đồng BHNT. Đây

là hai loại quỹ dự phòng chủ yếu trong tổng dự phòng nghiệp vụ của các công ty

BHNT vì nó tác động rất lớn đến khả năng chi trả của các công ty BHNT. Vì vậy

nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm cũng chính là bảo vệ sự phát

triển bền vững và ổn định của thị trường BHNT, Chính phủ các nước bao giờ cũng

đưa ra những qui định rất chặt chẽ trong việc trích lập dự phòng nghiệp vụ các sản

phẩm BHNT và yêu cầu các công ty BHNT phải tuân thủ theo những qui định này.

Theo Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm và các thông tư văn bản hướng dẫn thi hành quy

định chế độ tài chính đối với DNBH, doanh nghiệp kinh doanh BHNT phải trích lập

dự phòng nghiệp vụ từ phí bảo hiểm thu được như sau:

a) Dự phòng toán học là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số tiền

bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu được trong tương lai, được sử

dụng để trả tiền bảo hiểm đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện

bảo hiểm.

Phương pháp trích lập: Theo phương pháp phí bảo hiểm thuần được điều

chỉnh bởi hệ số Zillmer 3% số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh

dùng để tính dự phòng không cao hơn 90% phí bảo hiểm thực tế thu được.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 42

Nguyên tắc tính dự phòng: Dự phòng toán học theo phương pháp phí bảo

hiểm thuần được điều chỉnh Zillmer 3% số tiền bảo hiểm tính theo nguyên tắc sau:

Giá trị hiện tại của tổng số phí bảo Giá trị hiện tại của tổng Dự phòng hiểm thuần điều chỉnh Zillmer 3% = + số tiền bảo hiểm sẽ phải toán học toán học số tiền bảo hiểm sẽ thu trả trong tương lai trong tương lai

Cơ sở tính dự phòng: Doanh nghiệp kinh doanh BHNT sử dụng bảng tỉ lệ tử

vong CSO năm 1980 theo quy định tại thông tư 99 và lãi suất kỹ thuật tối đa bằng

80% lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước khi

xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng. Dự phòng toán học được

coi là bằng 0 trong trường hợp tính theo phương pháp và cơ sở nêu trên cho ra kết

quả là số âm.

b) Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng BHNT có

thời hạn dưới một năm, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời

gian còn hiệu lực của hợp đồng trong năm tiếp theo.

Phương pháp trích lập theo phương pháp 1/24 hoặc phương pháp trích lập dự

phòng phí theo ngày.

c) Dự phòng bồi thường, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự

kiện bảo hiểm nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết.

Được trích theo phương pháp từng hồ sơ với mức trích lập được tính trên cơ

sở thống kê số tiền bảo hiểm phải trả cho từng hồ sơ đã yêu cầu đòi bồi thường

nhưng đến cuối năm tài chính DNBH chưa giải quyết.

d) Dự phòng chia lãi, được sử dụng để trả lãi mà DNBH đã thỏa thuận với

bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.

Chỉ áp dụng với những hợp đồng có lãi chia được tích lũy qua các năm

hợp đồng bảo hiểm và được tính theo công thức sau:

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 43

Tổng lãi công bố chia Giá trị tích lũy của lãi đã công bố Dự phòng = + cho chủ hợp đồng trong chia cho chủ hợp đồng trong các chia lãi năm tài chính năm tài chính trước nhưng chưa chi

e) Dự phòng bảo đảm cân đối, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy

ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.

Được trích lập hàng năm cho đến khi khoản dự phòng này bằng 5% phí bảo

hiểm thu được trong năm tài chính của DNBH. Mức trích lập hàng năm là 1% từ lợi

nhuận trước thuế của DNBH.

Bảng 2.3: Dự phòng nghiệp vụ BHNT năm 2004-2005

(Đơn vị: tỷ đồng)

Dự phòng nghiệp vụ Tổng dự phòng nghiệp vụ trích trong năm Dự phòng nghiệp vụ Tăng Tăng 2004 2005 2004 2005 trưởng trưởng

Dự phòng toán học 4.567 5.433 19% 14.677 20.112 37%

Dự phòng bồi thường 1 1 0% 20 21 5%

Dự phòng đảm bảo cân đối 1 2 100% 4 6 50%

Dự phòng lãi chia 424 (853) (301%) 1.097 244 (78%)

Tổng số 4.992 4.583 (8%) 15.798 20.383 29%

Nguồn: Báo cáo Bộ tài chính – 2006

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 44

Bảng 2.4: Dự phòng nghiệp vụ BHNT của một số công ty

(Đơn vị: triệu đồng)

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005

Manulife 487.513 828.773 1.398.421

Baominh CMG 182.884 204.057 242.806 422.350

Bảo Việt 4.757.045 6.326.871 8.448.992 9.931.000

AIA 210.562 292.682 409.176 497.985

Prudential 1.984.988 3.235.531 5.301.541

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo tài chính của các công ty BHNT

Bảng 2.5: Dự phòng toán học BHNT của một số công ty

(Đơn vị: triệu đồng)

Năm Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

%/Tổng %/Tổng %/Tổng Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền DP DP DP

Manulife 472.887 97 812.653 98,74 1.380.816 98,05

Baominh- 171.910 94 193.854 95 235.293 97 CMG

Bảo Việt 3.805.636 80 5.694.183 89 7.519.602 90

AIA 189.505 90 287.048 98,8 404.393 98,08

Prudential 1.726.939 87 2.671.143 82,47 4.372.013 91,82

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo tài chính của các công ty BHNT

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 45

2.2.1.3 Một số tồn tại trong quy định về trích lập dự phòng bảo hiểm nhân thọ

Theo Thông tư 99/TT-BTC ban hành 19/10/2004, hướng dẫn thực hiện Nghị

định 43 của Chính phủ qui định chế độ tài chính đối với DNBH và doanh nghiệp

môi giới bảo hiểm, qui định trích lập dự phòng nghiệp vụ đã có sự tiến bộ rõ rệt đó

là Thông tư đã đưa ra được cơ sở trích lập dự phòng mà Thông tư 72 trước đây

không đề cập đến. Thông tư 99 đề cập một cách rõ ràng các công ty BHNT ở Việt

Nam phải sử dụng các cơ sở sau đây để tính dự phòng toán học:

- Bảng tử vong là bảng CSO 1980.

- Lãi suất kỹ thuật tối đa bằng 80% lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10

năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở

trích lập dự phòng.

- Dự phòng toán học được coi là bằng 0 trong trường hợp tính theo phương

pháp và cơ sở nêu trên cho ra kết quả là số âm

Qui định trích lập dự phòng nghiệp vụ theo Thông tư 99 hoàn thiện hơn

nhiều so với thông tư 72 và 45 trước đây. Tuy nhiên qui định này còn một số vấn đề

cần xem xét thêm

Thứ nhất, qui định lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi suất trái phiếu chính phủ

kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin phê chuẩn phương pháp

và cơ sở trích lập dự phòng cho tất cả các sản phẩm BHNT là không phù hợp. Bởi

vì, các sản phẩm BHNT có các kỳ hạn khác nhau 5 năm, 8 năm, 10 năm, 15 năm,

20 năm hoặc nhiều hơn. Về nguyên tắc khi thời hạn đầu tư càng dài, mức gánh chịu

rủi ro của nhà đầu tư càng cao thì lãi suất cần phải tăng lên để bù đắp cho phần rủi

ro mà nhà đầu tư phải gánh chịu.

Thứ hai, bảng tử vong sử dụng để tính phí và dự phòng là bảng CSO 80. Đây

là bảng tử vong được các cơ quan quản lý bảo hiểm ở các nước sử dụng rộng rãi để

giám sát việc trích lập dự phòng của công ty BHNT. Trong thực tế các công ty bảo

hiểm không sử dụng bảng tỷ lệ tử vong này để tính phí vì bảng CSO 80 có tỷ lệ tử

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 46

vong cao hơn thực tế, do đó các công ty bảo hiểm ở các nước thường sử dụng các

bảng tỷ lệ tử vong khác, phản ánh tỷ lệ chết chính xác hơn. Ở Việt Nam, trong thời

gian qua, chỉ riêng Bảo Việt sử dụng bảng tỷ lệ tử vong trên cơ sở số liệu thống kê

của dân số Việt Nam, còn các công ty bảo hiểm nước ngoài họat động tại Việt Nam

lại sử dụng bảng tử vong trên cơ sở số liệu thống kê dân số của nước ngoài. Như ta

đã biết, điều kiện kinh tế xã hội, vị thế địa lý của mỗi quốc gia có tác động đến tuổi

thọ người dân của nước đó, vì vậy việc áp dụng bảng tỷ lệ tử vong của nước này

cho một nước khác là không phù hợp, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người

tham gia bảo hiểm cũng như của chính các công ty bảo hiểm đó. Hơn nữa bảng tỷ lệ

tử vong mà hiện nay Bảo Việt đang áp dụng là trên cơ sở số liệu thống kê toàn diện

dân số của Việt Nam vào năm 1989, ở thời điểm này và trước đó, nền kinh tế Việt

Nam chưa có những thành tựu đáng kể về mặt kinh tế, đời sống người dân còn khó

khăn, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến tuổi thọ con người. Trong giai đoạn hiện

nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống người

dân từng bước được nâng cao tất cả điều này đã ảnh hưởng đến tuổi thọ của người

dân. Vì vậy, qui định trích lập dự phòng nghiệp vụ BHNT sử dụng bảng tử vong

CSO 80 cần phải nghiên cứu một cách cụ thể hơn, tránh việc qui định của cơ quan

quản lý chỉ mang tính hình thức vì qui định này không áp dụng được trong thực

tiễn.

2.2.2 Thực trạng đầu tư vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp

kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

2.2.2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo

hiểm nhân thọ ở Việt Nam

Ở tất cả các quốc gia có tồn tại ngành kinh doanh bảo hiểm, Nhà nước phải

can thiệp vào các quy định quản lý có tính vĩ mô đối với các DNBH. Sự can thiệp

này là một tất yếu bởi các lý do:

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 47

+Bảo vệ lợi ích của người tham gia bảo hiểm (khách hàng). Đảm bảo cho

DNBH luôn trong tình hình tài chính vững mạnh để thực hiện trách nhiệm của mình

về các cam kết đối với khách hàng khi tham gia bảo hiểm; hoặc ít nhất cũng cảnh

báo được tình hình tài chính của các doanh nghiệp đang ở trạng thái nào giúp các

nhà quản lý có những biện pháp can thiệp thích hợp, kịp thời.

+ Đảm bảo ổn định tình hình hoạt động đời sống, sản xuất kinh doanh của

các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội của

đất nước.

+ Đối với nền kinh tế toàn cầu, do tính đặc thù cùng chia sẻ rủi ro của hoạt

động kinh doanh bảo hiểm, nên hầu hết các công ty bảo hiểm trên thế giới đều ít

nhiều có sự quan hệ về tài chính với nhau. Sự hoạt động mạnh hay yếu của một

công ty bảo hiểm bất kỳ đều có ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống ngành bảo hiểm

trên thế giới. Sự tác động này thể hiện rõ rệt nhất là đối với các công ty bảo hiểm

lớn trên thế giới, tập trung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.

+Hướng công tác đầu tư các quỹ bảo hiểm vào mục tiêu kinh tế xã hội của

đất nước.

+Ngăn ngừa các công ty bảo hiểm tìm cách gây ảnh hưởng tiêu cực trong

toàn bộ lĩnh vự̣c tài chính.

Do tính chất đặc thù và tầm quan trọng của nó đối với sự an toàn tài chính

của các DNBH, hoạt động đầu tư được quy định khá đầu đủ và chặt chẽ trong luật

Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cũng giống như quy định

pháp luật của nhiều nước trên thế giới, hoạt động đầu tư của các DNBH tại Việt

Nam phải tuân thủ những hạn chế nhất định về nguồn vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư,

DMĐT, địa bàn đầu tư, cụ thể là:

- Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại

các tổ chức tín dụng không hạn chế;

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 48

- Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các

doanh nghiệp khác tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;

- Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức tài chính –

tín dụng tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

Điều đáng chú ý là khác với một số nước, trong đó có liên minh Châu Âu

(EU), pháp luật Việt Nam chỉ khống chỉ mức tối đa đối với hoạt động đầu tư của

DNBH mà không quy định những tỷ lệ tối thiểu mà các DNBH phải tuân thủ khi

tiến hành đầu tư. Thông thường, những quy định tối thiểu này được áp dụng đối với

một loại đầu tư nhất định, thường là đầu tư vào các chứng khoán chính phủ. Mục

đích chủ yếu của nó không phải nhằm bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo

hiểm mà nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, bao gồm đảm bảo sự hỗ trợ đầy

đủ cho việc tài trợ nợ của chính phủ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn chưa quy

định mức hạn chế đối với số tiền tối đa mà một DNBH được phép đầu tư vào một

dự án đầu tư cụ thể nhằm mục đích tránh tích tụ rủi ro. Thêm vào đó, theo quy định

đầu tư tại Việt Nam, ta thấy lĩnh vực đầu tư cũng bị giới hạn một cách vô hình

chung

2.2.2.2 Thực trạng đầu tư trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp bảo

hiểm Việt Nam trong thời gian qua

Thực tế ở nước ta cho thấy, cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng,

các DNBH đã mở rộng quy mô hoạt động và đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng năng

lực kinh doanh, năng lực tài chính. Các công ty bảo hiểm đã góp phần đáng kể vào

việc sớm hình thành thị trường vốn ở Việt Nam. Thông qua hoạt động kinh doanh

bảo hiểm, các DNBH đã huy động được các nguồn tài chính nhàn rỗi từ những tổ

chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, để đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Ngành bảo hiểm

đã và đang từng bước khẳng định được vai trò trung gian tài chính trong việc huy

động và cung cấp các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế tại Việt Nam, phục vụ

đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 49

gần đây, các DNBH Việt Nam chú trọng cải thiện công tác đầu tư tài chính: một

loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm bảo lựa chọn

được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh

tế cao như góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần, cho vay, tham

gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, mua cổ phiếu, gửi

tiết kiệm ngân hàng… Thông qua hoạt động đa dạng hóa đầu tư, các DNBH đã thu

được nhiều kết quả đáng ghi nhận từ lĩnh vực đầu tư tài chính. Hoạt động đầu tư tài

chính đã hình thành phần lớn lợi nhuận cho các DNBH và trở thành xương sống

nâng đỡ các DNBH, nhất là các doanh nghiệp BHNT. Theo đánh giá của Bộ Tài

chính, riêng trong năm 2004, tổng số tiền các DNBH đã huy động để đầu tư trở lại

nền kinh tế là 8.400 tỷ đồng, nâng tổng số tiền đầu tư của toàn ngành bảo hiểm đến

cuối năm 2004 lên 23.002 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2003. Cũng trong năm

2004, 87,08% tổng số tiền đầu tư được gửi tại các tổ chức tín dụng và mua trái

phiếu Chính phủ. Tính đến hết năm 2004, tổng tài sản đầu tư của Prudential đạt hơn

5.000 tỉ đồng, đây là con số không nhỏ đối với một cy BHNT chỉ mới sau 5 năm đi

vào hoạt động.

a) Xét về tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế

Cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng DNBH, việc mở rộng quy mô

và địa bàn hoạt động, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm và nâng cao chất lược dịch vụ,

doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường đã tăng mạnh trong thời gian qua.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 50

Bảng 2.6: Doanh thu phí bảo hiểm 1994-2005 toàn thị trường

Doanh thu phí bảo Tốc độ tăng Tỷ trọng doanh thu Năm hiểm (tỷ đồng) trưởng (%) phí/GDP (%)

741 0,442 1994

1.026 38,52 0,448 1995

1.264 23,18 0,461 1996

1.424 12,59 0,453 1997

2.077 45,88 0,574 1998

2.092 0,72 0,523 1999

3.057 46,15 0,579 2000

4.982 63,00 0,996 2001

7.000 40,49 1,318 2002

10.390 48,43 1,821 2003

12.400 19,34 1,973 2004

17.000 37,00 2,034 2005

Nguồn: Báo cáo Bộ tài chính năm 2006

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 51

Biểu 2.1: Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường

Tỷ đồng

18,000 16,000 14,000 12,000 10,000 8,000 6,000 4,000 2,000 -

Năm

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường

Với sự phát triển của TTBH Việt Nam, sự tăng trưởng mạnh trong doanh thu phí

bảo hiểm đã kéo theo vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH cũng tăng nhanh

trong những năm qua.

Biểu 2.2: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế

Tỷ đồng

30,000

25,000

20,000

15,000

10,000

5,000

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

- Năm

Bảo hiểm phi nhân thọ

Cộng toàn thị trường

Bảo hiểm nhân thọ

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 52

Bảng 2.7: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế

(Đơn vị: tỷ đồng)

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

3.245,00

4.680,00

4.469,00

789,50 748,50

917,90 852,90

1.230,70 1.069,70

1.754,30 1.494,30

2.440,40 2.109,40

3.612,20 3.170,20

2.228,80 1.608,80

2.545,40 1.850,40

2.275,00

3.496,00

3.277,00

41,00

65,00

78,00

132,00

186,00

221,00

307,00

345,00

452,00

596,00

601,00

83,00

128,00

145,00

221,00

36,00

285,00

518,00 10.681,00

313,00 3.721,00 3.004,00

6.122,00

588,00 18.322,00 10.880,00

4.559,00 14.602,00

789,50 748,50

917,90 852,90

1.230,70 1.069,70

1.754,30 1.494,30

36,00 2.476,40 2.109,40

285,00 3.897,20 3.170,20

717,00 5.949,80 4.612,80

350,00 7.203,00 4.937,00 2.266,00 9.748,40 6.787,40

8.397,00

7.442,00 23.002,00 14.376,00

591,00 21.807,00 10.098,00 11.709,00 26.276,00 13.375,00

41,00

65,00

78,00

132,00

186,00

221,00

452,00

596,00

83,00

128,00

181,00

506,00

5.077,00

8.030,00

307,00 1.030,00

I. Bảo hiểm phi nhân thọ 1. Khối doanh nghiệp nhà nước 2. Khối công ty cổ phần 3. Khối DN có vốn ĐTNN II. Bảo hiểm nhân thọ 1. Khối doanh nghiệp nhà nước 2. Khối DN có vốn ĐTNN III. Cộng toàn thị trường 1. Khối doanh nghiệp nhà nước 2. Khối công ty cổ phần 3. Khối DN có vốn ĐTNN

345,00 2.616,00

601,00 12.300,00

Nguồn: Báo cáo Bộ tài chính năm 2006

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 53

Qua bảng số liệu Bảng 2.7 và biểu đồ minh họa về tổng số vốn đầu tư trở lại

nền kinh tế ta thấy từ chỗ hoạt động đầu tư hầu như không đáng kể ở năm 1994,

trong giai đoạn 10 năm từ 1995-2005 tổng số tiền đầu tư đã tăng hơn 30 lần, tốc độ

tăng trưởng bình quân hàng năm 30%. Cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới,

hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam được thực hiện theo nguyên

tắc an toàn, hiệu quả và đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả tiền bồi thường cho

người tham gia bảo hiểm, đồng thời, đem lại lợi nhuận hợp lý để trang trải các chi

phí hoạt động và mở rộng phạm vi kinh doanh cho DNBH. Tuy nhiên tốc độ tăng

trưởng đầu tư giai đoạn 2003 đến nay có giảm so với các năm trước (năm 2005 tăng

14% so với năm 2004) do những biến động trên thị trường chứng khoán (TTCK)

với giá cổ phiếu của các công ty tham gia niêm yết có nhiều biến động thất thường

trong khi trái phiếu chính phủ lại không hấp dẫn được các nhà đầu tư, đã ảnh hưởng

đáng kể đến hoạt động đầu tư của các DNBH. Căn cứ theo chiến lược phát triển của

TTBH Việt Nam từ năm 2003-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì

nguồn vốn đầu tư của các DNBH sẽ phải đạt 90.000 tỷ vào năm 2010.

b) Xét cơ cấu và xu hướng đầu tư

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 54

Bảng 2.8a: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

(Đơn vị: tỷ đồng)

Tiền gửi, trái phiếu, Cổ phiếu chính phủ

Bất động sản, cho vay, ủy thác

Tổng cộng

Giá trị

Tỷ lệ

Giá trị

Tỷ lệ

Giá trị

Loại hình doanh nghiệp/Năm 1. Khối doanh nghiệp trong nước

Cổ phiếu,TP doanh nghiệp Tỷ lệ Giá trị

500,00 4,60% 164,00 1,62%

2004 2005 2. Khối DN có vốn đầu tư nước ngoài 2004 2005

8.760,00 80,51% 8.929,00 88,42% 7.136,00 95,89% 10.635,00 90,83%

111,00 1,49% 567,00 4,84%

1.620,00 1.005,00 195,00 507,00

14,89% 9,95% 2,62% 4,33%

10.880,00 10.098,00 7.442,00 11.709,00

Tỷ lệ 100% 100% 100% 100%

Nguồn : Báo cáo Bộ tài chính, 2006 Bảng 2.8b: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế doanh nghiệp bảo hiểm

(Đơn vị: tỷ đồng)

Tiền gửi, trái phiếu, Cổ phiếu chính phủ

Bất động sản, cho vay, ủy thác

Tổng cộng

Giá trị

Giá trị 1.183,00 2.140,00

Tỷ lệ 12.980,00 88,89% 20.030,00 87,08% 89,00%

Cổ phiếu,TP doanh nghiệp Giá trị Tỷ lệ 439,00 3,01% 832,00 3,62% 3,30%

Tỷ lệ 8,10% 9,30% 9,00%

Giá trị 14.602,00 23.002,00 26.276,00

Tỷ lệ 100% 100% 100%

Loại hình doanh nghiệp/Năm 2003 2004 2005 (ước)

Nguồn : Báo cáo Bộ tài chính, 2006

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 55

Qua bảng 2.8a và 2.8b ta thấy cơ cấu đầu tư toàn thị trường của các DNBH

chỉ đầu tư chủ yếu vào hai lĩnh vực là tiền gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính

phủ với tỷ lệ gần 90%. Trong khi đó tỉ lệ này ở các nước phát triển như Anh, Pháp,

Đức chỉ chiếm từ 1,1 đến 1,9%. Đối với kinh doanh chứng khoán là công cụ đầu tư

phổ biến được các công ty bảo hiểm ở hầu hết các nước sử dụng rộng rãi thì các

DNBH Việt Nam mới chỉ chiếm tỷ trọng chưa tới 10%. Điều này cũng dễ hiểu vì

TTCK Việt Nam mới đưa vào vận hành, thiếu hàng hóa trầm trọng. Ngoài ra khung

pháp lý cho hoạt động đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu cũng như TTCK nói chung

chưa hoàn thiện.

Cùng với việc đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư, các DNBH đã quan tâm

chuyển dịch cơ cấu đầu tư từ chủ yếu là đầu tư ngắn hạn trước đây sang tăng cường

tỷ lệ đầu tư dài hạn hiện nay. Trong tổng số vốn đầu tư 23.000 tỷ đồng năm 2004 thì

tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu chính phủ và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng là 87,8%.

Năm 2005 với tổng số vốn đầu tư là 26.276 tỷ đồng, tỷ lệ đầu tư trung và dài hạn

khoảng 76% và đầu tư ngắn hạn khoảng 24%.

Bảng 2.9: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Việt qua các năm

(Đơn vị: %)

Loại hình đầu tư 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Đầu tư chứng khoán 41,6 41,8 17,2 20,5 20,8 19,7 20,1 20,4

Liên doanh liên kết 2,0 1,9 2,7 3,2 3,7 3,5 3,6 3,2

Tiền gửi ngân hàng 49,6 51,8 72,9 67,8 70,2 71,2 70,9 71,3

Đầu tư khác 6,8 4,5 7,2 8,5 5,3 5,6 5,4 5,1

Đầu tư tổng cộng 100 100 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Báo cáo tài chính của Bảo Việt

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 56

Bảng 2.10: Cơ cấu đầu tư vốn của Prudential Việt Nam năm 2004 & 2005

2004 2005

Loại hình đầu tư Số tiền Số tiền % % (tỷ đồng) (tỷ đồng)

Đầu tư ngắn hạn vào tiền gửi ngân hàng 1.631 20 1.468 18

Đầu tư dài hạn, bao gồm: 6.412 80 6.546 82

+ Trái phiếu chính phủ 6.022 75 5.219 65

+ Cổ phiếu 231 3 693 9

+ Đầu tư khác 159 2 634 8

Đầu tư tổng cộng 8.043 100 8.014 100

Nguồn: Báo cáo tài chính của Prudential 2004-2005

Bảng 2.11: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Minh CMG năm 2004 & 2005

2004

2005

Loại hình đầu tư

Số tiền

Số tiền

%

%

(triệu đồng)

(triệu đồng)

Đầu tư ngắn hạn vào tiền gửi ngân hàng

73.463

36%

49.991 13%

Đầu tư dài hạn, bao gồm:

130.113

64%

325.472 87%

+ Tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn

122.156

60%

187.430 50%

+ Trái phiếu chính phủ

0%

120.000 32%

+ Cho vay hợp đồng

7.957

4%

18.042

5%

Đầu tư tổng cộng

203.576 100%

375.463 100%

Nguồn: Báo cáo tài chính đã kiểm toán của Bảo Minh CMG năm 2004-2005

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 57

Xem xét cơ cấu đầu tư của một số Công ty bảo hiểm tại Việt Nam ta thấy các

công ty này thiên về lĩnh vực đầu tư có tính an toàn cao vì ngoài việc gửi tiền ở

ngân hàng, các công ty còn đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Hai công ty BHNT có

vốn đầu tư nước ngoài là Prudential và Bảo Minh CMG do tính chất nguồn vốn đầu

tư dài hạn nên cơ cấu đầu tư của Công ty này tập trung vào lĩnh vực đầu tư dài hạn

đến gần 90% trong tài sản đầu tư năm 2005 và tỉ lệ đầu tư ngắn hạn giảm dần qua

các năm.

Hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm dưới hình thức

góp vốn vào doanh nghiệp khác, đầu tư bất động sản còn khá khiêm tốn do sự đóng

băng của thị trường bất động sản trong giai đoạn suốt thời gian dài vừa qua và đầu

tư vào lãnh vực này lại khá rủi ro, đi ngược với các nguyên tắc bảo đảm an toàn

trong đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm. Vì các lý do trên, các DNBH

đang đầu tư rất thận trọng vào các loại hình này.

Như vậy, đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp trên TTBH thương mại hiện

nay là gửi ngân hàng và mua trái phiếu chính phủ. Trong khi đó, đầu tư cho vay và

góp vốn với các cơ sở đầu tư khác lại ở mức thấp, chưa đến 10%. Điều đó cho thấy

các DNBH hiện nay chưa thực sự tìm được kênh đầu tư vốn.

c) Về hiệu quả đầu tư

Đối với các công ty BHNT, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả

đầu tư tài chính là việc sử dụng hiệu quả nguốn vốn nhàn rỗi, hay nói một cách

khác, đó chính là lợi suất đầu tư tài chính từ dự phòng nghiệp vụ.

Doanh thu hoạt động tài chính – Chi khác hoạt động tài chính Lợi suất đầu tư = Dự phòng nghiệp vụ tài chính

Trong đó, chi khác hoạt động tài chính tính bằng chi phí hoạt động tài chính trừ đi

các dự phòng trích lập từ lãi đầu tư.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 58

Căn cứ trên số liệu của Bảo Việt Nhân Thọ - công ty bảo hiểm nhà nước duy

nhất và lớn nhất thị trường BHNT Việt Nam hiện nay, Công ty bảo hiểm AIA - một

công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và Công ty bảo hiểm Nhân thọ Bảo Minh

CMG là công ty liên doanh giữa Việt Nam và Úc để phân tích về hiệu quả đầu tư.

Bảng 2.12: Lợi suất đầu tư tài chính của công ty BHNT Bảo Việt, Công ty bảo

hiểm nhân thọ AIA và Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG

(Đơn vị: triệu đồng)

Lợi suất Doanh thu Chi phí khác Tỷ lệ lạm Dự phòng Công ty Năm đầu tư tài hoạt động hoạt động tài phát (%) nghiệp vụ chính (%) tài chính chính

2003 479.912 11.235 6.326.871 7,41 5,8

Bảo Việt 2004 650.816 15.076 8.448.992 7,64 7,8

2005 795.000 16.584 9.931.000 7,84 9,0

2003 21.589 1.625 292.682 6,79 5,8

AIA 2004 43.786 4.097 409.176 9,67 7,8

2005 79.164 8.401 497.985 14,21 9,0

2003 3.577 60 69.677 5,2 5,8

Bảo Minh 2004 8.203 146 115.816 7,0 7,8 CMG

Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm của Bảo Việt, AIA, Bảo Minh CMG

2005 21.808 1.035 176.419 11,8 9,0

Thông thường, tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản trung bình là dao động trong

khoản từ 4,5% đến 10%; và tỷ lệ này phải lớn hơn lãi suất kỷ thuật khi tính phí đối

với sản phẩm BHNT, thì DNBH mới đảm bảo đáp ứng được các cam kết tài chính

đối với người tham gia bảo hiểm, các doanh nghiệp có chỉ tiêu này thấp hơn lãi suất

kỹ thuật trong một thời gian dài thì có thể gặp khó khăn về tài chính trong tương lai.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 59

Ta thấy, lợi suất đầu tư tài chính qua bảng số liệu tăng dần chứng tỏ hiệu quả

đầu tư ngày càng cải thiện. Nếu so sánh với lãi suất kỹ thuật của các sản phẩm

BHNT là 5%/năm và lãi suất tiền gửi trung bình trong giai đoạn 2003-2005 là

8,28%/năm, thì tuy lợi suất đầu tư tài chính của các DNBH quan sát có cao nhưng

chưa thể hiện được hiệu quả đầu tư cao và chưa tương xứng với tiềm năng về nguồn

vốn đầu tư của doanh nghiệp.

Nhìn chung, tỉ suất lợi nhuận đầu tư của các DNBH hoạt động ở Việt Nam

còn khiêm tốn, không đều, phản ánh một số lượng tài sản lớn không sinh lời hoặc

sinh lời thấp trong tổng số tài sản của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận dao động từ

7% đến 15% . Lãi suất đầu tư trung bình của ngành bảo hiểm trong một số năm gần

đây đạt trên 7,8%. Trong đó, lãi suất đầu tư ngắn hạn từ 6,5 đến 7,5%, lãi suất đầu

tư trung và dài hạn bình quân đạt trên 8,5%. Đặc biệt, trong các lĩnh vực đầu tư thì

đầu tư vào trái phiếu Chính phủ đạt tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao nhất (từ 8% đến

9,5% tuỳ theo thời hạn và thời điểm đầu tư). Trong khi tỷ suất lợi nhuận này đối với

các doanh nghiệp niêm yết là trên 20% và đối với các ngân hàng thương mại là từ

15-35%. Các DMĐT vào liên doanh, cổ phiếu, tham gia vào công ty với tư cách là

cổ đông sáng lập, chưa có hiệu quả cao. Hầu hết lãi đầu tư là do lãi tiền gửi có kỳ

hạn đóng góp. Chính hiệu quả đầu tư chưa cao nên đã phần nào hạn chế khả năng

cạnh tranh của các doanh nghiệp BHNT với các hình thức huy động tiết kiệm khác.

Tuy nhiên, để đánh giá được hiệu suất sinh lợi thực của vốn đầu tư cần phải

tính đến chỉ số lạm phát. Việc đánh giá chất lượng của công tác đầu tư không thể

tách rời với việc so sánh tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế. Bởi vì, nếu lợi nhuận mang

lại từ đầu tư không đủ bù đắp vốn do lạm phát thì doanh nghiệp coi như đầu tư kém

hiệu quả. Bảng trên chỉ đưa ra các thông tin tham khảo về tỷ lệ lạm phát qua các

năm chứ không dùng làm cột mốc so sánh vì chúng ta không thể so sánh lợi nhuận

đầu tư của tất cả các khoản đầu tư với tỷ lệ lạm phát, vì hầu hết các DNBH khi đặt

vấn đề góp vốn liên doanh là nhằm vào việc thu lợi nhuận trong tương lai. Doanh

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 60

nghiệp sẵn sàng chấp nhận mức lỗ kỹ thuật trong giai đoạn đầu, vì vậy phải mất

nhiều năm tổng số tiền đầu tư mới có thể sinh lãi.

d) Về tổ chức hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm

Tổ chức hoạt động đầu tư trong các DNBH có vai trò quan trọng, quyết định

đến sự thành công của hoạt động đầu tư. Hình thức tổ chức cũng phần nào nói lên

tính chuyên nghiệp và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Yêu cầu tổ chức hoạt động

đầu tư là phải có kế hoạch, chương trình mục tiêu rõ ràng, phải có những bộ phận

chuyên môn hóa phù hợp với qui mô hoạt động.

Hình thức tổ chức hoạt động đầu tư của DNBH phụ thuộc vào nhiều yếu tố

trong đó chủ yếu là qui mô của doanh nghiệp, tính chất của nghiệp vụ bảo hiểm và

quy định pháp luật có liên quan của từng nước. Có 3 hình thức chủ yếu được các

DNBH trên thế giới sử dụng để tiến hành các hoạt động đầu tư của mình. Đó là,

đầu tư thông qua:

(cid:190) Phòng/trung tâm đầu tư, trực thuộc DNBH;

(cid:190) Thành lập một pháp nhân độc lập (dưới hình thức công ty đầu tư hay công ty

quản lý quỹ) do DNBH sở hữu toàn bộ hay nắm cổ phần chi phối; và

(cid:190) Ủy thác đầu tư.

Do tính chất đặc biệt quan trọng của hoạt động đầu tư đối với hoạt động kinh

doanh BHNT nên hầu hết các doanh nghiệp BHNT đều có bộ phận quản lý và điều

hành hoạt động đầu tư tương đối độc lập trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.

Cùng với sự tăng trưởng của hoạt động kinh doanh BHNT, khi nguồn kinh phí bảo

hiểm thu được đã đạt tới một mức đáng kể, các doanh nghiệp BHNT có xu hướng

tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh BHNT dưới hình thức thành

lập một công ty quản lý quỹ đầu tư chuyên nghiệp, độc lập với doanh nghiệp

BHNT. Khi đó, hầu hết số phí bảo hiểm do doanh nghiệp BHNT thu được sẽ được

chuyển cho công ty quản lý quỹ để quản lý và đầu tư trên cơ sở hợp đồng ủy thác

giữa hai công ty.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 61

Trên TTBH Việt Nam, trong suốt một thời gian dài, tại phần lớn các doanh

nghiệp, hoạt động đầu tư không được tách rời mà thường được giao cho bộ phận tài

chính kế toán thực hiện. Nhìn chung, các DNBH chưa có tổ chức đầu tư chuyên

nghiệp, hoạt động đầu tư chưa tập trung mà còn khá phân tán. Chỉ mới có Bảo Việt,

Bảo Minh và Prudential và một số ít doanh nghiệp có bộ phận đầu tư chuyên trách

và tương đối độc lập. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của Bảo Việt còn được hỗ trợ bởi

Công ty chứng khoán Bảo Việt. Gần đây, việc 3 công ty BHNT là Bảo Việt,

Prudential, Manulife được phép thành lập công ty quản lý quỹ là một bước đi đúng

nhằm nâng cao tính chuyên môn hóa và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Công ty

quản lý quỹ Manulife với số vốn điều lệ 5 tỷ đồng, Công ty quản lý quỹ đầu tư

Prudential Việt Nam với số vốn điều lệ là 23 tỷ đồng và quản lý tài sản có giá trị

650 triệu đô la cho Công ty bảo hiểm Prudential, và Công ty TNHH quản lý quỹ

đầu tư chứng khoán Bảo Việt vốn điều lệ 25 tỷ đồng. Sự ra đời của các Công ty

quản lý quỹ sẽ bảo đảm được tính an toàn và hiệu quả cao hơn trong hoạt động đầu

tư của các công ty BHNT vì các lý do sau đây:

(cid:131) Việc tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh BHNT dưới hình

thức thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ giúp cơ quan quản lý bảo hiểm giám

sát chặt chẽ hơn hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp BHNT, qua đó đảm bảo sự

an toàn về tài chính cho các công ty và bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo

hiểm. Ở nhiều quốc gia có ngành bảo hiểm và đầu tư tài chính phát triển thì việc

tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh BHNT dưới hình thức thành

lập công ty quản lý quỹ đầu tư là một yêu cầu bắt buộc của pháp luật.

(cid:131) Với trình độ chuyên sâu về quản lý hoạt động đầu tư theo phong cách

chuyên nghiệp, công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ góp phần làm tăng hiệu quả đầu tư

nguồn phí bảo hiểm do công ty BHNT chuyển giao. Bên cạnh đó, công ty quản lý

quỹ đầu tư độc lập còn là một kênh thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư khác

thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, kể cả niêm yết và bán các chứng chỉ

quỹ đầu tư trên TTCK.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 62

2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TẠO LẬP VÀ ĐẦU TƯ VỐN

CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM

2.3.1 Kết quả của hoạt động tạo lập vốn

Công tác tạo lập vốn của các DNBH có thể phân làm hai nguồn: Từ người tham gia

bảo hiểm thông qua doanh thu phí bảo hiểm và huy động từ nội bộ.

2.3.1.1 Thực trạng tạo lập vốn từ người tham gia bảo hiểm

Các DNBH muốn gia tăng được nguồn vốn đầu tư thì phải gia tăng được các

quỹ dự phòng nghiệp vụ. Nguồn quỹ này tăng theo quy mô doanh thu của doanh

nghiệp. Như vậy, cơ sở quan trọng nhất để tăng được lượng tiền đưa vào đầu tư là

phải tăng được doanh thu. Giữa doanh thu và quy mô quỹ dự phòng nghiệp vụ có

mối liên hệ hữu cơ với nhau. Thế nhưng, theo các số liệu đã dẫn chứng nói trên thì

tỷ trọng của doanh thu phí bảo hiểm trong GDP còn quá khiêm tốn. Các DNBH

chưa phát huy hết tiềm năng để gia tăng phí bảo hiểm. Tồn tại trên là do một số

nguyên nhân sau:

(cid:131) Năng lực của các DNBH còn hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu

chuyên gia tính phí bảo hiểm, chuyên giá đánh giá rủi ro; công nghệ thông tin chưa

theo kịp với sự phát triển công nghệ.

(cid:131) Các DNBH chưa có chiến lược phát triển kinh doanh, phát triển sản phẩm

một cách hiệu quả, nên chưa có hướng đầu tư thích hợp để mở rộng phạm vi hoạt

động, nâng cao doanh thu.

(cid:131) DNBH chưa thể hiện vai trò nòng cốt để giúp cho việc định hướng phát triển

thị trường, chưa tập trung nguồn lực cả về vốn và sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng

nhu cầu bảo hiểm cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.

(cid:131) Sản phẩm bảo hiểm chưa đa dạng phong phú, chất lượng phục vụ thấp. Các

doanh nghiệp chỉ tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm truyền thống, thế nhưng

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 63

doanh nghiệp cũng chưa qua tâm đến việc cải tiến những sản phẩm truyền thống;

chưa tập trung nghiên cứu và cho ra đời nhiều loại sản phẩm mới, cá biệt.

(cid:131) Một số doanh nghiệp kinh doanh vẫn còn tồn tại tư duy và thói quen kinh

doanh trong môi trường bao cấp, chưa nhận thức được vai trò của bảo hiểm, thể

hiện, mặc dù Nhà nước đã cho phép tính phí bảo hiểm vào giá thành, nhưng nhiều

doanh nghiệp không chủ động lập kế hoạch tham gia bảo hiểm để ổn định sản xuất

kinh doanh, phòng chống rủi ro. Điều này cũng làm hạn chế việc tăng doanh thu

bảo hiểm.

(cid:131) Hoạt động môi giới bảo hiểm chưa được đa dạng hoá. Chất lượng đại lý bảo

hiểm còn chưa mang tính chuyên nghiệp. Nhiều đại lý chưa xem việc khai thác bảo

hiểm là một công việc chính của mình – do thu nhập không đủ sống, nên chưa quan

tâm bồi dưỡng kiến thức bảo hiểm.

(cid:131) Thu nhập quốc dân trên đầu người thấp, nhận thức của các tổ chức cá nhân

về bảo hiểm thương mại còn hạn chế; Công tác tuyên truyền của các DNBH và của

Nhà nước chưa sâu rộng, thường xuyên. Hiện vẫn còn một phần lớn dân cư chưa

tham gia bảo hiểm, hoặc chưa hiểu rõ về bảo hiểm. Do đó đã ảnh hưởng đến việc

gia tăng phí bảo hiểm.

2.3.1.2 Thực trạng tạo lập vốn từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm

Để kinh doanh bảo hiểm có hiệu quả các công ty bảo hiểm phải mở rộng

mạng lưới hoạt động của mình. Đối với các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới, việc

mở rộng hoạt động đã vươn ra phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam các DNBH đã phát

triển kinh doanh trên phạm vi toàn quốc. Một công ty bảo hiểm mạnh thì số lượng

đơn vị thành viên càng nhiều, đồng thời các đơn vị trực thuộc của các thành viên

cũng gia tăng. Vấn đề tập trung được nguồn tiền kịp thời để thực hiện đầu tư là một

công tác quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh

đó, các công tác quản lý tài chính trong kinh doanh đối với các đơn vị trực thuộc,

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 64

nhằm nâng cao khả năng sinh lời của đồng vốn là việc làm luôn mang tính thời sự

đối với doanh nghiệp.

Hiện nay, do việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý còn hạn chế, nên

các doanh nghiệp chưa nắm bắt kịp thời số dư tiền mặt và tiền gửi thanh toán tại

từng đơn vị trực thuộc. Dẫn đến, hiệu quả công tác đầu tư vốn chưa cao. Đồng thời

do trình độ cán bộ quản lý phát triển chưa theo kịp với việc tốc độ tăng quy mô hoạt

động của doanh nghiệp, nên công tác quản lý tài chính còn nhiều bất cập.

Các tồn tại trên đây góp phần làm giảm hiệu quả của công tác huy động và

sử dụng vốn trong doanh nghiệp.

2.3.2 Những đánh giá chung trong việc quản lý và sử dụng vốn

2.3.2.1 Những thành tích

Kinh doanh bảo hiểm càng phát triển, dẫn đến vốn đầu tư trở lại nền kinh tế

của các doanh nghiệp bảo hiểm càng tăng. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã đóng góp

một nguồn tài trợ mới, tạo lập nguồn vốn lớn đáng kể̉ và ngày càng gia tăng cho nền

kinh tế trong giai đoạn mà nguồn tài trợ vốn là một nhu cầu bức xúc cho việc đầu tư

phát triển kinh tế – xã hội. Một số loại hình đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm

còn mang ý nghĩa chính trị xã hội. Xuất phát từ thực tế trên việc bảo toàn và phát

triển nguồn vốn nhàn rỗi trong dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm,

là một trong những vấn đề rất quan trọng, có tính chất quyết định trong việc nâng

cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường vốn, thu hút các

nguồn vốn nhỏ, lẻ tạo thành một luồng tiền lớn đem đầu tư trở lại nền kinh tế.

Bên cạnh đó, thu nhập hoạt động đầu tư chiếm một vị trí không nhỏ và có xu

hướng không ngừng tăng lên trong tổng thu nhập của DNBH.

2.3.2.2 Những tồn tại

(cid:131) Hoạt động đầu tư là hoạt động được các DNBH trên thế giới rất quan tâm,

thế nhưng ở nước ta hiện nay công tác này chưa được các doanh nghiệp quan tâm

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 65

đúng mức. Các DNBH chưa thực sự đánh giá đúng tầm quan trọng của đầu tư vốn,

do vậy trong thời gian dài chưa có DNBH nào thực hiện việc chuyên môn hóa đầu

tư. Mãi đến tháng 7 năm 2006 mới chỉ có 3 DNBH thành lập công ty quản lý quỹ đó

là Bảo Việt, Prudential Việt Nam và Manulife, còn lại các doanh nghiệp khác công

tác đầu tư được giao cho một bộ phận phòng ban hoặc kiêm nhiệm. Một số DNBH

có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động tương đối năng động trong các chiến lược chiếm

lĩnh thị phần song lại không có những chiến lược hữu hiệu về tài chính để sử dụng

hiệu quả nguồn quỹ dự phòng tăng lên với tốc độ cao.

(cid:131) Qui mô đầu tư còn nhỏ, tổng vốn đầu tư của ngành bảo hiểm chỉ chiếm 1,2%

đến 1,5% trong tổng vốn của nền kinh tế. Trừ Bảo Việt với số vốn 3.000 tỷ đồng và

Công ty BHNT Prudential với số vốn thực có 61 triệu đô la Mỹ, các DNBH khác

mới chỉ có đủ số vốn theo quy định của pháp luật. Số vốn thực có toàn thị trường

hiện nay là gần 4.000 tỷ đồng, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao

năng lực nhận bảo hiểm phù hợp với mức độ phát triển trung bình của thế giới. Quy

mô TTBH nước ta hiện nay còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và

tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Tổng doanh thu phí bảo hiểm mới chỉ đạt

2%GDP trong khi đó, chỉ số này ở các nước trong khu vực chiếm khoảng từ 2%-4%

(năm 2000: Trung Quốc đạt 1,8% GDP, Malaysia đạt 4,21%GDP, Đài Loan đạt

6,95% GDP, Thái Lan đạt 2,25%GDP, Singapore đạt 5,52% GDP…).

(cid:131) Nhìn chung hoạt động đầu tư vốn của các DNBH ở Việt Nam còn hạn chế, tỷ

trọng đầu tư dưới hình thức gửi tiền còn khá cao ( khoảng 80%), trong đó, tỷ trọng

các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn còn ở mức cao ( khoảng 70% trên tổng ngồn vốn

đầu tư). Đối với các nước phát triển, việc đầu tư vào TTCK chiếm trên 80% tổng số

tiền đầu tư vào nền kinh tế. Hoạt động đầu tư kinh doanh ở lĩnh vực này rất sôi

động. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam lĩnh vực kinh doanh chứng khoán tại các

DNBH chưa đầu tư tốt do một số nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Thị trường

vốn được niêm yết tại Việt Nam chỉ có 36 loại cổ phiếu với tổng số vốn của thị

trường khoản 2 tỉ USD và doanh số mua bán trung bình hàng ngày vào khoảng 5

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 66

triệu USD (số liệu tính đến giữa năm 2006). Thị trường vốn không được niêm yết

dự kiến lớn hơn thị trường đã niêm yết 5 đến 6 lần. Tuy nhiên, thị trường này hiện

nay có những nhược điểm lớn như tính minh bạch của khu vực kinh doanh chưa

được kiểm soát này rất thấp, giá cổ phiếu thì đã được công bố trên báo chí nhưng

nhiều nhà môi giới địa phương vẫn tùy nghi cung cấp bảng chào giá riêng của mình,

tỷ lệ hoa hồng môi có thể cực kỳ cao trong khoảng từ 5% đến 20%. Tiếp đến là tính

thanh khoản thấp của một số trái phiếu Chính phủ. Các công ty chứng khoán chỉ

thực hiện nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn đối với một số loại trái phiếu chính phủ

niêm yết. Nhiều DNBH mua trái phiếu Chính phủ và đợi đến ngày đáo hạn để nhận

được vốn, càng làm cho tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ thấp đi. Bên cạnh

đó còn có qui định mỗi nhà đầu tư chỉ được phép mở một tài khoản giao dịch lưu ký

chứng khoán tại một Công ty chứng khoán càng làm hạn chế việc đầu tư này của

DNBH. Trên thực tế, các nhà đầu tư có thể “lách luật” bằng cách sử dụng nhiều nhà

đầu tư có mối quan hệ với nhau đứng tên tài khoản giao dịch. Ngoài ra, việc miễn

thuế thu nhập đối với trái phiếu chính phủ chưa được quy định cụ thể, tùy vào từng

đợt phát hành. Điều này cũng một phần hạn chế việc đầu tư của doanh nghiệp vào

trái phiếu chínhh phủ.

(cid:131) Chưa tách biệt giữa đầu tư từ quỹ BHNT và phi nhân thọ. Xét về bản chất kỹ

thuật thì nguồn quỹ dự phòng của nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ phải được đầu

tư chủ yếu vào các loại đầu tư ngắn hạn. Tuy nhiên, trên thực tế các DNBH vẫn sử

dụng nguồn vốn này để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn. Việc không phân định

rõ rang nguồn vốn đầu tư trong từng loại hoạt động kinh doanh bảo hiểm sẽ dẫn đến

việc đánh giá hiệu quả hoàn toàn thiếu chính xác. Nếu đánh giá hiệu quả chung của

toàn bộ vốn đầu tư sẽ ảnh hưởng có thể là không tích cực đến các kết quả chia lãi

cho các chủ hợp đồng BHNT. Như vậy sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các

sản phẩm BHNT và về lâu dài sẽ là điều nguy hiểm đối với các DNBH kinh doanh

cả hai lĩnh vực phi nhân thọ và nhân thọ.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 67

(cid:131) Các DNBH chưa có chiến lược đầu tư một cách hiệu quả đó là xây dựng một

DMĐT tối ưu có thể mang lại một mức sinh lợi nhất định với rủi ro thấp nhất.

Khách hàng thiếu thông tin đặc biệt là khi tham gia vào những sản phẩm liên kết

giữa bảo hiểm và đầu tư.

(cid:131) Dù đã triển khai một cơ hội đầu tư mới có hiệu quả đó là cho vay theo hợp

đồng nhưng các doanh nghiệp BHNT vẫn chưa thực sự đầu tư khai thác thế mạnh

này.

(cid:131) Việc quản lý ngân quỹ các DNBH vẫn còn nhiều yếu kém nên chưa huy

động triệt để nguồn vốn vào hoạt động đầu tư. Một DNBH để có thể phát huy tối đa

các khoản tiền nhàn rỗi thì đòi hỏi phải có sự quản lý ngân quỹ một cách khoa học.

Tức là phải xác định được lượng tồn quỹ nhỏ nhất và nhanh chóng đưa tất cả các

khoản tiền dư thừa tạm thời vào đầu tư. Muốn làm được điều này đòi hỏi DNBH

phải có bộ phận kế toán quản trị và bộ phận quản lý ngân quỹ được chuyên môn

hóa. Thực tế hiện nay không có DNBH nào chú ý đến vấn đề quản lý này. Mặt

khác, do các DNBH có cấu trúc tổ chức phân tán trên phạm vi không gian toàn

quốc, nên việc tập trung nhanh chóng toàn bộ nguồn thu phí bảo hiểm là hết sức

khó khăn khi hệ thống quản lý của DNBH chưa mạnh.

(cid:131) Chính sách kiểm soát ngoại hối chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước thông qua

tỷ giá giao dịch trong biên độ, lãi suất trần đối với tiền gửi USD của các tổ chức

kinh tế và việc kiểm soát mua ngoại tệ có tác dụng hạn chế hiện tượng đô la hóa

trong nền kinh tế. Nhưng mặt khác, việc thực thi chính sách cứng nhắc cho mọi đối

tượng lại gây khó khăn và thiệt hại cho các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động

tại Việt Nam. Theo Nghị định 43/2001-NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Kinh

doanh bảo hiểm, các công ty bảo hiểm nước ngoài phải góp vốn điều lệ tối thiểu 10

triệu đô la và trích ra 500.000 USD để gửi vào một ngân hàng thương mại làm ký

quỹ bắt buộc. Trong thực tế một số công ty bảo hiểm đưa vào Việt Nam một lượng

vốn nhiều lần hơn mức quy định tối thiểu. Trong những năm đầu hoạt động, một

lượng lớn ngoại tệ được bán ra để trang trải các chi phí hoạt động ban đầu. Phần còn

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 68

lại được gửi vào các ngân hàng hưởng lãi suất trần theo quy định của Ngân hàng

Nhà Nước. Do kinh doanh ngày càng phát triển và có hiệu quả, một số công ty bảo

hiểm đã bắt đầu thu hồi các khoản lỗ lũy kế và có lãi tích lũy. Tuy nhiên chính sách

ngoại hối đã gây khó khăn cho việc quản lý và bảo toàn nguồn vốn điều lệ bằng

ngoại tệ, cụ thể:

- Các công ty bảo hiểm nước ngoài không được phép mua lại số ngoại tệ ban

đầu đã bán để khôi phục lại vốn gốc ngoại tệ và tăng cường khả năng thanh toán

bảo hiểm.

- Lãi suất trần 0,8%/năm cho tiền gửi USD tạo ra một lãi suất thực âm do mức

lạm phát hàng năm của Mỹ cao hơn 2%/năm. Hơn 5 năm qua, các ngân hàng

thương mại được hưởng lợi lớn từ chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất

trần. Theo xu hướng tăng lãi USD, sự chênh lệch này càng bất hợp lý.

Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những hạn chế nêu trên,

trong đó có thể chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

a) Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư của các DNBH cần tiếp

tục được bổ sung, hoàn chỉnh, bảo đảm sự nhất quán giữa Luật kinh doanh bảo

hiểm và các luật chuyên ngành khác

Theo Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, lĩnh vực

đầu tư của DNBH được quy định khá rộng và không có sự phân biệt đối xử giữa

DNBH trong nước và DNBH có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, khi áp dụng vào

từng lĩnh vực đầu tư cụ thể thì đều gặp vướng mắc. Cụ thể là:

- Đã 8 năm sau khi Luật các tổ chức tín dụng được ban hành nhưng vẫn chưa có

hướng dẫn cụ thể về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng

trong đó có DNBH. Thực tế này một mặt buộc các DNBH phải sử dụng hình thức

cho vay ủy thác do đó, mất thêm chi phí và làm giảm hiệu quả cho vay. Mặc khác,

nó cũng khiến cho cơ sở pháp lý của hoạt động cho vay theo hợp đồng chưa thật

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 69

đầy đủ, rõ ràng mặc dù đây là một hình thức đầu tư không thể thiếu của các doanh

nghiệp BHNT tại nhiều nước trên thế giới.

- Quy định của Luật Đất đai hạn chế quyền sở hữu và kinh doanh bất động sản,

nhận tài sản đảm bảo là bất động sản của các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước

ngoài cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp

của các DNBH 100% vốn đầu tư nước ngoài, trong khi những doanh nghiệp này

hiện đang chiếm vị trí quan trọng trên thị trường BHNT xét về số lượng doanh

nghiệp cũng như thị phần doanh thu phí bảo hiểm.

- Ngoài ra, do hoạt động đầu tư từ số phí bảo hiểm thu được tại Việt Nam của các

DNBH có vốn đầu tư nước ngoài vẫn được coi là đầu tư nước ngoài theo quy định

hiện hành nên thủ tục đầu tư còn phức tạp, thậm chí trong nhiều trường hợp còn

phải xin giấy phép cho các dự án đầu tư như đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Mặt khác, các DNBH có vốn ĐTNN cũng không được hưởng ưu đãi đầu tư theo

Luật khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời, phải chịu những khống chế về tỷ lệ

đầu tư tối đa không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư.

b) Môi trường đầu tư chưa thuận lợi

Nhìn chung, môi trường đầu tư của các DNBH tại Việt Nam còn chưa thuận

lợi. Các thủ tục và thông tin liên quan đến đầu tư bất động sản còn ít được công

khai; số lượng các dự án đầu tư hiệu quả, an toàn và khả thi còn chưa nhiều; những

thất thoát và chất lượng yếu kém trong đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục là những

yếu tố hạn chế đầu tư trực tiếp của các DNBH vào các dự án đầu tư. Bên cạnh đó,

thị trường tiền tệ và TTCK chưa phát triển, số lượng các doanh nghiệp niêm yết còn

ít, thiếu các loại trái phiếu chính phủ với thời hạn dài (từ 10 năm trở lên), với lãi

suất hợp lý, phương thức thanh toán linh hoạt… cũng cản trở đến sự tham gia của

các DNBH trên TTCK

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 70

c) Các DN chưa có sự quan tâm đúng mức đến hoạt động đầu tư

Có một thực tế là phần lớn các DNBH hoạt động trên thị trường đều có lãi từ

hoạt động khai thác bảo hiểm. Do đó, các doanh nghiệp chưa có sự quan tâm thích

đáng đến hoạt động đầu tư, thể hiện ở cơ cấu tổ chức đầu tư đơn giản, phân tán và

chưa được chuyên môn hóa. Trong suốt một thời gian dài, bên cạnh hoạt động khai

thác bảo hiểm được tập trung phát triển, số lượng sản phẩm mới liên tục gia tăng,

đến nay đã có trên 700 sản phẩm, số lượng đại lý cũng liên tục tăng thì thị trường

đầu tư lại chưa có sự phát triển tương xứng, DMĐT vẫn đơn điệu, cán bộ làm công

tác đầu tư chưa theo kịp yêu cầu của thị trường, còn thiếu các chuyên gia đầu tư có

trình độ và kinh nghiệm; việc ra quyết định đầu tư, thực hiện quy chế đầu tư còn

buông lỏng…

Kết luận chương 2:

Nhìn chung, hoạt động đầu tư của các DNBH trong thời gian qua về cơ bản

đã đáp ứng các yêu cầu an toàn, đúng pháp luật, đảm bảo tính thanh khoản, nguồn

vốn đầu tư tăng trưởng đều và ổn định và qua đó, đã hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động

bảo hiểm gốc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được thì hiệu quả

đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn còn thấp nguyên nhân là do thị

trường tài chính ở Việt Nam còn trong giai đoạn đầu phát triển, môi trường đầu tư

chưa hoàn thiện. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của doanh nghiệp bảo

hiểm nhân thọ nói riêng là một vấn đề đáng quan tâm.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 71

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN

VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY

BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM

3.1 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO

HIỂM VIỆT NAM

3.1.1 Theo xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế

Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và hội nhập hứa

hẹn nhiều cơ hội tiềm năng cho ngành bảo hiểm. Để tận dụng cơ hội này, ngành bảo

hiểm xác định xu thế phát triển TTBH theo quan điểm hội nhập là một xu hướng tất

yếu.

Thứ nhất, Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc

mở cửa bắt đầu từ năm 1986. Gần đây, xu thế này ngày càng được khẳng định khi

Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO)

và Qui chế Thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) cũng đã được

Quốc hội Mỹ thông qua. Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Ban công tác về

việc gia nhập WTO của Việt Nam, cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại

nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ tái bảo hiểm, dịch vụ

bảo hiểm đối với vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ (định phí,

tư vấn...). Cho phép các tổ chức, cá nhân Việt Nam khi đi ra nước ngoài được sử

dụng dịch vụ bảo hiểm nước ngoài. Và không còn bất cứ hạn chế nào đối việc thành

lập pháp nhân của công ty bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ kinh doanh dịch vụ bảo

hiểm bắt buộc sẽ chỉ được mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào đầu năm

2008.

Thứ hai, do nguyên tắc phân tán, chia sẽ rủi ro lẫn nhau trong bảo hiểm dẫn

đến bất kỳ một TTBH của bất cứ quốc gia nào đều có mối quan hệ tái bảo hiểm với

TTBH quốc tế. Do đó, hoạt động của các TTBH trên thế giới gắn kết nhau, liên kết

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 72

và hợp tác với nhau để duy trì sự ổn định của toàn hệ thống TTBH thế giới. Một

TTBH phát triển sẽ có mối quan hệ với rất nhiều TTBH trên thế giới là điều tất

nhiên.

3.1.2 Theo mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam

Phát triển TTBH toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo

hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; đảm bảo cho các tổ chức cá nhân được thụ

hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực

trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực

tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp

ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động

kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc,

chuẩn mực quốc tế.

Bằng quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ra ngày 29 tháng 8 năm 2003, Chính

phủ đã đưa ra chiến lược phát triển TTBH Việt Nam đến năm 2010. Chiến lược

phát triển này có thể lượng hóa bằng tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân

khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và

BHNT tăng khoảng 28%/năm.Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm

chiếm 2,5% GDP năm 2005 và 4,2% năm 2010. Đến năm 2010 tổng dự phòng

nghiệp vụ của các DNBH tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế

tăng khoảng 14 lần so với năm 2002. Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000

người vào năm 2010. Nộp ngân sách Nhà nước giai đoạn 2003-2010 tăng bình quân

20%/năm.

Trong điều kiện hội nhập tất yếu đã và đang tiếp tục diễn ra, để thực hiện

được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên đây đòi hỏi phải có môi trường tài

chính tốt, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải phát triển, các DNBH phải nâng cao

được hiệu quả tạo lập và đầu tư vốn.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 73

3.1.3 Những cơ hội và thách thức

Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đem đến cho toàn bộ nền kinh tế nước

ta nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng những cơ hội và thách thức mới. Thực

hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, TTBH Việt Nam sẽ chịu tác

động mạnh cả về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói

chung. Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa TTBH trong việc Việt

Nam cam kết gia nhập WTO có thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích

cực và tiêu cực.

Về tác động tích cực của cam kết đối với hoạt động của thị trường, về cơ bản

sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo

hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước thể hiện qua

các điểm như:

(cid:131) Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các

công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. Sự

tham gia của công ty có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thức tỉnh các doanh nghiệp

bảo hiểm trong nước; đồng thời, phá vỡ thế độc quyền bằng việc gia tăng nhanh

chóng số lượng nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ không

còn nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, đẩy thị trường bảo hiểm tiến gần hơn đến

một thị trường cạnh tranh lành mạnh; kích thích việc mở rộng danh mục sản phẩm,

giúp ngành bảo hiểm thực hiện tốt hơn chức năng huy động vốn và bảo vệ các đối

tượng trong nền kinh tế trước rủi ro.

(cid:131) Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng

chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm

trong nước. Các công ty bảo hiểm trong nước có điều kiện tiếp thu ở một mức độ

nhất định những kiến thức và kỹ năng chuyên ngành của các công ty bảo hiểm nước

ngoài. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh lớn hơn buộc các công ty bảo hiểm trong

nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên,

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 74

ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo được lợi thế với các doanh nghiệp bảo hiểm

nước ngoài.

Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm

cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng

quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thể hiện rõ nét ở những điểm sau:

(cid:131) Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất ở mọi

nước bắt đầu tiến hành mở cửa thị trường.

(cid:131) Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi

sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực

trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Do đó, nếu

các công ty bảo hiểm trong nước không có những điều chỉnh liên quan đến chính

sách nhân sự trong thời gian tới, sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước các công ty

100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.

(cid:131) Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối

với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi

người tiêu dùng; khả năng giải quyết tranh chấp; thị trường bị chia cắt manh mún và

vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống.

Bên cạnh những cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO, vẫn còn những khó

khăn nhất định mà ngành bảo hiểm Việt Nam đang phải đối mặt:

(cid:131) Vị trí của ngành bảo hiểm Việt Nam vẫn chiếm thứ hạng khá khiêm tốn

trong khu vực và thế giới (đứng thứ 55/88 thế giới và 16/25 khu vực Châu Á về

doanh thu phí bảo hiểm – theo thống kê của sigma số 2/2006). Công nghệ của bảo

hiểm các nước trong khu vực đang trên đà phát triển nhanh, nhiều nước đã triển

khai được kênh phân phối sản phẩm qua ngân hàng và thu được kết quả khả quan

như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan,

Philipines…Trong khi đó, việc triển khai kênh phân phối sản phẩm qua ngân hàng ở

Việt Nam được xếp dưới các nước kể trên trong bảng xếp hạng.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 75

(cid:131) Các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục chiến dịch thu hút tiền gửi tiết kiệm

thông qua tăng lãi suất và khuyến mại sẽ gây khó khăn không nhỏ cho BHNT. Các

hợp đồng khai thác mới sẽ tăng chậm lại và rất có thể tổng số tiền bảo hiểm của các

hợp đồng bảo hiểm khai thác mới sẽ tiếp tục giảm đi. Trong năm 2005, mặc dù tổng

số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới tăng 3,27% so với năm 2004 song tổng số tiền

bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm khai thác mới giảm 5,73% so với năm 2004.

Tổng số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới đạt 820.000 hợp đồng, tăng 26.000 hợp

đồng so với năm 2004 trong khi tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng khai thác

mới này chỉ đạt 20.626 tỷ đồng, giảm 1.253 tỷ đồng so với năm 2004. Bình quân số

tiền bảo hiểm của hợp đồng khai thác mới trong năm 2005 cũng giảm 2,4 triệu đồng

tương ứng mức giảm 8,7% so với năm 2004. Bên cạnh đó, bảo hiểm y tế tự nguyện

đang được phép triển khai rộng rãi, các đơn vị bảo hiểm y tế đang đào tạo đại lý và

bán bảo hiểm từ đầu năm 2006. Theo nhận định của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam,

đây là lực lượng cạnh tranh quyết liệt với BHNT và nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn con

người.

(cid:131) Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, điều kiện và cơ hội

lưu chuyển vốn đầu tư của các DNBH nói chung và của BHNT nói riêng chưa có

hiệu quả, phạm vi đầu tư còn hẹp, cơ hội đầu tư còn quá ít. Hiện trạng chậm phát

triển và tình hình ảm đạm trên TTCK những năm trước và sự phát triển theo xu thế

đám đông của TTCK trong năm nay vẫn chưa thể là một kênh đầu tư vốn hấp dẫn

đối với các DNBH. Thêm vào đó, số dự án kêu gọi góp vốn cổ phần, góp vốn liên

doanh đảm bảo mức độ an toàn và khả năng sinh lời hợp lý không nhiều. Trong khi

đó, về phía các DNBH thì số lượng các sản phẩm đầu tư hoàn thiện, phù hợp với

đặc thù kinh doanh bảo hiểm vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, hình thức đầu tư chủ

yếu của các DNBH hiện nay vẫn là gửi tiền ngân hàng có kỳ hạn và mua trái phiếu

Chính phủ. Điều này đã hạn chế hiệu quả đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty

bảo hiểm.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 76

Song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù

hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường.

3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ

HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO

HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM

3.2.1 Các giải pháp ở tầm vĩ mô

Thứ nhất, về khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý nhà nước để đảm bảo sự

phát triển ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn

thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm:

(cid:131) Bổ sung, sửa đổi một số qui định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của

các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài

chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư

có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm

Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm

tra việc cho vay theo hợp đồng BHNT, nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng

đối tượng, tránh thất thoát tài sản… Mặc khác, cần nghiên cứu để tiến tới áp dụng

quy định về định giá DMĐT nhằm xác định chính xác chất lượng đầu tư và gắn chất

lượng đầu tư với khả năng thanh toán của DNBH. Các qui định này giúp doanh

nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro, đồng thời

hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng.

(cid:131) Thống nhất quan điểm là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư vốn chủ sở hữu, quỹ

dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm gắn bó mật thiết với nhau trong hoạt động của

DNBH. Vì vậy, DNBH bị chi phối bởi Luật kinh doanh bảo hiểm, chịu sự giám sát

của Bộ tài chính (cơ quan quản lý trực tiếp) hay bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản

lý nhà nước khác nếu như họ kinh doanh chứng khoán, đầu tư bất động sản, cho

vay…Cũng cần sớm ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư từ nguồn vốn

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 77

chủ sỡ hữu nhằm đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng an toàn, hiệu quả và đảm

bảo khả năng thanh toán của DNBH.

(cid:131) Cần có văn bản hướng dẫn chi tiết cho các DNBH trong hoạt động đầu tư về

mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiền ngân hàng, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh

nghiệp, kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua ngân hàng. Các văn

bản đảm bảo tính rõ ràng minh bạch để doanh nghiệp biết mình được làm và phải

làm những gì, các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng kiểm tra giám sát và đỡ có sự

chồng chéo, hiểu lầm giữa các cơ quan tài chính, chứng khoán, bất động sản, ngân

hàng, thuế vụ.

(cid:131) Cần thay đổi và hoàn thiện những quy định về đầu tư vốn của các DNBH.

Hiện nay, Bộ tài chính chưa có hướng dẫn cụ thể về giới hạn an toàn hoạt động đầu

tư vào từng loại hình như: tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu không bảo lãnh, đầu

tư vào cổ phiếu đã được niêm yết, chưa niêm yết; tỷ lệ ủy thác cho vay các doanh

nghiệp trong cùng một ngành; tỷ lệ đầu tư kinh doanh bất động sản… Có thể nói qui

định đầu tư hiện nay của Chính phủ cho phép doanh nghiệp BHNT được phép đầu

tư tối đa 50% dự phòng kỹ thuật vào cổ phiếu và 40% vào bất động sản. Những quy

định này là quá mạo hiểm, không đáp ứng nguyên tắc an toàn và trong giai đoạn

này là phi thực tế. Trong giai đoạn trước mắt cần quy định cụ thể: không nên cho

phép các DNBH được đầu tư quá 5% tổng giá trị quỹ dự phòng vào một loại chứng

khoán được niêm yết và 1% chứng khoán không được niêm yết do một tổ chức phát

hành. Đồng thời nên khống chế tỷ lệ đầu tư vốn vào bất động sản: không quá 20%

vốn đầu tư và mỗi bất động sản không chiếm quá 1% giá trị vốn đầu tư. Sỡ dĩ phải

khống chế ở mức thấp tỷ lệ đầu tư vốn của các DNBH vào hai loại hình này vì hiện

nay thị trường cổ phiếu và thị trường bất động sản có nhiều biến động nên mức rủi

ro khá cao. Ngoài ra, luật kinh doanh bảo hiểm và các Nghị định hướng dẫn chỉ quy

định đến tỷ lệ đầu tư tối đa trên nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ, sẽ khó

khăn trong tính toán. Nên có qui định cụ thể tỷ lệ từng DMĐT trong tổng nguồn

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 78

vốn đầu tư, vì ngoài vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ các DNBH còn sử

dụng các nguồn vốn khác để đầu tư.

(cid:131) Nhanh chóng phối hợp với các cơ quan chức năng như Ngân hàng Nhà nước,

Bộ Kế hoạch và Đầu tư… để xây dựng, sớm ban hành và tổ chức thực hiện các quy

định hướng dẫn về hoạt động cho vay của các tổ chức tính dụng phi ngân hàng; đơn

giản hóa các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư bất

động sản; nâng dần và đi tới xóa bỏ các hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ

góp vốn của các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong

nước.

(cid:131) Về phía Ngân hàng Nhà nước nên áp dụng một chính sách ngoại hối linh

hoạt cho các công ty bảo hiểm nước ngoài như: cho phép công ty bảo hiểm nước

ngoài mua lại số ngoại tệ gốc đã bán cho các ngân hàng thương mại để bảo toàn

nguồn vốn ngoại tệ ban đầu; không áp dụng lãi suất trần đối với tiền gửi ngân hàng

USD; cho phép các công ty bảo hiểm được tham gia mua các loại trái phiếu chính

phủ và chứng khoán khác bằng ngoại tệ.

(cid:131) Cho phép những DNBH lớn thành lập Ngân hàng thương mại và các Ngân

hàng thương mại thành lập công ty bảo hiểm. Họ sẽ trở thành tập đoàn tài chính

mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và thế giới.

(cid:131) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường,

bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội

dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của

giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý,

môi giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động

cạnh tranh, đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo

hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm.

(cid:131) Để thực hiện các cam kết gia nhập WTO, bổ sung các quy định về chi nhánh

trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các qui định mang tính

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 79

bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng,

các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn thiện các

điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép

theo từng trường hợp cụ thể.

Thứ hai, phát triển TTCK, tạo môi trường thu hút đầu tư quỹ bảo hiểm.

(cid:131) Tăng cường số lượng và chất lượng các loại chứng khoán niêm yết trên thị

trường. Số lượng các chứng khoán quá ít ỏi trên thị trường cũng khiến các nhà đầu

tư trong nước chưa có được nhiều sự lựa chọn để thay thế cho hình thức đầu tư vào

tiền gửi truyền thống. TTCK cũng cần có thêm nhiều loại trái phiếu Chính phủ với

nhiều kỳ hạn để DNBH dễ dàng lựa chọn. Vì vậy, để gia tăng số lượng chứng khoán

niêm yết trên thị trường Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh

nghiệp Nhà nước, tổng công ty, ngân hàng; rút ngắn thời gian cổ phẩn hóa và việc

niêm yết trên TTCK. Đẩy mạnh và khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái

phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình…

(cid:131) Thành lập và phát triển thị trường giao dịch phi tập trung OTC (Over The

Counter). Đối với loại cổ phiếu của các công ty cổ phần chưa đủ tiêu chuẩn niêm

yết sẽ được giao dịch trên thị trường riêng OTC. Đây là thị trường mua bán trực tiếp

giữa các nhà đầu tư hoặc thông qua môi giới bên ngoài sàn giao dịch. Chúng ta có

thể cho phép tiến hành giao dịch trong những ngày nhất định nhằm đa dạng hóa các

loại cổ phiếu trên TTCK. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay hình thức hoạt động này

vẫn đang diễn ra nhưng chưa được công nhận.

(cid:131) Ngoài việc qui định các ngân hàng thương mại được cầm cố và thế chấp

những giấy tờ có giá thì Ngân hàng trung ương cũng cần có những văn bản hướng

dẫn cụ thể trong việc thực hiện, thanh lý, chuyển nhượng các giấy tờ có giá khác

(bao gồm cổ phiếu niêm yết và cổ phiếu chưa niêm yết trên thị trường OTC) để các

ngân hàng này không còn e dè và quan tâm nhiều hơn đến loại tài sản đặc biệt này.

Điều này sẽ góp phần không nhỏ trong việc tạo thêm sự sôi động của TTCK.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 80

Thứ ba, thành lập các tổ chức đánh giá tín nhiệm công ty và cung cấp thông tin

cho nhà đầu tư.

Để đảm bảo hàng hóa trên TTCK Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng,

cần phải có sự tham gia của các tổ chức định mức tín nhiệm để đánh giá và xếp

hạng tín nhiệm cho các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường, từng bước hòa nhập

TTCK Việt Nam theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó giúp cho các DNBH có cơ sở

đưa ra quyết định đầu tư vào các chứng khoán trong DMĐT của mình. Tổ chức xếp

hạng tín nhiệm là một định chế trung gian độc lập, là một công cụ tài chính quan

trọng trong việc phát triển thị trường tài chính. Hệ số tín nhiệm là đánh giá hiện thời

về khả năng và tính sẵn sàng của người đi vay về việc hoàn trả đúng hạn gốc và lãi

của một khoản nợ nhất định, nó là kết quả của sự tổng hợp các rủi ro hệ thống và

không hệ thống của nhà phát hành trong thời hạn thanh toán món nợ. Như vậy, nếu

nhà phát hành có hệ số tín nhiệm càng cao sẽ tạo được sự tin tưởng cao của các nhà

đầu tư và thu hút được nhiều nhà đầu tư mua trái phiếu của mình. Hệ số tín nhiệm

còn cho phép nhà phát hành xác định mức lãi suất trái phiếu hợp lý, vừa đảm bảo

phản ánh mức độ rủi ro vừa đảm bảo khả năng thanh toán của nhà phát hành. Hệ số

tín nhiệm càng cao thì tỷ lệ lãi suất càng giảm, có lợi cho nhà phát hành. Định mức

tín nhiệm và công ty định mức tín nhiệm là một khái niệm và một mô hình còn mới

ở Việt Nam nhưng trong quá trình phát triển TTCK nói riêng rất cần đến vai trò của

hệ thống trung gian này. Vì vậy, Chính phủ ngay từ bây giờ nên quan tâm và tạo

điều kiện để tổ chức ngày sớm ra đời và hoạt động.

Thứ tư, xây dựng và tính toán hệ số beta (β) cho các công ty niêm yết nhằm đo

lường rủi ro trong quản lý DMĐT của các DNBH.

Tại các quốc gia phát triển việc đo lường rủi ro của danh mục các chứng khoán

căn cứ vào hệ số beta của từng chứng khoán trong danh mục đó khi áp dụng các mô

hình định giá tài sản vốn CAPM, mô hình kinh doanh chênh lệch giá APT. Vì vậy,

để từng bước đưa thị trường tài chính Việt Nam dần hội nhập vào thị trường tài

chính thế giới, thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần đưa khái niệm và cách tính

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 81

toán hệ số beta cho các đối tượng khi tham gia vào TTCK để các đối tượng này

nhận định được rủi ro của từng chứng khoán khi đưa ra quyết định đầu tư. Đặc biệt,

cần qui định trong báo các tài chính cần đưa thêm chỉ tiêu hệ số betaβ như là một

trong những chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Mỗi chứng

khoán đều có một mức rủi ro nhất định và như thế rủi ro của từng chứng khoán có

một tác động nhất định vào rủi ro của một danh mục đã được đa dạng hóa. Điều này

có nghĩa là cần thiết phải đo lường rủi ro thị trường của chứng khoán đó bằng cách

đo lường độ nhạy cảm của chứng khoán đó đối với các biến động thị trường. Độ

nhạy cảm này gọi là betaβ.

Ở Việt Nam, để tính toán được hệ số betaβ của từng cổ phiếu niêm yết, cần thiết

phải xác định được phương sai của danh mục thị trường. Hiện nay, trên TTCK số cổ

phiếu được niêm yết còn ít với hầu hết các công ty này thuộc qui mô vừa và nhỏ,

chỉ hoạt động trong một vài lĩnh vực của nền kinh tế, với số chứng khoán ít, qui mô

vốn nhỏ và lĩnh vực hoạt động đơn điệu như vậy có thể sẽ không phản ánh được rủi

ro chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ cần thiết nhanh chóng đưa các

doanh nghiệp có qui mô lớn thuộc đa ngành với lĩnh vực hoạt động khác nhau cổ

phần hoá và niêm yết trên TTCK để tính toán hệ số beta của từng chứng khoán

riêng lẻ mới phản ánh chính xác rủi ro của nó với sự thay đổi của thị trường, giúp

cho việc quản lý DMĐT tốt hơn.

Thứ năm, xây dựng và phát triển các loại chứng khoán phái sinh.

Chứng khoán phái sinh là một loại tài sản tài chính có dòng tiền trong tương lai

phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản khác (gọi là tài sản cơ sở).

Từ khi ra đời và hoạt động, thị trường Việt Nam mặc dù đã thu được nhiều kết

quả đáng khích lệ nhưng một trong những nhược điểm lớn nhất của nó là hàng hóa

trao đổi trên thị trường còn chưa đa dạng và tuyệt nhiên chưa có một chứng khoán

phái sinh nào được giao dịch thứ cấp trên TTCK cho dù đã có những giao dịch sơ

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 82

cấp đã ký kết. Vì vậy, trong giai đoạn sắp tới, Chính phủ cần tạo điều kiện để sớm

hình thành và đưa các loại chứng khoán phái sinh vào giao dịch.

Thứ sáu, hoàn thiện qui định pháp lý về trích lập dự phòng nghiệp vụ BHNT

Về lãi suất kỹ thuật, theo qui định hiện hành lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi

suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin

phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng cho tất cả các sản phẩm BHNT

là không phù hợp như đã phân tích ở phần 2.2. Vì vậy, Bộ tài chính cần xem xét

đưa ra nhiều mức giới hạn hơn về lãi suất kỹ thuật tương ứng với từng thời hạn của

hợp đồng BHNT. Ví dụ: hợp đồng BHNT có thời hạn từ 5 đến 10 năm, lãi suất kỹ

thuật tối đa là 70% lãi suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm; hợp đồng

BHNT có thời hạn trên 10 năm đến 15 năm thì lãi suất kỹ thuật tối đa là 85% lãi

suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm… Có như vậy mới phân biệt được

quyền lợi của chủ hợp đồng khi tham gia các hợp đồng BHNT với nhiều thời hạn

khác nhau, khi chủ hợp đồng tham gia với thời hạn càng dài thì càng có lợi.

Về bảng tỷ lệ tử vong: cơ quan quản lý cần nghiên cứu và đưa ra bảng tỷ lệ tử

vong chuẩn dựa trên cơ sở thống kê của dân số Việt Nam. Trên cơ sở bảng tỷ lệ tử

vong này, các công ty BHNT sẽ điều chỉnh theo kinh nghiệm của từng công ty

mình.

Về dự phòng chia lãi: các công ty bảo hiểm khi tính phí đã chọn mức lãi suất kỹ

thuật rất thấp để đảm bảo nguyên tắc thận trọng và nếu lãi suất đầu tư thực tế lớn

hơn lãi suất kỹ thuật thì khoản chênh lệch này hình thành nên lợi nhuận của các

công ty BHNT được gọi là lãi tài chính. Các công ty bảo hiểm phải chia lại một

phần lãi này cho chủ hợp đồng. Hiện nay, ở hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ,

đến ngày kỷ niệm hợp đồng, khách hàng được nhận một thông báo lãi chia tích lũy

cho đến thời điểm đó, nhưng chưa được biết con số chính xác được chia và với tỷ lệ

bao nhiêu. Vì vậy cơ quan quản lý cần qui định trên thông báo kỷ niệm hợp đồng

cần nêu rõ những nội dung: lãi suất kỹ thuật, lãi suất đầu tư thực tế, lãi tài chính

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 83

(chênh lệch giữa lãi suất đầu tư tài chính với lãi suất kỹ thuật), tỷ lệ chia lãi tài

chính.

Có như vậy thì người được bảo hiểm mới hiểu được quyền lợi của mình như thế

nào, đã thoả đáng chưa. Từ đó, có sự so sánh giữa các công ty BHNT và đây cũng

chính là một trong những phương thức cạnh tranh mới trong thời điểm thị trường

BHNT ở Việt Nam hiện nay

3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm

Thứ nhất, chuyên môn hóa hoạt động đầu tư bằng cách thành lập công ty đầu

tư chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư

Bảo hiểm có vai trò là một định chế tài chính trung gian, tham gia vào thị trường

tài chính với tư cách là một nhà đầu tư lớn và có tổ chức. Tuy nhiên, thực tế ở Việt

Nam trong thời gian qua vai trò này của bảo hiểm lại khá mờ nhạt bởi vì việc đầu tư

nguồn vốn nhàn rỗi từ ngành bảo hiểm trở lại nền kinh tế qua các hình thức cổ

phiếu, trái phiếu chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu đầu tư của các công ty bảo

hiểm trong khi đó tỷ trọng đầu tư dưới hình thức gởi tiền tại các ngân hàng chiếm tỷ

trọng chủ yếu. Như vậy, vô hình chung, vai trò trung gian tài chính của ngành bảo

hiểm được chuyển giao cho ngân hàng. Một trong những nguyên nhân của vấn đề

này là trong thời gian qua, các DNBH chưa thực sự chú trọng đến công tác đầu tư

và chưa chuyên môn hóa trong hoạt động đầu tư. Trong năm 2004, với sự ra đời của

Quyết định 73 về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư

chứng khoán và Công ty quản lý quỹ, đây là cơ sở pháp lý cho phép các công ty bảo

hiểm có thể chuyên môn hoá hoạt động đầu tư của mình bằng cách lập quy đầu tư

và công ty quản lý quỹ. Do đó, các DNBH có đủ điều kiện về vốn, qui mô dự phòng

lớn thì nên thành lập các Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ để chuyên môn hóa

hơn nữa hoạt động đầu tư và tham gia vào TTCK một cách tích cực hơn. Sự hình

thành các quỹ đầu tư độc lập của các DNBH một mặt sẽ góp phần tạo nên các trung

tâm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nhỏ thuộc các thành phần kinh tế của các

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 84

tầng lớp dân cư thành nguồn vốn lớn, ổn định để tham gia các hoạt động đầu tư

trong nền kinh tế. Hơn nữa, công cụ đầu tư chủ yếu của quỹ đầu tư là chứng khoán,

vì vậy các quỹ đầu tư của DNBH còn có vai trò thúc đẩy sự phát triển của TTCK.

Thứ hai, các DNBH có quy mô vừa và nhỏ nên chọn dịch vụ ủy thác đầu tư để

quản lý nguồn vốn

Đối với các công ty bảo hiểm có quy mô nhỏ chưa để điều kiện để thành lập

Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ thì có thể sử dụng dịch vụ ủy thác đầu tư vốn.

Hiện nay, trên thị trường đã xuất hiện hàng loạt các công ty đầu tư chứng khoán

ngoài việc thực hiện chức năng đầu tư vốn cho chính mình vào TTCK, các công ty

này còn cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới và đầu tư tín thác.

Đặc trưng của đầu tư ủy thác là người đầu tư một cách gián tiếp thông qua một

công ty hoặc một quỹ đầu tư chuyên nghiệp được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư.

Sau khi người đầu tư giao vốn cho người đầu tư ủy thác, họ mất quyền ra các quyết

định đầu tư. Còn người đầu tư ủy thác sẽ toàn quyền ra các quyết định đầu tư để

mang lại lợi nhuận. Lợi nhuận thu được của người đầu tư là thu nhập sau khi trừ đi

phí ủy thác và các khoản chi phí khác.

Thứ ba, xây dựng DMĐT tối ưu cho các DNBH

Mục tiêu của đầu tư là sinh lợi. Việc sinh lợi là kỳ vọng gắn liền với đầu tư. Mặt

khác, lợi nhuận cũng đi liền với rủi ro trong đầu tư. Trên thị trường mỗi khi nhà đầu

tư muốn tăng thêm lợi suất kỳ vọng phải trả giá bằng khả năng mức độ rủi ro tăng

theo. Các tài sản tài chính nhất là các cổ phiếu thường hàm chứa nhiều loại rủi ro,

nhà đầu tư không thể xét đoán một cách đơn giản để lựa chọn chúng. Đối với

DNBH việc sử dụng các quỹ dự phòng kỹ thuật trước hết phải tuân thủ theo nguyên

tắc an toàn vốn, đồng thời phải sinh lời và đáp ứng khả năng thanh toán thường

xuyên.

Các nguyên tắc này đặt ra một bài toán về sự lựa chọn danh mục tài sản đầu tư

với yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro thấp nhất. Phải cân nhắc tính toán

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 85

kỹ khi sử dụng nguồn vốn đem đầu tư các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào loại tài sản

nào? Với tỷ trọng vốn vào từng loại tài sản bao nhiêu? Trên thị trường tài chính

không thể có loại tài sản nào có một mức rủi ro rất nhỏ mà lợi suất lại cực đại. Mọi

sự lựa chọn đều có một cái giá về sự chấp nhận rủi ro. Vì vậy, từng doanh nghiệp

cần xây dựng cho mình chiến lược đầu tư thích hợp và gắn với chiến lược kinh

doanh. Xét về lâu dài, lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các DNBH sẽ là cổ phiếu và trái

phiếu. Trong thị trường tài chính ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, lạm phát có

xu hướng tăng như hiện nay thì đầu tư vào trái phiếu Chính phủ còn có nhiều hạn

chế. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát

triển, khung pháp lý chưa hoàn thiện, hàng hóa chưa đa dạng để đảm bảo thị trường

sôi động. Trong điều kiện đó, lĩnh vực đầu tư bất động sản có nhiều tiềm năng phát

triển. Thị trường tín dụng ngân hàng luôn sôi động, với vai trò là kênh chính thức

duy nhất cung cấp vốn cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện

kinh tế liên tục phát triển, nhiều dự án hiệu quả nhưng lại thiếu vốn nên tín dụng

ngân hàng có nhiều sự lựa chọn đầu tư. Do đó, bên cạnh việc xác định xu hướng

đầu tư lâu dài vào trái phiếu và cổ phiếu thì đầu tư vào bất động sản và cho vay có

thể là những lĩnh vực có nhiều cơ hội trước mắt phù hợp với nguồn vốn đầu tư của

các DNBH. Tuy nhiên, việc đầu tư vào hai lĩnh vực này cần nhiều kinh nghiệm, kỹ

năng về định giá bất động sản, thủ tục hồ sơ trong xây dựng, quy hoạch cũng như

khả năng thẩm định, đánh giá hiệu quả phương án… Đây vẫn là những điểm yếu

của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của DNBH nói riêng.

Thứ tư, phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng

Nền kinh tế càng phát triển thì sự chuyên môn hóa càng thể hiện rõ rệt trong các

ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Công ty có thể tận dụng hiệu quả sự hợp tác

với ngân hàng trong một số lĩnh vực liên quan mà ngân hàng có trình độ chuyên

môn hơn để có ảnh hưởng tốt đến công tác tạo lập và đầu tư vốn như:

(cid:131) Sử dụng dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 86

Trên cơ sở có sự thỏa thuận thống nhất giữa Công ty Bảo hiểm và ngân hàng về thời

gian, địa điểm thu phí, các mẫu biểu thanh quyết toán… ngân hàng có thể giúp công

ty đi thu tiền định kỳ tại các điểm và nộp trực tiếp vào ngân hàng. Nếu làm tốt việc

này, tuy đơn vị phải chi thêm một khoản lệ phí nhất định, nhưng quản lý được thời

gian phát sinh trách nhiệm bảo hiểm kịp thời, tránh việc trục lợi do công tác thanh

quyết toán chậm trễ, giảm được chi phí và thời gian của các khai thác viên khi đi

quyết toán và thu tiền về, do từng khai thác viên chỉ đi thu phí của những đại lý do

mình quản lý mà không có sự phối hợp thu tiền của các đại lý khác. Về phía công ty

có thể sử dụng được kịp thời khoản tiền này phục vụ công tác đầu tư.

(cid:131) Sự gia tăng các tiện ích của các loại thẻ thanh toán, thẻ ATM so với các tiện

ích hiện nay của chúng đối với người chủ thẻ, trong đó chú ý đến các sản phẩm kết

hợp giữa bảo hiểm và ngân hàng.

(cid:131) Các DNBH sử dụng số tiền huy động được để gửi tiết kiệm ngân hàng, mua

trái phiếu, tính phiếu chính phủ… Đây là hoạt động đầu tư phổ biến của các DNBH

hiện nay.

(cid:131) Trong các kênh phân phối bảo hiểm, kênh phân phối bảo hiểm qua ngân

hàng là kênh có khả năng phát triển mạnh thông qua mạng lưới rộng lớn của hệ

thống ngân hàng. Vì thế, cần tận dụng hơn nữa kênh phân phối này.

Thứ năm, các DNBH cần nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý tiền mặt

tối ưu

Quản lý ngân quỹ của một Công ty bảo hiểm trước hết là sự quản lý các luồng

tiền hiện tại và tương lai: luồng nhập quỹ phí bảo hiểm hoặc thanh toán tổn thất;

luồng đầu tư hoặc thu hồi đầu tư. Theo quy định của cơ quan quản lý đã yêu cầu các

DNBH phải dự trữ tiền mặt ở trạng thái tĩnh với tỷ lệ khá cao (không thấp hơn 25%

tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đối với DNBH phi nhân thọ và 5% tổng dự

phòng kỹ thuật đối với doanh nghiệp BHNT). Điều này đã làm giảm hiệu quả đầu

tư của các doanh nghiệp, cho nên các DNBH cần nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 87

nhàn rỗi của mình bằng cách triệt để đưa những nguồn tài chính hiện có vào đầu tư

nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của các DNBH. Các DNBH cần

căn cứ vào đặc thù của doanh nghiệp mình để chọn ra phương pháp dự trữ tiền mặt

tối ưu. Theo nghiên cứu chúng ta có thể đi đến quan điểm sử dụng nguồn vốn ngân

quỹ công ty bảo hiểm một cách tối ưu như sau:

Đối với nguồn thu phí bảo hiểm, các DNBH cần xác định một lượng tiền mặt

nhất định cho giao dịch được gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ

hạn. Giải pháp tốt nhất là các DNBH phải thực hiện lập kế hoạch ngân quỹ cho từng

tháng thông qua việc thống kê lượng tiền mặt trung bình có tính đến sự tăng trưởng.

Lượng tiền còn lại DNBH có thể đầu tư vào các tài sản tài chính như mua các loại

tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu … để mang lại lợi ích cao hơn từ việc quản lý ngân

quỹ.

DNBH có thể sử dụng toàn bộ quỹ dự phòng kỹ thuật để đầu tư vào các lĩnh vực

lựa chọn.

Công thức xác định nguồn vốn đầu tư trong năm của DNBH là:

V = P + P’

với V là nguồn vốn đầu tư trong năm, P là dự phòng kỹ thuật được lập ở cuối niên

độ trước, P’ là một phần phí bảo hiểm thu trong năm.

Sử dụng kịp thời các khoản phí thu trong năm là hết sức quan trọng đối với các

doanh nghiệp BHNT. Bởi vì, trong kỹ thuật BHNT, DNBH sẽ bắt đầu phải tính lãi

suất trên khoản phí tiết kiệm kể từ thời điểm người được bảo hiểm ký kết hợp đồng

bảo hiểm. Nếu để cuối năm lập dự phòng rồi DNBH mới tiến hành đầu tư thì đã làm

“chết” nguồn vốn nhàn rỗi từ thời điểm thu phí đến cuối năm tài chính. Điều này có

thể làm cho giá trị tài sản không lớn kịp giá trị cam kết bảo hiểm, và có thể dẫn đến

nguy cơ phá vỡ sự cân bằnng tài chính trong dài hạn cho các doanh nghiệp BHNT

Lưu ý: Cách tính trên chỉ đề cập đến hoạt động của quỹ chủ hợp đồng chứ chưa

xem xét đến hoạt động đầu tư của quỹ chủ sở hữu.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 88

Thứ sáu, mở rộng hình thức cho vay đối với chủ hợp đồng BHNT

Trong kỹ thuật BHNT, hợp đồng bảo hiểm sau một thời gian nộp phí sẽ có dự

phòng toán học, tức là các khoản tiết kiệm tích lũy. Về bản chất khoản tiền này là

thuộc quyền sở hữu của chủ hợp đồng. Nếu DNBH cho chủ hợp đồng vay thì khoản

tiền dự phòng này được xem như là tài sản thế chấp. Như vậy, đây sẽ là khoản cho

vay ít rủi ro nhất của DNBH. Hình thức cho vay này sẽ rất hiệu quả, vừa đảm bảo

cho DNBH thu được lãi suất cao hơn lãi suất kỹ thuật, vừa giúp được các chủ hợp

đồng vay vốn trong thời điểm khó khăn, điều nay sẽ tăng khả năng duy trì hợp đồng

của BHNT.

Thứ bảy, nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp

Trong quá trình hội nhập quốc tế, ngoài khả năng và tiềm lực tài chính là yếu tố

quan trọng trong việc phát triển quy mô hoạt động và hiệu quả đầu tư, nâng cao

năng lực kinh doanh và phát triển yếu tố con người cũng đóng vai trò quan trọng

không kém. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải tiếp tục trang bị và ứng

dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp,

trong đó quan trọng nhất là ứng dụng được thương mại điện tử.

Người có nhu cầu về bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các

doanh nghiệp bảo hiểm trên mạng và khi chấp nhận sẽ được cấp đơn bảo hiểm, giấy

chứng nhận bảo hiểm ngay lập tức. Từ đó, việc quản lý đơn bảo hiểm, giấy chứng

nhận bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối tượng được

bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, giải quyết tổn thất và bồi thường bảo hiểm được dễ

dàng và thuận tiện nhanh chóng.

Bên cạnh đó, phải sắp xếp lại bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh thật gọn

nhẹ, tính chuyên nghiệp cao, có sự liên kết và mang lại hiệu quả cao cho doanh

nghiệp. Đồng thời phát triển mạnh việc bán bảo hiểm qua khâu trung gian như: môi

giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, ngân hàng thương mại...

Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ bảo hiểm và đại lý bảo hiểm trong đó

có trang bị kiến thức bảo hiểm cho các cán bộ bảo hiểm đã tốt nghiệp cử nhân, kỹ

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 89

sư từ các chuyên ngành khác. Nâng cao trình độ quản lý rủi ro, giám định tổn thất,

tính phí bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp.

Thứ tám, phát triển các loại hình sản phẩm mới của BHNT để thu hút vốn

đầu tư dài hạn

Tạo sự gắn kết giữa hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc

biệt là trong khâu thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả

kinh doanh nói chung và hiệu quả đầu tư nói riêng. Theo hướng đi này, trong thời

gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu phát triển thêm các loại sản phẩm bảo hiểm mới

nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân Việt Nam, đặc biệt là hình

thức bảo hiểm kết hợp với đầu tư (investment-linked units). Đây là sản phẩm bảo

hiểm thế hệ mới, đã được triển khai rộng rãi và rất thành công ở nhiều nước trên thế

giới, kể cả một số thị trường mới nổi như Trung Quốc. Đặc trưng nổi bật của loại

sản phẩm này là người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp BHNT

đầu tư số phí bảo hiểm của họ vào các quỹ đầu tư khác nhau (chủ yếu là các quỹ

chứng khoán) thông qua công ty quản lý quỹ đầu tư theo tỷ lệ họ tự chọn. Nhờ kinh

nghiệm và kiến thức chuyên sâu về hoạt động đầu tư, công ty quản lý quỹ có thể tư

vấn cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn phương án đầu tư phù hợp với nhu cầu

tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của họ nhằm đạt hiệu quả đầu tư tối ưu. Ngược

lại, người tham gian bảo hiểm sẽ tự mình gánh chịu các rủi ro liên quan tới việc đầu

tư số phí bảo hiểm của họ. Có thể nói, sản phẩm bảo hiểm kết hợp với đầu tư là một

kênh huy động vốn trực tiếp của DNBH vào thị trường vốn.

3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác

Thứ nhất, phát triển kinh tế - xã hội ổn định, tạo nền tảng vững chắc cho việc

phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường BHNT nói riêng

Thị trường tài chính nói chung, thị trường BHNT nói riêng có phát triển bền

vững ổn định hay không phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển ổn định vững chắc của

nền kinh tế xã hội, vì vậy chính phủ bằng các công cụ tài chính của mình như: thuế,

ngân sách… tác động, hỗ trợ tạo động lực để tất cả các thành phần kinh tế tham gia

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 90

vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Khi kinh tế phát triển, thu nhập

người dân được nâng lên, có tích lũy, họ sẽ tiến hành đầu tư sinh lợi, nhu cầu đảm

bảo an toàn về đời sống và tài chính gia tăng, thúc đẩy phát triển thị trường tài

chính, TTBH. Và khi hai thị trường này phát triển thì sẽ hỗ trợ rất lớn đến sự phát

triển kinh tế đất nước.

Thứ hai, trang bị cao hơn kiến thức bảo hiểm cho người dân

Sự cần thiết của người khách hàng Việt Nam là được trang bị cao hơn kiến thức

bảo hiểm nói chung và kiến thức đầu tư cơ bản để họ có thể đưa ra các quyết định

thấu đáo về hoạt động đầu tư của mình vì trong tương lai loại sản phẩm liên kết bảo

hiểm và đầu tư sẽ chiếm phần lớn trong thị phần của bảo hiểm. Ngoài những hiểu

biết về các sản phẩm truyền thống, người tham gia vào các loại hình sản phẩm

mang tính đầu tư phải được cung cấp hoặc phải có kiến thức thích hợp về những

khái niệm và nguyên tắc trong đầu tư như sau:

(cid:131) Sự lựa chọn giữa các cân thu nhập và rủi ro trong đầu tư;

(cid:131) Sự đa dạng hóa rủi ro đầu tư thông qua việc hình thành danh mục đầu tư đa

kết cấu; và

(cid:131) Nhu cầu về vốn để đầu tư dài hạn và bỏ qua sự không ổn định của kết quả

đầu tư ngắn hạn.

Kết luận chương 3:

Như vậy, trong tình hình hiện nay, về phía quản lý Nhà nước cần có những đòn

bẩy hỗ trợ là các cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý… cho hoạt động đầu tư tài

chính của các DNBH. Còn liên quan đến môi trường đầu tư, các DNBH nên hy

vọng về một tương lai tiến triển theo chiều thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư của

doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ vì biến chuyển của môi trường đầu tư không phải

trong ngày một ngày hai. Tuy nhiên, việc thu hẹp, xóa bỏ khoảng cách giữa kỳ vọng

sinh lời của người mua bảo hiểm và khả năng đầu tư thực tế của các doanh nghiệp

bảo hiểm nhân thọ lại phụ thuộc vào chính các doanh nghiệp bảo hiểm.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 91

KẾT LUẬN

Ở Việt Nam, việc tạo lập và nâng cao hiệu quả đầu tư các nguồn vốn trong

doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà

hoạch định chính sách, các nhà quản trị vì lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính

cũng đã phần nào khắc phục khó khăn và nâng cao năng lực tài chính của hoạt động

kinh doanh bảo hiểm, đồng thời góp phần thúc đẩy TTBH Việt Nam phát triển.

Để công tác đầu tư trong các công ty bảo hiểm nhân thọ mang lại hiệu quả,

an toàn và đáp ứng được yêu cầu thanh toán, xứng đáng là “chỗ dựa” vững chắc cho

hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư vốn cần

phải được hành lang pháp lý bảo vệ. Khi có được các Thông tư hướng dẫn cụ thể,

chắc chắn các công ty bảo hiểm sẽ mạnh dạn hơn trong quyết định đầu tư của mình.

Từ đó, danh mục đầu tư của bảo hiểm sẽ không còn đơn điệu trong một số lĩnh vực

như tiền gửi, mua trái phiếu chính phủ nữa mà chắc chắn sẽ đa dạng hơn, hiệu quả

hơn. Khi các chính sách khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp được tháo gỡ,

đối với nền kinh tế các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ sẽ đầu tư trực tiếp nhiều

hơn, tham gia vào các dự án trung và dài hạn để có được nguồn lợi nhuận cao, ổn

định; tình hình tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ càng vững mạnh hứa

hẹn một xu hướng phát triển tốt đẹp cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong tương lai

nói chung.

Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo

hiểm nhân thọ Việt Nam không chỉ cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Chính phủ mà

còn cần có sự nổ lực từ chính bản thân của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

Hy vọng qua các phần trình bày trên có thể đóng góp một số ý kiến vào việc

phát triển công tác đầu tư tài chính ở các công ty bảo hiểm Nhân Thọ tại Việt Nam.

Rất mong nhận được sự đóng góp và chân thành cảm ơn các ý kiến quý báu của

Qúy Thầy Cô, các chuyên gia tài chính, bảo hiểm, cũng như bạn bè đồng nghiệp,

cùng những người quan tâm đến lĩnh vực này.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dr. David Bland, Học Viện Bảo hiểm Hoàng Gia Anh (1998), Bảo Hiểm

Nguyên tắc và Thực hành, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

2. TS. Nguyễn Ngọc Định, (1999), Lý thuyết bảo hiểm, Nhà xuất bản tài chính,

TPHCM.

3. TS. Nguyễn Văn Định, (2004), Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê,

Hà Nội.

4. Th.S. Nguyễn Tiến Hùng, (2005), Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt

Nam, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội.

5. TS. Phan Thị Bích Nguyệt, (2006), Đầu tư tài chính, Nhà xuất bản Thống kê.

6. PGS-TS. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất

bản Thống kê.

7. Bản tin theo quý của Hiệp hội Bảo Hiểm Việt Nam, Hà Nội.

8. Báo cáo tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ qua các năm.

9. Bộ Tài Chính, (2006), TTBH Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

10. Bộ Tài Chính (1999), Luật bảo hiểm ở một số nước, Nhà xuất bản Tài chính,

Hà Nội.

11. Bộ Tài Chính, Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001, quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.

12. Bộ Tài Chính, Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001, quy định chế

độ tài chính đối vói các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm.

13. Bộ Tài Chính, Thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001 hướng dẫn thi

hành Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001.

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN

Trang 93

14. Bộ Tài Chính, Thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001 hướng dẫn thi

hành Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001.

15. Bộ Tài Chính, Thông tư số 98/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 thay thế

thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001.

16. Bộ Tài Chính, Thông tư số 99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 thay thế

thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001.

17. Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005

18. Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/8/2003 của Chính phủ, Về phê

duyệt “ Chiến lược phát triển TTBH Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”,

Hà Nội.

19. Tạp chí lập pháp, Văn phòng Quốc hội.

20. Một số tài liệu trên Interner ở các trang: http://swissre.com/,

http://www.baohiem.pro.vn, http://www.baoviet.com.vn,

http://www.tuoitre.com.vn, http://www.gso.gov.vn,

http://thoibaokinhtesaigon.com.vn, http://uhe.edu.com.vn, và một số trang

khác.

21. Và các tài liệu khác.

-------------------------------oOo-------------------------------

Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG

Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN