intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải pháp thúc đẩy liên kết vùng tại khu vực trung du miền núi Bắc Bộ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

15
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu của tác giả đề cập đến thực trạng phát triển kinh tế xã hội của vùng, thực trạng liên kết tại vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển liên kết vùng trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải pháp thúc đẩy liên kết vùng tại khu vực trung du miền núi Bắc Bộ

  1. THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 495 GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY LIÊN KẾT VÙNG TẠI KHU VỰC TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ TS. Vũ Quỳnh Nam Viện Nghiên cứu Kinh tế & Phát triển nguồn nhân lực Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Email: quynhnam@tueba.edu.vn Tóm tắt: Phát triển bền vững dựa trên liên kết vùng từ lâu đã là vấn đề luôn được các cấp, các ngành, các nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân quan tâm trong phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sự phát triển chênh lệch giữa các vùng đang có xu hướng gia tăng, việc chia cắt hành chính không những không phát huy được lợi thế kinh tế theo quy mô mà còn khiến các vùng không phát huy được hết lợi thế so sánh của vùng. Do đó, liên kết vùng sẽ giúp cho các địa phương liên kết đầu tư phát triển trên không gian các vùng, giúp thúc đẩy kinh tế, liên kết các chuỗi, liên kết các ngành hàng trong vùng. Đối với khu vực Trung du miền núi Bắc Bộ là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, là phên dậu phía Đông Bắc của tổ quốc, việc thúc đẩy liên kết vùng nhằm thúc đấy phát triển kinh tế, xã hội được xem như một nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nghiên cứu của tác giả đề cập đến thực trạng phát triển kinh tế xã hội của vùng, thực trạng liên kết tại vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển liên kết vùng trong thời gian tới. Key word: Liên kết vùng, phát triển bền vững, trung du miền núi Bắc Bộ SOLUTIONS TO PROMOTE REGIONAL LINKS IN THE NORTHERN MIDLANDS AND MOUTAINS Abstract: Sustainable development based on regional linkages has long been a matter of interest to all levels, sectors, scientists, businesses, and people in socio-economic development. However, the disparity in development between regions is increasing, and administrative division not only fails to promote economies of scale but also makes regions unable to bring into full play their comparative advantages. Of the area. Therefore, the regional linkage will help localities to invest and develop in the space of regions, helping to promote the economy, link chains, and link industries in the region. The Northern midland and mountainous region, which is home to many ethnic minorities, is the northeastern region of the country, and the promotion of regional linkages to promote economic
  2. 496 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 and social development is important. considered as a key task soon. The author’s research refers to the current situation of socio-economic development of the region, and the status of linkages in the Northern Midlands and Mountains, thereby proposing solutions to promote the development of regional linkages in the coming time. Keywords: Regional linkage, sustainable development, Northern midlands and mountains. 1. Đặt vấn đề Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của Quốc gia có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ. Khu vực gồm 14 tỉnh là Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Đây là vùng lãnh thổ lớn nhất Việt Nam, có diện tích 100.965 km2, chiếm khoảng 28,6% diện tích cả nước. Hình 1 là bản đồ Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ. Tuy có vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng và nguồn cung cấp lớn nhất các tài nguyên thiên nhiên của đất nước nhưng do những khó khăn rất lớn về điều kiện tự nhiên và do xuất phát điểm kinh tế - xã hội rất thấp nên Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ luôn tụt hậu hơn hầu hết các vùng kinh tế - xã hội khác của cả nước. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã liên tục có những chính sách ưu tiên đặc biệt với những nguồn đầu tư rất lớn để thúc đẩy sự phát triển của Khu vực, nhờ đó khoảng cách tụt hậu của Khu vực so với các vùng kinh tế - xã hội khác đã ngày càng được rút ngắn. Do đó, sự phát triển của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ vẫn chưa đạt hết mức tiềm năng so với nguồn lực đầu tư và chính sách ưu đãi. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là sự liên kết vùng của Khu vực rất yếu. Vấn đề định hướng và tổ chức không gian phát triển là vấn đề vượt ra ngoài ranh giới hành chính một tỉnh, cần tiếp cận và giải quyết theo vùng, thông qua hành động tập thể. Do đó, 14 tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ cần có sự thống nhất nhận thức chung, mục tiêu chung từ đó chủ động trong hợp tác, liên kết với nhau theo phương châm “muốn đi nhanh và đi xa thì hãy đi cùng nhau”. Đó cũng là xu thế liên kết, chia sẻ hợp tác của kinh tế thế giới ngày nay. Do vậy, cần tìm ra các giải pháp thúc đẩy liên kết vùng trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ. 2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ Về vị trí địa lý, Trung du Miền núi Bắc Bộ giáp với 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc ở phía bắc, giáp Lào ở phía tây, giáp Đồng bằng sông Hồng ở phía đông và phía nam, giáp Bắc Trung Bộ ở phía tây nam. Về địa hình, Trung du Miền núi Bắc Bộ bao gồm vùng núi Tây Bắc, vùng đồi núi Đông Bắc và vùng trung du, với địa hình đồi núi cao ở vùng Tây Bắc; núi trung bình và núi thấp ở vùng Đông Bắc; và vùng trung du.
  3. THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 497 Về khí hậu, khí hậu nhiệt đới gió mùa, chế độ gió mùa có sự tương phản rõ rệt: mùa hè gió mùa Tây Nam nóng khô, mưa nhiều, mùa đông gió mùa Đông Bắc lạnh, khô, ít mưa. Chế độ gió tạo ra thời tiết có phần khắc nghiệt, gây nên khô nóng, hạn hán, sương muối gây trở ngại cho sản xuất và sinh hoạt. Về thủy văn, Trung du Miền núi Bắc Bộ có hai hệ thống sông chính là Hệ thống sông Hồng và Hệ thống sông Thái Bình. Về tài nguyên đất, Trung du Miền núi Bắc Bộ có phần lớn diện tích là đất feralit trên đá phiến, đá vôi và các đá mẹ khác, ngoài ra còn có đất phù sa cổ (ở khu vực trung du). Về tài nguyên khoáng sản, Trung du Miền núi Bắc Bộ là vùng giàu tài nguyên khoáng sản bậc nhất nước ta. Các khoáng sản chính là than, sắt, thiếc, chì - kẽm, đồng, apatit, pyrit, đá vôi và sét làm xi măng, gạch ngói, gạch chịu lửa ... Tuy nhiên, việc khai thác đa số các mỏ đòi hỏi phải có phương tiện hiện đại và chi phí cao. Về tài nguyên du lịch, Trung du Miền núi Bắc Bộ có những nét riêng biệt không hề có ở các vùng lãnh thổ khác trên đất nước ta, là nơi hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc, mang đậm các đặc trưng cơ bản về đất nước và con người Việt Nam, với nhiều cảnh quan đẹp và di tích tự nhiên bao gồm các thác nước, những thung lũng mở rộng và vực thẳm. Các địa danh khác như cao nguyên Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang), Bắc Hà (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La)... các điểm du lịch nổi tiếng như Đền Hùng, Điện Biên, Sa Pa, Ba Bể, Bản Giốc... và nhiều di tích gắn bó với truyền thuyết và lịch sử dân tộc như Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hùng (Phú Thọ); di tích lịch sử gắn với từng giai đoạn cách mạng như Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An toàn khu ở Tuyên Quang, Di tích lịch sử Điện Biên Phủ... Tóm lại, Trung du Miền núi Bắc Bộ có đầy đủ mọi điều kiện tự nhiên thuận lợi để xây dựng các khu du lịch miền núi. Tuy nhiên, việc hình thành chuỗi giá trị ngành du lịch từ vận chuyển lữ hành, khách sạn, tham quan, mua sắm còn manh nha, chưa tạo ra chuỗi giá trị thực sự cho ngành du lịch trong Vùng. 2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ 2.2.1. Dân số Trung du Miền núi Bắc Bộ có diện tích chiếm tới 28,7% diện tích đất nước (95.184,1 km ) nhưng dân số chỉ chiếm 13,1% dân số cả nước (12,93 triệu người). Nhìn chung các tỉnh 2 Trung du Miền núi Bắc Bộ có đặc trưng nổi bật là diện tích rất lớn nhưng dân số lại ít nên mật độ dân số rất thấp, dân cư phân bố thưa thớt. Bình quân mỗi tỉnh Trung du Miền núi Bắc Bộ có diện tích rộng 6.800 km2, lớn gấp 1,3 lần so với mức bình quân của tất cả các tỉnh, thành trong cả nước (5.253,2 km2) nhưng dân số bình quân của mỗi tỉnh trong khu vực năm 2021chỉ là 867,8 nghìn người, bằng 58% mức trung bình của tất cả các tỉnh, thành trong cả nước cùng năm (1.486,9 nghìn người); điều đó dẫn tới mật độ dân số trung bình của Khu vực năm 2021 là 127,6 người/km2, bằng 45% mật độ dân số trung bình của cả nước cùng năm (283 người/km2).
  4. 498 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 Bảng 1: Diện tích, dân số, mật độ dân số năm 2021 của các tỉnh Trung du Miền núi Bắc Bộ Diện tích Dân số Mật độ dân số Tỉnh TT (km2) (nghìn người) (người/km2) Toàn khu vực 95.184,1 12.925,1 136 1 Lai Châu 9.068,7 478,4 53 2 Lào Cai 6.364,3 761,9 120 3 Điện Biên 9.539,9 625,1 66 4 Yên Bái 6.892,7 842,7 122 5 Sơn La 14.109,8 1.287,7 91 6 Hòa Bình 4.590,3 871,7 190 7 Hà Giang 7.927,6 887,1 112 8 Cao Bằng 6.700,4 542,2 81 9 Tuyên Quang 5.868,0 801,7 137 10 Bắc Cạn 4.860,0 323,7 67 11 Phú Thọ 3.534,6 1.507,5 427 12 Thái Nguyên 3.522,0 1.323,2 376 13 Lạng Sơn 8.310,2 796,9 96 14 Bắc Giang 3.895,9 1.875,2 481 Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2022 Trong Khu vực chỉ có 4 tỉnh có dân số (2021) lớn hơn 1 triệu người là Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên và Sơn La nhưng chỉ có 3 tỉnh có mật độ dân số tương đối cao là Bắc Giang (481 người/km2), Phú Thọ (427 người/km2), Thái Nguyên (376 người/km2); các tỉnh còn lại có mật độ dân số rất thấp, dưới 200 người/km2, đặc biệt thấp là các tỉnh Lai Châu (53 người/km2), Điện Biên (66 người/km2), Bắc Kạn (67 người/km2), Cao Bằng (81 người/km2) và Sơn La (91 người/km2). Diện tích lớn, dân số ít, mật độ dân số thấp nói lên rằng Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có quy mô kinh tế nhỏ và mức độ liên kết nội vùng thấp. Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có rất nhiều dân tộc thiểu số khác nhau nói lên sự đa dạng, phong phú về bản sắc văn hóa truyền thống nhưng cũng nói lên sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, sự chênh lệch về mặt bằng dân trí và đặc biệt là sự hạn chế trong giao lưu văn hóa, xã hội giữa các dân tộc do ngôn ngữ và phong tục tập quán khác nhau; mà giao lưu văn hóa, xã hội lại là một tiền đề hết sức quan trọng cho phát triển các mối liên kết nội vùng. 2.2.2. Cơ sở hạ tầng * Hạ tầng giao thông Hệ thống giao thông là nền tảng cơ sở hạ tầng cực kỳ quan trọng cho phát triển các mối quan hệ liên kết của một vùng kinh tế - xã hôi. Về hệ thống giao thông đường bộ, Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có hệ thống quốc lộ với tổng chiều dài 6.971 km; 27 tuyến quốc lộ chạy qua Khu vực. Bên cạnh đó, trong khu vực còn có 5 tuyến cao tốc: 1) Nội Bài (Hà Nội) - Lào Cai dài 264 km; 2) Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Cạn dài 70 km; 3) Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên dài 444 km; 4) Hà Nội - Bắc Giang dài 45,8 km; 5) Bắc Giang - Lạng Sơn dài 64 km hiện đang là những tuyến đường huyết mạch của Vùng.
  5. THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 499 Các tuyến đường quốc lộ và các tuyến đường cao tốc đã kết nối giao thông giữa tất cả các tỉnh trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ với nhau và với Thủ đô Hà Nội. Bên cạnh đó, mỗi tỉnh trong Khu vực đều có hệ thống đường tỉnh, đường huyện, được xã, đường đô thị... Hệ thống đường bộ của Khu vực nhìn chung đã tạo điều kiện bước đầu thúc đẩy liên kết giữa các tỉnh trong nội bộ Khu vực và giữa Khu vực với Thủ đô Hà nội và vùng Đồng bằng sông Hồng, làm giảm đi rất nhiều khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ với các khu vực khác. Tuy nhiên, do diện tích của Khu vực rất lớn nên mật độ số km đường bộ trên km2 bề mặt của Khu vực rất thấp, điều này nghĩa là rất nhiều cụm dân cư ở vùng sâu vùng xa chưa được kết nối hệ thống giao thông hiện đại hoặc chỉ được kết nối rất yếu. Thêm vào đó, ở các vùng núi cao như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên có địa hình rất hiểm trở nên gây cản trở giao thông rất lớn, đường lắm đèo dốc cao khiến chi phí vận chuyển, đi lại rất cao; khí hậu khắc nghiệp như nóng lắm, lạnh nhiều, mưa nhiều khiến cho chi phí bảo trì đường sá rất lớn; nhiều thiên tai nguy hiểm như lũ ống, lũ quét khiến cho đường sá thường xuyên bị sạt lở... Về giao thông đường sắt, Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có 3 tuyến đường sắt chính là: 1) Hà Nội - Thái Nguyên dài 75 km; 2) Hà Nội - Lào Cai dài 296 km; 3) Hà Nội - Đồng Đăng dài 162 km; bên cạnh đó còn có 1 tuyến đường sắt nhỏ là Thái Nguyên - Quảng Ninh. Hệ thống đường sắt nói chung là xuống cấp, không đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế hiện đại, thời gian vận chuyển dài và chi phí vận chuyển cao nên không vận tải nhiều hành khách mà chủ yếu là vận tải hàng nguyên liệu thô, nặng như quặng mỏ, vật liệu thô... Về giao thông đường thủy, tuy Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có mạng lưới sông ngòi dày đặc của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình nhưng đoạn thượng nguồn của các con sông thì chảy xiết và nhiều ghềnh thác, đoạn trung lưu thì lòng sông nhiều bãi bồi, bãi cát ngầm nên không thuận tiện cho vận tải đường thủy. Chỉ có một phần ở miền trung du (Phú Thọ, Hòa Bình, Thái Nguyên, Bắc Giang) là có vận tải đường thủy nhưng chỉ là các tàu thuyền trọng tải nhỏ, khoảng cách vận chuyển không lớn, chủ yếu chỉ chuyên chở vật thiệu thô. Về đường hàng không, hiện tại Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ chỉ có một tuyến bay duy nhất là Nội Bài - Điện Biên nhưng trong tương lai sẽ mở thêm tuyến Hà Nội - Lào Cai. Các tuyến bay này sẽ có tác dụng kết nối giao thông nhanh giữa Thủ đô Hà Nội với Điện Biên và Lào Cai, góp phần thúc đẩy phát triển liên kết cho Khu vực. Tóm lại, hệ thống giao thông của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ vẫn còn rất thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của khu vực, đòi hỏi phải có những khoản đầu tư rất lớn và thời gian đầu tư lâu dài thì mới có thể phát triển được đầy đủ và kiện toàn. * Hạ tầng điện Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ là một trung tâm sản xuất điện năng rất lớn của Việt Nam. Về thủy điện, trung tâm sản xuất thủy điện lớn nhất thuộc hai tỉnh Sơn La và Hòa Bình, đều nằm trên sông Đà. Nhà máy thủy điện Sơn La là nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, với công suất lắp máy 2.400 MW, cung cấp điện cho toàn quốc. Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nhà máy thủy điện lớn thứ hai Đông Nam Á (chỉ sau Nhà máy thủy điện Sơn La), với công suất lắp máy 1.920 MW, cũng cung cấp điện cho toàn quốc. Bên cạnh đó còn có Nhà máy thủy điện Thác Bà, nằm trên sông Chảy, với công suất lắp máy 108 MW, cung cấp điện cho các tỉnh thuộc vùng trung tâm của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ. Ngoài
  6. 500 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 ra, rải rác ở khắp các tỉnh của Khu vực còn có nhiều nhà máy thủy điện, nhiệt điện loại nhỏ cung cấp điện năng bổ sung cho các địa phương. Với các nhà máy điện như trên, lưới điện của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ nhìn chung là phát triển khá tốt, bảo đảm cung cấp điện đủ cho sản xuất và sinh hoạt, tất cả các xã trong Khu vực đã có điện lưới Quốc gia. * Hạ tầng Viễn thông Về hạ tầng viễn thông, nhìn chung hạ tầng viễn thông của các tỉnh trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ đều đã được xây dựng tương đối kiện toàn. * Hạ tầng giáo dục Về giáo dục phổ thông, những năm gần đây giáo dục phổ thông của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ đã có mạng lưới, quy mô trường lớp được củng cố, phát triển, đáp ứng được nhu cầu học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Năm 2020 toàn khu vực có 5.018 trường phổ thông, số học sinh bình quân mối lớp học ngày càng tăng. Về giáo dục trình độ cao, Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Thái Nguyên là Đại học vùng lớn thứ 3 trong cả nước, đảm nhiệm giáo dục, đào tạo trình độ cao cho phần lớn con em người dân tộc thiểu số và miền núi trong khu vực. Bên cạnh đó, Trường đại học Tây Bắc ở Sơn La và phân hiệu của Đại học Thái Nguyên tại Lào Cai phục vụ nhu cầu đào tạo chất lượng cao cho vùng phụ cận của Sơn La và Lào Cai. Đồng thời, tại mỗi tỉnh của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ còn có một số trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các trường dạy nghề. Như vậy, hạ tầng giáo dục của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ đã tương đối kiện toàn. Tuy nhiên, thực ra chỉ có các tỉnh thuộc miền hạ du (Thái Nguyên, Bắc Giang và Phú Thọ) là có hạ tầng giáo dục rất tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam và được hưởng lợi nhiều về giáo dục, đào tạo trình độ cao từ Đại học Thái Nguyên còn đối với các tỉnh còn (miền thượng du) lại thì hạ tầng giáo dục vẫn còn rất nhiều hạn chế. * Hạ tầng Y tế Nhìn chung hạ tầng Y tế của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ cũng đã được xây dựng tương đối kiện toàn. Mỗi tỉnh trong khu vực đều có số cơ sở y tế (bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã phường và các cơ sở y tế khác), số giường bệnh, số nhân lực ngành Y đủ đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe của nhân dân. 2.2.3. Tình hình phát triển kinh tế của vùng Năm 2020 quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ đạt 689,2 nghìn tỷ đồng, gấp 1,71 lần năm 2015. Một số tỉnh có quy mô GRDP cao như Thái Nguyên: 125,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng GRDP toàn Khu vực; Bắc Giang: 121,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,6% tổng GRDP toàn Khu vực do là những tỉnh thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian vừa qua. Bắc Kạn, Cao Bằng, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái là những tỉnh có quy mô GRDP nhỏ, chỉ chiếm từ 1,9% đến đến 4,8% GRDP toàn vùng. Nhìn chung quy mô GRDP toàn vùng tương đối nhỏ, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tương đối chậm: năm 2020 cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là: 19,94% - 40,44% - 34,73%. Bình quân trong giai đoạn 2015-2020 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Khu vực đạt 8,37%. Một số tỉnh có tốc độ tăng trưởng bình quân 2015-2020 cao hơn mức tăng chung của khu vực là Lào Cai (9,47%), Thái Nguyên (9,51%), Bắc Giang (13,87%), Lai Châu (10,21%). Tuy nhiên, một số tỉnh có tốc độ tăng trưởng bình quân 2015-2020 thấp như Điện Biên (5%),
  7. THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 501 Lạng Sơn (5,06%), Bắc Kạn (5,16%), Cao Bằng (5,51%), Sơn La (5,15%). Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên GRDP toàn khu vực chỉ tăng 6,32%, trong đó Hà Giang chỉ tăng 1,7%, Thái Nguyên tăng 4,7%, Lạng Sơn tăng 3,12%, Điện Biên tăng 2,37%. Dự báo giai đoạn 2021-2025 toàn khu vực tăng trưởng GRDP 9,5%. 3. Liên kết vùng tại khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ 3.1. Các loại liên kết trong liên kết vùng 1) Liên kết giữa các chủ thể vĩ mô: Liên kết dọc: Là liên kết có tính phân cấp giữa Trung ương với các chính quyền địa phương, giữa các Bộ với các Sở ngành; liên kết quản lý ngành và quản lý lãnh thổ theo địa phương. Liên kết ngang: Là liên kết giữa các bộ chuyên ngành trong xử lý các vấn đề mang tính liên ngành và liên kết giữa các địa phương với nhau. Các liên kết chủ thể vĩ mô có thể trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường như: phối hợp trong xây dựng quy hoạch phát triển ngành và vùng ở từng địa phương; phối hợp trong việc hình thành chính sách thu hút và phân bổ đầu tư; xây dựng và phát triển các sản phẩm chủ yếu; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng vùng;... 2) Liên kết giữa các chủ thể vi mô: Liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp và hộ gia đình, liên kết giữa doanh nghiệp và các trường, Viện trong việc chuyển giao khoa học kỹ thuật... 3) Liên kết mang tính chất lãnh thổ: Là liên kế giữa các trung tâm phát triển với các phần còn lại của vùng. 4) Liên kết cụm, mạng lưới vùng; Liên kết nông thôn đô thị: Các liên kết này sẽ tạo ra mạng lưới liên kết vùng và liên vùng, đồng thời sẽ giải quyết được các vướng mắc, hay các đối lập, khác biệt giữa nông thôn và đô thị. Để phát triển các mô hình liên kết theo kiểu lãnh thổ, cần phải gạt bỏ các trở ngại trong chính sách phát triển như: (i) sự phân tách trong hoạch định chính sách thành các cơ quan lập kế hoạch nông thôn và thành thị; (ii) không nên tách biệt các đô thị khỏi vùng ngoại vi trong hoạch định quy hoạch và quản lý ở cấp địa phương; (iii) xóa bỏ tư duy lợi ích cục bộ nên có sự lựa chọn thứ tự ưu tiến đầu tư để hình thành cực phát triển, tạo nên các lan tỏa phát triển trong hệ thống vùng. 3.2. Thực trạng liên kết vùng tại Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ 3.2.1. Liên kết giữa các chủ thể vĩ mô * Liên kết dọc Mỗi quan hệ giữa các tỉnh trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ và Trung ương, giữa các Bộ với các Sở ngành được thực thi trong khung pháp luật: Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và UBND, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Quy hoạch. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 25/6/2015 về việc thành lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015-2020, trong đó có việc thành lập Hội đồng vùng nhưng đến nay vẫn chưa triển khai trên thực tế. Mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 495/QĐ-TTg ngày 20/4/2022 Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ là một cơ hội lớn để đánh giá, nhận diện các vấn đề của Vùng một cách toàn diện, xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển của Vùng, trên cơ sở đó tổ chức không gian phát triển, khai thác và phát huy tối đa những tiềm năng,
  8. 502 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 thế mạnh, lợi thế so sánh của Vùng, biến khó khăn, thách thức thành cơ hội phát triển.  Nhờ khuôn khổ pháp lý nói trên, tới nay Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ đã có sự liên kết dọc chặt chẽ giữa Trung ương với các tỉnh và đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế - xã hội. Các tuyến Quốc lộ của hệ thống giao thông đường bộ đã được thiết lập, xây dựng mới và liên tục nâng cấp, bảo đảm nối liền tất cả 14 tỉnh trong Khu vực với nhau và với Thủ đô Hà Nội, với Vùng Đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt, đã xây dựng được 5 tuyến đường cao tốc và 1 tuyến đường hàng không là Hà Nội - Điện Biên và đang có dự án thiết lập tuyến đường hàng không Hà Nội - Lào Cai. Liên kết dọc giữa Trung ương với các tỉnh Trung du Miền núi Bắc Bộ còn được thể hiện thông qua việc triển khai nhiều dự án công nghiệp lớn như: Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Sơn La, Thủy điện Thác Bà, các khu công nghiệp khai khoáng lớn ở Lào Cai, Thái Nguyên; phát triển kinh tế cửa khẩu tại Lào Cai và Lạng Sơn; hình thành một số khu nông nghiệp chất lượng cao, vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh có giá trị tại các tỉnh Sơn La, Bắc Giang...; bước đầu phát triển được hệ thống các khu du lịch nghỉ dưỡng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Điện Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn...; thực hiện 3 chương trình mục tiêu lớn là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghè bền vững và Chương trình tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi... Tuy nhiên, điểm hạn chế của liên kết dọc là các tỉnh trong khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ phụ thuộc nhiều vào các quyết định đầu tư của Trung ương, từ lập quy hoạch, kế hoạch, dịch vụ xã hội cơ bản, đất đai, phê duyệt ngân sách đầu tư đến thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đều phải có ý kiến của Trung ương. Mối quan hệ giữa ngành dọc với các tỉnh trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ trong quản lý ngành vẫn chưa được xử lý thỏa đáng. Quy hoạch ngành trong vùng do các Bộ đại diện của Chính phủ xây dựng và Chính phủ phê duyệt. Các Sở ngành của các tỉnh phải dựa trên căn cứ là Quy hoạch phát triển ngành trên vùng và Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội cấp tỉnh để xây dựng quy hoạch ngành trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, mỗi tỉnh lại có một định hướng phát triển ngành riêng do những đặc thù và nguồn lực riêng, do vậy nhiều khi ý tưởng quy hoạch ngành trên địa bàn toàn Khu vực bị phá vỡ. Nhìn chung các liên kết dọc của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có xu hướng thiên về một chiều từ Trung ương xuống địa phương, mang tính chỉ đạo nhiều hơn là phân cấp. * Liên kết ngang Trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ, liên kết giữa các tỉnh trong nội vùng với nhau và với các tỉnh ngoài vùng thực sự đã có những bước phát triển đáng kể, chẳng hạn: nhiều tuyến đường bộ giao thông liên tỉnh đã được các tỉnh liền kề chủ động kết nối với nhau; nhiều khách du lịch trong các tỉnh Trung du Miền núi Bắc Bộ và các tỉnh ngoài khu vực thường xuyên đến Sa Pa, Cao nguyên Đồng Văn, Đền Hùng, Hồ Ba Bể, Thác Bản Giốc...; sản phẩm chè Thái Nguyên được ưa chuộng và tiêu dùng không những ở các tỉnh trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ mà còn ở toàn Miền Bắc; các tỉnh trong Khu vực thường xuyên tổ chức các cuộc giao lưu văn hóa, văn nghệ, hỗ trợ quảng bá hình ảnh cho nhau; nhiều tỉnh trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu thô cho các tỉnh khác cùng Khu vực;... Tuy nhiên, sự liên kết ngang của khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ vẫn chưa có thực chất theo đúng nghĩa của liên kết ngang trong vùng. Về liên kết nội vùng, thực tế ở Khu vực chỉ mang tính hình thức, ít được thực thi. Khi thực tiễn đòi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác cùng phát huy các thế mạnh của nhau thì các tỉnh ngồi lại với nhau trao đổi các vấn đề cần khảo
  9. THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 503 sát. Mặc dù vậy, rất ít các liên kết phát triển diễn ra trên thực tế giữa các tỉnh phù hợp với các nguyên lý liên kết vùng và chưa thật sự trở thành một chủ trương có tính nguyên tắc trong tổ chức không gian phát triển của địa phương. Giữa các tỉnh của Khu vực hầu như không có liên kết thu hút đầu tư mà chỉ theo lối mạnh ai nấy làm, thậm chí còn cạnh tranh, chạy đua nhau trong thu hút đầu tư: các tỉnh thi nhau mời gọi các nhà đầu tư vào địa phương mình, nhiều hình thức ưu đãi được áp dụng: giảm thuế, giảm giá thuê đất, thậm chí cả giảm các điều kiện về môi trường... Tình trạng này khiến lợi ích tổng thể giảm sút ở cả cấp độ vùng lẫn cấp độ quốc gia. Vấn đề đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cũng thiếu sự liên kết điều phối liên tỉnh dẫn đến đầu tư dàn trải, không tạo được lợi thế theo quy mô, gây lãng phí nguồn lực. Hệ quả này phản ánh sự thiếu sót của Chính phủ trong khâu điều phối, phân bổ nguồn lực giữa các tỉnh trong quá trình phát triển. Đối với liên kết liên vùng, cũng giống như mọi vùng kinh tế - xã hội khác của Việt Nam, Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ có tình trạng thiếu cơ sở dữ liệu theo vùng. Cấp vùng không phải cấp quản lý hành chính, hệ thống thống kê không có số liệu theo vùng. Điều này là một cản trở lớn trong công tác đánh giá, giám sát, dự báo và lập quy hoạch kế hoạch theo vùng. Hiện nay tại Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ, hệ thống quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, ngắn hạn chỉ được thực hiện theo các cấp hành chính: Trung ương - tỉnh - huyện - xã. Quy hoạch được thực hiện theo nguyên tắc từ dưới lên trên, cấp dưới trình cấp trên, cấp trên tổng hợp, cân đối. Quy hoạch cấp tỉnh trở lên đều do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các quy hoạch, kế hoạch cấp trên hiện nay thực chất chỉ là phép cộng cơ học từ cấp dưới, chức năng điều phối không được thể hiện rõ ràng. Chất lượng của các quy hoạch, kế hoạch cấp tỉnh và cấp vùng của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ thực sự là một bất cập lớn, gây nên tình trạng kém hiệu quả trong đầu tư. Thêm vào đó, mỗi tỉnh đều có lợi ích riêng khi thực hiện quy hoạch nên thường không muốn phối hợp quy hoạch với các tỉnh lân cận dẫn đến việc thực thi quy hoạch không đạt hiệu quả tối ưu ở cấp Vùng, tình trạng nở rộ các loại quy hoạch và chồng chéo quy hoạch đã làm lãng phí công sức và tài chính; làm giảm hiệu quả chi tiêu công. 3.2.2. Liên kết giữa các chủ thể vi mô Thực tế sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ gia đình đã hình thành ở mức độ nhất định trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ: Các doanh nghiệp trong Khu vực sử dụng lao động của các hộ gia đình tại địa phương; các hộ gia đình tại địa phương cung cấp nguyên liệu (như chè búp tươi, gỗ lâm nghiệp, dược liệu thô...) và lương thực, thực phẩm cho công nhân làm của các doanh nghiệp tại địa phương; các hộ gia đình tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp; sản phẩm của doanh nghiệp này được doanh nghiệp khác sử dụng làm nguyên liệu đầu vào... Bên cạnh đó, tình trạng liên kết theo cụm ngành trong Vùng cũng rất rời rạc, do chạy đua phong trào xây dựng khu công nghiệp nên các tỉnh trong Khu vực cạnh tranh nhau thu hút đầu tư vào khu công nghiệp với tiêu chí tỷ lệ lấp đầy không đi cùng với các chỉ số hiệu quả khác. Tình trạng này đã tạo nên các khu công nghiệp không có các cụm ngành liên kết theo chuỗi với nhau. Giữa các khu công nghiệp trong từng tỉnh và giữa các khu công nghiệp trong vùng có cơ cấu huy động ngành hàng rất giống nhau nên không hình thành các cụm ngành có mối liên kết theo chuỗi ngành hàng với nhau. Trong lĩnh vực nông nghiệp, việc liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến nông sản
  10. 504 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 với vùng nguyên liệu nông nghiệp trong Vùng cũng thiếu sự liên kết. Đối với nông nghiệp quy mô sản xuất lớn và chất lượng cao với các vùng chuyên canh quy mô lớn phi địa giới hành chính cấp xã, cấp huyện và có thể trên phạm vi liên huyện khác tỉnh thì cũng như công nghiệp, ngành nông nghiệp của Khu vực có tình trạng thiếu liên kết chuỗi để kết nối tốt hơn giữa công nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu. Đối với nông nghiệp quy mô sản xuất nhỏ thì tỉnh nào cũng có nhà máy chế biến nông sản thực phẩm với vùng nguyên liệu riêng của mình, cho dù các huyện khác tỉnh nằm liền kề nhau có thể hình thành vùng nông nghiệp tập trung và gắn với doanh nghiệp chế biến có quy mô đủ lớn, có khả năng tiêu thụ số nguyên liệu của vùng đã quy hoạch. Do vậy, diễn ra tình trạng cạnh tranh vùng nguyên liệu, vận tải xa tăng chi phí vận chuyển, hiệu quả đầu tư không cao. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, có sự lãng phí nguồn lực do không sử dụng hết công suất nhà máy. 3.2.3. Liên kết mang tính chất lãnh thổ Các liên kết giữa các trung tâm kinh tế với phần còn lại của vùng trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ cũng đã được hình thành với một mức độ nhất định. Hai trung tâm kinh tế có vai trò cực tăng trưởng khá mạnh không những chỉ trong nội tỉnh mà còn trong toàn vùng là TP. Thái Nguyên và TP. Lào Cai. Tuy nhiên, do những khó khăn về giao thông, về thu nhập của người dân vùng sâu vùng xa, về quy mô kinh tế của các đô thị và các khu công nghiêp... mà hai trung trung tâm kinh tế nói trên vẫn chưa thực sự có sức mạnh thu hút và lan tỏa như các thành phố Hà Nội, Hải Phòng. 3.2.4. Liên kết cụm, mạng lưới vùng; Liên kết nông thôn đô thị Về liên kết cụm, mạng lưới vùng, không có liên kết nào được hình thành rõ nét mà chỉ mang tính rời rạc, ngẫu nhiên. Về liên kết nông thôn, đô thị, mỗi tỉnh trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ đều có ít nhất 1 thành phố (tỉnh lỵ và các thành phố trực thuộc tỉnh) có vai trò là đô thị trung tâm của tỉnh, là nguồn cung cấp tri thức, thông tin và là cực tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Mối quan hệ giữa đô thị và nông thôn trong các tỉnh của Khu vực nói chung là khá mật thiết, đô thị có vai trò là tiêu điểm hướng dẫn cho nông thôn; nông thôn cung cấp các nhu yếu phẩm và nguồn nhân lực cho đô thị. Tuy nhiên, sức tiêu thụ hàng tiêu dùng thiết yếu, sức sản xuất và tiêu thụ nguyên liệu thô, sức thu hút lao động của các đô thị trong Khu vực vẫn còn rất hạn chế nên không tạo được lực kích cầu đủ mạnh để phát triển nông thôn, điều này dẫn tới liên kết nông thôn đô thị của khu vực không mạnh. 3.3. Nguyên nhân thực trạng liên kết vùng của Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ - Tư duy phát triển của các địa phương còn bó hẹp và cục bộ, khép kín trong từng tỉnh, thành phố. Việc tạo ra lợi ích chung cho toàn vùng thường được bàn thảo nhưng ít được triển khai. - Thiếu nguồn lực thực hiện chính sách liên kết vùng; thiếu cơ chế để điều tiết lợi ích được tạo ra từ liên kết, điều tiết các nguồn lực phân bổ cho các dự án. - Trong Khu vực chưa có cơ chế liên kết và một hội đồng điều phối vùng để điều phối chung cho toàn khu vực. - Thiếu hệ thống hạ tầng giao thông, đường kết nối giữa các địa phương. Các tuyến liên kết nội vùng chưa được đầu tư đồng bộ, liên thông. Đặc biệt, hệ thống đường kết nối đông - tây còn ít. Sự phối hợp giữa các phương thức vận tải chưa hợp lý, đồng bộ, tính kết nối không cao. Hệ thống đường giao thông biên giới còn nhiều khó khăn. Hạ tầng đường sắt không phù hợp cho kết nối quốc tế.
  11. THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 505 - Mật độ dân số ở Vùng lớn, địa hình không bằng phẳng, do đó quỹ đất đang bị thu hẹp dần và không thể phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, tập trung. - Cơ cấu kinh tế trong Vùng tuy có sự chuyển dịch, nhưng không đi theo hướng hiện đại, mà vẫn giữa theo cơ cấu truyền thống. Cơ cấu sản phẩm trong các ngành kinh tế nhất là công nghiệp chuyển dịch còn chậm theo hướng hiện đại hóa, tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa lớn còn nhỏ. Phát triển công nghiệp trong nước để bổ trợ cho công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn yếu. Sản xuất nông nghiệp chưa chuyển đổi nhanh theo hướng tiếp cận ứng dụng công nghệ hiện đại, sản xuất nông phẩm xanh, sạch. - Cơ chế hợp tác còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các địa phương vẫn chủ yếu tập trung phát triển trong địa giới hành chính của mình, ít phối hợp với các tỉnh lân cận để phát huy lợi thế nhờ vào quy mô. Nhiều cụm, ngành kinh tế và sản phẩm chủ lực có lợi thế chưa được liên kết tốt. Chưa có cơ chế hỗ trợ về tài chính đối với các thành phần kinh tế khi tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm chủ lực của vùng. - Thiếu cơ sở dữ liệu của vùng về các sản phẩm chủ lực, nguồn nhân lực, các ngành, lĩnh vực, sản phẩm lợi thế cụ thể, dẫn đến hợp tác liên kết nội vùng và liên vùng chưa hiệu quả. 4. Khuyến nghị giải pháp thúc đẩy liên kết vùng trong Khu vực - Thứ nhất, khuyến khích sự chủ động của chính quyền địa phương trong việc định hướng liên kết phát triển vùng trong xây dựng quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong vùng. - Thứ hai, cần hoàn thiện thể chế, chính sách cho liên kết vùng Trung du miền núi Bắc Bộ. Mô hình liên kết mới vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ của Ngô Văn Phong (2016), có thể áp dụng cho nghiên cứu tại vùng Trung du miền núi Bắc Bộ. Hình 1. Mô hình liên kết vùng Trung du miền núi Bắc Bộ - Thứ ba, cần có chính sách huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển vùng: cơ chế chính sách hỗ trợ vốn đầu tư cho các công trình; hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng KH&CN đối với các doanh nghiệp; phát triển hợp tác quốc tế về nghiên cứu, trao đổi khoa học công nghệ....
  12. 506 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 - Thứ tư, đổi mới công tác nghiên cứu quy hoạch và tăng cường sự tham gia, phối hợp của các bên liên quan đảm bảo yếu tố không gian phát triển, gắn với đó là quy trình lập quy hoạch được tiếp cận theo hướng tích hợp, đa ngành và coi trọng sự tham gia phối hợp của các bộ, ngành, địa phương để xử lý, giải quyết các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng. - Thứ năm, chú trọng quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển hạ tầng giao thông với phát triển các hành lang kinh tế vùng. - Thứ sáu, thúc đẩy liên kết vùng động lực, chuỗi liên kết kinh tế, chuỗi sản phẩm. Trong đó chú trọng các lĩnh vực liên kết trọng tâm; lĩnh vực sản xuất công nghiệp; lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch. 5. Kết luận Hiện nay liên kết vùng trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ còn rất yếu do nhiều nguyên nhân về điều kiện tự nhiên; cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông; chất lượng quy hoạch vùng, quy hoạch ngành trên vùng, quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của các tỉnh trong Khu vực còn yếu kém; chưa có hội đồng điều phối vùng và cơ chế liên kết; cơ chế hợp tác giữa các tỉnh trong Khu vực chỉ mang tính hình thức chứ chưa có thực chất; thiếu dữ liệu cơ sở cho toàn vùng; và thiếu nguồn lực thực hiện chính sách liên kết vùng. Yếu kém về liên kết vùng đã tạo ra một lực cản rất lớn kìm hãm sự phát triển của toàn vùng, làm giảm lợi ích tổng thể đáng lý ra phải đạt được với cùng một nguồn vốn đầu tư xã hội. Do vậy, để thúc đẩy liên kết vùng trong Khu vực Trung du Miền núi Bắc Bộ thì cần thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp trên, qua đó giúp thúc đẩy sự phân công và chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra sự lan tỏa tri thức, tạo sự kết nối xã hội và giải quyết bài toán hài hòa về lợi ích giữa các địa phương thông qua phát huy tiềm năng của từng địa phương và qua đó giúp phát triển Vùng một cách bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo đầu tư phát triển vùng trung du miền núi phía bắc. http://dnls.langson.gov.vn/sites/default/ files/2021-10/162-BC-D%C4%90DN.pdf 2. Báo Dân tộc và Miền núi, 2017. Tổng quan vùng Trung du Miền núi phía Bắc. https://dantocmiennui. vn/tong-quan-vung-trung-du-va-mien-nui-phia-bac/130664.html 3. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, 2011. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ - nơi hội tụ tiềm năng du lịch đặc sắc. https://www.thiennhien.net/2011/02/14/vung-trung-du-va-mien-nui-bac-bo- noi-hoi-tu-tiem-nang-du-lich-dac-sac/ 4. Nguyễn Văn Huân, 2012. Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế mùa thu 2012 - Kinh tế Việt Nam 2012, triển vọng 2013: Đổi mới phân cấp trong cải cách thể chế, Ủy ban Kinh tế, Viện Khoa học và Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 418-443. 5. Ngô Văn Phong (2016), Liên kết vùng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, giai đoạn từ nay đến 2020, tầm nhìn 2030. 6. Perroux F., 1950. Economic space: Theory and applications. Quarterly Journal of Economics 64, 1: 89-104. 7. Boudeville J., 1966. Problem of regional Economic planing. Edinburgh University Press, 1974. 8. Hirschman A., 1958. The strategy of economic development. New Haven : Yale University Press, 1958. 9. Schumacher R., 2012. Free Trade and Absolute and Comparative Advantage: A Critical Comparison of Two Major Theories of International Trade. Universitätsverlag Potsdam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1