LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ kinh tế: Một số giải pháp nhằm đáp ứng rào

cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) tại thị trường EU của ngành da giầy Việt

Nam” là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của cá

nhân tôi.

Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

Học viên

Hà Thị Minh Anh

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ ...................................................... i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................... ii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN ............................................ iii

LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG

THƯƠNG MẠI CỦA EU ĐỐI VỚI SẢN PHẨM DA GIẦY NHẬP KHẨU .......6

1.1. Lý luận chung về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế ....................... 6

1.1.1. Rào cản trong thương mại quốc tế .......................................................... 6

1.1.2. Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế ............................................ 7

1.1.2.1. Khái niệm ......................................................................................... 7

1.1.2.2. Các hình thức của rào cản kỹ thuật đối với thương mại ................. 9

1.1.2.3. Mục tiêu và nguyên tắc chính của rào cản kỹ thuật đối với thương

mại ........................................................................................................ 10

1.2. Những quy định của EU về rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng da giầy nhập

khẩu ..................................................................................................................... 13

1.2.1. Khái quát về rào cản kỹ thuật trong thương mại của EU ..................... 13

1.2.2. Rào cản kỹ thuật của EU đối với sản phẩm da giầy ............................. 15

1.2.2.1. Chỉ thị An toàn Sản phẩm (GPSD) ................................................ 15

1.2.2.2. Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất (REACH) .... 18

1.2.2.3. Quy định về sản phẩm diệt khuẩn (BPR) ....................................... 21

1.2.2.4. Chỉ thị về Đóng gói và Chất thải đóng gói .................................... 23

1.2.2.5. Chỉ thị về Ghi nhãn sản phẩm Da giầy .......................................... 24

1.2.2.6. Dấu CE ........................................................................................... 26

1.2.2.7. Tiêu chuẩn CEN/ISO ...................................................................... 28

1.2.3. Thủ tục quản lý về chất lượng thử nghiệm ........................................... 29

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH DA GIẦY VIỆT NAM ĐÁP ỨNG

CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI CỦA THỊ TRƯỜNG

EU ..................................................................................................................32

2.1. Khái quát về tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam và tình hình xuất

khẩu da giầy của Việt Nam vào thị trường EU ...................................................... 32

2.1.1. Khái quát về tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam ...................... 32

2.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam .................................. 32

2.1.1.2. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt Nam trong tổng kim

ngạch xuất khẩu da giầy thế giới .................................................................... 34

2.1.1.3. Các thị trường xuất khẩu chính của da giầy Việt Nam .................. 35

2.1.2. Khái quát về thương mại Việt Nam – EU và tình hình xuất khẩu da

giầy của Việt Nam vào thị trường EU ................................................................ 37

2.1.2.1. Khái quát về thương mại Việt Nam – EU ...................................... 37

2.1.2.2. Tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam vào thị trường EU ..... 41

2.2. Thực trạng của ngành da giầy Việt Nam đáp ứng các rào cản kỹ thuật đối

với thương mại tại thị trường EU .......................................................................... 44

2.2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước ....................................................... 44

2.2.2. Về phía doanh nghiệp ........................................................................... 45

2.2.2.1. Đánh giá năng lực đáp ứng của doanh nghiệp sản xuất da giầy của

Việt Nam về rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của EU ................... 45

2.2.2.2. Kết luận .......................................................................................... 50

2.2.3. Về phía phòng thí nghiệm ..................................................................... 51

2.2.3.1. Đánh giá năng lực đáp ứng của phòng thí nghiệm Việt Nam về rào

cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của EU .............................................. 52

2.2.3.2. Kết luận .......................................................................................... 55

2.3. Đánh giá thực trạng đáp ứng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của

thị trường EU của ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam .......................................... 56

2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 56

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 57

2.3.2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước ................................................ 57

2.3.2.2. Về doanh nghiệp ............................................................................. 58

2.3.2.3. Về phòng thí nghiệm ...................................................................... 60

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỂ NGÀNH DA GIẦY VIỆT NAM ĐÁP

ỨNG TỐT HƠN RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI CỦA THỊ

TRƯỜNG EU ...........................................................................................................62

3.1. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2016 –

2025 ..................................................................................................................... 62

3.1.1. Định hướng chung ................................................................................ 62

3.1.2. Định hướng xuất khẩu hàng da giầy của Việt Nam giai đoạn 2016 –

2020, tầm nhìn 2025 ........................................................................................... 65

3.2. Một số kiến nghị và giải pháp để ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam đáp

ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của thị trường EU .............. 67

3.2.1. Kiến nghị với Nhà nước ........................................................................ 68

3.2.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan ...................................... 68

3.2.1.2. Nâng cao vai trò của văn phòng TBT ............................................ 70

3.2.1.3. Tổ chức các khóa đào tạo và huấn luyện các doanh nghiệp xuất

khẩu nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. ......................... 71

3.2.1.4. Nâng cấp phòng thí nghiệm, xây dựng phòng thí nghiệm tiêu chuẩn

của Việt Nam để được chứng nhận và công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế, được

chấp nhận bởi một số nhà nhập khẩu quốc tế. ............................................... 72

3.2.1.5. Hỗ trợ nguồn lực cho các phòng thí nghiệm trong việc mua sắm

các trang thiết bị phân tích cho phòng thí nghiệm. ........................................ 73

3.2.1.6. Đào tạo đội ngũ chuyên gia, tư vấn về rào cản kỹ thuật cho các

doanh nghiệp xuất khẩu da giầy ..................................................................... 74

3.2.2. Một số giải pháp đối với phòng thí nghiệm .......................................... 75

3.2.2.1. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị để phục vụ cho việc thử nghiệm đạt

tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế (thử nghiệm cơ lý – hóa) ................................ 75

3.2.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể đáp ứng được các quy

trình thử nghiệm khắt khe của các thị trường thế giới. .................................. 76

3.2.2.3. Nghiên cứu thiết bị để có thể tham gia vào việc cung cấp thiết bị

đạt chuẩn quốc tế ............................................................................................ 76

3.2.2.4. Đạt được sự công nhận của các tổ chức quốc tế ........................... 77

3.2.2.5. Tham vấn cho chính phủ các vấn đề liên quan đến rào cản kỹ

thuật, cập nhật tình hình về rào cản kỹ thuật để chính phủ có điều chỉnh phù

hợp ........................................................................................................ 79

3.2.3. Một số giải pháp đối với doanh nghiệp xuất khẩu da giầy (và định

hướng xuất khẩu da giầy) ................................................................................... 80

3.2.3.1. Thường xuyên cập nhật thông tin về các quy định mới của tiêu

chuẩn, quy chuẩn quốc tế liên quan đến lĩnh vực da giày .............................. 80

3.2.3.2. Cần có quy định đối với nhà thầu cung cấp nguyên phụ liệu đạt

tiêu chuẩn quốc tế. .......................................................................................... 80

3.2.3.3. Từng bước áp dụng công nghệ, nguyên phụ liệu sạch trong sản

xuất. ........................................................................................................ 81

3.2.3.4. Cải thiện quy trình quản lý và kiểm soát chất lượng ..................... 82

3.2.3.5. Xây dựng đội ngũ nhân lực có hiểu biết về rào cản kỹ thuật đối với

da giầy tại doanh nghiệp để phát triển và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu

hàng hóa sang thị trường EU ......................................................................... 83

KẾT LUẬN ...............................................................................................................85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................87

i

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1. 1. Rào cản trong thương mại quốc tế ............................................................ 7

Hình 1. 1. Nhãn mác của sản phẩm da giầy............................................................... 25

Bảng 1. 1. Danh sách các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu và năm ra nhập ........ 13

Bảng 2. 1. Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu da giầy Việt

Nam giai đoạn 2009-2015 ......................................................................................... 33

Bảng 2. 2. Kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt Nam sang các thị trường lớn năm 2016

.................................................................................................................................... 36

Biểu đồ 2. 1. Mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2016 ............... 32

Biểu đồ 2. 2. Kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt Nam giai đoạn 2009-2015 ............ 34

Biểu đồ 2. 3. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam giai đoạn 2008-

2015 ........................................................................................................................... 35

Biểu đồ 2. 4. Tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam sang các thị trường lớn năm

2016 ........................................................................................................................... 36

Biểu đồ 2. 5. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU giai đoạn 2009-2015 .................. 39

Biểu đồ 2. 6. Kim ngạch nhập khẩu từ EU của Việt Nam giai đoạn 2009-2015 ...... 40

Biểu đồ 2. 7. Tình hình xuất khẩu da giầy Việt Nam vào thị trường EU .................. 42

Biểu đồ 2. 8. Tỷ trọng xuất khẩu da giầy Việt Nam vào thị trường EU .................... 42

Biểu đồ 2. 9. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy trong tổng kim ngạch xuất khẩu

của Việt Nam giai đoạn 2008-2015 ........................................................................... 43

ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Tiêng Anh Tiếng Việt

The Biocidal Products Quy định về sản phẩm diệt BPR Regulation khuẩn

Conformité Européene Sự phù hợp của Châu Âu CE

European Committee for Ủy ban Tiêu chuẩn Châu Âu CEN Standardization

European Commission Ủy ban Châu Âu EC

European Chemicals Agency Cơ quan hóa chất Châu Âu ECHA

Khu vực kinh tế chung Châu European Economic Area EEA Âu

European Union Liên minh Châu Âu EU

Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do FTA

International Organization for Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO Standardization

General Product Safety Chỉ thị An toàn sản phẩm GPSD Directive chung

Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển Cooperation and OECD Kinh tế Development

Registration, Evaluation, Đăng ký, Đánh giá, Cấp phép Authorisation & restriction of REACH Hóa chất Chemicals

Rào cản kỹ thuật đối với Technical Barriers to Trade TBT thương mại

Đô la Mỹ United States dollar USD

World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới WTO

iii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Trong quá trình toàn cầu hóa, ngành da giầy nói chung và đặc biệt là ngành da

giầy xuất khẩu nói riêng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế

Việt Nam. Trong số các thị trường xuất khẩu, từ năm 2009 đến nay, thị trường Liên

minh Châu Âu EU luôn là một trong những thị trường xuất khẩu da giầy chủ lực của

Việt Nam. Tuy nhiên, trong gần 10 năm qua, ngành da giầy xuất khẩu vẫn chưa có

những bứt phá về tỷ trọng và kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này (dù đã có rất

nhiều thuận lợi và cơ hội mới được mở ra sau khi Hiệp định thương mại tự do Việt

Nam – EU được ký kết). Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là

do những sản phẩm da giầy xuất khẩu Việt Nam không vượt qua được các rào cản

kỹ thuật trong thương mại của EU. Với hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU

được ký kết 2015, có hiệu lực vào năm 2018 thì thuế cho sản phẩm da giầy sẽ giảm

từ 12,4% xuống 0%. Điều này sẽ mở ra cơ hội lớn cho ngành da giầy Việt Nam,

song cùng với đó, các rào cản kỹ thuật sẽ ngày càng thắt chặt hơn so với trước khi

ký kết hiệp định. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy sẽ phải đáp ứng tốt

hơn các rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của EU mới có thể tiếp tục giữ

vững thị trường và mở rộng thị trường tại châu Âu. Với mục đích đưa ra một số kiến

nghị, đề xuất về giải pháp cho ngành xuất khẩu da giầy Việt Nam đáp ứng tốt hơn

các rào cản kỹ thuật của EU, luận văn đã tập trung làm rõ một số vấn đề sau:

Thứ nhất, khái quát hóa những lý luận chung, cơ bản về rào cản kỹ thuật trong

thương mại của EU đối với sản phẩm da giầy nhập khẩu. Dựa trên những khái quát

chung đó, luận văn đã chỉ ra những quy định chi tiết của EU về rào cản kỹ thuật

trong thương mại đối với sản phẩm da giầy nhập khẩu, đó là: (i) Chỉ thị An toàn sản

phẩm, (ii) Quy chuẩn đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất, (iii) Quy định về sản

phẩm diệt khuẩn, (iv) Chỉ thị về đóng gói và chất thải đóng gói, (v) Chỉ thị ghi nhãn

sản phẩm giày dép, (vi) Dấu CE và (vii) Tiêu chuẩn CEN/ISO. Cùng với đó, luận

văn cũng đưa ra thủ tục về quản lý chất lượng phòng thí nghiệm để làm cơ sở đối

sánh, đánh giá phòng thí nghiệm ở Việt Nam.

iv

Thứ hai, thông qua đánh giá tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam và tình

hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam vào thị trường EU, luận văn đã chỉ ra được vai

trò vô cùng quan trọng của xuất khẩu da giầy Việt Nam trong nền kinh tế cũng như

vai trò của thị trường EU đối với xuất khẩu da giầy Việt Nam. Từ đó thấy được tiềm

năng, sự cần thiết của việc tiếp tục duy trì và phát triển xuất khẩu da giầy của Việt

Nam vào thị trường EU.

Thứ ba, thông qua đánh giá về quy định kỹ thuật của Việt Nam, thực trạng đáp

ứng rào cản kỹ thuật của EU của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam và thực trạng

thử nghiệm đáp ứng các rào cản kỹ thuật của EU của các phòng thí nghiệm, luận văn

đã chỉ ra được kết quả đạt được cũng như những mặt còn hạn chế của ngành da giầy

Việt Nam trong việc đáp ứng các ràn cản kỹ thuật của thị trường EU.

Thứ tư, trên cơ sở đánh giá thực trạng đáp ứng rào cản kỹ thuật của EU đối với

sản phẩm da giầy nhập khẩu của Việt Nam, luận văn đã đề xuất một số giải pháp cho

Việt Nam nhằm đáp ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật của EU đối với sản phẩm da

giầy nhập khẩu. Trên cơ sở định hướng của xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong

giai đoạn 2016 – 2025 của Đảng, nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền, luận văn

đã đưa ra ba nhóm kiến nghị đề xuất đối với Nhà nước, đối với phòng thí nghiệm và

đối với doanh nghiệp xuất khẩu da giầy để giúp ngành da giầy Việt Nam có thể tiếp

tục giữ vững thị trường và đẩy mạnh phát triển xuất khẩu vào thị trường EU.

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Da giầy là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam

và là một trong những động lực lớn thúc đẩy xuất khẩu của cả nước. Theo số liệu

của Tổng cục Thống kê, năm 2015, xuất khẩu da giầy đem về giá trị xuất khẩu lên

tới 12 tỷ USD, đóng góp xấp xỉ 7% GDP cả nước.

Một trong những thị trường xuất khẩu chính của da giầy Việt Nam là Liên

minh châu Âu EU. Kim ngạch xuất khẩu của da giầy Việt Nam sang EU hàng năm

xấp xỉ 5 tỷ USD và chiếm hơn 30% tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu da

giầy của Việt Nam giai đoạn 2009-2015.1

Trong bối cảnh hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đã được

ký kết chính thức vào ngày 02 tháng 12 năm 2015, quan hệ thương mại – đầu tư

giữa Việt Nam và EU được mở ra một “kỷ nguyên mới”. Hàng hóa xuất khẩu sang

thị trường EU, trong đó có sản phẩm da giầy sẽ được áp dụng lộ trình giảm thuế về

0% đến năm 2018. Điều này đã mở ra cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp xuất

khẩu da giầy Việt Nam. Tuy nhiên để tận dụng được cơ hội đó, các doanh nghiệp

Việt Nam cần đáp ứng được rào cản kỹ thuật đối với thương mại (Technical Bariers

to Trade – viết tắt là TBT) áp dụng cho các sản phẩm da giầy nhập khẩu từ bên

ngoài khu vực vào thị trường EU.

Rào cản kỹ thuật đối với thương mại TBT là một trong những hình thức rào

cản phi thuế quan mà quốc gia hay khu vực nhập khẩu đưa ra nhằm hạn chế nhập

khẩu những sản phẩm kém chất lượng. Thị trường EU được đánh giá là một trong

những thị trường khắt khe nhất và áp dụng rất nhiều các rào cản kỹ thuật trong

thương mại đối với các sản phẩm nhập khẩu. Cho đến nay, nhiều doanh nghiệp xuất

khẩu da giầy Việt Nam chưa quan tâm nhiều đến TBT thậm chí chưa biết đến hoặc

đầu hàng TBT vô điều kiện. Tuy nhiên trong tương lai, để tận dụng những lợi thế từ

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU cũng như muốn giữ vững thị phần và

1 Tác giả tổng hợp theo nguồn số liệu từ website chính thức của Hiệp hội Da-Giầy-Túi xách Việt Nam (www.lefaso.org.vn)

2

tiếp tục mở rộng xuất khẩu vào thị trường EU, các doanh nghiệp cần đáp ứng tốt

hơn các rào cản kỹ thuật đối với thương mại cho sản phẩm da giầy của EU.

Từ nhận thức trên, tác giả đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm đáp ứng

rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) tại thị trường EU của ngành da giầy

Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn,

bài viết, tài liệu khoa học của nhiều tác giả liên quan đến vấn đề này như:

Đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế và đề

xuất các giải pháp đối với Việt Nam” năm 2004 của PGS.TS Đinh Văn Thành – Bộ

Thương Mại, nêu ra lý thuyết về rào cản trong thương mại quốc tế, thực trạng rào

cản thương mại quốc tế ở một số nước và ở Việt Nam, từ đó đưa ra một vài kiến

nghị và giải pháp cho Việt Nam.

Luận án Tiến sỹ “Hàng rào kỹ thuật trong thương mại của Hoa Kỳ đối với

thủy sản nhập khẩu của Việt Nam” năm 2005 của tác giả Trần Văn Nam – Đại học

Kinh tế quốc dân, nêu ra các lý thuyết về hàng rào kỹ thuật tại thị trường Hoa Kỳ, từ

đó đánh giá những khó khăn thách thức đối với hàng thủy sản Việt Nam trong việc

đáp ứng hàng rào kỹ thuật đó

Luận văn Thạc sỹ “Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật cho thủy sản Việt Nam khi

thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ” năm 2008 của tác giả Trần Thanh Hà – Đại học

Ngoại thương Hà Nội, cũng đưa ra các lý thuyết về hàng rào kỹ thuật đối với hàng

thủy sản của Việt Nam, khó khăn thách thức và giải pháp vượt qua những khó khăn,

thách thức đó.

Luận văn Thạc sỹ “Các biện pháp vượt rào cản đối với hàng dệt may vào thị

trường Hoa Kỳ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO” của tác giả Nguyễn

Huy Hùng – Khoa Kinh tế Đại học thương mại, đưa ra lý thuyết rào cản đối với

hàng dệt may tại thị trường Hoa Kỳ và các biện pháp vượt rào cản.

3

Luận văn Thạc sỹ “Một số quy chế hạn chế nhập khẩu hàng hóa của EU và

giải pháp đối với Việt Nam trong việc ứng phó” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Anh

– Đại học Ngoại thương Hà Nội, đưa ra các quy chế hạn chế nhập khẩu của EU,

những khó khăn đối với Việt Nam và giải pháp ứng phó đối với các quy chế đó.

Như vậy có thể thấy chưa có một nghiên cứu nào về sự đáp ứng rào cản kỹ

thuật đối với thương mại tại thị trường EU cho các sản phẩm da giầy Việt Nam:

đánh giá thực trạng đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với thương mại tại thị trường EU

của ngành da giầy Việt Nam và giải pháp nhằm đáp ứng tốt hơn rào cản đó. Vì vậy

tác giả chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với

thương mại tại thị trường EU của ngành da giầy Việt Nam” để tập trung nghiên

cứu.

3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về rào cản kỹ thuật đối với thương mại và

thực trạng đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với thương mại tại thị trường EU của ngành

da giầy Việt Nam, luận văn đưa ra một số kiến nghị, đề xuất về giải pháp cho ngành

xuất khẩu da giầy Việt Nam nhằm đáp ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật của EU.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự đáp ứng trước rào cản kỹ thuật đối

với thương mại tại thị trường EU (của ngành da giầy Việt Nam).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về rào cản kỹ thuật đối

với thương mại và sự đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với thương mại của ngành da

giầy Việt Nam trong không gian các nước EU.

Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu chủ yếu của luận văn là kể từ năm

2009 sau khi Việt Nam gia nhập WTO cũng như sau khủng hoảng kinh tế năm 2008

và đưa ra những giải pháp cho ngành da giầy Việt Nam đáp ứng tốt hơn các rào cản

kỹ thuật tại thị trường EU từ nay đến năm 2025.

4

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn, tác giả đã sử dụng những phương

pháp nghiên cứu cơ bản như:

- Phương pháp thống kê và phương pháp đối chiếu – so sánh: dùng các công

cụ thống kê để tập hợp tài liệu xuất bản trong và ngoài nước, số liệu; sau

đó so sánh, đối chiếu để rút ra kết luận về bản chất, nguyên nhân của sự

thay đổi.

- Phương pháp phân tích tổng hợp: từ những thông tin và số liệu thu thập

được, cộng với tình hình thực tế trên thị trường đưa ra những phân tích,

nhận định, đánh giá.

- Phương pháp xử lý và phân tích số liệu để làm sáng tỏ vấn đề.

Nguồn số liệu sử dụng là các số liệu thứ cấp được lấy từ những nguồn tin cậy:

website chính thức của Tổng cục Thống kê (www.gso.gov.vn), của Tổng cục Hải

quan (www.customs.gov.vn), của Hiệp hội Da-Giầy-Túi xách Việt Nam

(www.lefaso.org.vn), của Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD/WTO và báo

cáo điều tra thị trường của Viện nghiên cứu Da giầy và dự án EU – MUTRAP.

6. Những điểm mới của luận văn

Luận văn không chỉ tìm hiểu sâu về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại

của thị trường EU đối với ngành da giầy mà trên cơ sở các lý thuyết đó luận văn

đánh giá thực trạng đáp ứng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại tại thị trường

EU của ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam. Thông qua các đánh giá đó, luận văn

đưa ra một số giải pháp nhằm đáp ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật đối với thương

mại cho ngành da giầy tại thị trường EU.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn thạc sĩ gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về rào cản kỹ thuật trong thương mại của EU đối

với sản phẩm da giầy nhập khẩu.

5

Chương 2: Thực trạng ngành da giầy Việt Nam đáp ứng các rào cản kỹ thuật

đối với thương mại của thị trường EU

Chương 3: Đề xuất giải pháp để ngành da giầy Việt Nam đáp ứng tốt hơn rào

cản kỹ thuật đối với thương mại của thị trường EU

Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ và hướng dẫn trực tiếp của TS.

Vũ Thị Quế Anh. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn về sự chỉ bảo tận tình cũng như

những ý kiến quý báu của Cô trong quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu của

mình.

6

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG

THƯƠNG MẠI CỦA EU ĐỐI VỚI SẢN PHẨM DA GIẦY NHẬP KHẨU

1.1. Lý luận chung về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế

1.1.1. Rào cản trong thương mại quốc tế

Thuật ngữ “rào cản thương mại” được hiểu là bất kỳ biện pháp hay hành động

nào của chính phủ kiểm soát đối với dòng luân chuyển hàng hóa, dịch vụ quốc tế.

Rào cản trong thương mại quốc tế thường được thể hiện trong các chính sách

thương mại và các chính sách hoặc cơ chế quản lý trong tổng thế hệ thống pháp luật

của một quốc gia.

Theo cách tiếp cận của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hiện nay các

nước đang sử dụng rất nhiều công cụ làm rảo cản trong hoạt động ngoại thương

nhưng tựu chung lại có hai nhóm lớn: rào cản thuế quan (Tariff barriers) và rào cản

phi thuế quan (Non-tariff barriers).

Rào cản thuế quan được hiểu là các loại thuế đánh vào hàng hóa khi hàng hóa

đó được vận chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác. Trong

khi đó, rào cản phi thuế quan là các chính sách khác, không phải thuế quan, được

chính phủ các nước sử dụng nhằm làm giảm lượng hàng nhập khẩu hoặc tăng lượng

hàng xuất khẩu [1].

Rào cản thuế quan mặc dù xuất hiện sớm hơn rào cản phi thuế quan, được sử

dụng phổ biến hơn và là hình thức hạn chế mậu dịch quan trọng. Tuy nhiên, cùng

với xu thế thương mại tự do hiện nay, các hiệp định thương mại tự do song phương,

đa phương, khu vực được ký kết ngày càng nhiều, các rào cản thuế quan đang dần

được các quốc gia xóa bỏ, thay thế bằng các rào cản phi thuế quan, một trong những

công cụ bảo hộ tinh vi hơn.

Các rào cản phi thuế quan được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới

như: cấm xuất nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, xuất xứ hàng hóa, các

thủ tục và quy định hải quan, các quy định về môi trường, sở hữu trí tuệ, rào cản kỹ

thuật đối với thương mại… Trong số đó, rào cản kỹ thuật đối với thương mại là một

7

trong những rào cản phi thuế quan được ưa chuộng nhất trên thế giới, nhất là các

nước phát triển.

Sơ đồ 1. 1. Rào cản trong thương mại quốc tế

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

1.1.2. Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế

1.1.2.1. Khái niệm

Thuật ngữ “Rào cản kỹ thuật đối với thương mại” được dịch từ thuật ngữ

“Technical Barrier to Trade”. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rào cản kỹ thuật

đối với thương mại TBT. Thuật ngữ “Rào cản đối với thương mại” được đề cập

trong “Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại” của Tổ chức Thương mại

thế giới. Tuy nhiên, thuật ngữ này trong Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong

thương mại chưa được định nghĩa rõ ràng mà mới chỉ được thừa nhận như một thỏa

thuận: “Thừa nhận sự đóng góp quan trọng của các tiêu chuẩn quốc tế và các hệ

thống đánh giá sự phù hợp có thể mang lại trong vấn đề này thông qua việc nâng

cao hiệu quả sản xuất và thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế… Không một nước

nào có thể bị ngăn cản tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo cho chất lượng

hàng hóa xuất khẩu của mình hoặc để bảo vệ cuộc sống hay sức khỏe của con

người, động vật và thực vật, bảo vệ môi trường hoặc ngăn ngừa các hoạt động man

8

trá, ở mức độ nước đó cho là phù hợp và phải đảm bảo rằng, các biện pháp này

không được tiến hành với cách thức có thể gây ra phân biệt đối xử một cách tùy tiện

hoặc không thể biện minh được giữa các nước, trong các điều kiện giống nhau hoặc

tạo ra các hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế, hay nói cách khác, phải phù

hợp với các quy định của hiệp định này”. Tuy không đưa ra định nghĩa chính xác về

rào cản kỹ thuật đối với thương mại, nhưng hiệp định TBT của WTO đưa ra định

nghĩa về tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.

Theo Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại của WTO ở điều 1,

phụ lục 1, “Quy chuẩn kỹ thuật (Technical regulation) là văn bản quy định các đặc

tính của sản phẩm hoặc các quá trình có liên quan đến sản phẩm và phương pháp

sản xuất, bao gồm cả các điều khoản hành chính thích hợp, mà việc tuân thủ chúng

là bắt buộc. Văn bản này cũng có thể bao gồm hoặc gắn liền với thuật ngữ, biểu

tượng, cách thức bao gói, dãn nhãn hoặc ghi nhãn áp dụng cho một sản phẩm, quy

trình hoặc phương pháp sản xuất nhất định”

Theo Điều 2 phụ lục 1 của hiệp định TBT, “Tiêu chuẩn (Standard) là văn bản

do một cơ quan được thừa nhận ban hành để sử dụng rộng rãi và lâu dài, trong đó

quy định các quy tắc, hướng dẫn hoặc các đặc tính đối với sản phẩm hoặc các quy

trình và phương pháp sản xuất có liên quan, mà việc tuân thủ chúng là không bắt

buộc. Văn bản này cũng có thể bao gồm hoặc gắn liền với thuật ngữ, biểu tượng,

cách thức bao gói, dãn nhãn hoặc ghi nhãn áp dụng cho một sản phẩm, quy trình

hoặc phương pháp sản xuất nhất định.”

Theo điều 3 Phụ lục 1 cũng của Hiệp định TBT, “quy trình đánh giá sự phù

hợp (Conformity assessment procedures) là bất cứ quy trình nào được sử dụng trực

tiếp hoặc gián tiếp để xác định các yêu cầu liên quan trong các quy chuẩn kỹ thuật,

tiêu chuẩn có được thoả mãn hay không.”

Như vậy, theo định nghĩa của hiệp định, “quy chuẩn kỹ thuật” được hiểu là

các yêu cầu bắt buộc phải áp dụng, còn “tiêu chuẩn” là những yêu cầu tự nguyện áp

dụng. Và “quy trình đánh giá sự phù hợp” được sử dụng để đánh giá các yêu cầu

liên quan đến quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật có được đáp ứng hay không.

9

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) năm 1997 cũng đưa ra định

nghĩa về rào cản kỹ thuật đối với thương mại, đó là “những quy định mang tính chất

xã hội”. Theo đó, “các quy định mang tính chất xã hội là các quy định do một nhà

nước đưa ra nhằm đạt được các mục tiêu về sức khỏe, an toàn, chất lượng và đảm

bảo môi trường; căn cứ vào rào cản kỹ thuật thương mại, người ta có thể nhận thấy

các mục tiêu này thông qua việc một nước ngăn cản hàng hóa không đảm bảo chất

lượng nhập khẩu vào nước mình”.

Còn theo định nghĩa của Ủy ban Châu Âu EC, thuật ngữ “hàng rào kỹ thuật

đối với thương mại” liên quan tới những quy chuẩn bắt buộc và những tiêu chuẩn tự

nguyện điều chỉnh những đặc điểm cụ thể của sản phẩm như kích thước, hình dáng,

thiết kế, nhãn mác, quy cách đóng gói, tính năng hoặc hiệu suất…

Từ các thừa nhận và định nghĩa trên, ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng rào

cản kỹ thuật trong thương mại là một hình thức của rào cản phi thuế quan được các

nước nhập khẩu xây dựng nên thông qua việc đưa ra các quy định và tiêu chuẩn kỹ

thuật. Hàng hóa nếu không đạt được các tiêu chuẩn trên sẽ không được phép nhập

khẩu vào lãnh thổ của nước nhập hàng.

Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại này về nguyên tắc là cần thiết và hợp

lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng cho sức khỏe con người, môi trường, an

ninh… Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống các

biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hóa của mình và hàng hóa nhập khẩu. Tuy

nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với

thương mại quốc tế bởi chúng có thể được các nước nhập khẩu sử dụng để bảo hộ

cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hóa nước

ngoài vào thị trường nước nhập khẩu. Do đó, chúng được gọi là “rào cản kỹ thuật

đối với thương mại”.

1.1.2.2. Các hình thức của rào cản kỹ thuật đối với thương mại

Hệ thống rào cản kỹ thuật trên thế giới ngày càng được cập nhật với các hình

thức mang tính bảo hộ cao, tinh vi và phức tạp hơn để thay thế các công cụ không

phù hợp với quy định của WTO. Rào cản kỹ thuật đối với thương mại theo cách

10

phân loại của WTO trong “Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại” được

chia thành ba loại sau đây:

 Quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations) là những yêu cầu kỹ thuật có giá trị

áp dụng bắt buộc (các doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ). Nếu sản phẩm

của doanh nghiệp không tuân thủ được các quy chuẩn kỹ thuật kỹ thuật, sản

phẩm đó không được phép lưu hành trên thị trường.

 Tiêu chuẩn kỹ thuật (technical standards) là các yêu cầu kỹ thuật được một tổ

chức uy tín chấp thuận nhưng không có giá trị áp dụng bắt buộc. Tức là nếu

sản phẩm nhập khẩu chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật của thị

trường, hàng hóa của doanh nghiệp vẫn được phép lưu hành trên thị trường đó.

 Quy trình đánh giá sự phù hợp của một loại hàng hóa với các quy chuẩn/ tiêu

chuẩn kỹ thuật (conformity assessment procedure) tức là các thủ tục kỹ thuật

như: kiểm tra, thẩm tra, thanh tra và chứng nhận về sự phù hợp của sản phẩm

với các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường nhập khẩu.

Hay trong báo cáo “Giao thương với liên minh Châu Âu” tại hội nghị của

MUTRAP, rào cản kỹ thuật được chia thành ba hình thức chính như sau:

- Các yêu cầu về sức khỏe và an toàn đối với các sản phẩm chế tạo

- Các yêu cầu về sức khỏe và an toàn lương thực thực phẩm

- Các yêu cầu và tiêu chuẩn về môi trường.

Tuy nhiên, việc phân loại các rào cản kỹ thuật trên phạm vi quốc tế thực chất

chỉ mang tính chất tương đối. Chúng ta khó có thể liệt kê và nhận biết được hết tất

cả các loại rào cản kỹ thuật trên thế giới. Bởi cách thức các nước áp dụng hàng rào

kỹ thuật ngày càng tinh vi, khéo léo để phục vụ cho những mục đích khác nhau.

1.1.2.3. Mục tiêu và nguyên tắc chính của rào cản kỹ thuật đối với thương mại

“Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại” được thông qua trong

khuôn khổ WTO là nhằm mục đích: thừa nhận sự cần thiết của các biện pháp kỹ

thuật đồng thời kiểm soát các biện pháp này nhằm đảm bảo các nước thành viên sử

dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ.

11

Theo đó, Hiệp đinh TBT của WTO đưa ra sáu nguyên tắc cơ bản sau:

- Không đưa ra những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại

Trước hết, các cản trở khi đưa ra phải phục vụ cho một mục đích chính đáng.

Mục đích chính đáng đó có thể là nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ an ninh

quốc gia hay bảo vệ môi trường. Khi đưa ra các cản trở, quốc gia đó cũng phải xem

xét đến sự khác biệt về thị hiếu, thu nhập, vị trí địa lý và các nhân tố khác giữa các

quốc gia, từ đó lựa chọn sử dụng những cản trở có tác động đến hoạt động thương

mại ít nhất.

Về phía Chính phủ, tránh các cản trở không cần thiết đến hoạt động thương

mại, có nghĩa là: khi Chính phủ đưa ra một quy định kỹ thuật liên quan đến các sản

phẩm như về thiết kế sản phẩm hay các tính năng, công dụng của sản phẩm phải

tránh những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại quốc tế. Nguyên tắc

này cũng áp dụng cho các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Theo đó, các thủ tục đánh

giá sự hợp chuẩn khi đưa ra không được quá khắt khe và tốn quá nhiều thời gian so

với mức cần thiết để đánh giá một sản phẩm phù hợp với luật lệ trong nước và các

quy định của nước nhập khẩu.

- Minh bạch:

Một thành viên của WTO có kế hoạch đưa ra một biện pháp có thể có tác động

quan trọng đến thương mại phải thông báo cho WTO và phải được các nước khác

trong WTO thông qua dự thảo luật.

- Không phân biệt đối xử và đối xử quốc gia:

Một biện pháp không được phép phân biệt trong các nước nhập khẩu khác

nhau và nên áp dụng chung một cách thức đối với cả hàng hóa nhập khẩu và hàng

hóa tương tự trong nước.

- Bình đẳng

WTO khuyến khích các nước thành viên hợp tác để công nhận các quy định,

tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau.

12

Khi các nước công nhận các biện pháp kỹ thuật của nhau sẽ giúp làm giảm chi

phí điều chỉnh các tính năng của sản phẩm để phù hợp với tiêu chuẩn của các nước

khác. Hơn nữa, do khoảng cách về thời gian giữa thời điểm ban hành các tiêu chuẩn

kỹ thuật quốc tế với thời điểm tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế đó

vào hoạt động sản xuất của một quốc gia có thể diễn ra trong một khoảng thời gian

khá dài sẽ tạo điều kiện cho nước áp dụng có cơ hội từ chối không áp dụng các quy

định, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Việc tuân thủ nguyên tắc bình đẳng sẽ góp phần

làm cho các nhà sản xuất phải tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ

hơn.

- Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế (hài hòa hóa): bất cứ khi nào có thể, những

tiêu chuẩn quốc tế nên được dùng như cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật.

Tiếp theo, hiệp đinh TBT khuyến khích các nước thành viên tham gia vào các

Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế như OIE, FAO, WHO, IPPC... Là những tổ chức đã

thiết lập những bộ tiêu chuẩn kỹ thuật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động

của các tổ chức này.

- Công nhận lẫn nhau (sự tương đương):

Theo WTO, những thành viên của WTO nên xem xét việc chấp nhận các quy

chuẩn kỹ thuật của các thành viên khác tương đương như các quy chuẩn kỹ thuật

của mình, để đảm bảo rằng những quy chuẩn kỹ thuật này là biện pháp hiệu quả để

giải quyết mục tiêu các quốc gia theo đuổi.

Bởi để chứng minh được sản phẩm của mình phù hợp với quy định kỹ thuật

của các nước nhập khẩu, nhà xuất khẩu sẽ phải tiến hành các thủ tục khác nhau, đòi

hỏi sự tốn kém về mặt chi phí. Tuy nhiên, khi các nước thừa nhận các quy chuẩn kỹ

thuật của nhau, nhà xuất khẩu khi đó sẽ chỉ phải chi trả các chi phí tiến hành kiểm

tra, chứng minh các tiêu chuẩn kỹ thuật ở một nước; kết quả kiểm tra đó sẽ được

chấp nhận ở các quốc gia khác.

Ngoài ra, hiệp định TBT còn quy định khi kết quả của các tổ chức đánh giá sự

hợp chuẩn tương thích với những chỉ dẫn liên quan do các tổ chức tiêu chuẩn hóa

13

quốc tế ban hành thì kết quả đó được xem là bằng chứng về một trình độ kỹ thuật

hoàn chỉnh.

1.2. Những quy định của EU về rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng da giầy

nhập khẩu

1.2.1. Khái quát về rào cản kỹ thuật trong thương mại của EU

Liên minh châu Âu – EU là khối kinh tế và chính trị bao gồm 28 quốc gia khu

vực châu Âu. 28 quốc gia được liệt kê dưới đây cùng với thời điểm ra nhập EU.

Bảng 1. 1. Danh sách các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu và năm ra nhập

Áo (1995) Đức (1958)

Bỉ (1958) Hi Lạp (1981) Ba Lan (2004)

Bulgaria (2007) Hungary (2004) Bồ Đào Nha (1986)

Croatia (2013) Ireland (1973) Romania (2007)

Cyprus (2004) Italia (1958) Slovakia (2004)

CH Séc (2004) Latvia (2004) Slovenia (2004)

Đan Mạch (1973) Lithuania (2004) Tây Ban Nha (1986)

Estonia (2004) Luxembourg (1958) Thụy Điển (1995)

Phần Lan (1995) Malta (2004) Anh Quốc (1973)

Pháp (1958) Hà Lan (1958)

Nguồn: Theo trang thông tin điện tử của Liên Minh Châu Âu (www.europa.eu) [39]

Theo ước tính của EU, dân số của EU vào năm 2016 đạt 510,1 triệu người

[38], GDP năm 2014 đạt 14 nghìn tỷ euro [39], tương đương 15,26 nghìn tỷ đô la

Mỹ. Những con số đó cho thấy EU là một thị trường rộng lớn, với mức thu nhập

cao, là thị trường đầy hứa hẹn, tiềm năng cho các nước xuất khẩu. Không chỉ vậy,

một vài quốc gia như: Nauy, Iceland, Liechtenstein mặc dù không phải là thành

viên của Liên minh Châu Âu, tuy nhiên vẫn là một phần của khu vực được biết đến

là Khu vực Kinh tế chung Châu Âu (European Economic Area-EEA). Các quốc gia

14

này có các thỏa thuận với EU và thường xuyên tự nguyện áp dụng các quy định của

EU. Do đó, những quy định kỹ thuật của EU cũng được áp dụng ở những nước này.

Ngoài ra, một số quốc gia khác đang trong tiến trình nỗ lực trở thành thành viên của

EU như Thổ Nhĩ Kỳ và một số bang hình thành từ khu vực Yugoslavia cũ. Điều đó

cho thấy tiềm năng to lớn của khu vực này đối với các nước xuất khẩu, trong đó có

các nước xuất khẩu da giầy.

Luật pháp và các yêu cầu pháp lý tại EU được đưa ra bởi hai cơ quan tối cao

của Liên minh Châu Âu. Đó là Ủy ban Châu Âu (European Commission – EC) và

Nghị viện Châu Âu (The European Parliament). Ủy ban Châu Âu là đơn vị chịu

trách nhiệm thực hiện các hoạt động của EU, chịu trách nhiệm đưa ra các quyết

định về luật pháp sẽ thông qua tại EU và Nghị viện châu Âu là đơn vị bầu cử trực

tiếp, là nơi bỏ phiếu để áp dụng các đề xuất của Ủy Ban và định hướng tầm nhìn

chiến lược cho EU.

Uỷ ban Châu Âu là cơ quan trực tiếp đưa ra các quyết định liên quan đến các

rào cản kỹ thuật tại thị trường EU. Vì vậy, các quy định kỹ thuật mà Ủy ban Châu

ÂU đưa ra sẽ là yêu cầu bắt buộc phải đáp ứng đối với các nước muốn xuất khẩu

hàng hóa vào thị trường EU.

Các quốc gia xuất khẩu vào thị trường EU trước hết phải tuân thủ các quy định

của WTO về rào cản kỹ thuật, sau đó là rào cản kỹ thuật tại thị trường EU và cuối

cùng là các yêu cầu tại thị trường quốc gia thành viên (nếu có).

EU là khu vực nổi tiếng với những quy định và tiêu chuẩn chọn lựa sản phẩm

khắt khe, kỹ lưỡng với công cụ TBT, “rào cản” mà không phải hàng hóa nào cũng

dễ dàng đáp ứng được. Hệ thống rào cản kỹ thuật của EU được xem là hệ thống bảo

hộ bằng rào cản kỹ thuật đối với thương mại hiệu quả nhất thế giới hiện nay và phù

hợp với xu thế chung của thương mại thế giới.

Hệ thống rào cản kỹ thuật đối với thương mại của EU khắt khe bởi nhiều

nguyên nhân. Đầu tiên, EU là một thị trường cao cấp với người tiêu dùng có thu

nhập cao. Yêu cầu của họ về hàng hóa chất lượng cao là điều dễ hiểu. Cùng với đó,

các hiệp định thương mại tự do giữa EU và các nước và khu vực trên thế giới ngày

15

càng được mở rộng, thuế quan đang dần dần được xóa bỏ, yêu cầu phải giảm thuế

quan đối với các nước ký kết hiệp định tự do là điều đương nhiên, vì vậy gia tăng

các quy định và tiêu chuẩn đối với hàng hóa nhập khẩu là vì mục đích bảo hộ sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khối. Chính phủ các nước ngày càng

quam tâm tới các yêu cầu về sức khỏe, an toàn và vấn đề môi trường. TBT vì vậy là

công cụ hữu hiệu của EU để xây dựng các hàng rào kỹ thuật đối với các quốc gia

thứ ba nơi có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng đối với hoạt động của kinh tế

Châu Âu.

1.2.2. Rào cản kỹ thuật của EU đối với sản phẩm da giầy

Các rào cản kỹ thuật tại EU tương đối nhiều và có sự khác biệt đôi chút giữa

các quốc gia trong Liên minh Châu Âu. Tuy nhiên chúng ta chỉ xem xét đến những

quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng nhiều nhất, phổ biến nhất đối với sản

phẩm da giầy và có tác động trực tiếp đến khả năng xuất khẩu sản phẩm da giầy

sang thị trường EU.

1.2.2.1. Chỉ thị An toàn Sản phẩm (GPSD)

Chỉ thị An toàn Sản phẩm (General Product Safety Directive – GPSD) của EU

2001/95/EC là một quy chuẩn kỹ thuật chung và bắt buộc được EC đưa ra nhằm

đảm bảo chỉ có các sản phẩm an toàn được đưa ra thị trường. Trong đó, Chỉ thị An

toàn sản phẩm định nghĩa những sản phẩm được đưa ra thị trường là những sản

phẩm bày bán trên thị trường, hoặc bằng cách khác cung cấp hoặc làm ra để tiêu

dùng, hướng đến người tiêu dùng hoặc có thể sẽ được sử dụng bởi người tiêu dùng

dưới những điều kiện có thể dự báo trước, ngay cả khi không có ý định được sử

dụng bởi người tiêu dùng (chỉ thị EC 2001/59/EC trang 1 đoạn 6) [36].

Chỉ thị An toàn sản phẩm áp dụng khi không có luật pháp EU, các tiêu chuẩn

quốc gia, các khuyến nghị của Ủy ban hoặc các quy tắc thực hành liên quan đến an

toàn của sản phẩm. Nó cũng bổ sung cho luật chuyên ngành. Các quy định cụ thể

của GPSD áp dụng với sự an toàn của đồ chơi, hàng điện tử và điện tử, mỹ phẩm,

hóa chất và các nhóm sản phẩm cụ thể khác trong đó có sản phẩm da giầy.

16

Chỉ thị An toàn sản phẩm thiết lập nghĩa vụ đối với cả doanh nghiệp và các cơ

quan chức năng của các Quốc gia thành viên. Các doanh nghiệp chỉ bán các sản

phẩm an toàn trên thị trường, và phải thông báo cho người tiêu dùng về bất kỳ rủi ro

nào liên quan đến các sản phẩm mà họ cung cấp. Họ cũng phải đảm bảo rằng bất kỳ

sản phẩm nguy hiểm nào có mặt trên thị trường có thể được truy tìm để có thể loại

bỏ chúng để tránh rủi ro cho người tiêu dùng.

Các quốc gia thành viên chịu trách nhiệm giám sát thị trường. Họ kiểm tra

xem các sản phẩm có sẵn trên thị trường có an toàn hay không, đảm bảo pháp luật

về an toàn sản phẩm và các quy tắc được áp dụng bởi các nhà sản xuất và chuỗi

kinh doanh và áp dụng biện pháp chế tài nếu cần.

Các quốc gia thành viên cũng phải gửi thông tin về các sản phẩm nguy hiểm

được tìm thấy trên thị trường sang Hệ thống cảnh báo nhanh đối với các sản phẩm

nguy hiểm phi thực phẩm (Rapid Alert System for non-food dangerous products-

RAPEX). Đây là công cụ hợp tác cho phép truyền thông nhanh giữa EU và các cơ

quan của Khu vực Kinh tế chung Châu Âu về các sản phẩm nguy hiểm để có thể

theo dõi chúng ở mọi nơi trên thị trường Châu Âu. Các nước thứ ba như Trung

Quốc và các tổ chức quốc tế cũng tham gia vào hệ thống giám sát này.

Các biện pháp khẩn cấp của EC được áp dụng khi EC nhận thấy có sản phẩm

gây nguy hiểm nghiêm trọng đối với người dùng và cần thu hồi nó từ người tiêu

dùng và thu hồi nó trên thị trường. Các biện pháp khẩn cấp đã được thực hiện ví dụ

cho các sản phẩm có chứa Dimethylfumarate (DMF).

Đánh giá rủi ro là một phần cơ bản của việc đảm bảo rằng người sử dụng sản

phẩm không bị thương và họ không phải chịu bất cứ sự mất mát về tài chính cũng

như danh tiếng nào. Đánh giá rủi ro là bắt buộc về mặt luật pháp trên tất cả sản

phẩm tiêu thụ tại thị trường EU, trong đó có sản phẩm da giầy.

Một sản phẩm được GPSD đánh giá rủi ro thông qua những tiêu chí sau đây:

• Mục đích sử dụng dự kiến của sản phẩm

• Thông tin sẵn có cho người sử dụng

• Người sử dụng sản phẩm hướng tới (ví dụ: người cao tuổi hoặc rất trẻ)

17

• Sản phẩm phải duy trì tính an toàn trong suốt vòng đời của nó, điều này không

có nghĩa rằng sản phẩm đó hoàn toàn không bị lỗi, tuy nhiên nếu sản phẩm có

lỗi, lỗi đó không gây ra những rủi ro khác đối với người sử dụng. Đối với sản

phẩm da giầy, lỗi về tính an toàn có thể bao gồm độ mài mòn của da mũ giầy

và da đế. Ngược lại ví dụ về các lỗi về tính không an toàn như độ kết dính

không chắc chắn của đề giầy hoặc gót của giầy cao gót.

• Sản phẩm cần đảm bảo khả năng truy nguyên theo từng lô hoặc mẻ sản xuất.

Nhà sản xuất và phân phối có thể truy nguyên và thu hồi sản phẩm về trong

trường hợp sản phậm bị đánh giá là không an toàn, rủi ro cao cho người sử

dụng.

Chỉ thị An toàn sản phẩm cũng đưa ra yêu cầu về trách nhiệm đối với nhà sản

xuất và nhà phân phối sản phẩm. Nhà sản xuất là người sản xuất (nếu trong EU)

hoặc người nhập khẩu, là người chủ nhãn hiệu, người sửa chữa hoặc làm mới sản

phẩm hoặc là bất cứ người nào thay đổi sản phẩm (sửa chữa theo yêu cầu của khách

hàng). Nhà phân phối là bất cứ người nào trong chuỗi cung ứng mà không ảnh

hưởng đến độ an toàn của sản phẩm, ví dụ như nhà bán lẻ, nhà bán buôn… Nghĩa

vụ của nhà sản xuất và nhà phân phối theo Chỉ thị An toàn sản phẩm như sau:

Đối với nhà sản xuất

• Chỉ bán những sản phẩm an toàn ra thị trường

• Cung cấp thông tin và cảnh cáo ở nơi thích hợp

• Nhãn của sản phẩm có thể nhận biết (đánh dấu lô hàng, mẫu/tham chiếu sản

phẩm…)

• Kiểm tra một cách xác đáng (đánh giá rủi ro)

• Tiến hành điều tra về những phàn nàn về độ an toàn, giữ liên lạc với nhà phân

phối đã thông báo, thông báo và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền

Đối với nhà phân phối

• Không cố ý cung cấp những sản phẩm không an toàn

• Giữ tài liêu để theo dõi những sản phẩm không an toàn

• Chuyển thông tin về rủi ro cảu sản phẩm đến người tiêu dùng

18

• Chuyển thông tin những phàn nàn về an toàn cho người sản xuất

• Đào tạo nhân viên để họ có thể nhận biết tầm quan trọng của những phàn nàn

về độ an toàn của sản phẩm

• Thông báo và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền

Chỉ thị này áp dụng với mọi sản phẩm đưa ra thị trường trong đó có sản phẩm

da giầy.

1.2.2.2. Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất (REACH)

Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất được dịch từ cụm từ tiếng

Anh “Registration, Evaluation, Authorisation & restriction of Chemicals”, viết tắt là

REACH, là Quy chuẩn (EC) 1907/2006 (Regulation 1907/2006) ban hành ngày

18/12/2006 và hoàn toàn có hiệu lực vào ngày 01 tháng 06 năm 2007. Quy chuẩn

Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất là một quy định của Liên minh châu Âu,

được thông qua để cải thiện việc bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường khỏi các

nguy cơ có thể gây ra bởi hóa chất, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh của

ngành công nghiệp hóa chất của EU. Nó cũng khuyến khích các phương pháp thay

thế cho đánh giá nguy hiểm của các chất để giảm số lượng các xét nghiệm trên động

vật. Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất quy định việc sử dụng và

sản xuất hóa chất tại EU thông qua một quá trình đánh giá nghiêm ngặt đối với tất

cả các loại hóa chất.

Về nguyên tắc, Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất áp dụng

cho tất cả các hóa chất; Không chỉ những sản phẩm được sử dụng trong các quy

trình công nghiệp mà còn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, ví dụ như trong

các sản phẩm làm sạch, sơn và các sản phẩm như quần áo, đồ gỗ và đồ điện gia

dụng. Để tuân thủ quy định của REACH, các công ty phải tuân thủ quy trình như

sau. Trước hết, các công ty phải xác định và quản lý các rủi ro liên quan đến các

chất họ sản xuất và phân phối tại EU. Họ phải chứng minh cho Cơ quan hóa chất

Châu Âu (European Chemicals Agency – ECHA) cách sử dụng chất này một cách

an toàn và họ phải đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro cho người dùng. Mỗi năm,

các công ty phải có trách nhiệm thu thập thông tin về các chất họ sử dụng trong sản

19

xuất hoặc nhập khẩu với lượng trên 1 tấn mỗi năm. Từ đó, họ đánh giá rủi ro tiền ẩn

đối với các chất này. ECHA và các quốc gia thành viên EU đánh giá thông tin do

các công ty đệ trình để kiểm tra chất lượng của hồ sơ đăng ký và các đề xuất thử

nghiệm. Từ đó ECHA và các quốc gia thành viên đánh giá chất được đệ trình có

gây nguy hiểm cho sức khoẻ con người hay môi trường hay không. Nếu một chất bị

đánh giá là đáng lo ngại, chất này sẽ được yêu cầu thay thế bằng các giải pháp thay

thế phù hợp. Những chất bị đánh giá là đáng lo ngại được gọi là Các chất có mức độ

quan tâm cao (Substances of Very High Concern - SVHCs). Những chất này được

ECHA cập nhật hàng năm tại website của ECHA. Hiện nay, số chất trong danh sách

SVHCs đã lên tới 155 chất. Nếu rủi ro đối với môi trường và sức khỏe con người từ

hóa chất các công ty trình lên bị ECHA đánh giá là không thể chấp nhận được,

ECHA sẽ áp dụng các biện phát hạn chế. Hạn chế có thể sẽ là hạn chế ở một mức độ

nhất định chất đó trong sản phẩm hoặc cấm toàn bộ chất đó có thể được sử dụng và

đưa ra thị trường (các chất hạn chế được nêu ở phụ lục XVII của REACH).

Danh sách chất bị hạn chế sử dụng (Restricted Substances Lists) còn gọi là

danh sách RSLs chứa tên của chất, luật áp dụng, lý do đưa vào danh sách, phương

pháp kiểm tra, giới hạn, vật liệu áp dụng và danh sách phòng thí nghiệm được chấp

nhận. RSLs được cung cấp cho các nhà cung cấp, phòng thí nghiệm và sẽ được rà

soát, cập nhật hàng năm.

Có một lưu ý về RSLs. Đó là đối với các doanh nghiệp lớn, họ thường sử dụng

RSLs như một phương thức xây dựng thương hiệu trên thị trường và sử dụng RSLs

như một cách phản ánh thông tin về sản phẩm phù hợp với các giá trị của công ty.

Đó là lý do vì sao có rất nhiều trường hợp danh sách chất bị hạn chế của các thương

hiệu lớn thường nghiêm ngặt hơn so với yêu cầu về pháp lý của Quy chuẩn Đăng

ký, đánh giá và cấp phép hóa chất.

Một lưu ý nữa về Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất đó là

“Báo cáo đánh giá an toàn hóa chất”. Hệ thống báo cáo đánh giá an toàn hóa chất

là một phần trong quá trình đăng ký REACH. Khi nộp hồ sơ đăng ký Quy chuẩn

REACH, ECHA yêu cầu phải nộp “Báo cáo an toàn hóa chất” đi kèm. Hệ thống

này yêu cầu phải đánh giá các đặc thù và tính năng có thể phơi nhiễm của hóa chất,

20

là tài liệu không thể thiếu trong hồ sơ đăng ký REACH. Đánh giá an toàn hóa học

được thực hiện để chứng minh rằng các rủi ro từ việc tiếp xúc với một chất trong

quá trình sản xuất và sử dụng được kiểm soát khi áp dụng các điều kiện hoạt động

cụ thể và các biện pháp quản lý rủi ro. Các điều kiện sử dụng chất này tạo thành

kịch bản phơi nhiễm, đây là một thành phần thiết yếu của báo cáo an toàn hoá chất.

Ví dụ như các tính năng liên quan đến nước thải, cần đưa ra các biện pháp để giảm

thải ra môi trường khi hàm lượng có thể gây ô nhiễm môi trường vượt trên mức vô

hại.

EU không có quy định pháp lý cụ thể nào về da và da thuộc. Tuy nhiên, sản

phẩm thuộc da có thể được điều chỉnh bởi các quy định chung về bảo vệ sức khỏe

cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, bao gồm các quy định về việc kinh doanh

và sử dụng các chất/hóa chất nguy hại và quy định về sản phẩm làm từ động vật khi

nhập khẩu vào EU. Trong đó quan trọng nhất là Quy chuẩn Đăng ký, đánh giá và

cấp phép hóa chất. Mặc dù REACH chủ yếu nhắm đến ngành công nghiệp hóa chất

tuy nhiên cũng có những tác động đáng kể đối với các nhà nhập khẩu và nhà sản

xuất hàng hóa (bao gồm sản phẩm da giầy).

Về các chất hạn chế bắt buộc và đề nghị (RSLs), sản phẩm da giầy cần lưu ý

đến các chất hạn chế bắt buộc và đề nghị như sau:

- Dệt may tự nhiên: Chất bị hạn chế bắt buộc gồm: thuốc nhuộm Azo, PCP.

Chất hạn chế đề nghị gồm Formaldehyde và kim loại nặng

- Dệt may tổng hợp: Chất hạn chế bắt buộc gồm thuốc nhuộm Azo, Organotins.

Chất hạn chế đề nghị gồm Formaldehyde, kim loại nặng và thuốc nhuộm phân

tán.

- Da: Chất hạn chế bắt buộc gồm: thuốc nhuộm Azo, PCP, Organotins,

Hexavalent Chromium. Chất hạn chế đề nghị gồm Formaldehyde và kim loại

nặng.

Tuy nhiên để kiểm tra tất cả các chất trong tất cả chất liệu là rất khó khăn

trong thương mại. Vì vậy thông thường quá trình kiểm tra sẽ được phân loại gồm

một loạt các sản phẩm tương tự và các nhà cung cấp sản phẩm tương tự nhau.

21

Những sản phẩm phổ biến nhất sẽ được kiểm tra đầu tiên. Từ đó người kiểm tra sẽ

xác định chất liệu đó được dùng trong những sản phẩm khác nhau và tham chiếu

chéo.

Hệ thống Báo cáo đánh giá an toàn hóa chất theo yêu cầu của ECHA, đã được

đề cập ở trên, đặc biệt tác động đến ngành thuộc da. Đối với một số chất phụ gia

dùng trong chế biến da thuộc, Báo cáo đánh giá an toàn hóa chất yêu cầu mô tả

đặc thù các chất có nguy cơ gây ô nhiễm, bao gồm tác động nguy hại đến sức khỏe

con người tại nơi làm việc (còn gọi là “các yếu tố an toàn nghề nghiệp”) và một số

chất hỗn hợp được cho là sẽ tồn dư trong hoặc trên sản phẩm da hoàn thiện có nguy

cơ gây hại khi sản phẩm đó được người tiêu dùng sử dụng. Do đó, việc mô tả đặc

thù và nguy cơ gây hại của các thành phần liên quan bắt buộc phải là một phần của

báo cáo đánh giá an toàn hóa chất, cùng với các nội dung khác mô tả tác động có

hại đến sức khỏe con người (còn gọi là “các yếu tố bảo vệ người tiêu dùng”).

Quy định REACH còn áp dụng cho da và sản phẩm da liên quan đến các chất:

nickel trong phụ kiện kim loại của giầy và đồ trang trí; chất nhuộm azo trong sản

phẩm da; cadmium (còn gọi là carcinogen), trong một số đồ da và đồ phụ kiện bằng

da.

1.2.2.3. Quy định về sản phẩm diệt khuẩn (BPR)

Quy định về sản phẩm diệt khuẩn - The Biocidal Products Regulation (BPR)

(EU 528/2012) là quy chuẩn kỹ thuật của EU quy định việc đưa vào và sử dụng sản

phẩm diệt khuẩn được sử dụng để bảo vệ con người, động vật, vật liệu hoặc vật

phẩm chống lại các sinh vật gây hại như sâu bệnh hoặc vi khuẩn bằng các chất hoạt

tính có trong sản phẩm diệt khuẩn. Quy định này nhằm cải thiện hoạt động của thị

trường sản phẩm diệt khuẩn ở EU, đồng thời đảm bảo mức độ bảo vệ cao cho con

người và môi trường.

Quy định về sản phẩm diệt khuẩn được thông qua vào ngày 22 tháng 5 năm

2012 và áp dụng từ ngày 1 tháng 9 năm 2013 thay thế cho Chỉ thị về Sản phẩm diệt

khuẩn số 98/8/EC.

22

Về quy trình cấp phép sản phẩm diệt khuẩn, Các công ty trước hết cần nộp

đơn xin phê duyệt một chất hoạt tính (chất diệt khuẩn trong sản phẩm) bằng cách

nộp hồ sơ cho ECHA. Các chất hoạt tính được đánh giá lần đầu bởi cơ quan có

thẩm quyền cấp nhà nước và kết quả của các đánh giá này được chuyển tới Ủy ban

Sản phẩm diệt sinh vật của ECHA. Việc phê duyệt một chất hoạt tính được cấp

trong một số năm nhất định, không quá 10 năm và có thể tái cấp phép. Sau khi

ECHA phê duyệt một chất hoạt tính, các công ty muốn cung cấp các sản phẩm diệt

khuẩn có chứa chất hoạt tính đó trên thị trường phải nộp đơn xin cấp phép sản phẩm

ở cấp quốc gia hoặc cấp Liên minh. Cùng với đó các công ty có thể yêu cầu ECHA

thiết lập sự tương đương kỹ thuật hoặc sự giống nhau về hóa chất của chất hoạt tính

(hoạt tính tương tự). Điều này sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cấp phép sản phẩm

diệt khuẩn cho các công ty.

Nếu ECHA quyết định không phê duyệt đối với các chất hoạt động diệt khuẩn

được trình trong hồ sơ của công ty, sau 180 ngày từ quyết định không phê duyệt,

sản phẩm có chứa hoạt tính diệt sinh vật sẽ bị loại bỏ hoàn toàn khỏi thị trường.

Một sản phẩm có các đặc tính diệt khuẩn (có chứa các hoạt tính diệt khuẩn),

chúng cần được gắn nhãn theo BPR. Thông tin ghi trên nhãn cần dễ hiểu, dễ quan

sát đối với người tiêu dùng và phải chứa các thông tin sau:

- Một bản thuyết minh về sản phẩm đã được xử lý liên quan chặt chẽ tới sản

phẩm diệt khuẩn;

- Nơi xác minh, đặc tính diệt khuẩn gắn cho sản phẩm đã xử lý;

- Tên của các chất hoạt tính chứa trong sản phẩm diệt khuẩn;

- Tên của các vật liệu nano chứa trong sản phẩm diệt khuẩn, được viết sau chữ

“nano” trong dấu ngoặc;

- Các hướng dẫn sử dụng liên quan, bao gồm các biện pháp phòng ngừa được

thực hiện đối với sản phẩm đã được xử lý diệt khuẩn.

Hiện nay, theo thống kê của ECHA, có 22 nhóm hoạt chất sẽ được đánh giá và

cấp phép sản phẩm diệt khuẩn bởi ECHA. Tuy nhiên trong số 22 nhóm hoạt chất

đó, các doanh nghiệp da giầy sẽ phải đặc biệt lưu ý và xin cấp phép 2 nhóm hoạt

23

chất: sản phẩm diệt khuẩn vệ sinh cho con người và chất bảo quản cho thực phẩm

cũng như nguyên liệu. Đây là hai nhóm hoạt chất được sử dụng trong hầu hết các

sản phẩm da giầy hiện nay để xử lý nguyên vật liệu sản xuất sản phẩm da giầy. Vì

vậy, các công ty xuất khẩu cần lưu tâm đến hai nhóm này khi xuất khẩu sang thị

trường EU.

1.2.2.4. Chỉ thị về Đóng gói và Chất thải đóng gói

Chỉ thị về Đóng gói và Chất thải đóng gói - EC Directive on Packaging and

Packaging Waste (94/62/EC) đưa ra các yêu cầu đối với các bộ phận của sản phẩm

được đóng gói sử dụng khi vận chuyển và giai đoạn bán lẻ trong hành trình của sản

phẩm. Chỉ thị này được ra đời nhằm ngăn ngừa hoặc làm giảm tác động của bao bì

và chất thải đóng gói đối với môi trường.

EU lần đầu tiên đưa ra các biện pháp quản lý chất thải bao gói vào đầu những

năm 1980. Chỉ thị 85/339/EEC đưa ra các quy tắc về sản xuất, tiếp thị, sử dụng, tái

chế các thùng chứa chất lỏng để sử dụng và xử lý các thùng chứa đã qua sử dụng.

Để giải quyết các khía cạnh môi trường của bao bì và chất thải đóng gói, một

số quốc gia thành viên bắt đầu đưa ra các biện pháp của riêng mình trong lĩnh vực

này. Hậu quả là, sự phân tách luật pháp quốc gia đã xuất hiện, một tình huống đòi

hỏi sự hài hoà ở cấp độ Liên minh châu Âu.

Để hài hòa các biện pháp quốc gia liên quan đến việc quản lý bao bì và chất

thải đóng gói và để ngăn ngừa hoặc giảm tác động của nó đối với môi trường, Chỉ

thị 94/62/EC đã được thông qua. Chỉ thị nhằm mục tiêu cung cấp mức độ bảo vệ

môi trường cao và đảm bảo hoạt động của thị trường nội bộ để tránh những trở ngại

đối với thương mại và bóp méo sự cạnh tranh trong nội khối cũng như đối với nước

thứ ba.

Năm 2004, Chỉ thị đã được sửa đổi để cung cấp các tiêu chí làm rõ định nghĩa

của thuật ngữ "bao bì" và tăng mục tiêu thu hồi và tái chế chất thải bao bì. Năm

2005, Chỉ thị đã được sửa lại để tạo ra các thời kỳ chuyển tiếp mới cho các nước

thành viên để đạt được các mục tiêu thu hồi và tái chế.

24

Bản sửa đổi mới nhất của Chỉ thị về bao bì và xử lý bao bì đã diễn ra vào ngày

29 tháng 4 năm 2015 cùng với việc thông qua Chỉ thị 2015/2020 của Nghị viện

Châu Âu và Chỉ thị 94/62/EC của EC sửa đổi về việc sử dụng túi vận chuyển bằng

“nhựa nhẹ” (chất dẻo có độ dày dưới 50 microns2).

Các quy định chính của chỉ thị về đóng gói bao gồm:

- Tối thiểu: Theo chỉ thị, để tối thiểu lượng tiêu thụ túi nhựa, các Quốc gia

thành viên nên áp dụng các biện pháp để giảm đáng kể lượng tiêu thụ túi

vận chuyển bằng nhựa phù hợp với các mục tiêu chung của chính sách thải

chất thải của Liên minh và hệ thống phân loại chất thải như được quy định

trong Chỉ thị 2008/98/EC của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu.

- Không chứa chất độc hại: bao bì của sản phẩm không được phép chứa các

chất độc hại, có nguy cơ gây hại lớn cho môi trường và người sử dụng

- Có khả năng xoay vòng và tái sử dụng: bao bì của sản phẩm cần có khả

năng tái chế và tái sử dụng nhằm giảm thiểu lượng rác sẽ xả ra môi trường

trong tương lai. Mục tiêu tái chế bao gồm mỗi loại khác nhau của nguyên

liệu đối với giấy và cardboard là 60%.

- Chứa ít các kim loại nặng (chì, thủy ngân, cadmium and hexa crom) (kim

loại nặng là những chất nếu vượt quá một tỷ lệ nhất định được sử dụng để

sản xuất bao bì sẽ gây tác động xấu, bệnh tật cho người sử dụng và gây hại

lớn cho môi trường).

1.2.2.5. Chỉ thị về Ghi nhãn sản phẩm Da giầy

Da giầy cung cấp tại Liên minh Châu Âu phải được ghi nhãn theo Chỉ thị EU

94/11/EC. Đây là quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc mà các doanh nghiệp xuất khẩu da

giầy sang thị trường EU phải tuân thủ. Chỉ thị EU 94/11/EC được Nghị viện châu

Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu đưa ra vào năm 1994. Chỉ thị này đưa ra một hệ

thống ghi nhãn chung cho các bộ phận chính (các nguyên vật liệu cấu thành các bộ

phần chính) của sản phẩm da giầy được bán tại EU.

21 micron = 0.001 mm

25

Các bộ phận của giầy và nguyên phụ liệu cần xuất hiện trên nhãn thông qua ý

nghĩa của một số thuật ngữ hoặc hình ảnh minh họa. Nhãn phải được gắn trên ít

nhất một chiếc giầy (chiếc bày trên giá) với hình ảnh minh họa như sau:

Hình 1. 1. Nhãn mác của sản phẩm da giầy

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp theo trang thông tin điện tử của Liên minh Châu Âu (www.europa.eu)

[40]

Trong trường hợp sử dụng các hình minh họa, cần giải thích chi tiết ý nghĩa

của các hình đó tại thời điểm bán hàng.

Các bộ phận của giầy được phân loại theo vật liệu cấu thành như sau:

• Mặt ngoài & lớp lót – 80% diện tích bề mặt nhìn thấy

• Đế - 80% diện tích bề mặt sử dụng.

Khi không có nguyên liệu này chiếm tới 80% thì 2 loại nguyên liệu chính cần

được đưa ra.

Các nhà sản xuất có trách nhiệm cung cấp nhãn và tính chính xác của nhãn

mác đó hoặc, ở nơi giày dép được nhập khẩu, người đầu tiên cung cấp sản phẩm da

26

giầy vào thị trường Châu Âu trong chuỗi cung ứng phải đảm nhận trách nhiệm này.

Các nhà bán lẻ vẫn chịu trách nhiệm đảm bảo rằng sản phẩm da giầy mà họ bán

mang nhãn hiệu thích hợp.

Ngoài các nhãn mác bắt buộc, nhà sản xuất có thể gắn nhãn sinh thái một cách

tự nguyện. Nhãn mác này giúp người tiêu dùng biết được sản phẩm họ sử dụng có

tác động thấp tới môi trường thông qua thông tin về vòng đời của giày dép (từ sản

xuất, sử dụng và thải bỏ) được cung cấp trên nhãn sinh thái.

Việc ghi nhãn giày dép và các bộ phận chính của giày dép cung cấp cho người

tiêu dùng thông tin để họ có thể đưa ra các quyết định mua sắm thông minh. Chỉ thị

cũng giúp bảo vệ ngành công nghiệp da giày của EU khỏi cạnh tranh không lành

mạnh từ các nước khác và tăng cường hoạt động của thị trường nội bộ ở Liên minh

châu Âu (EU).

1.2.2.6. Dấu CE

CE là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Pháp “Conformité Européene” nó có nghĩa

là “Sự phù hợp của Châu Âu”. Thuật ngữ ban đầu được sử dụng là “EC Mark” và

nó đã được chính thức thay thế bằng “CE Marking” trong Chỉ thị 93/68/EEC năm

1993. “CE Marking” hiện nay được sử dụng trong tất cả các tài liệu chính thức của

EU.

Khi sản phẩm da giầy đã đáp ứng được tất cả các quy định kỹ thuật của EU,

doanh nghiệp sản xuất da giầy sẽ phải gửi mẫu nguyên vật liệu và sản phẩm đến các

phòng thí nghiệm, tổ chức uy tín để được cấp chứng nhận an toàn của EU. Chứng

nhận này là dấu CE trên sản phẩm. Sản phẩm nào được in dấu CE thì đồng nghĩa

với việc sản phẩm đó thỏa mãn những yêu cầu của tiêu chuẩn Châu Âu. Khi tổ chức

đánh giá kiểm tra sản phẩm đã phù hợp với các yêu cầu tiêu chuẩn CE thì nhà sản

xuất sẽ được họ cấp cho giấy chứng nhận CE, lúc đó phía nhà nhà xuất mới có thể

gắn dấu CE trên sản phẩm của mình và sản phẩm đó có thể lưu thông vào thị trường

Châu Âu.

Ở Châu Âu các nhà sản xuất, họ có thể tự công bố đạt tiêu chuẩn CE nếu tự tin

kiểm tra rằng đã tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của tiêu chuẩn châu Âu đề ra về sản

27

phẩm do họ sản xuất. Tuy nhiên nếu sản phẩm này không đúng như trong tuyên bố

thì loại mặt hàng này sẽ bị cấm bán vĩnh viễn trên thị trường EU. Cùng với đó là

nhà sản xuất phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc bồi thường các ảnh hưởng

do sản phẩm không đạt chuẩn của họ gây ra.

Vì vậy thường là những công ty tầm cỡ có phòng thí nghiệm riêng đạt tiêu

chuẩn quốc tế mới dám tự công bố điều này, còn đối với những công ty vừa và nhỏ

thường sẽ nhờ tới một tổ chức đánh giá có thẩm quyền giúp họ kiểm tra và đánh giá

sản phẩm trước khi công bố ra thị trường. Khi đó tổ chức được lựa chọn đánh giá sẽ

là người chịu trách nhiệm nếu sản phẩm họ đánh giá không đạt yêu cầu.

Đối với các nhà sản xuất nằm ngoài Châu Âu và không có văn phòng đại diện

tại Châu Âu sẽ không được phép tự công bố đạt CE mà phải có sự kiểm tra xác

nhận của bên thứ ba, gọi là các tổ chức đánh giá có thẩm quyền. Các tổ chức này sẽ

đánh giá sản phẩm và hồ sơ kỹ thuật theo các chỉ thị và tiêu chuẩn của Châu Âu một

cách độc lập và cấp chứng nhận cho sản phẩm, nếu đạt yêu cầu. Một điều lưu ý là tổ

chức chứng nhận phải có văn phòng ở Châu Âu và phải có giấy phép. Các hồ sơ

kiểm tra đánh giá phải được lưu trữ tại Châu Âu để làm bằng chứng và phải luôn

sẵn sàng xuất trình khi có yêu cầu.

Như vậy dấu CE gồm 2 phần:

 Dấu CE gắn trên sản phẩm.

 Giấy chứng nhận CE hoặc giấy tự công bố đạt CE có ghi rõ tên của chỉ thị và

các tiêu chuẩn liên quan.

Tiêu chuẩn CE không phải là tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm mà là các tiêu

chuẩn về an toàn. Một sản phẩm đạt tiêu chuẩn CE điều đó nói lên rằng sản phẩm

này đạt độ an toàn cho người sử dụng theo tiêu chuẩn của Châu Âu. Tuy nhiên, khi

sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn CE, các khâu đều được kiểm soát chặt chẽ, mọi

thứ trở nên bài bản và có quy định rõ ràng cụ thể nên vô hình chung giúp tránh các

sai xót không đáng có, nên sản phẩm có chất lượng hơn và mẫu mã cũng sẽ đẹp

hơn.

28

1.2.2.7. Tiêu chuẩn CEN/ISO

Tiêu chuẩn CEN/ISO là một tiêu chuẩn kỹ thuật tự nguyện được thỏa thuận và

thiết lập giữa Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (International Organization for

Standardization, viết tắt ISO) và Ủy ban tiêu chuẩn hóa Châu Âu (the European

Committee for Standardization, viết tắt là CEN) thông qua Hiệp định Vienna được

ký năm 1991 giữa ISO và CEN, tạo thành hệ thống tiêu chuẩn kép tại thị trường EU

ISO là một tổ chức độc lập, phi chính phủ quốc tế với thành viên là 162 cơ

quan tiêu chuẩn quốc gia. Thông qua các thành viên, ISO tập hợp các chuyên gia

chia sẻ kiến thức và phát triển tiêu chuẩn quốc tế tự nguyện để hỗ trợ đổi mới và

cung cấp giải pháp cho những thách thức toàn cầu. ISO có trụ sở đặt tại Geneva,

Thụy Sĩ.

ISO cung cấp các thông số kỹ thuật toàn cầu cho sản phẩm, dịch vụ và các hệ

thống để đảm bảo chất lượng, độ an toàn và sự hiệu quả. ISO cũng là công cụ thúc

đẩy thương mại quốc tế. ISO hiện nay đã đưa ra hơn 21.000 tiêu chuẩn quốc tế và

tài liệu liên quan, quy định tiêu chuẩn trong các ngành công nghiệp từ công nghệ

đến an toàn thực phẩm, nông nghiệp và y tế.

Uỷ ban Tiêu chuẩn hoá Châu Âu CEN được thành lập năm 1961 bởi các cơ

quan tiêu chuẩn của các nước thành viên trong Cộng đồng kinh tế Châu âu và các

nước EFTA (Hiệp hội thương mại tự do Châu Âu). Hiện nay, CEN đóng góp vào

thực hiện các mục tiêu của Liên Minh Châu Âu và Khu vực kinh tế Châu Âu bằng

các tiêu chuẩn kỹ thuật tự nguyện thúc đẩy tự do thương mại, an toàn cho người lao

động, đảm bảo tính tương thích giữa các hệ thống, kinh doanh, bảo vệ môi trường,

khai thác các chương trình nghiên cứu và phát triển.

Hiệp ước Vienna cho phép các nước không thuộc CEN có thể sử dụng tiêu

chuẩn CEN/ISO để đánh giá các thông số kỹ thuật một cách tự nguyện, tránh trùng

lặp với tiêu chuẩn quốc gia cùng với đó thu hồi các tiêu chuẩn gây mâu thuẫn.

Trong đó ngành da giầy cần lưu ý các tiêu chuẩn CEN TC309 về da giầy, TC289 về

da thuộc, TC248 về dệt may và TC161 về an toàn da giầy.

29

Trong CEN TC309, quá trình thử nghiệm các sản phẩm da giầy sẽ chia ra làm

hai phần, gồm các thử nghiệm vật lý và các thử nghiệm hóa học, với hai nhóm

chuyên gia riêng biệt phụ trách. Hai nhóm thử nghiệm của TC309 sẽ kết hợp cùng

Ủy ban quốc tế ISO TC216 để đưa ra kết luận về thử nghiệm vật lý và hóa học đối

với sản phẩm da giầy.

ISO TC216 là thỏa thuận về những tiêu chuẩn không được chấp nhận ở CEN

hoặc không thuộc phạm vi chuyên môn của các thành viên của CEN. Trong ISO

TC216, các nhóm thử nghiệm sẽ thực hiện các phương pháp thử nghiệm vật lý về

khía cạnh vi sinh đối với sản phẩm da giầy.

CEN 289 gồm bốn nhóm thử nghiệm: nhóm về kiểm tra hóa học, nhóm về

kiểm tra vật lý, nhóm về các định nghĩa và điều khoản và nhóm về đồ da.

Mặc dù đây là tiêu chuẩn tự nguyện, tuy nhiên nếu các công ty sản xuất da

giầy có thể có được các chứng nhận từ CEN/ISO, sản phẩm của họ sẽ được tin

tưởng hơn tại thị trường EU.

1.2.3. Thủ tục quản lý về chất lượng thử nghiệm

Với những yêu cầu kỹ thuật khắt khe như trên, các doanh nghiệp cũng như các

phòng thí nghiệm cần có sự kiểm soát chặt chẽ về kết quả và chất lượng thử

nghiệm. Để các kết quả thử nghiệm có ý nghĩa và có thể tin tưởng, việc thử nghiệm

phải được tiến hành dưới sự kiểm soát chặt chẽ như liệt kê dưới đây. Quy trình này

có thể áp dụng đối với phòng thí nghiệm nội bộ hoặc phòng thí nghiệm độc lập.

 Tổ chức

Phòng thí nghiệm phải được tổ chức sao cho các thử nghiệm viên nhận thức

được trách nhiệm của họ;

Tổ chức phòng thí nghiệm nên bao gồm quản lý phòng thí nghiệm với trách

nhiệm toàn diện về việc vận hành kỹ thuật của phòng thí nghiệm;

Phòng thí nghiệm cần vận hành hệ thống chất lượng phù hợp với các phép thử

mà họ thực hiện.

 Sổ tay chất lượng

30

Hệ thống chất lượng phải được hiện thực hóa trong Sổ tay chất lượng và cần

duy trình tính cập nhật;

Việc vận hành hệ thống chất lượng phòng thí nghiệm phải được xem xét ít

nhất là hàng năm và lưu hồ sơ các phát hiện và hành động;

Tất cả các khía cạnh của hoạt động của phòng thí nghiệm phải được văn bản

hóa để đảm bảo nhận viên tiếp thu và duy trì chuyên môn cần thiết để thực hiện

các phép thử yêu cầu, hiệu chuẩn và duy trì.

 Đào tạo nhân viên

Phòng thí nghiệm phải duy trì và cập nhật về hồ sơ đào tạo và kinh nghiệm

của tất cả nhân viên tham gia thử nghiệm, bảo dưỡng và hiệu chuẩn;

Nhân viên không được phép tiến hành thử nghiệm mà không có sự giám sát

trừ khi việc quản lý phòng thí nghiệm được đánh giá và văn bản hóa cho phép họ

thực hiện thử nghiệm.

 Phương pháp thử

Phòng thí nghiệm phải lưu các bản copy kết quả thử nghiệm sử dụng trong

phòng thí nghiệm. Đó phải là các bản gốc;

Phòng thí nghiệm phải sử dụng các bản cập nhật mới nhất về phương pháp

thử. Phòng thí nghiệm phải có thủ tục để kiểm tra ít nhất hàng năm rằng phương

pháp thử là cập nhật;

Phương pháp thử phải được sắp xếp ở trung tâm và sẵn sàng cho các thử

nghiệm viên tham khảo.

 Thiết bị thử nghiệm

Mỗi thiết bị thử nghiệm sử dụng trong phòng thí nghiệm phải được xác định

bằng số tham chiếu duy nhất;

Hồ sơ phải được duy trì cho mỗi thiết bị sử dụng để thử nghiệm hoặc hiệu

chuẩn theo bộ;

Hướng dẫn sử dụng đối với thiết bị phải được sắp xếp và sẵn sàng cho các thử

nghiệm viên tham khảo;

Thiết bị phải được bảo trì, bảo dưỡng thường xuyên để đảm bảo thực hiện

đúng các chức năng thử nghiệm;

31

Phòng thí nghiệm phải thiết lập thủ tục bảo trì đối với tất cả các thiết bị cùng

với lịch bảo trì để đảm bảo rằng việc bảo trì được thực hiện đúng thời điểm;

Phòng thí nghiệm phải lưu hồ sơ thực hiện hoạt động bảo trì bảo dưỡng thiết

bị.

 Hiệu chuẩn thiết bị

Tất cả các thiết bị thử nghiệm phải được hiệu chuẩn với thiết bị hiệu chuẩn

truy nguyên được đến chuẩn quốc gia;

Phòng thí nghiệm phải duy trì lịch sử hiệu chuẩn đầy đủ và cập nhật cho tất cả

các thiết bị, bao gồm các báo cáo và chứng nhận và tóm tắt các phát hiện;

Các thiết bị phải được ghi nhãn để thể hiện tình trạng hiệu chuẩn và ngày hiệu

chuẩn tiếp theo;

Phòng thí nghiệm phải lên lịch để thể hiện khi nào các thiết bị được yêu cầu

thực hiện hiệu chuẩn.

 Tài liệu tham khảo

Tài liệu tham khảo chuẩn sử dụng trong thử nghiệm phải được kiểm tra để

đảm bảo rằng các tài liệu đáp ứng các thông số kỹ thuật trong phương pháp thử;

Hồ sơ phải được tổ chức trong bàn giao và kiểm tra thực hiện cùng với số lô,

ngày đầu tiên được áp dụng và chứng nhận sự phù hợp;

 Điều kiện môi trường

Tổ chức phòng thí nghiệm phải phù hợp với việc thực hiện các phép thử yêu

cầu;

Điều kiện phòng thí nghiệm phải được duy trì ở 23±2°C & 50±2% độ ẩm

tương đối theo khuyến nghị ghi trong ISO 18454: 2001. Các điều kiện phòng sẽ

được ghi chép và theo dõi liên tục;

Kiểm tra định kỳ phải được thực hiện trong các điều kiện đồng nhất bằng các

tiến hành đo đạc một số điểm phù hợp nhất định trong phạm vi phòng thí nghiệm

và duy trì hồ sơ kiểm tra;

Việc đo đạc được thực hiện để đảm bảo duy trì điều kiện thử nghiệm tốt trong

toàn bộ phòng thí nghiệm.

32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH DA GIẦY VIỆT NAM ĐÁP ỨNG

CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI CỦA THỊ TRƯỜNG EU

2.1. Khái quát về tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam và tình hình xuất

khẩu da giầy của Việt Nam vào thị trường EU

2.1.1. Khái quát về tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam

2.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam

Ngành công nghiệp da giầy Việt Nam có lịch sử phát triển từ lâu đời và là một

trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho kinh tế

đất nước. Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ tiêu thụ nội địa, năm 1992, ngành da giầy bắt

đầu xuất khẩu được 5 triệu USD, đến năm 2015 đã góp tới 7% vào GDP cả nước3.

Cho đến nay, ngành xuất khẩu da giầy của Việt Nam là một trong những ngành

xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu giày dép chiếm tới 10,2%

tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2016 (chỉ đứng sau kim ngạch xuất

khẩu điện thoại các loại, hàng dệt may và máy vi tính, sản phẩm điện tử-linh kiện)

Biểu đồ 2. 1. Mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2016

Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả, tổng hợp từ trang thông tin điện tử của Tổng cục hải quan

Việt Nam (www.customs.gov.vn).

3 Tác giả tự tổng hợp từ số liệu trên website chính thức của Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn)

33

Từ năm 2009 đến năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam

tăng đều (từ hơn 4 tỷ USD năm 2009 đến năm 2015 đạt 12 tỷ USD, gấp 3 lần so với

năm 2008) dù trong những năm 2009 trở lại đây, kinh tế trong nước và thế giới liên

tục gặp khó khăn.

Bảng 2. 1. Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu da giầy Việt Nam giai đoạn 2009-2015

Đơn vị: Triệu đô la Mỹ

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

4071,3 5123,3 6549,4 7263,9 8400,6 10317,8 12006,9 Kim ngạch xuất khẩu

-14,6% 25,8% 27,8% 10,9% 15,6% 22,8% 16,4%

Tốc độ tăng trưởng

Nguồn: Số liệu tác giả tổng hợp từ trang thông tin điện tử của Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn)

Ngành da giầy không chỉ có kim ngạch xuất khẩu lớn, mà ngành da giầy Việt

Nam luôn có tốc độ tăng trưởng khá tốt. Theo số liệu tổng hợp từ số liệu của Tổng

cục thống kê ở bảng 2.1 trên, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của ngành da

giầy luôn duy trì ở mức hai con số trong giai đoạn 2009-2015 (ngoại trừ năm 2009,

do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu). Năm 2010, 2011 và 2014, tốc

độ tăng trưởng xuất khẩu da giầy của Việt Nam đã đạt trên 22%, đặc biệt năm 2011

có tốc độ tăng trưởng lên tới gần 28%.

34

Biểu đồ 2. 2. Kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt Nam giai đoạn 2009-2015

Đơn vị: Triệu đô la Mỹ

Nguồn: Số liệu tác giả tổng hợp từ trang thông tin điện tử của Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn)

Điều đó cho thấy, xuất khẩu da giầy đóng vai trò vô cùng quan trọng trong

hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói riêng và trong nền kinh tế Việt Nam nói

chung.

2.1.1.2. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt Nam trong tổng kim ngạch

xuất khẩu da giầy thế giới

Không chỉ có vai trò rất lớn đối với kinh tế trong nước, ngành da giầy Việt

Nam cũng có vị thế cao trên thị trường quốc tế. Việt Nam là một trong những

nước xuất khẩu da giầy lớn nhất trên thế giới.

Theo ước tính của Trung tâm thương mại quốc tế của UNCTAD/WTO và số

liệu của Hiệp hội Da – Giầy – túi xách, giai đoạn 2008-2015, Việt Nam nằm trong

top 4 nước sản xuất da giầy lớn nhất thế giới về số lượng (sau Trung Quốc, Ấn Độ

và Brazil) và là nước xuất khẩu lớn thứ 3 trên thế giới về giá trị (sau Trung Quốc và

Italia). Năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy toàn cầu đạt xấp xỉ 133,8 tỷ

USD, trong đó, Việt Nam (lần đầu tiên đã trở thành nước xuất khẩu giày dép lớn

35

thứ hai thế giới) có kim ngạch đạt hơn 12 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 9,3% trong tổng

kim ngạch xuất khẩu thế giới. So với năm 2008, tỷ trọng đóng góp của kim ngạch

xuất khẩu da giầy Việt Nam trong tông kim ngạch xuất khẩu da giầy trên thế giới đã

tăng gần gấp đôi. Năm 2015 cũng là năm sản phẩm da giầy của Việt Nam đã xuất

khẩu tới trên 50 nước và vùng lãnh thổ, trong đó EU là một trong những thị trường

xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Biểu đồ 2. 3. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam giai đoạn 2008-2015

Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả theo số liệu từ trang thông tin điện tử của Trung tâm thương

mại quốc tế UNCTAD/WTO (www.trademap.org) [48]

Với sự vươn lên mạnh mẽ trong giai đoạn 2008 – 2015 và việc ký kết rất nhiều

hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với các thị trường xuất khẩu chủ lực,

tiềm năng phát triển của ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam vẫn là rất lớn.

2.1.1.3. Các thị trường xuất khẩu chính của da giầy Việt Nam

Trong giai đoạn 2009 – 2016, sản phẩm da giầy Việt Nam được xuất khẩu

sang bốn thị trường chính gồm EU, Bắc Mỹ, Châu Á và Mỹ la tinh. Trong đó, thị

trường EU cùng với thị trường Bắc Mỹ luôn là hai thị trường lớn nhất của hàng da

giầy xuất khẩu Việt Nam. Năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu sang hai thị trường

36

này đạt gần 9 tỷ USD, chiếm 68% trong tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt

Nam.

Bảng 2. 2. Kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt Nam sang các thị trường lớn năm 2016

Đơn vị: Nghìn Đô la Mỹ

Mỹ La Thị trường EU Bắc Mỹ Châu Á Khác tinh

Kim ngạch 4.161.304 4.730.632 2.571.669 740.866 771.169 xuất khẩu

Nguồn: Số liệu từ trang thông tin điện tử của Hiệp hội Da-Giầy-Túi xách Việt Nam

(www.lefaso.org.vn) [42]

Biểu đồ 2. 4. Tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam sang các thị trường lớn năm 2016

Nguồn: Số liệu từ trang thông tin điện tử của Hiệp hội Da-Giầy-Túi xách Việt Nam (www.lefaso.org.vn) [42]

Biểu đồ trên đã cho thấy EU là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất

của Việt Nam. Tính riêng 2016, xuất khẩu da giầy sang EU đạt hơn 4 tỷ USD,

chiếm 32% tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam Sau thời điểm ký kết

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) năm 2015 triển vọng xuất

khẩu giày dép sang thị trường này ngày càng được mở rộng.

37

Tuy nhiên, sản phẩm da giầy của Việt Nam phần lớn vẫn là gia công cho

nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp sản xuất trong nước vẫn còn yếu kém do

khả năng thiết kế, tự chủ nguyên liệu hạn chế. Điều này khiến cho giá trị gia tăng

thực sự đối với ngành xuất khẩu da giầy của Việt Nam là chưa cao. Dù góp hàng

chục tỷ USD vào kim ngạch xuất khẩu cả nước mỗi năm, các hiệp định thương mại

tự do, đặc biệt EVFTA, được ký kết mở ra rất nhiều cơ hội cho ngành da giầy có thể

tiếp tục phát triển và bứt phá, nhưng Hiệp hội Da-Giày-Túi xách Việt Nam cho rằng

xuất khẩu da giầy của Việt Nam vẫn chưa được chú trọng, đầu tư xứng đáng với

tiềm năng.

2.1.2. Khái quát về thương mại Việt Nam – EU và tình hình xuất khẩu da

giầy của Việt Nam vào thị trường EU

2.1.2.1. Khái quát về thương mại Việt Nam – EU

a. Mối quan hệ kinh tế chính trị

Quan hệ ngoại giao Liên minh châu Âu (EU) – Việt Nam được thiết lập lần

đầu tiên vào tháng 10 năm 1990 và kể từ đây, Việt Nam đã trở thành một trong

những đối tác chính của Liên minh châu Âu tại khu vực Đông Nam Á. Phạm vi hợp

tác song phương trải rộng khắp các lĩnh vực, từ các vấn đề chính trị, các thách thức

mang tính toàn cầu tới thương mại và phát triển. Cơ quan đại điện ngoại giao của

EU - Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt Nam- được thành lập tại Hà Nội vào

năm 1996.

Trong mối quan hệ với Việt Nam, Liên minh châu Âu hướng tới:

 Hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam và cải thiện điều kiện

sống của người nghèo;

 Khuyến khích Việt Nam hội nhập kinh tế và hệ thống thương mại thế

giới, hỗ trợ quá trình cải cách kinh tế xã hội;

 Hỗ trợ quá trình chuyển đổi của Việt Nam hướng tới một xã hội mở dựa

trên quản lý công lành mạnh, pháp quyền và tôn trọng nhân quyền;

 Nâng cao hình ảnh của Liên minh châu Âu tại Việt Nam.

38

Một trong những dấu mốc quan trọng đầu tiên của mối quan hệ song phương

là việc ký kết Hiệp định Hợp tác Khung vào năm 1995 và bắt đầu có hiệu lực kể từ

ngày 1 tháng 6 năm 1996. Hiệp định Hợp tác Khung thiết lập và mở rộng các điều

khoản hợp tác vượt ra khỏi định hướng nhân đạo được xác đinh trong thời kỳ đầu

trước đó. Hiệp định cụ thể hóa 4 mục tiêu: i) đảm bảo các điều kiện và thúc đẩy sự

phát triển của thương mại – đầu tư song phương, ii) hỗ trợ sự phát triển bền vững

nền kinh tế Việt Nam, iii) tăng cường hợp tác kinh tế, trong đó có bao gồm việc hỗ

trợ những nỗ lực của Việt Nam nhằm hướng tới nền kinh tế thị trường, và iv) hỗ trợ

Việt Nam trong công tác bảo vệ môi trường và quản trị bền vững các nguồn tài

nguyên thiên nhiên.

Năm 2012, Hiệp định Đối tác và hợp tác toàn diện EU – Việt Nam được ký

kết, thể hiện cam kết của Liên minh châu Âu trong việc tiến tới mối quan hệ hiện

đại, trên diện rộng và cùng có lợi với Việt Nam. Nghị viện châu Âu phê chuẩn Hiệp

định Đối tác và hợp tác toàn diện EU – Việt Nam vào tháng 12 năm 2015. Hiệp

định Đối tác và hợp tác toàn diện EU – Việt Nam mở rộng hơn nữa phạm vi hợp tác

EU – Việt Nam trên các lĩnh vực như thương mại, môi trường, năng lượng, khoa

học và kỹ thuật, quản trị công hiệu quả, cũng như du lịch, văn hóa, di cư và cuộc

chiến chống tham nhũng và tội phạm có tổ chức.

Theo Hiệp Định đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam – EU, một Ủy ban hỗn

hợp, bao gồm đại diện của hai bên, sẽ được thành lập cho các cuộc thảo luận cấp

cao về phát triển kinh tế chính trị tổ chức tại EU và Việt Nam, trong đó có sự tiến

triển liên tục của Việt Nam trong cải cách kinh tế, hành chính, luật pháp và tư pháp

cùng sự thực hiện các chương trình hợp tác của EU.

Với mục tiêu phát triển mối quan hệ đối tác gắn bó và năng động, EU và Việt

Nam đã nhất trí theo dõi nhanh việc thực hiện các nội dung chính của Hiệp định Đối

tác và hợp tác toàn diện EU – Việt Nam, hàng năm tổ chức Đối thoại Nhân quyền

EU – Việt Nam và Tham vấn Chính trị EU – Việt Nam ở cấp Thứ trưởng.

Liên minh châu Âu kỳ vọng việc hiện thực hóa các tiềm năng của những

nguyên tắc về thương mại – đầu tư thành lập dưới Hiệp định Đối tác và hợp tác toàn

39

diện EU – Việt Nam được thực hiện thông qua Hiệp định Thương mại Tự do EU –

Việt Nam, sẽ đưa thương mại – đầu tư song phương tới những tầm cao mới. Quá

trình đàm phán FTA bắt đầu từ năm 2012 và kết thúc năm 2015. FTA dự kiến

có hiệu lực vào năm 2018.

Một phần không thể thiếu của mối quan hệ gắn bó EU – Việt Nam là lĩnh vực

hợp tác phát triển. Thực tế Liên minh châu Âu cùng các nước thành viên của mình

hiện đang là nhà tài trợ lớn nhất của Việt Nam. EU mới đây đã công bố gói viện trợ

trị giá 400 triệu euro trong giai đoạn 2014 – 2020 với trọng tâm hướng tới quản trị

công hiệu quả và lĩnh vực năng lượng – có bao gồm vấn đề biến đổi khí hậu.

b. Tình hình thương mại Việt Nam - EU

Trong hơn một thập kỷ vừa qua, quan hệ thương mại - đầu tư giữa Việt Nam

và EU đã có những bước phát triển tích cực. Giá trị thương mại hai chiều đã tăng 10

lần từ khoảng 4,1 tỷ USD vào năm 2000 lên 41,3 tỷ USD vào năm 2015. Vì thế EU

trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trong đó,

xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đạt gần 31 tỷ USD và nhập khẩu từ EU

đạt hơn 10 tỷ USD.

Biểu đồ 2. 5. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU giai đoạn 2009-2015

Đơn vị: Triệu đô la Mỹ

Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả theo số liệu từtrang thông tinđiện tử của Trung tâm thương

mại quốc tế UNCTAD/WTO (www.trademap.org) [46]

40

Hiện thị trường EU vẫn đang là thị trường rất tiềm năng đối với các doanh

nghiệp Việt Nam. EU là một thị trường lớn và tiềm năng với dân số trên 500 triệu

người, tổng GDP trên 15.000 tỷ USD, chiếm khoảng 22% GDP của toàn thế giới.

Theo trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD/WTO, EU có tổng kim ngạch ngoại

thương khoảng 3.800 tỷ USD, là nhà xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất thế giới,

chiếm 15,4% tổng xuất khẩu và 16,4% tổng nhập khẩu của toàn thế giới. Theo

UNCTAD, EU cũng đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ, chiếm 40,8% và nhập

khẩu gần 33% dịch vụ toàn cầu, đầu tư ra nước ngoài của EU chiếm 37% FDI toàn

cầu.

Biểu đồ 2. 6. Kim ngạch nhập khẩu từ EU của Việt Nam giai đoạn 2009-2015

Đơn vị: Triệu đô la Mỹ

Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả theo số liệu từ trang thông tin điện tử của Trung tâm thương

mại quốc tế UNCTAD/WTO (www.trademap.org) [47]

Trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đang

tập trung nhiều với một số nước như Đức, Pháp, Anh, Hà Lan, I-ta-li-a. Theo số liệu

của Tổng cục Hải quan, đây là 5 thị trường lớn nhất của Việt Nam trong EU, cả về

xuất khẩu và nhập khẩu, chiếm hơn 68% tổng thương mại của Việt Nam với các

nước EU. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào những thị trường trên, doanh nghiệp

41

Việt Nam sẽ bỏ qua nhóm thị trường còn lại, hiện tương đương 32% kim ngạch xuất

nhập khẩu sang EU. Trong số các nước còn lại này, nếu tách riêng lẻ, tỷ lệ thương

mại với Việt Nam chưa thực sự đáng kể. Điều này cho thấy còn nhiều tiềm năng

cho doanh nghiệp của Việt Nam khai thác trong thời gian tới, đặc biệt khi Hiệp định

Thương mại tự do Việt Nam – EU có hiệu lực.

Các nước thành viên EU áp dụng thuế suất và chính sách xuất nhập khẩu hàng

hóa chung. Tuy nhiên, mỗi nước lại có những đặc điểm riêng biệt về vị trí địa lý,

nhu cầu tiêu thụ hàng hóa, tốc độ tăng trưởng thương mại với Việt Nam... Ví dụ: Bỉ

là nơi tập trung các cơ sở vận tải, giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu và cảng biển

quan trọng của châu Âu; Bun-ga-ri cũng có vị trí địa lý thuận lợi, với cơ sở hạ tầng

giao thông đường bộ, đường sắt phát triển, là điểm quá cảnh cho hàng hóa thâm

nhập vào thị trường các nước châu Âu; các nước Phần Lan, Thụy Điển có mức sống

cao và nhu cầu nhập khẩu, tiêu thụ hàng tiêu dùng, thủy hải sản, rau quả ngày càng

tăng; một số nước như Áo, Lat-vi-a có mức tăng trưởng kim ngạch với Việt Nam

trong giai đoạn 2010 – 2014 trên 100%, cho thấy nhiều triển vọng trong thời gian

tới, v.v. Do đó, doanh nghiệp nên nghiên cứu thông tin cụ thể để nắm rõ đặc điểm

của từng thị trường trong khối EU.

2.1.2.2. Tình hình xuất khẩu da giầy của Việt Nam vào thị trường EU

Trong giai đoạn 2008 – 2014, EU luôn là thị trường xuất khẩu số 1 của ngành

Da giầy Việt Nam. Mãi đến năm 2015, khi lần đầu tiên xuất khẩu da giầy sang thị

trường Mỹ vượt EU, ngôi vị ngày mới có sự thay đổi. Dù vậy, thị trường EU vẫn có

ý nghĩa cực kỳ quan trọng, gắn với sự phát triển bền vững của ngành Da giầy Việt

Nam, nhất là sau khi hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đã ký kết thành

công.

Theo thống kê của Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD/WTO (ITC), từ

năm 1996, Việt Nam đã đứng vị trí thứ 3 trong số các nước xuất khẩu da giầy nhiều

nhất vào EU. Năm 2015, Việt Nam đã vươn lên vị trí nhà xuất khẩu lớn thứ hai sau

Trung Quốc. Cũng theo thống kê từ Trung tâm thương mại quốc tế

UNCTAD/WTO, trong hơn 13 tỷ USD da giầy xuất khẩu năm 2015 của Việt Nam

42

thì riêng xuất khẩu sang EU đạt hơn 6 tỷ USD, chiếm gần 50% kim ngach xuất khẩu

da giầy của Việt Nam.

Biểu đồ 2. 7. Tình hình xuất khẩu da giầy Việt Nam vào thị trường EU

Đơn vị: Nghìn đô la Mỹ

Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả theo số liệu từ trang thông tin điện tử của Trung tâm thương

mại quốc tế UNCTAD/WTO (www.trademap.org) [45]

Biểu đồ 2. 8. Tỷ trọng xuất khẩu da giầy Việt Nam vào thị trường EU

Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả theo số liệu từ trang thông tin điện tử của Trung tâm thương

mại quốc tế UNCTAD/WTO (www.trademap.org) [45]

43

Mặc dù là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm

khoảng 8-10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tuy nhiên xuất khẩu da giầy

lại có dấu hiệu tăng trưởng chậm, không đúng như kỳ vọng khi Việt Nam ký kết rất

nhiều các hiệp định thương mại tự do với các nước và khu vực. Như biểu đồ dưới

đây, có thể thấy trong cả giai đoạn 2008-2015, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy

trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam duy trì ở mức 7%, không có sự bứt

phá.

Biểu đồ 2. 9. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2008-2015

Nguồn: Số liệu tác giả tổng hợp từ trang thông tin điện tử của Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn)

Xuất khẩu da giầy của Việt Nam vào thị trường EU cũng không tránh khỏi

thực trạng này. Nhìn biểu đồ tỷ trọng xuất khẩu da giầy của Việt Nam vào thị

trường EU có thể thấy, trong năm 2016, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu da giầy Việt

Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu da giầy của EU giảm mạnh, từ 11,5% xuống

còn 9,1%, chỉ cao hơn tỷ trọng năm 2011 và thấp nhất trong cả giai đoạn 2008-

2016.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là ngoài việc

ngành da giầy chưa có những sản phẩm có giá trị cao thì những sản phẩm da giầy

của chúng ta chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của EU. Vì vậy, để tận dụng cơ

hội từ FTA trong đó có việc giảm thuế về mức 0% trong thời gian tới, các doanh

44

nghiệp da giầy Việt Nam phải phát triển được các chuỗi liên kết nội địa, tạo ra

những sản phẩm có giá trị cao hơn thay cho việc chỉ gia công thuần túy. Khi ký kết

FTA với EU, Việt Nam còn phải đối mặt với vấn đề liên quan đến chất lượng hàng

hóa. Bởi thị trường EU là một trong những thị trường đòi hỏi rất khắt khe về tiêu

chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, lao động. Điều này khiến các doanh nghiệp

nhỏ và vừa của Việt Nam khó lòng đáp ứng được các yêu cầu do năng lực kỹ thuật

và tài chính hạn chế, sản phảm dẫn tới không đủ đáp ứng các tiêu chuẩn để bán ra

thị trường.

Tất cả các thực trạng trên dẫn tới yêu cầu cần thiết và cấp bách phải có sự

nhận thức đúng đắn về TBT nhất là tại thị trường khó tính EU để các doanh nghiệp

Việt Nam có sự chuẩn bị và sẵn sàng về việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của

thị trường này để ngành da giầy của Việt Nam có thể giữ vững và mở rộng thị

trường xuất khẩu tại EU.

2.2. Thực trạng của ngành da giầy Việt Nam đáp ứng các rào cản kỹ thuật đối

với thương mại tại thị trường EU

2.2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước

Hiện nay Việt Nam đã thành lập được mạng lưới TBT Việt Nam theo Quyết

định số 114/2005/QĐ-TTg ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về

việc thành lập và ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của mạng lưới Cơ quan

Thông báo và Điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.

Mạng lưới TBT được thành lập nhằm đảm bảo hệ thống văn bản pháp quy kỹ

thuật, tiêu chuẩn và các quy trình đánh giá sự phù hợp với pháp luật Việt Nam,

đồng thời đáp ứng các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TBT, bao gồm không phân

biệt đối xử, không cản trở thương mại và minh bạch trong quá trình xây dựng và

thực thi. Cùng với đó, mạng lưới TBT giúp tăng cường sự phối hợp hành động giữa

các bộ, ngành và địa phương trong việc thi hành Hiệp định TBT ở Việt Nam nhằm

thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định và đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia.

45

Mạng lưới TBT cung cấp thông tin giải đáp các vấn đề liên quan đến hàng rào

kỹ thuật trong phạm vi quản lý để gửi cho bên liên quan ở trong nước và nước

ngoài.

Mạng lưới TBT gồm cơ quan thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia hay còn gọi

là Văn phòng TBT Việt Nam trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

và cơ quan thông báo và Điểm hỏi đáp cấp bộ về TBT đặt tại các bộ: Bộ Khoa học

và Công nghệ, Bộ Công thương, Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Lao động,

thương binh và xã hội, Bộ Nông nghiệp và phái triển nông thôn, Bộ xây dựng, Bộ

Văn hoá thông tin và Thể thao và Du lịch, Bộ Văn hoá thông tin và Thể thao và Du

lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường và cuối cùng là Bộ Y tế.

Hiện nay, Việt Nam chưa có bộ luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn nào cho sản phẩm

da giầy tại chính thị trường Việt Nam. Điều này khiến cho sản phẩm da giầy trong

nước chưa quen với việc đáp ứng các rào cản kỹ thuật từ chính nước mình cho đến

nước nhập khẩu. Điều này càng khiến cho việc đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với sản

phẩm da giầy của thị trường EU của ngành da giầy Việt Nam càng trở nên khó khăn

hơn.

2.2.2. Về phía doanh nghiệp

2.2.2.1. Đánh giá năng lực đáp ứng của doanh nghiệp sản xuất da giầy của Việt

Nam về rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của EU

EU là một trong những thị trường xuất khẩu da giầy lớn nhất của Việt Nam.

Tuy nhiên EU là khu vực áp dụng rào cản kỹ thuật có thể nói là nghiệm ngặt nhất so

với các nước và khu vực khác trên thế giới, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài

chính và suy thoái kinh tế thế giới năm 2007. Với quy mô và tiềm năng thị trường,

đặc biệt sau hiệp định EVFTA, cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam bứt phá, thâm

nhập thị trường EU là rất sáng sủa. Tuy nhiên, điều này đặt ra thách thức lớn hơn

cho các doanh nghiệp trong việc đáp ứng các rào cản kỹ thuật khắt khe của thị

trường này.

Từ số liệu về thống kê doanh nghiệp của Viện nghiên cứu Da giầy, chúng ta

thấy rằng dựa trên năng lực đáp ứng các yêu cầu về rào cản kỹ thuật đối với thương

46

mại của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, doanh nghiệp sản xuất da giầy ở Việt

Nam được chia làm hai loại: doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tương đối tốt các

rào cản kỹ thuật và các doanh nghiệp đáp ứng chưa tốt các rào cản kỹ thuật.

Doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt các rào cản kỹ thuật đó là các doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước có quy mô lớn hướng

tới xuất khẩu. Các doanh nghiệp này được đầu tư trang bị phòng thí nghiệm và kiểm

định nội bộ, chủ động thử nghiệm các thử nghiệm và kiểm định đảm bảo phục vụ

tốt cho quá trình sản xuất. Điều này giúp cho việc chỉ định kiểm định của khách

hàng (tức là khách hàng yêu cầu các doanh nghiệp thuê bên thứ 3 đánh giá thử

nghiệm) đạt yêu cầu ngay tử lần thử nghiệm đầu tiên. Chính vì vậy, các doanh

nghiệp có thể hạn chế rủi ro phải kiểm định lại, tiết kiệm được chi phí thử nghiệm

phát sinh.

Doanh nghiệp đáp ứng chưa tốt các rào cản kỹ thuật là các doanh nghiệp có

quy mô vừa và nhỏ và các doanh nghiệp sản xuất nội địa (có nhu cầu xuất khẩu

trong tương lai).

Phần lớn doanh nghiệp da giầy Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ4, chủ

yếu sản xuất và gia công cho đối tác nước ngoài (theo Viện nghiên cứu da giầy,

doanh nghiệp xuất khẩu da giầy vừa và nhỏ ở Việt Nam chiếm khoảng 70% tổng số

doanh nghiệp). Đối với các doanh nghiệp này, khả năng chủ động đáp ứng các yêu

cầu kỹ thuật và vượt qua rào cản kỹ thuật vẫn còn hạn chế (do đối tác thực hiện

kiểm định sản phẩm theo chỉ định của khách hàng).

Các doanh nghiệp sản xuất gia công có 2 hình thức

-

Doanh nghiệp sản xuất gia công thụ động: Phía đối tác sẽ là bên lo hết các thủ

tục nhập khẩu, từ nguyên liệu đầu vào đến tổ chức quá trình sản xuất và xuất khẩu

hàng hóa tới việc đáp ứng các yêu cầu về rào cản kỹ thuật (bao gồm cả phần thử

nghiệm và kiểm định sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng). Đối với hình thức

4 Theo Nghị Định số 56/2009/ NĐ- CP, doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực thương mại và dịch vụ là doanh nghiệp có tổng số vốn từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng với số lao động từ trên 50 người đến 100 người

47

sản xuất-gia công này, các doanh nghiêp gần như không cần quan tâm đến các rào

cản kỹ thuật. Và vì vậy kiến thức và sự chuẩn bị cho rào cản kỹ thuật là không có.

-

Doanh nghiệp sản xuất – gia công tích cực: là doanh nghiệp chủ động cân đối

một số nguyên vật liệu, các điều kiện cho sản xuất-gia công. Đối tác sẽ là bên cập

nhật thông tin và đưa ra các yêu cầu về kỹ thuật và bắt buộc các doanh nghiêp phải

đáp ứng một cách chủ động. Nhìn chung đối với hình thức này, các doanh nghiệp

phải chủ động tìm hiểu, cập nhật và đáp ứng các rào cản kỹ thuật đối với thương

mại. Chi phí thử nghiệm và kiểm định sẽ do đối tá chi trả ở lần 1, lần 2 và lần 3

doanh nghiệp sẽ tự chi trả.

Các doanh nghiệp sản xuất nội địa cũng là các doanh nghiệp chưa đáp ứng

được rào cản kỹ thuật. Bởi các doanh nghiệp này thường thiếu thông tin về thị

trường xuất khẩu, vì vậy thiếu thông tin về các rào cản kỹ thuật tại các thị trường

đó. Cùng với đó, năng lực tài chính, khoa học, công nghệ, nhân lực, cơ sở hạ tầng

còn hạn chế về năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh. Đặc biệt, nhận thức về rào

cản kỹ thuật còn rất hạn chế.

Từ kết quả khảo sát các doanh nghiệp da giầy của Viện nghiên cứu da giầy và

dự án EU – MUTRAP năm 2016, chúng ta sẽ đi sâu phân tích chi tiết những vấn đề

còn tồn tạo trong việc đáp ứng các rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp da giầy

của Việt Nam, nhất là đối với thị trường EU. Từ đó, chúng ta có cơ sở để đưa ra

những đề xuất giải pháp giúp ngành da giầy Việt Nam đáp ứng tốt hơn các yêu cầu

kỹ thuật của thị trường EU.

Hiện nay, Ngành da giầy Việt Nam có trên 600 doanh nghiệp sản xuất kinh

doanh sản phẩm da giầy, sản xuất kinh doanh nguyên phụ liệu da giầy trong đó đa

phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra còn có các hộ sản xuất nhỏ trong các

làng nghề cũng như trong các khu công nghiệp nhỏ. Với kết quả khảo sát được thực

hiện bởi 139 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trải đều từ Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng,

tp.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, ta sẽ đánh giá được phần nào thực trạng

đáp ứng của các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy đối với rào cản kỹ thuật của EU.

48

Từ kết quả khảo sát của Viện nghiên cứu da giầy và dự án EU-MUTRAP, ta

có thế đưa ra đươc một số đánh giá sau đây:

 Về khó khăn của doanh nghiệp trong việc đáp ứng rào cản kỹ thuật của thị

trường EU:

68% doanh nghiệp được hỏi thiếu thông tin về rào cản kỹ thuật tại thị trường

EU, trong đó đặc biệt là các quy định về an toàn sinh thái sản phẩm da giầy (gồm

các quy định liên quan đến chỉ thị an toàn sản phẩm chung GPSD, REACH, quy

định sản phẩm diệt khuẩn BPR,…)

75% các doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng phần lớn nguyên vật liệu mua tại

Việt Nam chưa đáp ứng được quy định an toàn sinh thái sản phẩm;

80% các doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng trong nước chưa có các phòng thử

nghiệm đạt tiêu chuẩn đảm bảo cho kết quả đánh giá được EU ... chấp nhận nên

phải gửi mẫu ra nước ngoài đánh giá, chi phí cao.

Các quy định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (Quy định về an toàn sản

phẩm, Quy định về an toàn hóa chất (REACH), bao bì, ghi nhãn sản phẩm, chất thải

từ bao bì…) ngày càng khắt khe, đặc biệt các yêu cầu về quá trình kiểm soát các

hóa chất độc hại và kiểm soát chuỗi cung ứng;

Năng lực đáp ứng của các phòng thí nghiệm trong nước chưa cao, doanh

nghiệp thường phải gửi mẫu đi kiểm tra ở nước ngoài chi phí cao và thời gian chờ

đợi kéo dài, do đó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất&kinh doanh của

doanh nghiệp;

Các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Quan hệ lao động, môi

trường làm việc, bảo hiểm xã hội và khám sức khỏe định kỳ cho công nhân, mức

lương tối thiểu…) khiến doanh nghiệp phát sinh chi phí sản xuất và gián tiếp làm

tăng giá thành sản phẩm, giảm năng lực cạnh tranh;

Các quy định về môi trường, xử lý chất thải từ cơ quan quản lý nhà nước và từ

khách hàng ngày càng cao. Một số khách hàng đưa ra quy định về môi trường áp

dụng kể cả với nhà cung cấp tham gia chuỗi cung ứng nguyên liệu cho doanh

49

nghiệp sản xuất. Đôi khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chứng minh sự tuân

thủ làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất & kinh doanh;

Các doanh nghiệp thiếu nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm định sản phẩm

hàng hóa, khó khăn trong thu hút nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ, các tổ chức

quốc tế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất & kinh doanh;

Cùng với đó, doanh nghiệp ít được phổ cập thông tin về các rào cản kỹ thuật,

thiếu kênh thông tin cảnh báo sớm các nội dung liên quan tới rào cản kỹ thuật;

Thủ tục cấp phép cho các lô hàng hóa chất nhập khẩu, thủ tuc Hải quan còn

rườm rà, phức tạp, làm ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp (đôi khi phải dừng chờ kết quả kiểm định).

 Các tiêu chí đánh giá nguyên vật liệu và sản phẩm da giầy theo quy định

của EU

Tỷ lệ doanh nghiệp chưa quan tâm đến các tiêu đánh giá nguyên vật liệu và

sản phẩm da giầy là khá cao, tiêu chí thấp nhất là formandehit 50% (chưa quan

tâm), tiêu chí cao nhất là amiăng 93.3%, tập trung chủ yếu vào nhóm doanh nghiệp

nhỏ sản xuất nguyên phụ liệu, sản phẩm da giầy tiêu dùng nội địa.

Các doanh nghiệp đã đáp ứng được các tiêu chí đánh giá tập trung vào nhóm

sản xuất nguyên phụ liệu, sản phẩm xuất khẩu có sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất

trong nước (chủ yếu là sản xuất giầy vải), chiếm tỷ lệ nhỏ (tiêu chí thấp nhất là

amiăng, Phtalat 6,7%, cao nhất là Arylamines, formandehit 26,7%).

Tỷ lệ doanh nghiệp sẽ đáp ứng được gần bằng với tỷ lệ doanh nghiệp đã đáp

ứng được và tập trung vào nhóm sản xuất sản phẩm gia công sử dụng nguyên liệu

nhập ngoại.

Một số tiêu chí cần bổ sung: như CrVI, Pentachlorophenol (PCP);

Perfluorooctane sulfonate (PFOS), hydrocarbon thơm đa vòng (Polycyclic Aromatic

Hydrocarbons) (PAHs).

Một số doanh nghiệp có đề xuất đến vấn đề các chỉ tiêu an toàn cơ lý sản

phẩm da giầy như khả năng chống trượt, chống thấm nước, chịu nhiệt v.v..

50

 Mức độ quan tâm của các loại hình doanh nghiệp:

Các doanh nghiệp nhỏ sản xuất sản phẩm tiêu thụ nội địa nhưng có định

hướng sản xuất xuất khẩu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này bởi vì đây là vấn đề

khá mới mẻ và khó đối với doanh nghiệp. Sản phẩm da giầy tiêu dùng nội địa chưa

bị áp đặt các quy định như các rào cản kỹ thuật của EU

Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm da giầy có sử dụng nguyên phụ liệu

trong nước (các doanh nghiệp sản xuất giầy vải ...) đã quan tâm đến vấn đề vì sản

phẩm của doanh nghiệp đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (theo

quy định của khách hàng). Họ quan tâm nhiều hơn đến các cơ sở thử nghiệm các chỉ

tiêu đạt chuẩn được EU chấp nhận.

Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm da giầy xuất khẩu theo phương thức gia

công thuần túy, sử dụng hầu như 100% nguyên phụ liệu nhập khẩu quan tâm ít hơn

đến vấn đề này vì nguyên phụ liệu sản xuất được khách hàng (đặt gia công giầy)

cung cấp hoặc được nhập từ các nhà cung cấp do khách hàng chỉ định, nên các quy

chuẩn tiêu chuẩn kỹ thuật của EU đã được các nhà cung cấp nguyên phụ liệu chịu

trách nhiệm.

Các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu ngành da giầy đã và đang rất quan

tâm đến vấn đề này, tuy nhiên điều kiện tiếp cận thông tin và tìm hiểu về các chỉ

tiêu an toàn sinh thái nguyên phụ liệu và sản phẩm da giầy còn hạn chế. Các cơ sở

sản xuất, cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất

khẩu đã đáp ứng một số tiêu chí an toàn sản phẩm da giầy theo đặt hàng. Các doanh

nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu cho sản xuất sản phẩm tiêu dùng nội địa chưa quan

tâm đến vấn đề này.

2.2.2.2. Kết luận

Từ những đánh giá ở trên, ta có thể tổng kết được một số khó khăn của các

doanh nghiệp trong việc đáp ứng các rào cản kỹ thuật như sau:

Các doanh nghiệp sản xuất da giầy vừa và nhỏ của Việt Nam có quan tâm đến

rào cản kỹ thuật đối với thương mại tại thị trường EU. Tuy nhiên họ lại thiếu các

thông tin cần thiết do sản xuất gia công, đối tác là bên bao tiêu sản phẩm nên họ

51

không cần phải lo các thủ tục về rào cản kỹ thuật trong thương mại. Điều này làm

giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc thay đổi phương thức xuất

khẩu (tự mình xuất khẩu thay vì gia công cho các hãng lớn).

Các doanh nghiệp có phòng thử nghiệm nguyên vật liệu và sản phẩm. Tuy

nhiên một nửa các phòng thử nghiệm không quan tâm đến các thử nghiệm liên quan

đến các quy định trong rào cản kỹ thuật của EU. Các doanh nghiệp quan tâm đến

thử nghiệm thì chỉ đáp ứng được một số tiêu chí về cơ lý, hầu như không có phòng

thí nghiệm để kiểm tra tiêu chí về hóa.

Năng lực về tài chính, công nghệ, nhân lực của các doanh nghiệp còn hạn chế,

dẫn đến hạn chế về năng lực cạnh tranh, khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật vẫn

còn yếu.

2.2.3. Về phía phòng thí nghiệm

Ngành da giầy của Việt Nam lợi thế là lao động nhiều và nhân công giá rẻ.

Tuy nhiên, lợi thế này sẽ dần bị thu hẹp. Doanh nghiệp muốn tăng hiệu quả sản xuất

kinh doanh sẽ phải chuyển đổi phương thức sản xuất kinh doanh, từ gia công thuần

túy sang mua nguyên liệu bán thành phẩm và dần tiến đến xây dựng thương hiệu

cho sản phẩm. Bên cạnh đó Nhà nước bắt đầu quan tâm, thúc đẩy đầu tư sản xuất

nguyên phụ liệu da giầy trong nước. Khi doanh nghiệp chủ động cung ứng nguyên

phụ liệu thì họ cũng chịu trách nhiệm về các yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm.

Đây là vấn đề khá mới mẻ và khó đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta.

Thực tế cho thấy, thời gian qua một số doanh nghiệp sản xuất giầy xuất khẩu sử

dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước hoặc tự nhập khẩu đã gặp nhiều khó khăn

về việc đáp ứng các quy định của các thị trường nhập khẩu sản phẩm. Khó khăn lớn

nhất là vấn đề thử nghiệm đánh giá các chỉ tiêu an toàn của sản phẩm, đáp ứng đươc

các quy chuẩn kỹ thuật của thị trường EU. Có thể do thiếu thông tin, hoặc do chỉ

định của khách hàng, các doanh nghiệp phải gửi mẫu ra nước ngoài để kiểm định

với chi phí cao, thời gian kéo dài. Trong khi đó nhiều phòng thử nghiệm trong

nước, tuy đã được công nhận VILAS theo ISO/IEC 10725:2005 nhưng kết quả kiểm

định chưa được khách hàng công nhận mà chỉ có ý nghĩa tham khảo. Có thể nói vai

52

trò của các phòng thử nghiệm là rất lớn đối với các doanh nghiệp da giầy nước ta

trong hiện tại và tương lai. Vì vậy khảo sát về khả năng, năng lực của phòng thử

nghiệm ở Việt Nam là cần thiết đối với việc đáp ứng các rào cản kỹ thuật về sản

phẩm da giầy của thị trường EU.

Để tuân thủ pháp luật mới hoặc yêu cầu thị trường liên quan đến việc sử dụng

các chất hóa học, đặc biệt là danh sách các chất hóa học trong Quy định REACH

đưa ra bởi Cơ quan Hóa chất Châu Âu (ECHA), nhà cung cấp và người mua EU

phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực để kiểm soát hàm lượng của các chất hóa học độc hại

trong sản phẩm tiêu dùng.

Trong quy định REACH, các sản phẩm xuất vào thị trường Châu Âu cũng như

khối OECD (bao gồm cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ) cần phải được kiểm

nghiệm an toàn hóa chất bởi các phòng thử nghiệm đáp ứng yêu cầu GLP (Good

Laboratory Practice) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for

Economic Cooperation and Development, viết tắt là OECD). Tiêu chuẩn GLP đã

được chấp nhận bởi cộng đồng chung Châu Âu thông qua quyết định DIRECTIVE

2004/10/EC. Các phòng thí nghiệm muốn được chứng nhận đạt yêu cầu GLP phải

thực hiện theo quyết định DIRECTIVE 2004/9/EC. Các phòng thí nghiệm phải

đăng ký công nhận với bộ phận quản lý GLP tại từng nước thành viên để có thể

được chấp nhận kết quả phân tích đối với các sản phẩm nhập khẩu vào nước đó.

Về cơ bản khi kết quả thử nghiệm của phòng thử nghiệm đã được EU chấp

nhận, sẽ được chấp nhận ở các nước khác.

Để có thể đưa ra các đánh giá chi tiết, đúng đắn và có cơ sở khoa học hơn,

luận văn tham khảo kết quả điều tra phòng thí nghiệm của dự án EU-MUTRAP kết

hợp với Viện nghiên cứu Da giầy thực hiện vào năm 2016. Từ đó ta có thể đánh giá

những điểm còn hạn chế của các phòng thí nghiệm ở Việt Nam đáp ứng các quy

định của EU để đưa ra đề xuất giải pháp phù hợp

2.2.3.1. Đánh giá năng lực đáp ứng của phòng thí nghiệm Việt Nam về rào cản

kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của EU

53

a) Về mức độ đáp ứng của các phòng thử nghiệm khảo sát đối với các chỉ tiêu an

toàn sinh thái của EU

Tất cả các chỉ tiêu về hóa chất sử dụng trong sản phẩm da giầy được đề cập

trong phiếu khảo sát (trừ Khí gây hiệu ứng nhà kính gốc Flo) đều thử nghiệm đánh

giá được ở Việt Nam (có ít nhất một phòng thử nghiệm được chứng nhận VILAS

thử nghiệm được).

Các phòng thử nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài (SGS, Bureau Veritas

Consumer Product Service, Intertek) có khả năng thử nghiệm tốt hơn các phòng thử

nghiệm trong nước. Hầu hết các phép thử chính trong mẫu phiếu khảo sát, các

phòng thử nghiệm này được công nhận VILAS (VILAS là hệ thống công

nhận phòng thử nghiệm, hiệu chuẩn của Việt Nam), đặc biệt là SGS, Intertek,

Bureau Veritas Consumer Product Service. Các kết quả kiểm định của các phòng

thử nghiệm SGS, Intertek, Bureau Veritas cũng được GLP (Good Laboratory

Practice) của OECD công nhận (phê chuẩn).

Các phòng thử nghiệm trong nước có năng lực thử nghiệm kém hơn, có ít

phép thử đối với sản phẩm da giầy thực hiện được, cũng như được công nhận

VILAS. Chưa có phép thử nào của các phòng thí nghiệm này được phê chuẩn bởi

CPSC Hoa Kỳ hay GLP của OECD (châu Âu).

Tỷ lệ các phòng thử nghiệm chưa đánh giá được phép phép (thử nghiệm được)

dao động từ 11,1 (formandehit) đến 88,9% (amiăng, Blue Colorant (thuốc nhuộm

màu xanh blue). Một số tiêu chí có tỷ lệ lớn phòng thí nghiệm chưa đáp ứng được

có thể do một số tiêu chí các phòng thử nghiệm chưa quan tâm, do ít có nhu cầu.

Các tiêu chí thông dụng (có nhu cầu lớn) như Arylamines, kim loại nặng, phtalat tỷ

lệ các phòng thử nghiệm không đáp ứng được là dưới 50%, đặc biệt formandehit chỉ

11,1% (một phòng thử nghiệm chưa được công nhận VILAS).

Tỷ lệ các phòng thí nghiệm đáp ứng được (thử nghiệm được) các tiêu chí về

an toàn củasản phẩm da giầy tỷ lệ nghịch với tỷ lệ phòng thí nghiệm không đáp ứng

được. Theo đó, formandehit là tiêu chí có tới 88,9% hay 8/9 phòng thí nghiệm thử

nghiệm được và có tới 66,7% hay 5/8 phòng thí nghiệm được công nhận VILAS.

54

Các tiêu chí như Blue Colorant (thuốc nhuộm màu xanh blue), dung môi hữu cơ chỉ

có 1 phòng thí nghiệm được công nhận VILAS, đặc biệt tiêu chí Khí gây hiệu ứng

nhà kính gốc Flo chưa có phòng thí nghiệm nào thử nghiệm. Có thể do nhu cầu thử

nghiệm tiêu chí này ít vì thông thường trên sản phẩm da giầy không tồn tại, có

chăng loại khí này phát thải trong quá trình sản xuất nguyên phụ liệu và sản phẩn da

giầy.

b) Về nhân lực của các phòng thử nghiệm

Về cơ bản, đội ngũ nhân lực của các phòng thí nghiệm được khảo sát có trình

độ cao, tối thiểu là tốt nghiệp đại học.

Các phòng thí nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài đều có giám đốc hay trưởng

phòng có học vị tiến sĩ trong lĩnh vực liên quan đến da giầy, hóa học hay thử

nghiệm hóa. Đặc biệt, các phòng thử nghiệm này còn có đội ngũ các chuyên gia, tư

vấn nước ngoài.

Các kiểm nghiệm viên thực hiện phép thử hầu hết có trình độ đại học và trên

đại học về lĩnh vực hóa. Các kiểm nghiệm viên này được đào tạo nội bộ về các phép

thử có liên quan. Một số được cử đi đào tạo tại nước ngoài trong các khóa học ngắn

hạn về lĩnh vực thử nghiệm hàng tiêu dùng. Ngoài ra, các thử nghiệm viên còn được

đào tạo cơ bản về hệ thống quản lý chất lượng và được cấp chứng chỉ ISO 9001,

ISO 17025.

Các phòng thử nghiệm đầu tư trong nước hầu hết có năng lực về nhân lực hạn

chế.

c) Về trang thiết bị phân tích

Nhờ có sự đầu tư từ nước ngoài và ngân sách nhà nước, 60% phòng thử

nghiệm được trang bị các thiết bị hiện đại và tiên tiến trên thế giới.

Các phòng thí nghiệm đã có các hệ thống sắc ký HPLC, LCMSMS, GC,

GCMS để phân tích các chất hữu cơ; hệ thống máy AAS, ICP-MS để phân tích kim

loại nặng; UV-VIS để phân tích các chỉ tiêu đa lượng. Ngoài ra, hầu hết các phòng

thí nghiệm đều được trang bị đầy đủ các thiết bị phụ trợ để thực hiện các phương

55

pháp xử lý và chuẩn bị mẫu trước khi phân tích trên máy.

Một số phòng thí nghiệm trong nước còn thiết trang thiết bị thí nghiệm cần

được đầu tư thêm.

d) Về mức độ được công nhận và được chấp nhận

8/9 phòng thử nghiệm khảo sát đã được BoA Việt Nam chứng nhận đạt

VILAS theo ISO 17025:2005. Tuy nhiên, để các kết quả phân tích được chấp nhận

bởi các thị trường nhập khẩu sản phẩm da giầy, các phòng thí nghiệm còn cần phải

được công nhận bởi các tổ chức chứng nhận của nước sở tại.

Các phòng thí nghiệm với vốn đầu tư nước ngoài như Intertek, SGS và

BureauVeritas đã rất chú trọng đến các yêu cầu công nhận này. Các phòng thử

nghiệm hàng hóa tiêu dùng của 03 công ty này đã được công nhận bởi EU.

2.2.3.2. Kết luận

Từ những đánh giá sơ bộ trên, ta có thể rút ra một vài kết luận về thực trạng

đáp ứng của các phòng thí nghiệm ở Việt Nam như sau:

 Về mức độ đáp ứng các chỉ tiêu kỹ thuật của EU:

- Lượng khách hàng ít, do trong nước chưa có quy định về an toàn sinh

thái nguyên phụ liệu và sản phẩm da giầy nhập khẩu, tiêu dùng trong nước.

- Một số phòng thí nghiệm thiếu trang thiết bị.

- Phương pháp thử nghiệm phần lớn chưa được công nhận ISO/IEC

17025:2005; phần lớn phòng thí nghiệm chưa đáp ứng yêu cầu của hàng xuất khẩu.

- Nhận lực còn hạn chế.

- Cung ứng vật tư, hóa chất, dụng cụ cho thí nghiệm gặp khó khăn.

 Về nhân lực của các phòng thí nghiệm

- Đối với các phòng thí nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài, đội ngũ nhân

lực khá tốt, có nguồn nhân lực chất lượng cao có thể đáp ứng được các yêu cầu thử

nghiệm khắt khe của EU

- Các phòng thí nghiệm nội địa còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nguồn nhân lực bị hạn chế dẫn đến hạn chế về khả năng thử nghiệm và cạnh tranh

với các phòng thí nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài.

56

 Kết quả khảo sát về trang thiết bị phân tích

Các phòng thí nghiệm, đặc biệt là các phòng thí nghiệm trong nước, trang thiết

bị phân tích vẫn còn thiếu. Mặc dù đã được nhà nước đầu tư, nhưng trang thiết bị

của phòng thí nghiệm hầu hết là nhập khẩu, cập nhật thường xuyên, nên chi phí

thường rất đắt đỏ.

Chính sự thiếu hụt về ngân sách và trang thiết bị đã làm các phòng thí nghiệm

trong nước mất khả năng cạnh tranh với các phòng thí nghiệm có vốn đầu tư nước

ngoài và trên thế giới.

Cùng vì sự thiếu hụt này dẫn đến việc các phòng thí nghiệm không được

chuẩn quốc tế, vì vậy không thể thực hiện các thử nghiệm quốc tế cho doanh

nghiệp.

 Kết quả khảo sát về mức độ được công nhận và được chấp nhận

Các phòng thí nghiệm da giầy của Việt Nam tuy đã được công nhận VILAS

nhưng lại chưa nộp hồ sơ và tham gia vào chương trình kiểm soát của các cơ quan

tại nước nhập khẩu nên chưa được công nhận bởi các quốc gia này. Do đó, các

phòng thí nghiệm phải thúc đẩy công tác đăng ký thành viên và tham gia vào hệ

thống công nhận của các nước này để có thể thực hiện phép thử đối với hàng da

giầy xuất khẩu.

2.3. Đánh giá thực trạng đáp ứng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của

thị trường EU của ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam

2.3.1. Những kết quả đạt được

Mạng lưới TBT Việt Nam đã được thành lập nhằm mục đích cung cấp các

thông tin về rào cản kỹ thuật đối với thương mại cho các doanh nghiệp và phòng thí

nghiệm của Việt Nam.

Cơ quan quản lý nhà nước đã phần nào nâng cao năng lực và chuyên môn của

cán bộ về TBT nhằm đáp ứng nghĩa vụ minh bạch hóa. Bên cạnh đó, việc tổ chức

các hoạt động tuyên truyền, phổ biến đã giúp các cơ quan quản lý nắm rõ và thực

thi quyền và nghĩa vụ theo Hiệp định TBT từ đó xây dựng ban hành chính sách phù

57

hợp với các quy định của WTO, góp phần giảm bớt sự cạnh tranh không lành mạnh

cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cũng như bảo vệ lợi ích chính đáng cho

người tiêu dùng khi tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, hàng hóa đạt chất lượng,

theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy đã ý thức được tầm quan trọng của TBT

và tìm hiểu về rào cản kỹ thuật ở các thị trường xuất khẩu trong đó có EU. Họ cũng

ý thức được về nguồn nguyên liệu, thử nghiệm nguyên liệu và sản phẩm da giầy đẻ

có thể có được chứng nhận của các tổ chức uy tín, đáp ứng đòi hỏi ở các thị trường

khó tính

Việt Nam đã có những phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn Châu Âu phù hợp cho

việc thử nghiệm, cấp chứng nhận để đáp ứng yêu cầu của TBT ở các thị trường khó

tính. Năng lực của các phòng thử nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài: con người,

trang thiết bị, quản lý v.v. tốt hơn các phòng thử nghiệm có vốn đầu tư trong nước.

Các phòng thử nghiệm đã quan tâm nhiều đến việc được công nhận và được chấp

nhận bởi các tổ chức và các thị trường nhập khẩu hàng da giầy trên thế giới nhưEU

hay Mỹ. Việc được chấp nhận và được công nhận cũng là cơ sở quan trọng để các

phòng thử nghiệm này thu hút được lượng khách hàng có nhu cầu kiểm định hàng

hóa xuất khẩu. Hơn nữa, các phòng thử nghiệm trong nước đều có kế hoạch đầu tư,

nâng cấp trang thiết bị, nâng cao trình độ chuyên môn, công tác quản lý để đáp ứng

nhu cầu về thử nghiệm các chỉ tiêu an toàn sinh thái nguyên phụ liệu và sản phẩm

da giầy cả về số lượng tiêu chí và chất lượng thử nghiệm. Nhu cầu này là rất lớn khi

Việt Nam tăng cường sản xuất nguyên phụ liệu và chuyển dần phương thức sản

xuất kinh doanh sang mua nguyên liệu, bán thành phẩm.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước

Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn một số hạn chế về phía cơ quan

quản lý nhà nước. Mặc dù xây dựng được Đề án TBT, tuy nhiên việc thực hiện đề

án vẫn chưa thực sự hiệu quả. Sự chậm trễ đến từ việc cấp kinh phí, nhiều Bộ và địa

phương mới chỉ triển khai Đề án trong một khoảng thời gian ngắn hoặc vẫn chưa

58

triển khai được đề án. Việc triển khai các dự án thuộc Đề án là không đồng đều, ví

dụ các Bộ chỉ tập trung chủ yếu vào các dự án mà Bộ mình chủ trì như dự án 2 và 3

của Bộ Công Thương và dự án 5 và 6 của Bộ Khoa học và Công nghệ và ở các Địa

phương. Các nội dung chủ yếu là thực hiện chức năng thường xuyên và chưa thực

sự có nhiều tính chất nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, Các Bộ chưa chú trọng

nhiệm vụ hoàn thiện cơ sở pháp lý làm nền tảng cho hoạt động về hàng rào kỹ thuật

trong thương mại giai đoạn 2011 - 2015.

Việt Nam đã có văn phòng TBT tuy nhiên hoạt động của văn phòng còn yếu,

tiêu biểu là mạng lưới TBT vẫn chưa phủ sóng được đến các doanh nghiệp những

thông tin hữu ích về TBT. Mạng lưới TBT hiện nay còn phức tạp, khó tiếp cận, điều

này gây khó khăn cho các doanh nghiệp và phòng thí nghiệm trong việc thu thập

thông tin và hiểu biết về rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Cùng với đó, mạng

lưới TBT còn chưa cập nhật thông tin thường xuyên về những đổi mới về rào cản

kỹ thuật trên thế giới nên nhiều khi còn chậm trong việc cung cấp thông tin cho

doanh nghiệp.

Hiện nay, Việt Nam chưa có một bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chính thức

nào cho sản phẩm da giầy tại thị trường Việt Nam. Điều này là một phần nguyên

nhân khiến các doanh nghiệp sản xuất da giầy chưa có ý thức trong việc đáp ứng

các rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Nên khi phải đáp ứng các rào cản kỹ thuật

đối với sản phẩm da giầy tại thị trường EU, các doanh nghiệp sẽ trở nên lúng túng.

Điều này đặt ra yêu cầu cần có một bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc và

chính thức cho các sản phẩm da giầy tại chính thị trường Việt Nam.

2.3.2.2. Về doanh nghiệp

Ngành sản xuất da giầy xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh

nghiệp vừa và nhỏ và sản xuất hàng gia công. Những doanh nghiệp xuất khẩu này

sử dụng đa phần nguyên liệu nhập khẩu hay nguyên vật liệu chỉ định từ phía đối tác.

Vì vậy họ chưa quan tâm hoặc chưa có kiến thức đúng đắn và đầy đủ về rào cản kỹ

thuật ở các thị trường xuất khẩu, trong đó có EU, bởi mọi yêu cầu về mặt kỹ thuật

đã được đối tác đặt gia công xử lý.

59

Còn lại là các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu nội địa, họ đã quan

tâm đến TBT cũng như tìm hiểu về yêu cầu kỹ thuật ở các thị trường xuất khẩu. Tuy

nhiên họ vẫn chưa được cung cấp thông tin một cách nhanh nhất và chính thống từ

phía chính phủ. Trong đó có thể kể đến tiêu chuẩn về thử nghiệm hóa học (các tiêu

chuẩn liên quan đến hóa chất sử dụng trong sản phẩm da giầy như chỉ thị an toàn

sản phẩm chung GPSD, REACH hay quy định về sản phẩm diệt sinh vật BPR trong

rào cản kỹ thuật của EU). Thử nghiệm hóa học sản phẩm da giầy là vấn đề khá mới

mẻ và khó với hầu hết doanh nghiệp da giầy Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp

vừa và nhỏ sản xuất sản phẩm xuất khẩu, các hộ sản xuất sản phẩm da giầy tiêu thụ

nội địa. Các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam trước đây hầu hết chỉ quan

tâm đến thử nghiệm cơ học như độ bền, độ mòn…Một khía cạnh mới mẻ nữa của

của những thử nghiệm hóa học đó là những thử nghiệm hóa học này sẽ quyết định

tính an toàn sinh thái của sản phẩm da giầy dựa trên các chỉ tiêu an toàn sinh thái

nguyên phụ liệu được sử dụng để sản xuất sản phẩm cũng như các vấn đề môi

trường trong quá trình sản xuất nguyên phụ liệu. Một số chỉ tiêu an toàn sinh thái

liên quan chủ yêu đến quá trình sản xuất nguyên phụ liệu như Dung môi hữu cơ, các

chất gây hiệu ứng nhà kính v.v. Từ kết quả điều tra, tỷ lệ doanh nghiệp khảo sát đáp

ứng được các chỉ tiêu an toàn sinh thái sản phẩm của EU là rất thấp, phần lớn các

doanh nghiệp chưa quan tâm đến vấn đề này. Công tác tuyên truyền, cung cấp thông

tin, nâng cao nhận thức doanh nghiệp về vấn đề này là rất quan trọng.

Ngoài ra, trong thời gian tới nước ta cũng sẽ ban hành và áp dụng các quy

định an toàn sinh thái sản phẩm da giầy tiêu thụ nội địa, nên việc cập nhật và hiểu

rõ về vấn đề an toàn sinh thái sản phẩm da giầy là rất quan trọng đối với doanh

nghiệp.

Cùng với đó phần lớn nguyên vật liệu mua tại Việt Nam chưa đáp ứng được

quy định an toàn sinh thái sản phẩm;

Về việc thử nghiệm nguyên vật liệu và sản phẩm da giầy, trong nước vẫn chưa

có các phòng thử nghiệm đạt tiêu chuẩn đảm bảo cho kết quả đánh giá được EU

chấp nhận nên doanh nghiệp phải gửi mẫu ra nước ngoài đánh giá, chi phí cao. Điều

này gây khó khăn và tốn kém rất lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt

Nam cũng như cản trở sự phát triển của ngành da giầy xuất khẩu của Việt Nam sang

60

EU. Việc EVFTA đã được ký kết sẽ không chỉ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp

xuất khẩu da giầy Việt Nam mà còn là thách thức đối với các doanh nghiệp xuất

khẩu nếu như các vấn đề về TBT không được quan tâm và giải quyết một cách đúng

đắn và nhanh chóng từ các cơ quan quản lý nhà nước.

2.3.2.3. Về phòng thí nghiệm

Các phòng thử nghiệm có vốn đầu tư trong nước, tuy có số lượng nhiều hơn

nhưng chưa quan tâm nhiều đến việc thử nghiệm sản phẩm da giầy. Một mặt do

trong nước chưa có quy định bắt buộc về rào cản kỹ thuật về nguyên vật liệu và sản

phẩm da giầy nhập khẩu như EU, cũng chưa có quy định về an toàn sinh thái sản

phẩm da giầy tiêu thụ trong nước, do vậy nhu cầu thử nghiệm của các doanh nghiệp

còn thấp. Mặt khác các phòng thí nghiệm này cũng chưa chú trọng đầu tư trang thiết

bị, con người, quản lý ... để được công nhận và được các thị trường EU, Hoa Kỳ,

Nhật Bản v.v. chấp nhận kết quả thử nghiệm, cho nên nhiều khách hàng có nhu cầu

thử nghiệm hàng hóa xuất khẩu nhưng các phòng thử nghiệm này chưa đáp ứng

được.

Các chỉ tiêu an toàn sinh thái sản phẩm da giầy liên quan chủ yếu đến vi lượng

các chất độc hại tồn tại trên nguyên phụ liệu được sử dụng. Các phép thử (xác định)

chất vi lượng khá phức tạp và đắt tiền, bên cạnh việc đòi hỏi trang thiết bị hiện đại,

chính xác và đắt tiền, việc xây dựng phương pháp thử cũng rất phức tạp. Về cơ bản,

các phòng thử nghiệm trong nước có đầy đủ các trang thiết bị để xác định các chỉ

tiêu an toàn sinh thái sản phẩm da giầy. Vấn đề là làm thế nào để kết quả các phép

thử được các thị trường nhập khẩu sản phẩm khắt khenhư EUchấp nhận.

Tại Việt Nam đã có phòng thử nghiệm được thị trường EU chấp nhận nhưng

nhiều doanh nghiệp da giầy có nhu cầu thử nghiệm hàng hóa xuất khẩu vẫn phải gửi

mẫu thử nghiệm ở nước ngoài. Điều này là do hầu hết doanh nghiệp gia công của

Việt Nam sẽ được khách hàng chỉ định phòng thí nghiệm bởi trong nước không có

phòng thí nghiệm đạt được sự tin tưởng của những người mua EU. Ví dụ như Trung

tâm dịch vụ một cửa của Viện Nghiên cứu Da giầy, hiện nay đã được công nhận bởi

SATRA (một tổ chức thử nghiệm uy tín) tuy nhiên lại không có khách hàng đến thử

61

nghiệm do vẫn chưa gây dựng được uy tín đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cũng

như người mua Châu Âu. Do vậy cần tăng cường thông tin thử nghiệm tới các

doanh nghiệp da giầy, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tiềm năng của các phòng thí nghiệm hóa tại Việt Nam là khá lớn nhưng chưa

được phát huy trong lĩnh vực thử nghiệm sản phẩm da giầy. Nếu được quan tâm, hỗ

trợ và có giải pháp hữu hiệu, các phòng thử nghiệm trong nước hoàn toàn đáp ứng

yêu cầu thử nghiệm sản phẩm da giầy đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập

khẩu.

62

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỂ NGÀNH DA GIẦY VIỆT NAM ĐÁP ỨNG TỐT HƠN RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI CỦA THỊ TRƯỜNG EU

Hiệp định thương mại tự do EVFTA được ký kết vào tháng 12/2015 và sẽ có

hiệu lực từ năm 2018 đang mở ra những cơ hội rất lớn cho ngành xuất khẩu Việt

Nam nói chung và ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam nói riêng. Thuế cho các sản

phẩm da giầy sẽ được giảm từ 12,4% về 0% theo cam kết trong hiệp định. Các

doanh nghiệp Việt Nam vì thế sẽ tăng được sức cạnh tranh cho các sản phẩm của

mình khi không còn bị áp thuế như hiện nay. Tuy nhiên, cơ hội đó sẽ chỉ có được

khi Việt Nam đáp ứng được các quy định về kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy nhập

khẩu tại thị trường EU. Mặc dù trong những năm qua, chính phủ và các doanh

nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến TBT tuy nhiên vẫn chưa được đúng mức. Bởi

hầu hết các sản phẩm da giầy xuất khẩu vào thị trường EU của Việt Nam hiện nay

đều là gia công, các doanh nghiệp vì thế không cần quan tâm đến rào cản kỹ thuật

tại thị trường nước bạn. Tuy nhiên, khi EVFTA có hiệu lực, khi lợi thế và cơ hội

tăng lên, việc đáp ứng tốt hơn rào cản kỹ thuật để có thể gia tăng giá trị xuất khẩu

da giầy Việt Nam vào thị trường EU là điều vô cùng cần thiết.

3.1. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn

2016-2025

3.1.1. Định hướng chung

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra các giải pháp phát triển

kinh tế giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030 trong bối cảnh nền kinh tế đất nước có

nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn. Cùng với xu thế hội nhập ngày

càng sâu rộng, nhiều Hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa Việt Nam và các

nước, khu vực trên thế giới đã đặt Việt Nam vào vị thế mới trên bản đồ khu vực và

thế giới. Từ định hướng chủ đạo nêu trong chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng

Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội

chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc tổ

quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản

trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Đại hội đã định hướng “xây

63

dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia; đẩy mạnh và nâng cao chất

lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế; sớm đưa nước ta

cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Cụ thể, trong giai đoạn 2016-2025, chính sách công nghiệp quốc gia phải tạo

động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện

đại. Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam phải xây dựng đồng bộ, tuân thủ

đầy đủ các quy luật khách quan của cơ chế thị trường gắn liền với phát triển bền

vững, đổi mới thể chế, cải cách nền hành chính quốc gia, lấy hiệu quả kinh tế – xã

hội làm tiêu chuẩn để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư, công

nghệ, đảm bảo vững chắc kết quả từng bước của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, gắn với quá trình đô thị hoá, tránh nguy cơ tụt hậu kinh tế ngày càng xa với các

nước trong khu vực và trên thế giới.

Chính sách công nghiệp quốc gia phải phát huy tối đa các nguồn lực trong

nước (nội lực, đóng vai trò quyết định), đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực

nước ngoài (ngoại lực, đóng vai trò quan trọng) cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phát huy vai trò tích cực của thị trường trong phân bổ các nguồn lực cho phát triển

công nghiệp. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế sâu

rộng.

Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia lấy khoa học và công nghệ là nền

tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức;

khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ cao, chuyển nhanh sang kinh tế tri thức

để tạo được bước nhảy vọt phát triển về công nghiệp. Coi trọng yếu tố nguồn lực

con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, từ đó đẩy mạnh

phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi

mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn

nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.

Cùng với đó, Chính phủ cũng có quyết định số 880/QĐ-TTg phê duyệt Quy

hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn

2030, trong đó có quy hoạch phát triển ngành dệt may – da giầy, cụ thể như sau:

64

- Phát triển ngành dệt may – da giầy theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa,

nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm.

- Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, đồng thời đáp ứng tối đa

nhu cầu của thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công

nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản

phẩm trong ngành.

- Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp ngành dệt may – da giày chiếm 10 –

12% trong cơ cấu ngành công nghiệp và đáp ứng 90 – 95% nhu cầu thị trường;

năm 2030 chiếm tỷ trọng 7 – 8% và đáp ứng 100% nhu cầu.

- Đến năm 2020

+ Tiếp tục phát triển sản xuất các sản phẩm ngành dệt may, da giày theo

hướng phục vụ xuất khẩu, kết hợp đáp ứng nhu cầu trong nước với mẫu

mã, chất lượng, giá cả phù hợp sức mua của người tiêu dùng các vùng

miền, chú trọng các vùng nông thôn, miền núi;

+ Đầu tư nâng cấp kết hợp đầu tư mới các dây chuyền sản xuất sản phẩm

thời trang cao cấp; xây dựng các trung tâm thiết kế mẫu mốt có quy mô

hiện đại;… Hợp tác với ngành dầu khí trong đầu tư một số dự án xơ sợi

tổng hợp.

+ Nghiên cứu xây dựng trung tâm xúc tiến thương mại chuyên ngành. Tập

trung đáp ứng nhu cầu các phụ liệu ngành may và da giày; khai thác có

hiệu quả các dự án xơ sợi tổng hợp.

- Đến năm 2030

+ Tập trung phát triển vùng nguyên liệu bông, vùng chăn nuôi gia súc để

chủ động một phần nguyên liệu bông, da cho ngành.

+ Tiếp tục nghiên cứu phát triển các loại quần áo thời trang, giầy cao cấp

phục vụ thị trường đòi hỏi chất lượng cao.

Cùng với đó, Chính phủ cũng phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công

nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may – da giầy “đến năm 2020 đạt khoảng 40% nhu

cầu dệt thoi; sản xuất trong nước từ 40 -100% phụ tùng cơ khí dệt may; đáp ứng

80% nhu cầu nội địa về các sản phẩm xơ, sợi tổng hợp và tiến tới xuất khẩu từ sau

65

năm 2020. Ngành công nghiệp hỗ trợ da giầy phối hợp với ngành dệt may, đẩy

nhanh khả năng cung ứng các loại vải dệt để sản xuất giày dép, đặc biệt là giày dép

vải xuất khẩu”.

Từ định hướng chung của Đảng và nhà nước giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn

2030, có thể thấy ngành da giầy đang được chú trọng phát triển, là ngành xuất khẩu

chủ lực trong giai đoạn hội nhập sâu rộng, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa và

hiện đại hóa. Với việc hiệp định thương mại tự do EVFTA được ký kết thành công

và có hiệu lực vào năm 2018, thị trường xuất khẩu sang EU sẽ ngày càng mở rộng

đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu da giầy.

3.1.2. Định hướng xuất khẩu hàng da giầy của Việt Nam giai đoạn 2016-2020,

tầm nhìn 2025

Không chỉ có định hướng chung của Đảng và nhà nước, Bộ Công thương cũng

đã có những định hướng chi tiết đối với việc quy hoạch phát triển ngành da giầy

Việt Nam. Theo Quyết định số 6209/QĐ-BCT ngày 25 tháng 11 năm 2010, Bộ

trưởng Bộ Công Thương đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da-

Giầy Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025”. Ngành da giầy

Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới với những định hướng và mục tiêu

phát triển vừa bảo đảm phát triển bền vững nhưng cũng kèm theo cả những mục

tiêu mang tính đột phá.

Trên phương diện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý ngành

da giầy Việt Nam, tại Quyết định số 6209/QĐ-BCT ngày 25 tháng 11 năm 2010, Bộ

Công Thương đã thay mặt Chính phủ phê duyệt các định hướng và mục tiêu mới; hệ

thống các lĩnh vực quy hoạch mới từ sản phẩm đến thị trường, từ phân bố vùng quy

hoạch đến các dự án đầu tư, từ phát triển nguồn nhân lực đến nghiên cứu khoa học

và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư chiều sâu, phát triển công

nghiệp phụ trợ và phát triển nguồn nhân lực, từ phân công giao nhiệm vụ đến việc

chỉ đạo tổ chức thực hiện và phối hợp hành động giữa các cơ quan chức năng và tổ

chức xã hội ngành nghề là Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam và các tổ chức Hội nghề

66

nghiệp khác, các doanh nghiệp trong và ngoài ngành nhằm chỉ đạo thực hiện thành

công Quy hoạch đã được đề ra.

Theo Quyết định trên, đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, ngành da giầy

Việt Nam sẽ phát triển trên cơ sở phù hợp các quy định hiện hành về công tác quy

hoạch. Toàn ngành vẫn duy trì định hướng chủ động phục vụ xuất khẩu và chiếm

lĩnh dần thị trường nội địa, phát triển mạnh sản xuất nguyên phụ liệu và công

nghiệp hỗ trợ, tham gia sâu vào chuỗi giá trị gia tăng của thị trường sản phẩm da

giầy thế giới; phát triển ngành da giầy Việt Nam nhằm tạo ra năng suất lao động và

hiệu quả kinh tế cao, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, từng bước

chuyển đổi phương thức sản xuất từ gia công sang tự sản xuất, kinh doanh; gắn việc

phát triển nhanh quy mô sản xuất với việc tập trung mở rộng thị trường xuất khẩu

và thị trường nội địa, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển nguồn

nhân lực được đào tạo trong đó quan tâm đặc biệt đối với lao động nghèo, lao động

nông nghiệp; gắn việc phát triển sản xuất trên cơ sở thực hiện tốt trách nhiệm xã

hội, thân thiện và bảo vệ môi trường; chuyển dịch các cơ sở gia công mũ giầy về

các vùng nông thôn, vùng có nhiều lao động; nâng cao năng lực tự thiết kế mẫu mã

và phát triển sản phẩm mới, ưu tiên ứng dụng công nghệ tự động hoá trong thực

hiện công nghệ và tổ chức quản lý sản xuất.

Mục tiêu chung phát triển đến năm 2020 là xây dựng ngành da giầy Việt Nam

trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn quan trọng của nền kinh tế

quốc dân; tiếp tục giữ vị trí trong nhóm các nước sản xuất và xuất khẩu các sản

phẩm da giầy hàng đầu thế giới và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội trên cơ sở thu

nhập của người lao động ngày càng được nâng cao, thực hiện trách nhiệm xã hội

ngày càng tốt, số lượng lao động được qua đào tạo ngày càng tăng.

Với tốc độ tăng trưởng dự kiến, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm

2015 là 9,1 tỷ USD; năm 2020 là 14,5 tỷ USD và năm 2025 đạt 21 tỷ USD. Nâng

dần tỷ lệ nội địa hoá các loại sản phẩm là một trong những vấn đề được quan tâm

đặc biệt trong quá trình xây dựng Quy hoạch trong giai đoạn 2020, tầm nhìn 2025,

trong đó phấn đấu năm 2015 tỷ lệ nội địa hoá đạt 60-65%, năm 2020 đạt 75-80 %

và năm 2025 đạt 80-85%;

67

Việc xây dựng một số khu - cụm công nghiệp sản xuất da giầy, sản xuất

nguyên phụ liệu và xử lý môi trường tập trung trên cơ sở lợi thế về hạ tầng và lao

động để chủ động cung cấp nguyên phụ liệu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho

ngành và xây dựng mới và phát triển các cơ sở đào tạo, các cơ sở nghiên cứu khoa

học công nghệ, các trung tâm kiểm định, dịch vụ ngành và các trung tâm Xúc tiến

thương mại, trung tâm Thời trang ở trong nước và nước ngoài là những định hướng

có tính lâu dài nhằm phát triển ngành theo hướng ổn định và bền vững.

Điểm mới của Quy hoạch giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 là

việc quan tâm đến việc năng cao khả năng thiết kế mẫu mã sản phẩm và phát triển

nguồn nhân lực trong lĩnh vực da giầy nói chung và thời trang nói riêng. Do đó

trong giai đoạn tới, Bộ Công Thương sẽ chỉ đạo để ngành da giầy phối hợp cùng với

ngành Dệt May và một số ngành liên quan khác làm trụ cột phát triển công nghiệp

thời trang Việt Nam tại một số đô thị, thành phố lớn.

Trong Quy hoạch ngành da giầy Việt Nam đến năm 2020, da giầy vẫn là sản

phẩm chủ lực của ngành, song sẽ quan tâm đến việc sản xuất da giầy da thời trang

và cặp - túi - ví chất lượng cao phục vụ thị trường mới, thị trường cao cấp và thị

trường nội địa. Đối với sản phẩm da thuộc, ngành sẽ tập trung sản xuất da thuộc với

công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường. Đầu tư sản xuất da thuộc được gắn

liền với việc phát triển đàn gia súc góp phần giảm nhập siêu và chủ động trong sản

xuất.

Đến năm 2020, tổng sản phẩm da giầy các loại dự kiến đạt 1,6 tỷ đôi, vali -

cặp - túi - ví các loại đạt gần 300 triệu chiếc.

3.2. Một số kiến nghị và giải pháp để ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam đáp

ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của thị trường EU

Do phạm vi nghiên cứu của để tài là tập trung nghiên cứu khía cạnh xuất khẩu

của hàng da giầy Việt Nam tại thị trường EU, chương 3 của luận văn vì vậy sẽ đưa

ra một số kiến nghị và giải pháp đáp ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật của thị trường

EU nhằm đẩy mạnh xuất khẩu da giầy Việt Nam tại thị trường này và phù hợp với

định hướng phát triển của ngành. Các giải pháp duới đây phải được thực hiện đồng

68

bộ, ba đối tượng là cơ quan nhà nước, phòng thí nghiệm và doanh nghiệp phải

tương hỗ nhau trong việc nâng cao năng lực đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với sản

phẩm da giầy. Có như vậy, ngành da giầy Việt Nam mới đáp ứng tốt hơn rào cản kỹ

thuật đối với sản phẩm da giầy tại thị trường EU. Các giải pháp cụ thể như sau:

3.2.1. Kiến nghị với Nhà nước

3.2.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan

Để có một môi trường pháp lý tốt, thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp

đáp ứng tốt hơn các rào cản kỹ thuật cho hàng xuất khẩu da giầy trong thời gian tới,

Nhà nước cần tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật mới cùng với những văn bản

hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Đồng thời, có các biện pháp tổ chức tổ chức xây dựng và

củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, đổi mới cơ

chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chất

lượng, môi trường xã hội. Cụ thể:

 Ban hành quy định yêu cầu đảm bảo các chỉ tiêu an toàn đối với sản

phẩm da giầy nhập khẩu và tiêu thụ trong nước và các quy chuẩn an toàn hóa

chất trong sản phẩm da giầy.

Thị trường EU là một thị trường vô cùng khắt khe đối với chất lượng hàng hóa

nhật khẩu. Những phân tích ở trên đã cho thấy những yêu cầu khắt khe từ phía EU

cho hàng hóa nhập khẩu. Trong khi đó nhận thức của doanh nghiệp xuất khẩu Việt

Nam về rào cản kỹ thuật của thị trường EU vẫn còn hạn chế, đặc biệt là các doanh

nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ. Bởi hiện nay doanh nghiệp trong ngành da giầy chủ

yếu gia công sản phẩm cho các đối tác nước ngoài, thường làm theo đơn đặt hàng

với những yêu cầu kỹ thuật cụ thể từ phía đối tác, thêm vào đó, các sản phẩm trong

nước chưa có quy định liên quan tới mức hóa chất hay cơ lý…nên chưa gặp phải

những cản trở thương mại liên quan tới rào cản kỹ thuật. Có thể thấy từ trường hợp

của Trung Quốc, EU đặc biệt quan tâm đến các biện pháp kỹ thuật đối với sản phẩm

giày dép của nước này. Nổi bật nhất là ý kiến của EU cho rằng việc quy định thử

nghiệm 5 mức mùi mà Trung Quốc đưa ra không phù hợp với Điều 2.2 và 5.1.2 của

Hiệp định TBT. Theo đó Trung Quốc yêu cầu thử nghiệm giày dép cho trẻ em sẽ

69

dựa trên 5 mức phân loại mùi: Không mùi; Mùi nhẹ, không rõ ràng; Mùi nặng

nhưng không khó chịu; Mùi nặng và khó chịu; Mùi rất nặng và rất khó chịu và yêu

cầu thử nghiệm viên khi tiến hành các thử nghiệm như vậy không được xịt nước

hoa nặng mùi, dùng các đồ uống có cồn hay từ môi trường không thoáng khí. Việc

Trung Quốc quy định như vậy theo EU là không dựa trên bằng chứng khoa học và

gây cản trở thương mại quá mức cần thiết. Ví dụ trên cho thấy sự cần thiết phải xây

dựng và cập nhật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật một cách phù hợp và nhanh

chóng để đảm bảo doanh nghiệp trong nước có nhận thức kịp thời, điều chỉnh quy

trình sản xuất để đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, tránh xảy ra

xung đột thương mại không đáng có.

Việt Nam đã xây dựng được bộ tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam, tuy nhiên bộ

TCVN chưa đáp ứng được các yêu cầu về quản lý xuất nhập khẩu và lưu thông

hàng hoá. Hơn thế, bộ tiêu chuẩn mới chỉ đáp ứng được 45% tiêu chuẩn khu vực và

trên thế giới về mức độ hài hòa. Trong khi đó, việc xây dựng được bộ tiêu chuẩn,

quy chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm da giầy trong nước sẽ giúp các doanh nghiệp

Việt Nam dần quen với việc thử nghiệm và đáp ứng các rào cản kỹ thuật, trước hết

là chính thị trường nội địa. Điều này sẽ góp phần nâng cao năng lực đáp ứng của

các doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với đó EVFTA đã chính thức có hiệu lực, hàng

loạt những thách thức về TBT sẽ trực tiếp tác động đến sản phẩm da giầy xuất khẩu

của Việt Nam. Việc xây dựng nhanh, đồng bộ quy chuẩn tiêu chuẩn kỹ thuật là điều

vô cùng cần thiết.

 Xây dựng quy trình và mô hình cấp nhãn sinh thái, nhãn hàng hóa

Nhà nước cần sớm đưa ra nhãn sinh thái và mô hình nhãn sinh thái, nhãn hàng

hóa. Điều này sẽ giúp nhà nước, các doanh nghiệp cũng như các phòng thí nghiệm

có sự thống nhất trong tổ chức hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu.

Nhà nước cũng cần sớm soạn thảo và ban hành quy chế xây dựng, thực hiện chương

tình cấp nhãn sinh thái quốc gia, trong đó cần nêu rõ các nội dung:

70

- Cơ cấu và tổ chức hoạt động của chương trình nhãn sinh thái. Khi được cấp

nhãn sinh thái, các doanh nghiệp sẽ có lợi thế như thế nào khi xuất khẩu sang

thị trường EU. Liệu nhãn sinh thái đó có được công nhận quốc tế hay không?

- Thủ tục lựa chọn sản phẩm/nhóm sản phẩm cấp nhãn sinh thái

- Quy trình và thủ tục đăng ký cấp chứng nhận nhãn sinh thái

- Nội dung và yêu cầu quản lý, giám sát sau khi cấp nhãn.

Hiện nay, tại thị trường EU, người tiêu dùng rất ưa chuộng các sản phẩm da

giầy có gắn nhãn sinh thái (eco label). Đây là nhãn tự nguyện đối với sản phẩm da

giầy. Tuy nhiên nếu sản phẩm da giầy của Việt Nam có thể gắn được nhãn sinh thái,

điều này sẽ mang đến rất nhiều lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm da giầy Việt Nam

tại thị trường EU.

3.2.1.2. Nâng cao vai trò của văn phòng TBT

Văn phòng TBT trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng - Bộ

Khoa học và Công nghệ, được thành lập nhằm cung cấp các thông tin về TBT đã

đang và sẽ áp dụng của Việt Nam đến Ban Thư ký của Tổ chức thương mại thế giới

WTO. Cùng với đó, văn phòng cũng tiếp nhận và phổ biến các thông báo của các

nước thành viên WTO tới các tổ chức có liên quan trong nước theo hướng dẫn của

WTO. Đây cũng là điểm hỏi đáp liên quan đến TBT của Việt Nam. Đây là một kênh

thông tin về TBT rất hữu hiện song đến nay vẫn chưa thực sự hoạt động một cách

hiệu quả nhất. Để hoạt động hiệu quả hơn nữa, trong thời gian tới văn phòng cũng

như Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp cụ thể như:

- Văn phòng cần có kế hoạch thông báo những thông tin mới nhất về TBT mà

EU áp dụng đến các doanh nghiệp và phòng thí nghiệm thông qua các kênh

như: bằng văn bản, phương tiện thông tin đại chúng, qua internet, tổ chức trực

tuyến, hội thảo hoặc các báo cáo chuyên đề.

- Có lịch trình tiếp và trả lời doanh nghiệp, phòng thí nghiệm khoa học, rõ ràng,

nhanh chóng. Lịch trình tiếp phải được công bố rộng rãi để các bên liên quan

có thể biết đến dễ dàng

71

- Những hướng dẫn về TBT của EU phải rõ ràng, tránh hiểu lầm có thể xảy ra

trong cách hiểu của doanh nghiệp, phòng thí nghiệm. Mặt khác, kịp thời khắc

phục những thiếu sót nếu có để đáp ứng những rào cản kỹ thuật của EU.

Đặc biệt, hiện nay, Việt Nam đã thành lập được mạng lưới TBT Việt Nam.

Tuy nhiên, thông tin từ mạng lưới TBT còn khó tiếp cận, chưa được cập nhật

thường xuyên. Vì vậy doanh nghiệp da giầy gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp

nhận thông tin về rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của EU. Việc đổi mới,

bổ sung thông tin và cải tiến cách thức cung cấp thông tin của mạng lưới TBT là

cần thiết nhằm cung cấp thông tin một cách chính thống cho các doanh nghiệp và

các phòng thí nghiệm về rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy tại thị trường

EU nói riêng và các thị trường xuất khẩu chủ lực khác của Việt Nam nói chung.

3.2.1.3. Tổ chức các khóa đào tạo và huấn luyện các doanh nghiệp xuất khẩu

nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp.

Ngành da giầy Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến rào

cản kỹ thuật trong thương mại khi vào thị trường châu Âu. Bên cạnh đó, ngành còn

có nhiều điểm yếu ví dụ như chất lượng sản phẩm thấp, thiếu thông tin và sự sáng

tạo, chưa xây dựng được thương hiệu, năng lực chưa đáp ứng được trong lĩnh vực

thử nghiệm, chứng nhận, marketing và thiết kế... Tất cả những điểm này đang ảnh

hưởng không tốt đến năng lực cạnh tranh của ngành. Tất cả các yếu tố này cần phải

được giải quyết nhằm tạo điều kiện cho các công ty trong nước có thể hội nhập với

thị trường quốc tế và tận dụng được lợi thế từ đó.

Theo kết quả điều tra của dự án MUTRAP đã đề cập ở chương 2, ba trong số

các vấn đề của doanh nghiệp hiện nay là:

- Thiếu thông tin về an toàn sinh thái sản phẩm da giầy;

- Phần lớn nguyên vật liệu mua tại Việt Nam chưa đáp ứng được quy định an

toàn sinh thái sản phẩm;

- Chưa có sự quan tâm, hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước

Từ những khó khăn trên, nhà nước cần tổ chức các khóa đào tạo và huấn luyện

các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm nâng cao hơn nữa năng lực xuất khẩu của doanh

72

nghiệp. Từ các buổi hội thảo, khóa đào tạo Viện nghiên cứu Da giầy và các hiệp hội

có thể hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao được các kỹ năng, kiến thức về kỹ thuật và

quản lý. Cụ thể hơn, họ sẽ được hỗ trợ thực hiện/áp dụng một phương pháp tiếp cận

từ dưới lên nhằm mục đích cụ thể hóa đầu vào liên quan để chuyển hóa thành các đề

xuất chính sách, đặc biệt là các đề xuất liên quan đến rào cản kỹ thuật đối với Việt

Nam. Các buổi hội thảo có thể mời chuyên gia từ EU để có thông tin về TBT một

cách chính xác và đầy đủ.

3.2.1.4. Nâng cấp phòng thí nghiệm, xây dựng phòng thí nghiệm tiêu chuẩn của

Việt Nam để được chứng nhận và công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế, được chấp

nhận bởi một số nhà nhập khẩu quốc tế.

Hiện nay trong nước chưa có nhiều phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế,

được các tổ chức công nhận quốc tế thừa nhận là thành viên. Phương pháp thử

nghiệm phần lớn chưa được công nhận ISO/IEC 17025:2005; phần lớn phòng thí

nghiệm chưa đáp ứng yêu cầu của hàng xuất khẩu. Trong khi đó các phòng thí

nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài lại có khả năng thử nghiệm tốt hơn và được công

nhận bởi các tổ chức uy tín.

Cùng với đó, các doanh nghiệp luôn mất rất nhiều chi phí để gửi mẫu thử ra

nước ngoài thử nghiệm. Mẫu thử nghiệm được gửi đi nhiều khi phải mất hàng tháng

trời mới có kết quả, chưa tính đến những trường hợp chưa đạt tiêu chuẩn phải tiến

hành thử nghiệm lại. Điều này gây nên tốn kém và khó khăn cho các doanh nghiệp

trong việc thử nghiệm và đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của

EU. Vì vậy việc xây dựng các phòng thí nghiệm trong nước được chứng nhận và

công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế là điều vô cùng cần thiết.

Các cơ quan quản lý nhà nước có thể mời chuyên gia từ phía EU sang tư vấn

cho việc xây dựng, lắp đặt phòng thí nghiệm và phương pháp thử nghiệm để đạt

được tiêu chuẩn quốc tế nhất là những tiêu chuẩn, quy chuẩn khắt khe tại thị trường

EU.

Cùng với đó, sau khi đã xây dựng được các phòng thí nghiệm đạt chuẩn, nhà

nước cũng cần tổ chức các buổi giới thiệu hay thử nghiệm mẫu, hoặc thu hút thử

73

nghiệm từ các nhà nhập khẩu quốc tế thử nghiệm tại các phòng thử nghiệm này.

Mục đích của việc này là giúp các phòng thí nghiệm có thể mở rộng tên tuổi và từ

đó thông tin có thể đến được với các nhà sản xuất trong nước. Nếu làm được như

vậy, không chỉ các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, nhà nước cũng sẽ có cơ sở

trong tương lai cho việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn hợp lý hơn dựa vào

đánh giá từ các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế đó.

3.2.1.5. Hỗ trợ nguồn lực cho các phòng thí nghiệm trong việc mua sắm các

trang thiết bị phân tích cho phòng thí nghiệm.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, hoạt động thí nghiệm (kể cả

thử nghiệm, xét nghiệm, kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị…) là một bộ phận không thể

thiếu của khoa học, công nghệ và kinh tế

Với thực tế đó, hiện nay, các phòng thí nghiệm ở nước ta đã có sự phát triển

đáng kể so với trước đây. Theo ước tính, chỉ trong vòng một thập kỷ qua, Nhà nước

đã chi hàng ngàn tỷ đồng để mua sắm thiết bị khoa học kỹ thuật tại các phòng thí

nghiệm.

Mặc dù việc thí nghiệm tại Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc trong những

năm qua tuy nhiên vấn đề lớn nhất mà các phòng thí nghiệm phải đối mặt vẫn là vấn

đề kinh phí. Theo TS. Nguyễn Hữu Thiện, Chủ tịch Hội Các phòng thử nghiệm Việt

Nam (VINALAB), do điều kiện của đất nước, số tiền đầu tư, mua sắm trang thiết bị

cho các phòng thí nghiệm ở nước ta còn khá thấp so với mặt bằng chung của quốc

tế. Điều này dẫn đến việc không phải phòng thí nghiệm nào cũng có đầy đủ máy

móc, thiết bị để đáp ứng các tiêu chuẩn của thế giới, nhiều phòng thí nghiệm vẫn

hoạt động một cách cầm chừng, không có định hướng, mục tiêu cụ thể.

Cùng với đó, cần có sự liên kết phối hợp giữa các phòng thí nghiệm để tránh

đầu tư lãng phí, trùng nhau hoặc thiếu. Bởi ở các thành phố lớn, nơi tập trung rất

nhiều phòng thí nghiệm thì cũng thường được trang bị hoặc trợ cấp vốn nhiều hơn

so với các phòng thí nghiệm ở xa.

Hiện nay việc nhập khẩu thiết bị khoa học kỹ thuật vẫn còn nhiều vấn đề, vừa

lãng phí vừa kém hiệu quả. Các nhà tư vấn còn phụ thuộc nhiều vào hãng cung cấp

74

thiết bị, thiếu thông tin và bị động trong kế hoạch tài chính và phân bổ ngân sách.

Việc xem xét, duyệt mua sắm còn rườm rà, hình thức kém hiệu quả, chưa phát huy

được tinh thần trách nhiệm của chủ đầu tư sử dụng ngân sách nhà nước. Vì vậy

ngân sách nhà nước nên tập trung đầu tư vào một số phòng thí nghiệm mũi nhọn

(phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm trong chương trình liên kết giữa

Việt Nam và các nước và các phòng thí nghiệm chủ yếu của Trung ương và địa

phương)

Một khó khăn khác cũng cần phải quan tâm, đó là việc ngoại trừ vài thiết bị

đơn giản được sản xuất trong nước, hầu hết máy móc trong phòng thí nghiệm đều

phải nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này đã làm tiêu tốn của chúng ta hàng trăm

triệu USD mỗi năm. Nếu không có vốn, và sử dụng vốn một cách hợp lý, các phòng

thí nghiệm sẽ không có đủ trang thiết bị tiêu chuẩn để có thể đưa ra các mẫu kết quả

theo tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế. Vì vậy nhà nước cần có chính sách thuế khuyến

khích nhập khẩu cho các thiết bị khoa học kỹ thuật cao cấp cũng như tài liệu kỹ

thuật và phần mềm chuyên dụng cho phân tích không nên bị đánh thuế cao; cần có

chính sách hay phân biệt giữa nhập khẩu thiết bị hiện đại, thế hệ mới và thiết bị lạc

hậu

3.2.1.6. Đào tạo đội ngũ chuyên gia, tư vấn về rào cản kỹ thuật cho các doanh

nghiệp xuất khẩu da giầy

Toàn cầu hóa hiện nay giúp khoa học và công nghệ Việt Nam từng bước hội

nhập, giao lưu với nền khoa học công nghệ của thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam

học tập kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ thế giới phục vụ

cho sự phát triển của kinh tế- xã hội của đất nước. Đội ngũ lao động vì thế cũng dần

tiệm cận với thế giới.

Tuy nhiên đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học

đầu ngành còn thiếu và yếu, thiếu các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các

phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ

cao còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý khoa học nhất là cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế.

75

Vì vậy việc nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ chuyên gia là vô cùng

cần thiết để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật ngày càng khắt khe của các thị trường

xuất khẩu trên thế giới. Chỉ khi có đội ngũ chuyên gia có chuyên môn, có trình độ

mới có thể tư vấn giúp các doanh nghiệp và phòng thì nghiệm về các tiêu chuẩn, về

các quy chuẩn phức tạp, khó khăn.

Cùng với đó, đội ngũ chuyên gia có trình độ cũng sẽ góp phần tham vấn cho

chính phủ trong việc tạo dựng, cập nhật sửa đổi các quy định chính sách về rào cản

kỹ thuật để ngày càng phù hợp hơn với thế giới, đáp ứng các yêu cầu của các tổ

chức, các nước trong quá trình hợp tác.

3.2.2. Một số giải pháp đối với phòng thí nghiệm

3.2.2.1. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị để phục vụ cho việc thử nghiệm đạt tiêu

chuẩn, quy chuẩn quốc tế (thử nghiệm cơ lý – hóa)

Một trong những khó khăn lớn nhất của các phòng thí nghiệm hiện nay là

thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất nên những nghiên cứu thường bị các công ty nhập

khẩu nước ngoài, các thị trường lớn nghi ngờ về kết quả đạt được cũng như hiệu

quả thực sự của các đánh giá. Chính vì thế, nếu thử nghiệm trong nước, thông

thường các công ty xuất khẩu của Việt Nam sẽ không được công nhận, hoặc mất rất

nhiều thời gian và sức lực để thuyết phục những người mua uy tín cũng như tạo

dựng lòng tin nơi họ.

Từ thực tế đó, kết hợp với hỗ trợ nguồn lực từ phía nhà nước, các phòng thí

nghiệm cần chủ động đầu tư nâng cấp trang thiết bị để có thể đưa ra các kết quả

chính xác, đáng tin cậy. Một khi các kết quả được thừa nhận từ các người mua và

các tổ chức quốc tế, uy tín của các phòng thí nghiệm sẽ được nâng cao, từ đó có cơ

hội phát triển, đem lại nguồn thu cho phòng thí nghiệm để tiếp tục đầu tư, phát

triển.

Các phòng thí nghiệm hiện nay đều chủ yếu hoạt động bằng kinh phí của nhà

nước. Tuy nhiên nguồn kinh phí này tương đối hạn hẹp và chưa được đầu tư đúng

đắn. Vì vậy các phòng thí nghiệm có thể cố gắng tự chủ về mặt kinh phí, xin tài trợ

76

từ các tổ chức quốc tế để có được nguồn kinh phí mới, từ đó có chi phí để đầu tư

nâng cấp trang thiết bị phục vụ cho việc thử nghiệm.

3.2.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể đáp ứng được các quy trình

thử nghiệm khắt khe của các thị trường thế giới.

Nguồn nhân lực luôn là vấn đề then chốt, là nhân tố chủ yếu đem đến lợi

nhuận hay danh tiếng cho một doanh nghiệp (ở đây cụ thể là phòng thí nghiệm).

Nguồn nhân lực đảm bảo mọi nguồn sáng tạo trong tổ chức. Chỉ có con người mới

sáng tạo ra các hàng hoá, dịch vụ và kiểm tra được quá trình sản xuất kinh doanh

đó. Mặc dù trang thiết bị, tài sản, nguồn tài chính là những nguồn tài nguyên mà các

tổ chức đều cần phải có, nhưng trong đó tài nguyên nhân văn - con người lại đặc

biệt quan trọng. Không có những con người làm việc hiệu quả thì tổ chức đó không

thể nào đạt tới mục tiêu.

Qua phân tích ở chương 2, có thể thấy nguồn nhân lực của các phòng thí

nghiệm vẫn còn hạn chế. Không chỉ thiếu về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực

của các phòng thí nghiệm vẫn chưa thực sự đảm bảo để có thể đưa ra kết quả cho

các thử nghiệm với quy trình thử nghiệm khắt khe của các thị trường trên thế giới.

Vì vậy, không chỉ nhà nước, mà chính các phòng thí nghiệm cũng cần chủ

động nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Các phòng thí nghiệm có thể

kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đào tạo nguồn nhân lực từ các

chuyên gia có trình độ trong nước và trên thế giới để nâng cao trình độ cán bộ công

nhân viên. Các phòng thí nghiệm cũng có thể tổ chức các buổi đào tạo, hội thảo để

cán bộ công nhân viên nâng cao được năng lực của bản thân. Không chỉ vậy, chính

cán bộ công nhân viên của các phòng thí nghiệm có thể trở thành chuyên gia trong

lĩnh vực nghiên cứu của mình bằng cách được đào tạo bài bản và chuyên sâu ở

chính các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đặc biệt là EU.

3.2.2.3. Nghiên cứu thiết bị để có thể tham gia vào việc cung cấp thiết bị đạt

chuẩn quốc tế

Như đã nêu ở trên, các phòng thí nghiệm hiện nay chủ yếu sử dụng các thiết bị

nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho quá trình thử nghiệm. Chưa có nhiều các

77

thiết bị thí nghiệm được sản xuất trong nước có thể đáp ứng được việc nghiên cứu

và kiểm tra để đưa ra kết quả đáng tin và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trong khi đó, việc

nhập khẩu thiết bị nghiên cứu tiêu tốn một số tiền không nhỏ của nhà nước hàng

năm. Điều này vừa khiến phòng thí nghiệm lâm vào tình trạng không có vốn để mua

thiết bị nên không thể đổi mới để đạt chuẩn, vừa gây tốn kém cho ngân sách nhà

nước trong trường hợp nhập khẩu các máy móc thiết bị đã cũ, không đủ hiện đại.

Vì vậy việc tự nghiên cứu để có thể tham gia vào việc cung cấp thiết bị đạt

chuẩn quốc tế của các phòng thí nghiệm là điều vô cùng cần thiết. Khi đó, phòng thí

nghiệm vừa không những không cần nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, vừa mang

lại danh tiếng cho phòng thí nghiệm của mình. Điều này sẽ rất có lợi trong việc thu

hút người mua uy tín thử nghiệm và thừa nhận.

Hàng năm, các phòng thí nghiệm nên dành một quỹ cho việc nghiên cứu. Việc

nghiên cứu của phòng thí nghiệm cũng nên được tập trung đầu tư công sức, thời

gian và sức lao động của cán bộ công nhân viên. Chỉ như vậy, sản phẩm cho ra đời

mới hiệu quả.

Người lao động ở các phòng thí nghiệm cũng cần tự ý thức tầm quan trọng của

việc nghiên cứu thiết bị để tự cung cấp. Họ có thể đi đào tạo ở các nước có nguồn

thiết bị hiện đại, tân tiến thông qua các chương trình liên kết, các chương trình của

nhà nước, các chương trình hỗ trợ từ chính phủ nước ngoài, từ đó về nước đóng góp

chất xám nghiên cứu ra các thiết bị của chính nước mình.

Phòng thí nghiệm cũng nên chủ động hơn nữa trong việc đề xuất cung cấp

nguồn lực cho việc nghiên cứu. Thông qua việc đề xuất các phương án nghiên cứu

lên cơ quan quản lý nhà nước, khi được phê duyệt, phòng thí nghiệm sẽ có kinh phí

cho việc nghiên cứu và biến các đề án thành hiện thực. Điều này vừa đem lại sự chủ

động cho phòng thí nghiệm vừa đem lại việc sử dụng vốn hiệu quả cho nhà nước.

3.2.2.4. Đạt được sự công nhận của các tổ chức quốc tế

Các phòng thí nghiệm trong nước cần cố gắng trong việc đạt được sự công

nhận cuả các tổ chức quốc tế. Bởi chỉ khi đạt được sự công nhận của các tổ chức

quốc tế, các phòng thí nghiệm của Việt Nam mới có cơ hội tiếp cận với những

78

người xuất khẩu da giầy của Việt Nam hay những nhà nhập khẩu EU trong việc thử

nghiệm da giầy. Bởi các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy sẽ phải thử nghiệm các

phép thử cơ lý – hóa với đòi hỏi khắt khe của thị trường EU. Thông thường, đối với

các nhà nhập khẩu da giầy lớn của EU, họ sẽ chỉ định thử nghiệm ở các phòng thử

nghiệm uy tín, thông thường là ở châu Âu. Tuy nhiên, việc gửi mẫu ra nước ngoài

thử nghiệm thường mất rất nhiều thời gian với chi phí đắt đỏ. Vì vậy, nếu các phòng

thử nghiệm trong nước có thể đạt được sự công nhận của các tổ chức quốc tế thì

không chỉ giúp phòng thí nghiệm nâng tầm mà đồng thời còn giúp các doanh nghiệp

xuất khẩu da giầy tiết kiệm chi phí trong việc thử nghiệm.

Tuy nhiên, giải pháp này sẽ đạt được hiệu quả khi có sự hỗ trợ chính sách từ

phía nhà nước trong việc đưa ra các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc đối

với sản phẩm da giầy trong nước cũng như sự chủ động của doanh nghiệp trong

việc thử nghiệm da giầy. Bởi nếu phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế mà không có

khách hàng thì cũng không thể duy trì được sự tồn tại của phòng thí nghiệm. Bởi

chi phí để phòng thí nghiệm được công nhận bởi các tổ chức quốc tế là rất đắt đỏ.

Có thể thấy rõ điều này qua ví dụ từ chính phòng thí nghiệm đạt chuẩn của Viện

Nghiên cứu Da giầy.

Trung tâm dịch vụ một cửa (One-stop service center) của Viện Nghiên cứu Da

giầy là đơn vị được SATRA (tổ chức thử nghiệm và nghiên cứu sản phẩm quốc tế)

công nhận. Để đạt được sự công nhận của SATRA, hàng năm Viện Nghiên cứu Da

giầy phải trả hơn 7000 euro phí thành viên. Cùng với đó, họ phải đầu tư trang thiết

bị theo yêu cầu của SATRA và mỗi năm 2 lần phải mời chuyên gia của SATRA

sang đào tạo đội ngũ tư vấn. Thông qua đó, Trung tâm dịch vụ một cửa sẽ nhận

được chứng nhận thành viên của SATRA và được phép thực hiện một số phép thử

đối với sản phẩm da giầy theo chứng nhận của SATRA.

Điều đó để thấy được việc tổ chức quốc tế công nhận một phòng thí nghiệm

không hề đơn giản, chi phí là vô cùng tốt kém. Nếu như sau khi được công nhận mà

phòng thí nghiệm không thu hồi được vốn thì chắc chắn sẽ không có động lực để

các phòng thí nghiệm cố gắng có được sự công nhận của các tổ chức quốc tế. Nếu

như có chính sách từ phía Nhà nước trong việc yêu cầu các doanh nghiệp đạt được

79

tiêu chuẩn trong nước trước khi xuất khẩu, việc thử nghiệm trong nước sẽ được đẩy

mạnh. Điều này vừa giúp các doanh nghiệp làm quen dần với việc đáp ứng các rào

cản kỹ thuật vừa giúp phòng thí nghiệm nâng cao trình độ và thu hồi vốn.

3.2.2.5. Tham vấn cho chính phủ các vấn đề liên quan đến rào cản kỹ thuật, cập

nhật tình hình về rào cản kỹ thuật để chính phủ có điều chỉnh phù hợp

Với chuyên môn, nghiệp vụ của mình, các phòng thí nghiệm có thể đóng góp,

tham vấn cho chính phủ về các vấn đề liên quan đến rào cản kỹ thuật. Bởi các quy

định trong rào cản kỹ thuật, phòng thí nghiệm là một trong những đơn vị nắm rõ

nhất về quá trình thử nghiệm, yêu cầu thử nghiệm của các nước trên thế giới. Vì vậy

việc đóng góp từ phía phòng thí nghiệm là hữu ích và cần thiết. Điều này sẽ giúp

các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng được các luật, quy định một cách đúng đắn

chặt chẽ hơn. Từ đó đem đến niềm tin cho các đối tác xuất khẩu.

Cùng với đó, do đặc thù công việc, phòng thí nghiệm cũng thường xuyên cập

nhật tình hình rào cản kỹ thuật của các nước trên thế giới. Chính phủ có thể lấy ý

kiến và tư vấn từ phía phòng thí nghiệm trong mỗi lần sửa đổi quy định để có được

thông tin chính xác. Bởi phòng thí nghiệm chính là một trong những nơi buộc phải

cập nhật thông tin một cách nhanh chóng và chính xác. Phòng thí nghiệm cũng nên

thể hiện vai trò của mình bằng cách gửi các kiến nghị, đề xuất sửa đổi các luật, nghị

định, tiêu chuẩn, quy chuẩn của nhà nước, cập nhật thông tin mới cho các đơn vị có

liên quan. Có như vậy mới tạo thuận lợi không chỉ cho hoạt động của các cơ quan

quản lý nhà nước mà còn là chính các phòng thí nghiệm trong công tác thử nghiệm

và cung cấp kết quả đạt chuẩn cho các doanh nghiệp, đơn vị khác.

Tiêu biểu như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được ký

kết, Viện Nghiên cứu Da giầy chính là một trong những đơn vị tham gia tham vấn

cho Chính phủ trong những điều khoản đàm phán của Hiệp định này về rào cản kỹ

thuật đối với sản phẩm da giầy của thị trường EU.

80

3.2.3. Một số giải pháp đối với doanh nghiệp xuất khẩu da giầy (và định hướng

xuất khẩu da giầy)

3.2.3.1. Thường xuyên cập nhật thông tin về các quy định mới của tiêu chuẩn,

quy chuẩn quốc tế liên quan đến lĩnh vực da giày

Các doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật thông tin về các tiêu chuẩn kỹ

thuật mới từ các nước nhập khẩu thông qua các văn kiện pháp lý, các hiệp định, các

cuốn sổ tay do Việt Nam hoặc các nước, khu vực nhập khẩu phát hành… Theo ông

Jaen Jacques Bouflet, Tham tán Công sứ Phái đoàn EU tại Việt Nam, mặc dù năm

2014, Việt Nam được hưởng lại chính sách ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU,

nhưng theo quy định hàng hóa phải chịu sự xét duyệt 3 năm một lần. Đồng thời các

hạng mục được ưu đãi luôn có sự thay đổi và doanh nghiệp Việt Nam cần sẵn sàng

chuẩn bị cho việc hàng hóa của mình không còn trong danh mục được hưởng GSP.

Vì vậy, việc nâng cao năng lực cập nhật thông tin không chỉ giúp doanh

nghiệp Việt Nam nắm bắt thị trường, ngành hàng, mà còn đóng vai trò quan trọng

về cải thiện những vấn đề tuân thủ pháp lý, quy định tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật

của thị trường EU. Các doanh nghiệp có thể tham gia các khóa tập huấn, các buổi

hội thảo do nhà nước, các cơ quan, hiệp hội tổ chức để có thể có thêm thông tin, tài

liệu về TBT một cách chính thống và chỉnh chu.

3.2.3.2. Cần có quy định đối với nhà thầu cung cấp nguyên phụ liệu đạt tiêu

chuẩn quốc tế.

Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Da Giày Việt Nam, nguyên phụ liệu dùng

để sản xuất da giày chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 68-75% trong cơ cấu giá thành sản

phẩm giày dép. Tuy nhiên hầu hết các nguyên liệu chính để sản xuất giày da đều

phải nhập khẩu như da thuộc, giả da. Trong khi đó tiêu chuẩn của EU về nguyên

liệu sản xuất da giầy rất khắt khe. Không chỉ rào cản kỹ thuật còn có cả quy tắc xuất

xứ, nhất là khi EVFTA đã được ký kết. Tuy nhiên theo thống kê của Hiệp hội da

giầy, tỷ lệ nội đại hóa của nguyên liệu sản xuất da giầy chỉ đáp ứng được 30% nhu

cầu sản xuất. Điều này dẫn đến việc phải nhập khẩu nguyên phụ liệu. Tuy nhiên

nguyên phụ liệu nhập khẩu của Việt Nam rất khó đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt

81

khe của EU, trong có có yêu cầu về nguyên liệu sạch. Bởi doanh nghiệp không kiểm

soát được quy trình sản xuất nguyên liệu của sản phẩm nhập khẩu. Trong khi đó,

nguyên phụ liệu trong nước, nếu đáp ứng được, sẽ giải quyết phần nào bài toán khó

khăn của doanh nghiệp.

Từ thực tế đó, doanh nghiệp cần có quy định chi tiết về nhà thầu cung cấp

nguyên liệu với mục đích kiểm soát được quy trình sản xuất nguyên liệu của đối tác,

vừa kiểm soát được việc nguyên liệu đáp ứng tốt các rào cản kỹ thuật của thị trường

xuất khẩu.

Doanh nghiệp có thể tổ chức các buổi mời thầu để đối tác cung cấp các tài liệu

chi tiết về việc sản xuất nguyên phụ liệu. Từ đó chọn ra được nhà thầu uy tín và hợp

lý. Nhà thầu cũng nên được xem xét hàng năm để tránh trường hợp ỉ lại, sản xuất

tràn lan kém hiệu quả và chất lượng của đối tác. Nguyên liệu đối tác cung cấp cần

chứng minh đạt chuẩn quốc tế, công nhận từ các phòng thí nghiệm uy tín. Nếu

không chứng minh được những tài liệu này, đối tác buộc phải gửi nguyên phụ liệu

đi kiểm nghiệm trước khi tham gia đấu thầu. Có vây, doanh nghiệp vừa giảm bớt

chi phí kiểm nghiệm vừa kiểm soát tốt nguồn nguyên liệu đầu vào.

3.2.3.3. Từng bước áp dụng công nghệ, nguyên phụ liệu sạch trong sản xuất.

Công nghiệp thuộc da Việt Nam còn nhiều điểm hạn chế. Hoá chất thuộc da là

một trong các yếu tố quyết định chất lượng da thuộc, nhưng hiện nay ngành công

nghiệp hoá chất trong nước chưa có khả năng cung ứng. Thiết bị chuyên dùng phần

lớn còn ở mức độ trung bình, lạc hậu và không đồng bộ, đặc biệt là các cơ sở phía

Bắc. Thuộc da là ngành công nghiệp có phát thải gây ô nhiễm môi trường dưới cả 3

dạng rắn, lỏng và khí với các chỉ số ô nhiễm cao như: vôi, sulphua, crôm, COD,

BOD, TDS, VOC… Để đáp ứng các tiêu chuẩn sản phẩm sạch và bảo vệ môi

trường, ở các nước tiên tiến hầu hết doanh nghiệp đã áp dụng các công nghệ thân

thiện môi trường vào sản xuất da thuộc. Tổ chức UNIDO - UNDP cũng đưa ra

nhiều tài liệu giới thiệu và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc da trên toàn thế

giới áp dụng công nghệ thân thiện môi trường. Các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy

của Việt Nam cũng cần áp dụng chiến lược công nghệ xanh. Có vậy, chất lượng và

82

uy tín hàng hóa của Việt Nam mới được nâng cao, không chỉ đáp ứng được TBT mà

còn làm vừa lòng các thị trường khó tính như EU.

Các doanh nghiệp có thể tham khảo công nghệ xanh đã được các phòng

nghiên cứu tập trung nghiên cứu, như công nghệ xanh của Viện Da giầy. Năm 2005,

Viện triển khai nghiên cứu tái sử dụng chất thải crôm bằng phương pháp quay vòng

trực tiếp và thu hồi crôm sa lắng, tiết kiệm hóa chất thuộc và giảm thiểu crôm trong

nước thải. Năm 2006 và 2007, Viện đã tiến hành nghiên cứu áp dụng công nghệ

thuộc da sinh thái, sau đó đã phát triển thành dự án sản xuất thử nghiệm. Năm 2006,

Viện cũng đã nghiên cứu thành công phương pháp thuộc thảo mộc (thay thế chất

thuộc crôm). Viên Nghiên cứ Da giầy Việt Nam cũng đã cùng Viện Nghiên cứu Da

Trung ương Ấn Độ (CLRI) tiến hành thực hiện nghiên cứu xử lý nước thải và áp

dụng công nghệ sạch vào ngành Công nghiệp Thuộc da. Chuyên gia của 2 Viện đã

cùng nhau nghiên cứu xây dựng thành công quy trình công nghệ sạch trong sản xuất

da thuộc, từ công đoạn bảo quản da nguyên liệu (không dùng muối), sử dụng chế

phẩm enzym thay thế cho Na2S trong hồi tươi, tẩy lông, tẩy vôi bằng khí các bon

níc (CO2), làm xốp giảm thiểu muối ăn (NaCl) và axít, quay vòng và tái sử dụng

nước… sản phẩm tạo ra đạt đáp ứng tiêu chuẩn châu Âu (EU Directive

76/769/EEC). Những kết quả này rất đáng để các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam

tận dụng trong quá trình sản xuất da giầy của mình.

Những rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm da giầy của thị trường EU đã được

áp dụng và kiểm định ngay từ bước nguyên phụ liệu. Nên nếu doanh nghiệp không

đáp ứng được từ ngay bước kiểm soát chất lượng của nguyên phụ liệu, doanh

nghiệp sẽ tốn rất nhiều chi phí trong việc thử nghiệm sau này, cũng như chi phí sản

xuất vô cùng tốt kém. Vì vậy, việc kiểm soát nguyên phụ liệu sạch là vô cùng quan

trọng. Một khi doanh nghiệp áp dụng được công nghệ, nguyên phụ liệu sạch trong

sản xuất, doanh nghiệp đã từng bước tiếp cận được thị trường thế giới trong đó có

thị trường khó tính EU.

3.2.3.4. Cải thiện quy trình quản lý và kiểm soát chất lượng

Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất da giầy của Việt Nam chủ yếu là các

doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy trình quản lý chất lượng của các doanh nghiệp vì vậy

83

đa phần còn chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Những quy định nội bộ trong việc

quản lý chất lượng còn thiếu. Một phần của thực trạng này là các doanh nghiệp còn

thiếu thông tin về các yêu cầu kỹ thuật. Mặt khác các doanh nghiệp chưa có đội ngũ

chuyên môn đủ trình độ để kiểm nghiệm.

Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần xây dựng các quy định, quy trình kiểm

soát chất lượng một cách chi tiết, đầy đủ. Chỉ khi làm đúng từ cơ sở sản xuất, doanh

nghiệp mới tiết kiệm được chi phí ở các khâu sau, tránh trường hợp sản phẩm được

sản xuất ra không bán được do không đáp ứng đúng được tiêu chuẩn trên thị trường

xuất khẩu (trong đó TBT của EU là một trong những hàng rào rất khắt khe).

Quy định, quy trình kiểm soát chất lượng có thể được xây dựng dựa trên quy

trình từ các doanh nghiệp lớn hoặc học hỏi từ chính bạn hàng của các doanh nghiệp.

Từ việc tham khảo các doanh nghiệp lớn nhỏ trong nước và quốc tế, doanh nghiệp

sẽ tìm ra được phương pháp tốt nhất cho doanh nghiệp mình, phù hợp với cơ cấu và

trình độ lao động của chính doanh nghiệp.

3.2.3.5. Xây dựng đội ngũ nhân lực có hiểu biết về rào cản kỹ thuật đối với da

giầy tại doanh nghiệp để phát triển và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa

sang thị trường EU

Tất cả các giải pháp trên sẽ thực sự hiệu quả nếu doanh nghiệp có đôi ngũ cán

bộ công nhân viên chất lượng bởi suy cho cùng, con người vẫn luôn là yếu tố quan

trọng nhất của quá trình sản xuất. Thực tế cho thấy, máy móc thiết bị dù hiện đại

cũng cần đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ chuyên môn. Trong khi đó, nước

ta hiện nay vẫn còn thiếu rất nhiều cán bộ kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao.

Chưa kể các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và

nhỏ, vì vậy khả năng thu hút lao động có trình độ cũng hạn chế hơn. Do đó khả

năng cạnh tranh của sản phẩm làm ra là khá thấp.

Để khắc phục được tình trạng này, các doanh nghiệp phải tự mình nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực bằng cách tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu

cho người lao động, nhằm giúp họ nâng cao năng lực chuyên môn, tay nghề. Doanh

nghiệp cũng có thể cử nhân sự đi học ở các công ty lớn, ở các nước phát triển, ở các

84

thị trường muốn xuất khẩu. Chỉ có như vậy, người lao động mới có cơ hội tiếp cận

và học hỏi để nâng cao bản thân, từ đó nâng cao năng lực xuất khẩu của chính

doanh nghiệp.

Doanh nghiệp tiếp tục đầu tư cho đội ngũ thiết kế mẫu mã và đội ngũ kỹ thuật

ở cấp cơ sở. Bởi hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đang rất yếu ở khâu thiết kế

mẫu mã. Với các doanh nghiệp gia công, đơn vị thiết kế hầu hết chỉ có nhiệm vụ

kiểm tra thiết kế từ phía đối tác cung cấp và cung cấp lại cho các đơn vị sản xuất

chứ chưa đầu tư chất xám để đưa ra các mẫu mã của riêng mình. Điều này khiến

năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp bị giảm sút. Đội ngũ kỹ thuật ở đơn vị cũng

vô cùng quan trọng trong việc bước một có thể kiểm tra được các tiêu chuẩn, quy

chuẩn quốc tế của các sản phẩm đã chế tạo ra. Từ đó giảm được chi phí gửi đi kiểm

nghiệm với mẫu mã không đạt chuẩn, giảm được thời gian và tiền bạc của chính

công ty.

Doanh nghiệp cũng cần phải tiếp tục nâng cao năng lực nội tại bằng cách đầu

tư xứng đáng cho phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học công nghệ mới, cải

tiến hệ thống quản lý sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí, giảm thời gian giao hàng.

Trước mắt, doanh nghiệp trong ngành, nhất là với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần

liên kết để sản xuất được các đơn hàng lớn, tăng sức cạnh tranh.

Các doanh nghiệp có thể cử nhân lực đi học các khóa đào tạo ngắn hạn tại các

khóa họa được cơ quan Nhà nước tổ chức. Tiêu biểu như các khóa học ngắn được

Viện Nghiên cứu Da giầy tổ chức. Tại đây, đội ngũ nhân lực về rào cản kỹ thuật của

doanh nghiệp sẽ được đội ngũ chuyên gia và tư vấn viên của Viện Nghiên cứu da

giầy đào tạo và cung cấp các thông tin cập nhật về rào cản kỹ thuật. Những khóa

học này thông thường là miễn phí cho các doanh nghiệp và phòng thí nghiệm. Vì

vậy, các doanh nghiệp vừa có thể tiết kiệm chi phí đào tạo, vừa có thể nâng cao

năng lực cho đội ngũ nhân lực của mình.

85

KẾT LUẬN

Trên cơ sở các quan điểm khác nhau về rào cản kỹ thuật và rào cản kỹ thuật

đối với thương mại, luận văn cho rằng “rào cản kỹ thuật trong thương mại là một

hình thức của rào cản phi thuế quan được các nước nhập khẩu xây dựng nên thông

qua việc đưa ra các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật. Hàng hóa nếu không đạt được

các tiêu chuẩn trên sẽ không được phép nhập khẩu vào lãnh thổ của nước nhập

hàng.”. Từ đó, luận văn đi sâu nghiên cứu Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại của

thị trường EU, gồm có (i) Chỉ thị an toàn sản phẩm chung GPSD, (ii) Quy định

đăng ký, đánh giá và cấp phép hóa chất, (iii) Quy định về sản phẩm diệt khuẩn

BPR, (iv) Quy định về ghi nhãn sản phẩm giày dép, (v) Dấu CE, (vi) Tiêu chuẩn

CEN/ISO. Cùng với đó, luận văn đưa ra thủ tục quản lý về chất lượng thử nghiệm

để làm cơ sở soi chiếu chất lượng thử nghiệm của các phòng thí nghiệm ở Việt

Nam.

Trong những năm qua, EU vẫn luôn là một trong những thị trường xuất khẩu

chủ lực của ngành da giầy Việt Nam. Thông qua tình hình xuất khẩu da giầy của

Việt Nam vào thị trường EU cùng với sự phát triển không ngừng của ngành da giầy

xuất khẩu Việt Nam đã thấy được tiềm năng và vị trí quan trọng của thị trường này.

Tuy nhiên, ngoài các sản phẩm gia công, ngành da giầy Việt Nam vẫn vấp phải rào

cản kỹ thuật vô cùng khắt khe của thị trường EU. Cùng với đó hiệp định EVFTA

được ký kết giữa Việt Nam và EU khiến cho rào cản kỹ thuật của thị trường EU

càng trở nên chặt chẽ. Vì vậy cần có những đánh giá về thực trạng đáp ứng của các

doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Việt Nam để thông qua đó thấy được những điểm

còn hạn chế nhằm đưa ra giải pháp đáp ứng tốt hơn rào cản kỹ thuật của thị trường

EU. Thông qua kết quả khảo sát các doanh nghiệp và các phòng thí nghiệm, luận

văn đánh giá được những mặt đã làm được và những mặt còn hạn chế của Việt Nam

trong việc đáp ứng rào cản kỹ thuật của thị trường EU.

Trên cơ sở lý luận ở chương 1, thực tiễn ở chương 2, luận văn đề xuất một số

kiến nghị và giải pháp ở chương 3 nhằm giúp ngành da giầy xuất khẩu Việt Nam

đáp ứng tốt hơn hàng rào kỹ thuật đối với thương mại của thị trường EU. Đó là một

86

vài kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước về việc hoàn thiện môi trường

pháp lý ở Việt Nam, tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao năng lực của các

doanh nghiệp sản xuất da giầy cũng như các phòng thí nghiệm. Cùng với đó là các

nhóm giải pháp cho phòng thí nghiệm như đầu tư và nâng cấp trang thiết bị phục vụ

việc thử nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế song song với nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực. Cuối cùng là nhóm giải pháp cho doanh nghiệp về nguồn nguyên vật liệu,

về kiểm soát chất lượng sản phẩm để vượt qua các khó khăn đến từ rào cản kỹ thuật

đối với thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam khi thâm

nhập vào thị trường EU./.

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TỪ SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ

1. Từ Thúy Anh (2013), Giáo trình Kinh tế học quốc tế, Trường Đại học Ngoại

thương- Nhà xuất bản Thống kê, tr.181-212.

2. Bộ Công Thương và MUTRAP (2016), Sổ tay cho doanh nghiệp Việt Nam, Bộ

Công thương.

3. European Chemicals Agency (ECHA), Chemical Safety Report

4. European Chemicals Agency (ECHA) (2016), Data on Candidates List

substances in articles.

5. European Chemicals Agency (ECHA), General Product Safety Directive

(GPSD)

6. European Chemicals Agency (ECHA), REACH

7. European Chemicals Agency, Understanding BPR

8. European Commission, the Agreement on Technical Barriers to Trade.

9. European Union, EU 94/11/EC

10. European Union (2006), Regulation (ec) no 1907/2006 of the european

parliament and of the council.

11. Tracey Epps and Michael J.Trebilcock (2013), Research Handbook on the

WTO and Technical Barriers to Trade, The Editors and Contributors

Severally.

12. ISO & CEN (2001), Agreement on Technical Co-operation between ISO and

CEN (Vienna Agreement).

13. ISO & CEN (2016), Guidelines for the implementation of the Agreement on

Technical Cooperation between ISO and CEN, 7th Edition.

14. Paul R.Krugman & Maurice Obstfeld & Marc Melitz (2015), International

Economics: Theory and Policy, 10th, Pearson.

15. Bùi Xuân Lưu (2002), Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản giáo

dục, tr.210-211.

16. MUTRAP (2009), Báo cáo vượt qua các rào cản tbt để thúc đẩy xuất khẩu

sang liên minh Châu Âu, Báo cáo cuối cùng.

88

17. MUTRAP (2015), Sổ tay tổng quan chính sách thương mại của liên minh

Châu Âu, VCCI.

18. MUTRAP (2014), Báo cáo kết quả điều tra đánh giá năng lực của các công ty

da giầy trong việc đáp ứng các yêu cầu an toàn sinh thái của thị trường EU.

19. MUTRAP (2014), Báo cáo kết quả điều tra về năng lực thử nghiệm và quản lý

của các phòng thí nghiệm tại Việt Nam cho các sản phẩm da giầy xuất khẩu.

20. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, Nghị định về việc trợ giúp các doanh nghiệp

vừa và nhỏ, 30/06/2009

21. Northampton University & Leather and Shoe Research Institute (2013), Better

Compliance with Technical Requirement.

22. Phái đoàn liên minh Châu Âu tại Việt Nam (2016), Cẩm nang về hướng dẫn

về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU, Đại diện phái đoàn liên minh

Châu Ấu tại Việt Nam.

23. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2016), Báo cáo thường

niên doanh nghiệp Việt Nam 2015, Nhà xuất bản thông tin và truyền thông.

24. Matthias Popp (2015), Conference Doing business with EU, Hanoi 10th

November.

25. Dan Roley (2005), Vienna Agreement on Technical Cooperation between ISO

and CEN, ISO Chair Conference.

26. Đinh Văn Thành (2004), Đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu các rào cản trong

thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam, Viện nghiên

cứu thương mại, Bộ Thương Mại.

27. Tổng cục Hải quan, Niên giám thống kê qua các năm 2013- 2015.

28. UNCTAD (2003), Dispute Settlement, Technical Barriers to Trade.

29. United Nations (2003), Conference on Trade and Development, United

Nations New York and Geneva 2003.

30. Uruguay Round Agreement (1995), Agreement on Technical Barriers to

Trade, World Trade Organization.

89

TÀI LIỆU TỪ INTERNET

31. Bộ Công thương Việt Nam, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU, tại địa

chỉ http://portal.moit.gov.vn/fta/?page=home , truy cập ngày 18/02/2017

32. Cổng thông tin chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị

định về việc trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tại địa chỉ

http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id

=1&mode=detail&document_id=88612, truy cập ngày 21/03/2017

33. Dự án EU-MUTRAP, Vượt qua các rào cản tbt để thúc đẩy xuất khẩu sang

liên minh Châu Âu, tại địa chỉ

http://mutrap.org.vn/index.php/vi/explore/finish/52/536, truy cập ngày

20/03/2017

34. European Chemicals Agency, Chemical Safety Report, tại địa chỉ

https://echa.europa.eu/regulations/reach/registration/information-

requirements/chemical-safety-report, truy cập ngày 07/03/2017

35. European Chemicals Agency, REACH, tại địa chỉ

https://echa.europa.eu/regulations/reach, truy cập ngày 06/03/2017

36. European Chemicals Agency, Understanding BPR, tại địa chỉ

https://echa.europa.eu/regulations/biocidal-products-regulation/understanding-

bpr, truy cập ngày 06/03/2017

37. European Commission, EU position in world trade, tại địa chỉ

http://ec.europa.eu/trade/policy/eu-position-in-world-trade/, truy cập ngày

04/03/2017

38. European Commission, GDP at regional level, tại địa chỉ

http://ec.europa.eu/eurostat/statistics-

explained/index.php/GDP_at_regional_level, truy cập ngày 15/03/2017

39. European Commission, General Product Safety Directive (GPSD), tại địa chỉ

http://ec.europa.eu/consumers/consumers_safety/product_safety_legislation/ge

neral_product_safety_directive/index_en.htm, truy cập ngày 05/03/2017

40. European Commission, EU Policy, tại địa chỉ http://ec.europa.eu/trade/policy/,

truy cập ngày 05/03/2017

90

41. European Commission, Population and population change statistics, tại địa

chỉ http://ec.europa.eu/eurostat/statistics-

explained/index.php/Population_and_population_change_statistics, truy cập

ngày 15/03/2017

42. European Union, The 28 countries of the EU, tại địa chỉ

https://europa.eu/european-union/about-eu/countries_en#tab-0-0 , truy cập

ngày 28/02/2017

43. European Union , EU 94/11/EC, tại địa chỉ http://eur-lex.europa.eu/legal-

content/EN/TXT/PDF/?uri=CELEX:31994L0011&from=EN, truy cập ngày

03/03/2017

44. Hiệp hội Da-Giày – túi xách Việt Nam, Các quy định, tiêu chuẩn về an toàn

đối với nguyên vật liệu và sản phẩm da giầy của EU, tại địa chỉ

http://lefaso.org.vn/tbt.aspx?ZID1=579&ID1=1&ID8=3985, truy cập ngày

27/02/2017

45. Hiệp hội Da-Giầy-Túi xách Việt Nam, Số liệu xuất nhập khẩu da giầy – túi

cặp tháng 12 năm 2016, tại địa chỉ

http://www.lefaso.org.vn/WebLocalfiles/HIEP_HOI_DA_GIAY/Solieunganh/

Solieunganh722017113751So_lieU_hq.pdf, truy cập ngày 16/03/2017

46. ISO & CEN, Agreement on Technical Co-operation between ISO and CEN

(Vienna Agreement), tại địa chỉ

http://isotc.iso.org/livelink/livelink/fetch/2000/2122/4230450/4230458/Agree

ment_on_Technical_Cooperation_between_ISO_and_CEN_%28Vienna_Agre

ement%29.pdf?nodeid=4230688&vernum=-2, truy cập ngày 27/02/2017

47. ISO & CEN, Guidelines for the implementation of the Agreement on Technical

Cooperation between ISO and CEN, tại địa chỉ

http://isotc.iso.org/livelink/livelink/fetch/2000/2122/4230450/4230458/Guideli

nes_for_the_implementation_of_the_Agreement_on_Technical_Cooperation_

between_ISO_and_CEN_%28the_Vienna_Agreement%29_7th_ed._Aug_201

6.pdf?nodeid=4230689&vernum=-2, truy cập ngày 27/02/2017

91

48. ITC, All products EU import, tại địa chỉ

http://www.trademap.org/Country_SelProduct_TS.aspx?nvpm=1||14719|||TOT

AL|||2|1|1|1|2|1|3|1|1, truy cập ngày 18/03/2017

49. ITC, All products Vietnam export, tại địa chỉ

http://www.trademap.org/Country_SelProductCountry_TS.aspx?nvpm=1|704||

||TOTAL|||2|1|1|2|2|1|2|1|1, truy cập ngày 17/03/2017

50. ITC, All products Vietnam import, tại địa chỉ

http://www.trademap.org/Country_SelProductCountry_TS.aspx?nvpm=1|704||

|14719|TOTAL|||2|1|1|1|2|1|2|1|1, truy cập ngày 17/03/2017

51. ITC, Export footwear, gaiters and the like; part of such articles, tại địa chỉ

http://www.trademap.org/(X(1)S(jt1v0n452empdliezyxauk55))/Country_SelPr

oduct_TS.aspx?nvpm=1|||||64|||2|1|1|2|2|1|2|1|1, truy cập ngày 15/03/2017

52. MUTRAP, Hồ sơ thị trường các nước thành viên EU, tại địa chỉ

http://mutrap.org.vn/index.php/vi/explore/bao-cao-nghien-cuu, truy cập ngày

28/02/2017

53. MUTRAP, Sổ tay tổng quan chính sách thương mại của Liên minh Châu Âu,

tại địa chỉ http://mutrap.org.vn/index.php/vi/explore/an-pham-

mutrap/finish/57/6049, truy cập ngày 17/03/2017

54. Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, Thông tin xuất khẩu sang EU, tại

địa chỉ

http://eeas.europa.eu/delegations/vietnam/eu_vietnam/trade_relation/faqs/inde

x_vi.htm, truy cập ngày 27/03/2017

55. Tạp chí chính thức của Liên Minh Châu Âu, Luật hóa chất Châu Âu, tại địa

chỉ http://eur-lex.europa.eu/legal-

content/EN/TXT/PDF/?uri=CELEX:02006R1907-20161011&from=EN, truy

cập ngày 23/02/2017

56. Tổng cục hải quan Việt Nam, Xuất khẩu hàng hóa theo kỳ 1, kỳ 2 tháng 12

năm 2016, tại địa chỉ

https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuanLichCongBo/Attachment

s/887/2016-T12K2-1X(VN-SB).pdf , truy cập ngày 02/03/2017

92

57. Tổng cục Thống kê, tại địa chỉ

http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217

58. Tổng vụ thương mại của Ủy ban Châu Âu, tại địa chỉ http://ec.europa.eu/trade/

59. Trung tâm hỗ trợ hội nhập WTO TP.HCM, Rào cản kỹ thuật của thị trường

EU với các mặt hàng xuất khẩu giầy da của Việt Nam, tại địa chỉ

http://www.hoinhap.org.vn/tiepcan-thi-truong/thi-truong-eu/tin-tuc-thi-truong-

eu/8899-rao-can-ky-thuat-cua-thi-truong-eu-voi-cac-cac-mat-hang-xuat-khau-

giay-da-cua-viet-nam.html, truy cập ngày 19/02/2017

60. Trung tâm sản xuất sạch Việt Nam, Ngành thuộc da: Áp dụng sản xuất sạch

hơn để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tại địa chỉ http://vncpc.org/nganh-

thuoc-da-ap-dung-san-xuat-sach-hon-sxsh-de-giam-thieu-o-nhiem-moi-

truong/, truy cập ngày 10/04/2017

61. Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD/WTO (ITC), tại địa chỉ

http://www.trademap.org/Index.aspx?AspxAutoDetectCookieSupport=1

62. Văn phòng thông báo và hỏi đáp quốc gia về tiêu chuẩn đô lường chất lượng

(TBT Việt Nam), tại địa chỉ http://www.tbtvn.org/default.aspx